LỜI TRẦN BẠCH
Kính bạch chư Tôn Phẩm,
Kính thưa chư thiện hữu tri thức,
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ
CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong
những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
Bàn về vấn đề “Khế Lý - Khế Cơ”
thành thực xin thưa rằng, chỉ nói được với những người hiền lành hạ căn. Cụ thể
là nhắc nhở các vị Đồng Tu hữu duyên cố gắng giữ gìn tâm hồn Thanh Tịnh,
tư cách Khiêm Nhường để tu hành, hầu tránh bớt những chướng nạn của thời
mạt pháp, vì toàn thể đồng tu chúng ta đều là hàng phàm phu, căn tánh hạ liệt,
nếu sơ ý thì đường tu có thể gặp nhiều trở ngại.
“KHẾ LÝ” là đúng theo lý đạo của
Phật. “KHẾ CƠ” là cách hành trì phải hợp căn cơ của chính mình.
Bậc Thượng Căn Thượng Trí thì không cần gì
phải phân biệt vấn đề “KHẾ LÝ - KHẾ CƠ”, nhưng hàng hạ căn trí cạn thì
vấn đề này rất hệ trọng.
Vì thế, người tu hành trong thời mạt pháp
này muốn được thành tựu cần phải nghiêm khắc tự xem xét cho rõ căn cơ của chính
mình.
Nếu đã cố gắng xem xét mà cũng không rõ
được căn cơ của mình là đâu, thì xin chư vị hãy nghĩ rằng chắc chắn mình phải
thuộc vào hàng hạ căn trí độn, phước mỏng chướng sâu, nhất định không dễ gì có
ngày tự chứng đạo!
Nếu quả là hàng phàm phu tội chướng sâu
nặng mà lơ là việc trạch pháp, tâm ý hiếu kỳ, ham mê chứng đắc thì rất dễ bị
chướng nạn trên con đường tu hành!
Niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ là đại pháp môn
thích ứng với mọi căn cơ. Nói như vậy không có nghĩa là người có tâm ý vọng
động, tâm ý không thanh tịnh Niệm Phật cũng được thành tựu!
Hộ Niệm là pháp ứng dụng triệt để pháp
Niệm Phật, thực hiện đầy đủ ba tư lương TÍN-NGUYỆN-HẠNH, giúp người phàm phu
tội nặng, trí cạn một đời này có cơ duyên vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, viên
thành Phật đạo.
Vậy thì, NIỆM PHẬT - HỘ NIỆM - VÃNG SANH
là vừa “Khế Lý” vừa “Khế Cơ” và là “Đại Cứu Tinh” cho
người hạ căn học Phật trong thời mạt pháp được thành tựu vậy.
Đây chính là nội dung của những lời tọa đàm
này.
Diệu Âm chỉ đem lòng chân thành ra trình
lên cùng chư vị, với tâm trí mộc mạc, thấp thỏm nói ra những gì thật gần gũi
với chư vị Đồng Tu quen biết và người hữu duyên, những người cùng nhận với nhau
là hàng căn cơ hạ liệt, chứ không có ý tưởng gì gọi là cao siêu cả.
Đây là bộ sách thứ hai được ghi chép lại
từ lời tọa đàm ngắn, những chuyện tọa đàm được ghi lại thành câu văn nên chắc
chắn có nhiều lời văn thô kệch, cách diễn tả luôm thuộm, nhiều ý tưởng chưa
được thông suốt... Kính mong chư Tôn Phẩm, cùng chư Thiện Hữu Tri Thức từ bi
chỉ dạy sửa sai. Diệu Âm xin thành tâm cảm tạ, và luôn luôn kính cẩn lắng nghe,
nghiêm chỉnh suy nghiệm để sửa chữa.
