Phật Học Online

19. Bản Hùng Ca Bất Tử Của Đấng Đạo Sư

Pakkamisañca nāḷāto, kodhanāḷāya vacchati.
Bandhantī itthirūpena, samaṇe dhammajīvino.
“Ta sẽ rời Nālā; ai ở lại Nālā.
Khi nếp sống đúng pháp; tại đấy vị ẩn sĩ.
Bị sắc đẹp nữ nhân; trói buộc vào quyến rũ” (HT. TMC dịch).



BẢN HÙNG CA BẤT TỬ CỦA ĐẤNG ĐẠO SƯ

Khi biết rõ nhóm năm anh em Kiều Trần Như đang trú ở rừng Nai trong xứ Bārāṇasī, Đức Thế Tôn suy nghĩ: “Như Lai sẽ đi đến rừng Nai, khai giảng pháp Bất tử, tế độ nhóm năm anh em Kiều Trần Như”.

Thông thường chư Phật Chánh Đẳng Giác lần đầu tiên ngự đi khai giảng pháp bất tử thường dùng thần thông ngự đi. Riêng Đức Thế Tôn đi bộ, vì thấy được duyên lành của du sĩ lõa thể Upaka (ajīvaka Upaka).

Khoảng cách từ Bodhimaṇḍa (vòng đai cây Giác ngộ) đến Gayā là 3 gāvuta  12km); khoảng cách từ Gayā đến rừng Nai trong xứ Bārāṇasī là 15 do tuần. Đức Thế Tôn cầm lấy y bát, rời Uruvelā đi đến Gayā khất thực; rồi Ngài hướng về rừng Nai.

Bấy giờ du sĩ lõa thể Upaka cũng trên đường đi từ Uruvelā đến Gayā. Nhìn thấy Đức Thế Tôn đang đi trên đường, du sĩ Upaka rất thán phục, nên đi đến gần hỏi chuyện rằng:

– Thưa Ngài, lục căn của Ngài thật rạng rỡ, sắc da của Ngài thật đẹp, Ngài cho tôi hỏi rằng Ngài xuất gia với ai, ai là thầy của Ngài, Ngài tu tập trong giáo phái nào?”

Đấng Thập Lực Tuệ liền trả lời bằng bài kệ rằng:

– Sabbābhibhū Sabbavidūhamasmi,
Sabbesu dhammesu anūpalitto,
Sabbanjaho taṇhakkhaye vimutto,
Sayaṃ abhiññaya kam’uddiseyyaṃ,
Na me ācariyo atthi, sadiso me na vijjati,
Sadevakasmiṃ lokasmiṃ natthi me paṭipuggalo,
Ahanhi Arahā loke aham Satthā Anuttaro,
Ekomhi sammāsambuddho sitibhūtosmi nibhuto,
dhammacakkaṃ pavattetuṃ gacchāmi Kāsinaṃ puraṃ,
Andhabhutasmim lokasmim āhañcham amatadundubhin.-ti

Đạo sĩ lõa thể Upaka:

– Yathā kho tvaṃ āvuso paṭijanasi Arasahi Anantajino-ti?

Đức Thế Tôn:

– Mādisā ve Jinā honti, ye pattā āsavakkhayaṃ,
Jitā me pāpakā dhammā, tasmāham’Upakā Jino-ti.

Dịch:

– Toàn thắng là Ta, Toàn Giác là ta,
Bậc vô nhiễm trong các pháp,
Bậc từ bỏ tất cả, giải thoát bằng đoạn tham ái,
Thắng tri tự mình thì ai người chỉ dạy?
Không ai là thầy Ta, không tìm thấy ai như Ta.
Trong thế gian cùng chư thiên, không ai ngang hàng Ta. Thật vậy, ở thế gian, Ta là Bậc Ứng Cúng, Ta là Vô Thượng Sư, Chỉ có Ta là Toàn Giác, Bậc Vắng Lặng, Bậc Tịch Tịnh,
Ta đi đến thành phố Kasi để chuyển vận bánh xe Pháp,
Trong thế gian mù lòa, Ta gióng lên tiếng trống Bất Tử (Niết Bàn)

Đạo sĩ lõa thể Upaka:
– Vậy Ngài tuyên bố Ngài là Bậc Ứng Cúng, Bậc Toàn Thắng phải không?

