Lời
tựa
Phật giáo Bắc truyền có 4 bộ A hàm (Àgamma):
“Kinh Trường A hàm”(《長阿含經》),
“Kinh Trung A hàm”(《中阿含經》),
“Kinh Tạp A hàm” (《雜阿含經》),
“Kinh Tăng Nhất A hàm” (《增一阿含經》),
tương đương với Kinh điển Nam truyền Pàli là “Kinh Trường Bộ”
(Dighanik?ya), “Kinh Trung
Bộ” (Majjhimanik?ya), “Kinh
Tương Ưng Bộ” (Sa×yuttanik?ya), “Kinh Tăng Chi Bộ” (Aºguttaranikaya). Ngoài ra, Nam
truyền còn có một bộ nữa là “Kinh Tiểu Bộ” (Khuddakanikàya) tương đương
với Hán Tạng “Bổn Sanh” (《本生》)
và “Bổn Sự” (《本事》). Thế
nhưng Phật giáo Bắc truyền không biên tập hai kinh này vào A hàm, giống
như Nam truyền có tất cả là 5 bộ Nikàya (Pannaca-Nikàya). Phải chăng
các nhà biên tập Phật giáo Bắc truyền không chấp nhận nội dung của hai
kinh này thuộc vào thời kỳ A hàm? Đây là điều chúng ta cần phải nghiêm
túc nghiên cứu, để làm sáng tỏ vấn đề.
Theo các nhà nghiên cứu cho rằng hai hệ kinh
điển này là nguồn tư liệu sớm nhất của Phật giáo, được kết tập dưới
triều vua A Dục (Asoka). Theo nguồn tư liệu Bắc truyền (Hán dịch) ghi
lại, sự kiện này xảy ra vào khoảng hơn 100 năm, sau khi Phật nhập diệt,
tức thời vua A Dục. Nhưng nguồn tư liệu Phật giáo Nam truyền lại ghi
rằng, sự kiện này xảy ra vào năm 218, sau khi Phật nhập diệt, cũng vào
thời vua A Dục. Sự khác nhau ở đây về niên đại, tính từ sau khi Phật
nhập diệt, sai biệt gần 100 năm, nhưng điểm giống nhau giữa hai nguồn
tư liệu này là đều xác định sự kiện kiết tập vào thời vua A Dục. Ở đây,
tôi không có ý thảo luận về niên đại đúng sai của hai nguồn tư liệu
mà chỉ muốn nhấn mạnh một điều:
hai nguồn tư liệu này được biên tập thành chữ viết sớm nhất của Phật
giáo.
Năm (5) bộ Nikàya của Phật giáo Nam truyền
nguyên là bản gốc viết bằng tiếng Pàli. Nhưng nguồn tư liệu Phật giáo Bắc truyền,
hiện còn 4 bộ A hàm được biên tập trong “Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng
Kinh” ở quyển 1 và 2 chỉ là bản dịch, không phải bản gốc. Thế thì ở đây
chúng ta đặt ra câu hỏi: Nếu như 4 bộ A hàm là bản dịch thì bản gốc
của nó là gì? bằng tiếng Pàli hay tiếng Phạn? và hiện giờ nó ở đâu? đây
là một trong những câu hỏi mà các nhà nghiên cứu thường thắc mắc. Dù gì
đi nữa, cả hai nguồn tư liệu này chiếm một vị trí khá quan trọng trong
lãnh vực tìm hiểu Phật giáo Ấn độ. Nó là hai nguồn tư liệu bổ xung cho
nhau để làm cho Phật giáo Ấn độ càng ngày càng được rõ ràng hơn.
Dẫu rằng, Phật giáo Việt nam đối với công
việc phiên dịch 2 bô Đại Tạng Kinh Nam và Bắc truyền này sang Việt ngữ
vẫn chưa hoàn tất, nhưng riêng 5 bộ Nikàya và 4 bộ A hàm, Phật giáo
Việt Nam đã dịch xong. Từ nguồn Kinh tạng bằng Việt ngữ cho thấy, trước
năm 1975, 4 bộ A hàm đã được Hoà thượng Thiện Siêu, Thanh Từ, và các
Tăng sinh của hai viện Hải Đức Nha Trang và Huê Nghiêm Sàigòn đã dịch
sang Việt ngữ, nhưng không biết vì lý do gì những bản kinh này vẫn chưa
xuất bản vào thời đó, chỉ lưu truyền với nhau bằng bản quây Roneo.