Thành tâm cảm niệm công đức của tất cả chư
vị phát tâm. Công việc lắng nghe từ đĩa MP3 thiếu chất lượng để ghi chép lại
từng câu rồi in ra thành sách thật là khó khăn, nhiều thử thách không nhỏ! Ấy
thế mà chư vị đã làm được. Diệu Âm xin thành tâm tri ân sâu sắc...
Tập sách này nếu có được chút công đức
nào, xin hồi hướng trọn vẹn đến khắp pháp giới chúng sanh. Nguyện cầu cho “Tình
dữ vô tình, đồng viên Chủng Trí”. Nguyện cầu cho thế giới hòa bình,
chúng sanh an lạc, tiêu tai giải nạn. Hồi hướng đến tất cả chư vị phát tâm, cầu
cho tất cả hết báo thân này đều được vãng sanh Tịnh-Độ, viên mãn đạo quả.
A-Di-Đà Phật.
Kính Bái Bạch
Diệu Âm Minh Trị
(Úc Châu)
LỜI CỦA BAN ẤN TỐNG
Nam Mô A Di-Đà Phật,
Ban Ấn Tống bộ sách “HỘ
NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ" xin thành tâm cảm ơn:
- Quý Thầy Thích Chí Giác Châu, Thầy Thích Hạnh Phú đã khuyến tấn,
hướng dẫn, chỉ đạo nhiều mặt cho chúng con phần in ấn.
- Chư Liên Hữu: Kim Bình, Anh Tuấn, Gia Hổ, Khánh Ngọc, Liên
Phương, Hiếu Ngọc, Chính nguyễn, Xuân Ngọc, Minh Thịnh, Đồng Liễu, Liên Hương,
Diệu Tịnh, Ngọc Chương, Thu Hương... Cùng một số Liên Hữu đã tham gia đóng góp
nhiều công sức, tịnh tài, kiểm bài mà không để tên lại.
Cư sĩ Diệu Âm (Úc Châu) có nhắc nhở rằng, những bộ sách do Cư Sĩ
viết ra khi được ấn tống nên theo đúng ba đều:
1-
Không giữ bản quyền,
2-
Không lập phương danh ấn tống,
3-
Không viết lời hồi hướng công đức riêng.
Cư sĩ nương theo hạnh “Bố thí Ba-la-mật”. Nghĩa là “Làm mà không
làm. Hãy quên đi...”. Đúng ra Ban Ấn Tống cũng không dám nêu tên quý Thầy cùng
chư vị phát tâm. Nhưng đầu tiên khi cư sĩ Diệu Tịnh đơn độc phát tâm viết bài “Hộ
Niệm Là Pháp Tu” thì chư vị Liên Hữu vừa thoáng nghe tin đã phát tâm tham
gia, tích cực ngày đêm cùng nhau viết, vô tình tự lập ra một nhóm: “Ban Ấn
Tống”. Chúng ta đã thực hiện
xong bộ “Hộ Niệm Là Pháp Tu”, bây giờ đến bộ “Khế Lý - Khế Cơ”,
và chư vị cũng đang say sưa viết tọa đàm “Hướng Dẫn - Khai Thị”.
Phải chăng đây là một cái Duyên thật khá đặc biệt đưa đẩy chúng ta
làm việc chung với nhau trong một Nhóm bằng Email qua lại mà nhiều người chưa
biết mặt nhau, chưa rõ đang ở nước nào trên thế giới. Lập nên Nhóm Liên Hữu mà
chưa biết ai là người trưởng nhóm, chúng ta chỉ biết kết thành Bạn Lữ nguyện đi
chung một đường Vãng Sanh Tây Phương Cực Lạc. Thật là hạnh ngộ! Thật là kỳ thú.
Chúng tôi rất cảm động! Xin đại diện cho Ban Ấn Tống nói lên sự
cảm xúc lớn lao này để chia sẻ tới từng người đã lặng lẽ qua những ngày giờ
lắng nghe MP3 và ghi lại thành câu văn, rồi Email đến nhau cùng kiểm bài...
