NHÀ XUẤT BẢN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Xuất bản năm
1996
THIỀN LÂM BẢO HUẤN
Dịch giả : HT. Thích Thanh Kiểm
---o0o---
Mục Lục
Lời nói đầu
Giáo pháp của Phật
Đà được ghi chép trong Tam tạng là Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Ta
thường gọi là Tam tạng Thánh giáo. Giáo điển của Phật giáo ngoài ba phần
nói trên, còn có một phần được ghi chép những lời nói và việc làm có tính
cách siêu việt của các Cổ nhân được tập trung lại gọi là phần Ngữ lục.
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ
lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300
thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử
thế, đều là những kỷ cương yếu lĩnh về cách trụ trì, hoằng đạo của các bậc
Thạc đức danh Tăng. Mỗi ý tưởng mỗi câu văn đều là những khuôn vàng thước
ngọc để kẻ hậu học noi theo, đều là những tấm gương chói lọi sáng ngời để
soi chung cho hậu thế. Thế nên những người nột tử có chí hướng kế vãng
khai lai, truyền thừa Tổ nghiệp đều phải học hỏi và bắt chước.
Viên Ngộ Thiền sư bảo Phật Giám rằng: “Sư
ông chùa Bạch Vân, mỗi khi hành động cất nhắc một việc gì, cũng đều khảo
xét những hành động của cổ nhân xưa. Sư ông thường nói: “Sự việc mà chẳng
khảo xét của tiền nhân thì bảo đó là chẳng đúng phép”. Ta chỉ vì ghi nhiều
được lời nói và đức hạnh của cổ nhân mà đạt thành được chí khí. Nhưng
chẳng phải chẳng những chỉ hiếu cổ, mà lại bỏ cái hay của người đời nay
chẳng đủ để bắt chước. Tiên sư thường nói: “Sư ông vì chấp cổ, nên chẳng
biết thay đổi theo thời”. Sư ông nói: “Thay đổi thói cũ, biến đổi đạo
thường, chính là mối đại họa của người đời nay”. Đó là điều mà ta trọn
chẳng làm vậy”.
Như vậy, chỗ bắt chước cổ nhân, có nghĩa
là bắt chước cái hay cái đẹp của cổ nhân để tạo thành cái hay cái đẹp cho
đương thế, để mong sao cho Tổ đình hưng thịnh, cho Phật pháp xương minh.
Đó chính là cái hoài bão chung của những người con Phật.
Sách Thiền Lâm Bảo Huấn này được lưu
truyền tại Việt Nam có ba bản khác nhau. Bản thứ nhất được khắc từ năm Mậu
Thân, niên hiệu Cảnh Trị năm thứ sáu đời Lê, và được tàng trữ tại chùa
Khán Sơn ở Thăng Long thành. Bản thứ hai được khắc ở năm Quý Sửu, và được
tàng trữ tại chùa Xuân Áng huyện Lương Tài. Hai bản này duy có phần chính
văn, không có phần chú thích. Bản thứ ba được khắc ở năm Mậu Ngọ, năm Tự
Đức thứ 11, và được tàng trữ tại chùa Linh Thiền núi Long Đội tỉnh Hà Nam.
Bản này có phần âm nghĩa và chú thích của Vân Thê Kiến Sư.
Ba bản trên đây đều bằng Hán văn, và đã
được lưu truyền tại Việt Nam trải qua nhiều thời đại. Nhưng trong thời đại
nào sách Bảo Huấn này vẫn được coi là bộ sách giáo khoa của Phật giáo. Vì
lẽ, trong bất cứ một hội Hạ hay một trường Phật học nào, cũng đều thấy có
chương trình học hay giảng Thiền Lâm Bảo Huấn.
Phần nguyên bản của sách Thiền Lâm Bảo
Huấn này thì y cứ vào chính bản trong “Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh” tập
thứ 48, từ trang 1016 - 1040. Phần chú thích thì y cứ vào bản chú thích
của Vân Thê Kiến Sư Trung Hoa, và bản Nhật dịch Thiền Lâm Bảo Huấn tập thứ
4 trong “Quốc Dịch Thiền Tông Tùng Thư” của Nhật Bản.