Đấng Thế Tôn khẳng định 1 cách đầy hào hùng:

– Thật sự có những Bậc Chiến thắng như Ta vậy, họ là các vị đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc, Ta đã chiến thắng các ác pháp. Vậy này Upaka, Bậc Chiến Thắng chính là Ta.

Du sĩ Upaka gục gặc đầu, rồi rẽ sang con đường khác, đi đến xứ Vaṅkahāra.

Sau khi đàm đạo với Đức Thế Tôn, ông có vẻ hoài nghi “Đức Thế Tôn không phải là bậc chiến thắng vô song” (anantajina), nên rẽ sang đường khác, đó là một con đường ngắn dẫn đến làng thợ săn Vaṅkahāra. Người thơ săn trưởng đoàn rất kính trọng du sĩ Upaka, du sĩ Upaka sống trong một thảo am nhỏ ở ven làng. Vì làng có nhiều ruồi nhặng, do những người thợ săn mang thịt rừng về làng, nên Upaka phải sống trong một cái lu lớn. Sách Divyāvadana gọi Upaka là Upagaṇa.

Một lần nọ, người trưởng đoàn cùng nhóm thơ săn đi săn ở khu rừng xa, ông dặn người con gái của mình là Cāpā hộ độ cho du sĩ Upaka chu đáo.

Khi du sĩ Upaka đến nhà nhận vật thực cúng dường, nàng Cāpā mang vật thực dâng cúng đến du sĩ Upaka. Nhìn thấy nàng Cāpā, tâm du sĩ Upaka rơi vào đắm nhiễm trong nhan sắc xinh đẹp của nàng, trở về am thất, du sĩ Upaka bỏ ăn suốt 7 ngày. Sau 7 ngày người trưởng đoàn săn trở về, không thấy du sĩ Upaka, nên hỏi con gái rằng:
– Ngài đạo sĩ Upaka đâu rồi?
– Thưa cha, vị thầy của cha chỉ đến một ngày rồi không đến nữa. Có lẽ Ngài đã rời khỏi nơi này sang xứ khác rồi chăng?

Người trưởng đoàn săn đi đến thảo am, thấy Upaka đang kiệt sức nằm nơi đó. Sau khi hỏi nguyên nhân, Upaka thú thật rằng: “Nếu không có được nàng Cāpā, ta thà chết quyết không sống”.
– Thưa Ngài, vậy Ngài có nghề nghiệp gì chăng?.
– Này gia chủ, ta chẳng có nghề nghiệp chi cả.
– Thưa Ngài, người không có nghề nghiệp, sẽ không thể chăm lo gia đình được. Tôi làm sao có thể gả Cāpā cho Ngài?
– Tôi sẽ mang thịt rừng của ông săn được, mang ra chợ bán.
– Thôi được, chúng tôi đang cần người mang thịt rừng ra chợ bán.

Người thợ săn trưởng đoàn trao cho Upaka chiếc áo choàng, khi khoác vào người chiếc áo choàng, Upaka trở thành người thế tục. Người trưởng đoàn thợ săn đưa Upaka về nhà, gả nàng Cāpā cho Upaka.

Trong Kệ trưởng lão ni Therīgāthā, có ghi nhận: “Nơi ở của hai người ở làng Nālā. Đó là một ngôi làng nhỏ ở Bồ Đề Đạo tràng, cũng là sinh quán của Upaka”.

Như kệ ngôn:
Pakkamisañca nāḷāto, kodhanāḷāya vacchati.
Bandhantī itthirūpena, samaṇe dhammajīvino.
“Ta sẽ rời Nālā; ai ở lại Nālā.
Khi nếp sống đúng pháp; tại đấy vị ẩn sĩ.
Bị sắc đẹp nữ nhân; trói buộc vào quyến rũ” (HT. TMC dịch).