Xin đem tất cả công đức có được cúng dường cho pháp giới chúng
sanh, cho tất cả chư vị. Nguyện một báo thân này vãng sanh Tịnh độ.
BAN ẤN TỐNG
KHẾ LÝ
- KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 1)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Trong thời gian qua, ở tại Niệm Phật Đường
chúng ta, thường nhắc nhở về vấn đề tu học. Hôm nay Diệu Âm xin thông tin với
chư vị có một vấn đề liên quan đến sự tu học khá là quan trọng, cho nên thay vì
những ngày này chúng ta nghe những lời trích đoạn khai thị của Hòa Thượng
Tịnh-Không, thì hôm nay Diệu Âm xin dành giờ phút này để phổ biến cho chúng ta
biết được cái thông tin này, hầu mong cho sự tu học của chúng ta tránh được
những trở ngại đáng tiếc xảy ra.
Cái thông tin như thế này, vừa mới đây ở
trong nước có một vị niệm Phật cho biết đã đạt đến cảnh giới nhất tâm bất loạn,
biết được ngày giờ vãng sanh, và tin này đã phổ biến rất là rộng rãi, toàn quốc
đều hay biết và người ta chuẩn bị cho cuộc đưa tiễn vãng sanh rất rầm rộ và
trang nghiêm. Nhưng đến sau cùng rồi thì việc vãng sanh đó không xảy ra! Bị trở
ngại! Sự việc gây xáo trộn rất lớn trong tinh thần người tu học. Có một điều
đáng tiếc hơn nữa là tin này đã tung lên tới thế giới rồi, trên những cái mạng
có tầm vóc quốc tế đã đăng lên rồi. Chính vì vậy mà nó ảnh hưởng cũng khá sâu
đậm trong làng Phật Giáo Việt Nam chúng ta.
Xin thưa với chư vị, tại sao lại có những
chuyện như vậy? Chúng tôi có điện thoại về hỏi những vị rất là thân cận có trực
tiếp tiếp xúc với chuyện đó. Thực ra, không có gì gọi là xa lạ lắm, mà chính là
vấn đề tu học cần phải “KHẾ CƠ - KHẾ
LÝ”.
- “Khế Lý” là tu học đúng theo Pháp Phật, không sai với lời
Phật dạy.
- “Khế
Cơ” là phải biết ứng dụng cho đúng hợp với căn cơ của người tu học.
Nếu căn cứ vào kinh mà quên đi vấn đề căn
cơ của chính người tu học, thì có thể rất dễ dàng dẫn đến chỗ gọi là vọng
tưởng, không thực hiện được!
KHẾ LÝ là nói về “LÝ”. KHẾ CƠ là nói về “SỰ”.
Hai điều này rất là quan trọng. Chính vì vậy mà thời gian qua, trong những cuộc
tọa đàm, Diệu Âm cũng thường nhắc nhở chư vị đồng tu là riêng Niệm Phật Đường
chúng ta ở đây mong muốn chư vị kết hợp lại thành một nhóm nhỏ, tu hành với
nhau, học hỏi với nhau, rồi sau cùng chúng ta nương dựa nhau, hộ niệm cho nhau,
giúp đỡ nhau để vãng sanh. Đây là điều rất chính xác và hợp với tình trạng của
chúng ta.
Hòa Thượng Tịnh-Không thường nhắc rằng
thời mạt pháp này không được đóng cửa tự tu một mình. Lý do đầu tiên là thường
thường tu một mình, không có thời khóa, giải đãi! Đây là nói về điều gần gũi
nhất. Nói về xa là tại vì căn cơ chúng ta quá yếu, chúng ta chưa ngộ được lý
đạo cao siêu của Phật, nên Ngài sợ chúng ta ứng dụng bừa bãi. Dù là ứng dụng
kinh Phật nhưng không hợp lý, không hợp lúc, không hợp căn cơ thì chúng ta dễ
bị tình trạng như vừa nói bên trên.