Riêng 5 bộ Nikàya của Phật giáo Nam truyền đã được Hoà thượng Thích
Minh Châu dịch sang Việt ngữ trước năm 1975, và hai bộ đầu cũng đã được
Viện Đại học Vạn Hạnh xuất bản, tức “Kinh Trường Bộ” và “Kinh Trung
Bộ”, phần còn lại, 3 bộ, phải chờ đến một thời gian sau khá lâu mới
được xuất bản. Đến năm 1981, Viện Nghiên cứu Phật học Việt nam ra đời,
Ban in ấn và phát hành Đại Tạng Kinh Việt nam cũng được thành lập. Vài
năm sau đó, Viện đã tiến hành biên tập “Đại Tạng Kinh Việt Nam”. Qua 35
tập đã được Viện ấn hành chính là 5 bộ Nikàya và 4 bộ A hàm. Từ khi
Viện Nghiên cứu ấn hành các kinh điển này, không ít giới Phật tử cũng
như Tăng, Ni người Việt Nam đã chịu ảnh hưởng tư tưởng của hai bô kinh
này. Theo tôi nó sẽ là cơ sở cho việc nghiên cứu các hệ tư tưởng Phật
học khác, ngay cả Phật giáo Đại thừa., không dừng lại ở đó mà nó còn là
kiến thức cơ bản cho các Tăng Ni sinh khi đi du học ngành Phật học ở
nước ngoài.
Ngoài bản dịch Kinh A hàm vừa được đề cập,
còn có một bản dịch chuẩn xác hơn, đó là bản dịch “Kinh Trường A hàm”,
“Kinh Trung A hàm”và “Kinh Tăng Nhất A hàm” của Hoà thượng Thích Tuệ Sỹ
và bản dịch “Kinh Tạp A hàm” của Thượng tọa Thích Đức Thắng. Có thể
nói, cho đến nay, ở Việt nam, đây là bản dịch tốt nhất, có giá trị trong
lãnh vực học thuật cao. Điểm nổi bật của công trình dịch thuật này
chính là phần chú thích, dịch giả đã bỏ nhiều thời gian so sánh đối
chiếu với bản Pàli, trích dẫn và phân tích cho độc giả hiểu được nội
dung của kinh và mở rộng tầm hiểu biết của mình với những bản kinh
khác. Có thể nói, công trình phiên dịch này, không những nó đóng góp
cho Phật giáo Việt nam một công trình dịch thuật tiêu chuẩn, còn cống
hiến cho nền văn hoá nước nhà ngày
càng phong phú. Được biết bản dịch này đã được Hội Phật giáo thế giới
Linh Sơn xuất bản, nhưng trước mắt tôi vẫn chưa có bản dịch này, phải sử dụng bản dịch trên
trang websites: www.quangduc.com. Dẫu rằng, trên websites rất tiện lợi
cho việc tìm tài liệu, nhưng rất khó khăn cho người nghiên cứu khi
trích dẫn. Đó là lý do tại sao trong tác phẩm này, khi trích dẫn, tôi
không ghi rõ nhà xuất bản, năm xuất bản cũng như số trang cụ thể.
Như chúng ta được biết “Kinh Trung A hàm”, là
một trong 4 bô kinh thuộc hệ A hàm của Phật giáo Bắc truyền. Bản kinh
này được Ngài Phật Đà Da Xá (Buddhayasas) và Trúc Phật Niệm () dịch
sang Hán văn, Thích Tuệ Sỹ dịch sang Việt văn, được phân thành 18 phẩm,
tổng cộng có 222 kinh. Theo một số học giả cho rằng bản “Trung A hàm”
và “Kinh Tạp A hàm” là bản kinh của phái Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ
(Sarvàstvàdin). Theo tôi, trong 4 bộ A hàm, “Kinh Trung A hàm” là bộ
kinh quan trọng nhất, vì nội dung của từng bài kinh trong Trung A Hàm
không quá giản lược như các bài kinh trong “Tạp A hàm” cũng không quá
dài như kinh “Trường A hàm”, và cũng là bản kinh thể hiện quan điểm khá
rõ ràng của đức Phật, và là bản kinh ghi lại toàn bộ những quan điểm
tư tưởng đã được đức Phật (và) cùng các đại đệ tử của Ngài thuyết giảng
cho mọi thành phần trong xã hội, chủ yếu là người xuất gia, với những
bài pháp có nội dung thật sâu sắc, mang tính thực tiễn và khoa học,
ngược lại những quan điểm truyền thống và phi truyền thống ở Ấn độ lúc
bấy giờ, Ngài không đồng tình với lối tu khổ hạnh truyền thống hay tế
tự vô ích, cũng không chấp nhận cuộc sống trụy lạc, đề cao sự hưởng thọ
dục vọng. Với chủ trương muốn thành đạt mục đích giác ngộ giải thoát, hành giả cần phải có một
thân thể khoẻ mạnh và một tinh thần thật sáng suốt mới có thể thực hành
giáo lý của Ngài, tránh xa những cạm bẫy của thế gian. Những lời dạy
đó, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể thực hành được, và ai thực
hành đúng như lời Ngài đã dạy thì người ấy chắc chắn sẽ đạt đến mục
đích an lạc. Ngoài ra, còn có những bài pháp dành cho giới tại gia cư
sĩ, từ giai cấp vua chúa quan lại cho đến người dân bình thường, cả
những giới triết học và các tôn giáo tín ngưỡng. Tùy theo sự tiếp thu
của từng đối tượng, đức Phật có những lời khuyên, lời giảng dạy khác
nhau, với mục đích làm cho người nghe được giác ngộ giải thoát. Đây là
toàn bộ nội dung ý nghĩa chính trong kinh này.
