Hạnh
phúc thường được biểu lộ bằng nụ cười. Trong cuộc sống đầy biển động
này, con người luôn khát khao hạnh phúc sẽ đến với chính mình, với mọi
người. Cũng vậy, các thiền sư trong quá trình học đạo, hành đạo, chứng
đạo đã từng mỉm cười để biểu đạt sự hỷ lạc, đó là nụ cười xuất phát từ
nội tâm khi các ngài đã an trú và liễu ngộ các pháp.
Thực thế, mọi người cũng có nhiều lúc nở nụ cười, nhưng niềm vui đó
không có giá trị bền vững, dài lâu. Đó là niềm vui của sự thỏa mãn lòng
ham muốn khi sáu căn tiếp xúc sáu trần. Đức Phật dạy: “Các dục vui ít,
khổ nhiều, và làm cho nguy hiểm càng nhiều hơn”.
Chính lẽ đó, trong hội Linh Sơn, khi Đứa Phật cầm một nhánh hoa đưa
lên trước đại chúng, mọi người đều im lặng, chỉ có Tôn giả Ca Diếp mỉm
cười. Nụ cười này đã làm hoan hỷ toàn thể pháp hội, và Đức Thế Tôn đã
hoan hỷ trao lời phó chúc; “Ta có Chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu
tâm, thực tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, chẳng lập văn tự, truyền
riêng ngoài giáo, nay trao truyền cho Ma Ha Ca Diếp”.
Âm vang nụ cười ấy đã đi vào lịch sử, và các thiền sư sau này cũng đã
thể nghiệm nụ cười sâu lắng ở khắp nơi, từ thiền đường trang nghiêm cho
đến đồng hoang cỏ nội, hay thành thị huyên náo trước cuộc hành trình
dạo chơi sinh tử.
Tương truyền, sư Thủy Lạo đến tham vấn Mã Tổ (709-788), vừa hỏi về ý
nghĩa Đông Du của Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma liền bị Mã Tổ giáng cho một đạp
khiến sư té nhào. Đang từ từ bò dậy, sư hoát nhiên đại ngộ, vỗ tay cười
ha hả. Từ đó về sau, sư thường khoe: “Từ khi ăn cái đạp của Mã Tổ về sau
lão tăng cứ cười mãi không thôi”. Chưa hết, chúng ta còn được tiếp nhận
nụ cười giác ngộ của sư Bách Trượng Hoài Hải (724-814), khi theo hầu sư
Mã Tổ, giữa không gian bao la chợt gặp bầy vịt trời bay ngang. Mã Tổ
hỏi:
– Có cái gì vậy?
– Thưa, bầy vịt trời
– Đi đâu vậy?
– Thưa bay qua!
Mã Tổ quay đầu lại, nắm mũi sư vặn mạnh. Đau quá sư la lên.Tổ nói :
– Sao không nói bay qua nữa đi!
Sư bèn tình ngộ và khóc nức nở. Huynh đệ dỗ dành mãi, nhưng sư không nín. Có người trình Mã Tổ :
– Hoài Hải chẳng rõ vì sao dạo này cứ nằm khóc mãi ?
Mã Tổ đáp:
– Hắn ta ngộ rồi đó !
Người huynh đệ trở về phòng thuật lại lời Tổ cho sư hay, sư bật cưới
ha hả. Mọi người ngạc nhiên, sư bình thản trả lời : “Hồi nãy khóc, bây
giờ cười”.
Rõ ràng các thiền sư đã hoát nhiên đại ngộ và biểu lộ sự chứng đạt
với niềm vui hỷ lạc vô tận bằng những tiếng cười sảng khoái, vô tư, tự
tại bất hủ giữa trời xanh, giữa chim bay cá lặn và hoa nở bên đường. Thú
vị hơn nữa là chính các thiền sư còn “ngẫu hứng qua cầu” dùng tiếng
cười thay cho lời thuyết giảng để khai thị tâm thức cho các thiền sinh.
Thiền sư Phương Hội (?-1054) ở Dương Kỳ là thí dụ điển hình. Một hôm
sư thượng đường và ngồi lặng thinh. Giây lâu, sư phá lên cười ha hả.
Tăng chúng ngạc nhiên, sư bảo: “Cái gì vậy ? Thôi trở về trai đường uống
trà đi”.
Thiền sư Tùng Thẩm (778-897) ở Triệu Châu thường dùng tiếng cười để thay lời đáp mỗi khi có môn đồ đến hỏi :
– Lìa hết những gì đã nói từ trước tới nay, xin Hòa thượng chỉ dạy .
Sư hét lớn :
– Đem bình đi châm nướcđi !
Ni cô đem bình đi châm nước xong, thưa:
– Thỉnh Hòa thượng đáp câu hỏi.
Sư bật cười.
Dạo khác có vị Tăng đến hỏi:
– Pháp thân vô vi, không rơi vào các loài, nói được hay không ?
– Làm sao nói?
– Tức là không nói .
Sư cũng bật cười. Thiền sư là thế. Bất cứ điều gì kể cả nụ cười cũng
khai thị được tâm thức người học trò. Thậm chí ngay cà trước bến bờ sinh
tử, các thiền sư vẫn nở nụ cười, vẫn rong chơi giữa cuộc đời với lòng
an nhiên tự tại. Theo thiền sư ghi lại thì vua Đường Hiển Tông rất
ngưỡng mộ danh sư Vô Nghiệp (760-821) đã cử sứ giả nhiều lần đến thỉnh
sư, nhưng lần nào sư cũng cáo bệnh từ chối. Lần cuối, sứ giả nài nỉ mãi,
sư biết không thể từ chối nên sư mỉm cười bảo :
– Lão tăng đức độ gì mà làm phiền thí chủ thế. Thôi quý vị về trước, lão tăng sẽ đi đường riêng!
Sứ giả hớn hở quay về báo tin .Sư liền đi tắm gội, từ biệt đồ chúng
an nhiên thị tịch. Thiền sư Phật Ấn (?- 1908 ) cũng thế, trong lúc cùng
khách đàm đạo, chợt nghe có người ngộ đạo, thiền sư liền cười một cái
rồi thị tịch. Thiền sư Giới Không thời Lý Thần Tông (1128-1138) sau khi
nói bài kệ dạy đồ chúng xong, liền cười lớn một tiếng và thị tịch. Xem
ra chuyện sinh tử đối với các ngài chẳng có nghĩa lý gì: “ Sinh tử
chỉ là được mất /Nếu cho sinh tử khác đường / Lừa cả Thích Ca Di Lạc /
Nếu biết sinh tử, sinh tử / Mới hiểu lão tăng chỗ nào” (Sinh tử chỉ thị
đắc thất. Nhược ngôn sinh tử di đồ, Trám khước Thích Ca Di Lạc, Phương
hội lão tăng xứ nặc). Tuệ Trung Thượng sĩ cũng xem sinh tử là
chuyện nhàn –“Sinh tử nhàn nhi di”. Có gì phải nói đâu chứ, cười cũng là
đủ rồi. Vấn đế là làm thế nào dể thoát ly sinh tử. Tự tại ngay trong
cõi đời đầy những mối ràng buộc này. ■
Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 15 |