Xin thưa rằng, có một sự việc như thế này,
là có một vị đó, đầu tiên tu về Thiền, sau đó mới gặp được pháp môn niệm Phật,
thấy câu A-Di-Đà Phật nhiệm mầu quá và tự tra trong kinh Vô-Lượng-Thọ, nghĩa là
tự nghiên cứu lấy thì mới bắt được một câu trong kinh Vô-Lượng-Thọ, câu đó như
thế này:
-Bỉ Phật Như Lai, Lai Vô Sở Lai, Khứ Vô Sở
Khứ, Vô Sanh Vô Diệt, Phi Quá Hiện Vị Lai.
Người đó ngộ(?) ra câu này, rồi đóng cửa
tự tu. Tự tu một thời gian thì mới chứng đến một cái cảnh giới nào đó rất là vi
diệu(?), vi diệu đến nỗi mà làm cho nhiều người có học Phật cũng lầm luôn.
Chính vì vậy mà sau cùng mới xảy ra tình trạng là đã loan ra quá rộng rãi, tổ
chức quá rầm rộ, động luôn tới vấn đề trật tự an ninh của xã hội, và sau cùng
thì đưa đến là trong những cái mạng web của thế giới cũng đăng lên luôn… Nhưng
mà thực sự thì vị đó hiện bây giờ vẫn còn sống.
Khi chúng ta đọc kinh hay là nghe lời Tổ,
nghe giảng ký, chúng ta phải biết trạch pháp một cách cẩn thận. Trạch pháp là
thế nào? Là phải biết… À! Lời này là Phật nói ở cảnh giới nào? Một vị Hòa
Thượng đang giảng một đoạn kinh này là giảng ở cảnh giới nào? Ví dụ như Hòa
Thượng Tịnh-Không giảng kinh, khi Phật nói cảnh giới của Phật thì chắc chắn là
Ngài phải giảng trong cảnh giới của Phật. Nếu một người căn cơ hạ liệt như thế
này mà chụp lấy điều đó để tu, coi chừng bị trở ngại! Khi giảng đến một cảnh
giới của A-La-Hán (là vì trong kinh của Phật mà), thì bắt buộc Ngài phải giảng
ở cảnh giới A-La-Hán. Chúng ta nghe tới cảnh giới A-La-Hán vi diệu quá, chụp
lấy mà tu thì coi chừng không hợp với căn cơ của mình, đưa tới cái chỗ vọng
tưởng!
Thì câu kinh của Phật nói, “Bỉ
Phật” chính là A-Di-Đà Phật; “Lai Vô Sở Lai, Khứ Vô Sở Khứ, Vô Sanh Vô
Diệt, Phi Quá Hiện Vị Lai”, nghĩa là Vị Phật đó, Như-Lai đó về thì
không biết đâu mà về, đi thì không có chỗ nào đi, không sanh không tử, không có
quá khứ, hiện tại, vị lai. Một người căn cơ thấp kém như chúng ta, nghe đến câu
này quá ư là vi diệu, tưởng mình là Phật, mình cũng không đi đâu, mình cũng
không về đâu, mình cũng không sanh không diệt, mình không có quá khứ vị lai...
Như vậy mình là Phật rồi chứ gì nữa? Thế là đóng cửa kiết thất tự tu! Trong khi
đó Hòa Thượng Tịnh-Không nói, thời đại mạt pháp này không nên tự kiết thất tinh
tấn. Thế mà tự kiết thất tinh tấn tu hành đến nỗi xảy ra tình trạng như nói vừa
rồi.
Chúng ta phải nhớ cho rõ, về lý đạo thì rõ
rệt vị đó tu đúng lý, vì lý này là lý của Phật mà, trong kinh Phật nói ra làm
sao không đúng được? Chắc chắn. Nhưng mà ứng với căn cơ của mình thì hoàn toàn
sai. Chính vì vậy mà Hòa Thượng Tịnh-Không thường khuyên rằng, trong thời mạt
pháp không được “Tự kiết thất tinh tấn”, mà khuyên
chúng ta nên tu theo cách của ông thợ vá lu, tức là ông Cô-Lô-Giang.