Tuy nhiên, “Kinh Trung A hàm” là một bộ kinh
khá dày, gồm 4 tập, mỗi tập trên 700 trang, với văn phong cổ xưa, khúc
chiết, đặt biệt mang nặng tính logic, lại trùng lấp quá nhiều trong một
bài kinh, dễ tạo cảm giác buồn chán cho người đọc. Hơn nữa, Phật giáo
Việt nam chịu ảnh hưởng Phật giáo Trung quốc, thích lối lý luận của
Phật giáo Đại thừa, do vậy Kinh điển của Thượng tọa bộ lại càng ít được
nghiên cứu trì tụng hơn, nên sự hiểu biết cũng vì thế mà bị hạn chế.
Tôi nghĩ mang một trạng thái tâm lý như vậy, nó là bức tường ngăn cản
sự hiểu biết, không bổ ích cho việc tu, việc học của chúng ta.
Rất may, những năm học Đại học ở Học Viện
Phật giáo Việt nam, tôi đã được học qua hệ kinh điển này từ Hoà thượng
Minh Châu, Thượng tọa Thiện Nhơn, đến khi đi du học ở Taiwan, được học
với những giáo sư chuyên về Phật học, lại được tiếp cận với những tác
phẩm nổi tiếng, nên tất cả những công trình nghiên cứu này đều rất chú
trọng đến những bộ kinh A hàm hay Nikàya. Chính vì thế, trong thời gian
học tập nghiên cứu ở đây, tôi vẫn tiếp tục nghiên cứu những bô kinh
này. Qua đó, nó giúp cho tôi hiểu về Phật học tương đối rõ ràng và trật
tự hơn. Một kinh nghiệm nhỏ mà tôi muốn giới thiệu cùng những người
muốn tìm hiểu Phật học là, chúng ta cần phải có phương pháp nghiên cứu
hữu hiệu, nó mới giúp ta rút ngắn thời gian cho việc nghiên cứu, học
tập. Phương pháp của tôi rất đơn giản là, khi tôi đọc một quyển kinh,
một quyển sách, ở trong đó có điểm nào cần lưu ý, có thể đó là ý kiến
hay, thậm chí là quan điểm có thể tranh luận, tôi đều ghi chép vào sổ
tay riêng của mình. Nhờ vậy, khi tôi viết một bài nghiên cứu không mấy
(vất vả) khó khăn, vì những gì mà tôi muốn thảo luận, nó đã nằm sẵn
trong sổ tay của tôi rồi, không cần phải vất vả tìm tòi tài liệu.,
quyển sổ tay đã giúp tôi nhớ mọi điều.
Tác phẩm mà độc giả đang cầm trên tay chính
là một phần quyển sổ tay của tôi, chuyêntra cứu những vấn đề trong
“Kinh Trung A hàm”. Có thể nói, đây là bản tóm tắt, đã lược bỏ những
đoạn trùng lấp, phần còn lại là những vấn đề cốt yếu trong kinh này. Ở
đây điều mà chúng ta cần chú ý về những tiêu đề trong tác phẩm này, đó
là ý kiến riêng của soạn giả, nhưng nội dung của nó được copy lại từ
bản dịch của Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, trên trang Websites:
www.quangduc.com, tức là nguyên văn của kinh điển.
Tác phẩm này được ra đời vì nhu cầu một số
Tăng, Ni sinh đang theo học Phật học, cũng như một số Phật tử muốn tìm
hiểu về kinh tạng Phật giáo Thượng tọa bộ. Tôi mong rằng, vớikinh
nghiệm nhỏ này sẽ giúp cho Tăng Ni Sinh, những người nghiên cứu và Phật
tử không phải mất nhiều thì giờ tìm kiếm, nhưng nếu như đọc giả cảm
thấy hứng thú, muốn tìm hiểu trọn ý nghĩa vẹn của những đoạn trích dẫn
này, tốt nhất nên đọc trọn bài kinh, vì ý nghĩa của một đoạn kinh có
thể liên quan đến những ý nghĩa khác.
Cách tra cứu và biên soạn của tác phẩm này
không phải là cách hay nhất, chỉ là cách làm việc mang tính cá nhân, do
vậy nơi đây tôi rất mong nhận sự góp ý của các bậc thiện tri thức, để
làm nền tảng cho các tác phẩm xuất bản sau này. Mọi sự góp ý xin gởi
về địa chỉ hanhbinhvn@yahoo.com
Kính
bút
Thích
Hạnh Bình