Cũng trong tập Kệ Trưởng lão ni, Upaka được gọi bằng tên thân mật là “chàng ẩn sĩ mắt đen” và Kāḷa, vì Upaka có nước da đen sậm.

Thời gian sau, hai người có được đứa con trai đầu lòng là Subhadda, khi con khóc, nàng Cāpā thường hát ru con bằng lời lẽ trêu cợt Upaka:
“Ngủ đi hỡi con của Upaka, con của “ẩn sĩ mắt đen”, con của người bán thịt rừng, đừng khóc nữa, đừng khóc nữa này con của Upaka”.

Nghe Cāpā hát ru con trêu cợt mình, Upaka nói rằng:
– Nàng trêu cợt ta đó chăng? Ta sẽ bỏ đi đấy.

Biết rõ Upaka không có người thân, tuy thấy chồng tức giận nhưng nàng Cāpā cứ trêu đùa chồng qua câu hát ru con.

Upaka suy nghĩ: “Vì sao Cāpā khinh thường ta như vậy? Ồ! Thì ra nàng thấy ta không có thân tộc nên cứ mãi trêu cợt ta”.

Khi nghe nàng Cāpā hát ru con, Upaka tức giận nói rằng:
– Này Cāpā, nàng đừng ngỡ rằng: “Ta không có người che chở, ta có một người bạn là “bậc chiến thắng tối thượng”(Anantajina). Ta sẽ đến với người bạn ấy để nương nhờ, nàng đừng trêu cợt ta.

Cho là Upaka không dám bỏ đi, vì không có nơi nương tựa, nàng Cāpā vẫn trêu cợt chồng bằng những lời ru như trên.

Đến một hôm, Upaka quyết định ra đi, mặc cho nàng Cāpā sám hối van xin. Upaka đi đến kinh thành Sāvatthi, tìm đến Đức Thế Tôn.

Thấy được duyên lành của Upaka, nên Đức thế Tôn có dạy chư Tỳkhưu rằng: “Nếu có ai hỏi “Bậc chiến thắng tối thượng ”, hãy cho đến diện kiến Đấng Như Lai”.

Trên đường đi, Upaka hỏi người này, người khác về “Bậc chiến thắng tối thượng”, nhưng không một ai biết cả.

Có người tỏ vẻ hiểu biết bảo rằng:
– Đức Thế Tôn chính là “Bậc chiến thắng tối thượng”.
– Này bạn, Đức Thế Tôn hiện đang ở đâu?
– Đức Thế Tôn đang ngụ tại Tịnh xá Kỳ Viên gần thành Sāvatthi.

Upaka tìm đến thành Sāvatthi, đi đến Tịnh xá Kỳ Viên hỏi chư Tỳ khưu rằng:
– Thưa các Tôn giả, các Tôn giả biết “Bậc chiến thắngtối thượng” chăng?.
– Này cư sĩ, chính là Đức Thế Tôn.

Chư Tỳ khưu đưa Upaka đến yết kiến Đức thế Tôn. Upaka đảnh lễ Đức Thế Tôn và bạch rằng:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, Ngài có nhớ người năm xưa chăng?
– Này Upaka, Như Lai vẫn nhớ đến người năm xưa, đó chính là ngươi.

Nghe Đức Thế Tôn gọi tên mình, Upaka vô cùng hoan hỷ, tiếp theo Đức Thế Tôn hỏi:
– Này Upaka, ngươi bây giờ như thế nào.

Sau khi trình bày việc của mình, nghe xong Đức Thế Tôn dạy rằng:
– Này Upaka, nay ngươi đã lớn tuổi hãy xuất gia tu tập đi.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Sau khi xuất gia Ngài Upaka nỗ lực tu tập, chứng Thánh quả Bất Lai, khi mệnh chung sinh về cõi Vô Phiền Avihā.


© 2008 -2024  Phật Học Online | Homepage