Trong những phần phiên âm, dịch nghĩa và
chú thích trong sách Thiền Lâm Bảo Huấn này chắc không thể tránh sao khỏi
được chỗ khuyết điểm sai lầm, nếu các bậc cao minh độc giả nhận thấy có
những chỗ sai lầm đó xin vui lòng phủ chính, để sẽ được sửa lại hoàn hảo ở
lần tái bản sau.
Phật Lịch 2516, Mùa Xuân năm Quý Sửu 1973
Dịch giả cẩn chí
Sa môn Thích Thanh Kiểm.
Bài tựa Thiền Lâm Bảo Huấn.
Sách Bảo Huấn do hai
ngài Diệu Hỷ(1)
và Trúc Am(2)
cùng soạn tập trong một am cỏ, khi ở chùa Vân Môn đất Giang Tây. Khoảng
niên hiệu Thuần Hy(3),
tôi tới chùa Vân Cư, may mắn được tặng cuốn sách này ở một vị Lão Tăng Tố
Am. Rất tiếc sách này đã lâu năm, nên bị mối mọt làm rách nát, đầu sách và
cuối sách không còn chu toàn. Sau đó những lời lẽ trong sách này lại thấy
được ghi chép trong các Ngữ lục và Truyền ký nên tôi mới thu thập lại
trong khoảng mười năm trời, được tất cả là hơn 50 thiên. Tiếp đó, tôi lại
trích thêm phần Di ngữ của các ngài Dương Kỳ, Hoàng Long(4),
rồi đến Ngữ lục của các lão Tăng như Phật Chiếu(5)
và Giản Đường(6),
rồi tự mình lại tiết giảm, tu chỉnh, chia loại mà hợp thành 300 thiên.
Trong các thiên này vì chỗ lựa chọn được có trước sau mà xếp đặt ở trước ở
sau, chứ không theo chỗ lần lượt xưa và nay. Đại để chỉ khiến cho người
học loại bỏ được thế lực, quyền lợi, nhân ngã, để đạt tới đạo đức nhân
nghĩa mà thôi. Lời văn và ý nghĩa của sách này thì dồi dào bình dị, không
có những vết tích mông lung, mơ hồ, dối trá, thực đúng là cái đầu mối để
giúp người vào đạo. Vì vậy, nên tôi cho đem khắc vào gỗ để lưu truyền được
sâu rộng. Tất sẽ có những kẻ sĩ đồng chí nếu một khi thấy được việc làm
này mà để tâm tuỳ hỷ, thì tôi dầu chết già nơi hang núi chăng nữa, nhưng
cái chí nguyện của tôi cũng đã viên mãn rồi vậy.
Sa Môn Tịnh Thiện đất Đông
Ngô viết.
(1)
Diệu Hỷ. Tức Đại Tuệ Phổ Chiếu Lâm Thiền Sư, pháp tự của Phật
Quả Khắc Cần Thiền Sư, đời thứ 15 phái Nam Nhạc.
(2)
Trúc Am. Long Tường Trúc Am Sĩ Khuê Thiền Sư, pháp tự của Phật
Nhãn Thanh Viên Thiền Sư, đời thứ 15 phái Nam Nhạc.
(3)
Thuần Hy. Niên hiệu Thuần Hy đời vua Tống Hiếu Tôn.
(4)
Hoàng Long. Hoàng Long Tuệ Nam, pháp tự của Thạch Sương Sở Viên
Thiền Sư, đời thứ 11 phái Nam Nhạc.
(5)
Phật Chiếu . Đức Quang Phật Chiếu Chuyết Am Thiền Sư, ở chùa
Dục Vương thuộc Minh Châu, pháp tự của Tông Cảo Đại Tuệ Thiền Sư, đời
thứ 16 phái Nam Nhạc.
(6)
Giản Đường. Giản Đường Hành Cơ Thiền Sư, ở chùa Quốc Thanh,
pháp tự của Hộ Quốc Cảnh Nguyên Thiền Sư, đời thứ 16 phái Nam Nhạc.