Ông thợ vá lu tu như thế nào? Hễ mệt thì
nghỉ, khỏe thì tu, ngồi niệm Phật được thì ngồi niệm Phật, ngồi niệm Phật mệt
mỏi thì đi kinh hành niệm Phật, đi kinh hành mà thấy mỏi chân thì ngồi trên ghế
niệm Phật...
Ngài nói là nên tu theo tùy sức,
không được vượt qua cái sức của mình. Nếu sơ ý, nhiều khi cứ tưởng rằng, mình
có những năng lực đạt được những cảnh giới cao, có thể tu trì như các vị đại
Bồ-Tát, thì thường thường trong kinh Phật và chư Tổ cũng hay nhắc nhở câu này:
“LỰC BẤT TÒNG TÂM”. Cái Tâm chúng ta muốn thành Phật, cái tâm chúng ta muốn
nhất tâm bất loạn, cái tâm chúng ta muốn đạt được hai năm, ba năm vãng sanh…
nhưng cái lực chúng ta không trì nổi. Nếu chúng ta bám theo, đến một giai đoạn
nào đó có thể vượt qua sự chịu đựng thì chúng ta bị trở ngại! Thường thường khi
đã bị trở ngại rồi thì không còn cách nào có thể cứu chữa được! Ví dụ như vị đã
bị trở ngại đó, sau khi bị như vậy rồi thì rất nhiều phiền não đã xảy ra. Khi
ách nạn bắt đầu đến chập chùng rồi, thì mới tìm cách lánh nạn. Nhưng xin thưa
với chư vị, lánh nạn thì trong khi đã đeo nạn trên mình rồi!...
Chính vì vậy, xin nhắc nhở với tất cả chư
vị, ở đây Niệm Phật Đường chúng ta không chủ trương sẽ có một thời khóa nào,
hay một phương thức nào để cho chư vị được nhất tâm bất loạn. Ở đây Diệu Âm
đóng vai như người đang hướng dẫn đạo tràng này, nên Diệu Âm phải nhắc nhở
những điều này để chúng ta cùng tránh, vì nếu không tránh, lỡ bị vướng nạn rồi
thì chính Diệu Âm này không cách nào gỡ ra được.
Mong chư vị nhớ những điểm cần yếu như thế
này, là chúng ta phải giữ một mực khiêm nhường tối đa, càng tu càng khiêm
nhường. Nhất định:
- Không có nảy lên một ý niệm
nào là ta tu ngon lành.
- Không có nảy lên một ý niệm
nào là ta tu có thể chứng đắc.
- Không có nảy lên một ý niệm
nào là ta niệm Phật đã nhập tâm rồi, đã nhất tâm bất loạn rồi.
Diệu Âm đang phổ biến cái chương trình
công cứ, nhưng Diệu Âm sẽ theo dõi rất kỹ và thường thường có những lời khuyên
chân thành. Ví dụ như thấy quý vị lập công cứ mà ngày đêm bỏ ăn bỏ uống để niệm
Phật, thì Diệu Âm xin chư vị hãy giảm bớt lại, thoải mái một chút để có thời
gian tắm rửa, lau mặt, lau mày để cho tinh thần của mình được thư thả. Nếu có
vị tu giải đãi quá thì Diệu Âm khuyên... À, nên tăng lên một chút, nếu giải đãi
quá coi chừng khi nằm xuống thì nghiệp chướng, oan gia trái chủ bủa vây, đồng
tu của Niệm Phật Đường A-Di-Đà không cách nào có thể đến giúp được gì cho chư
vị.
Cho nên, tùy theo một người mà Diệu Âm
khuyên nên tăng lên một chút, cũng vì một người Diệu Âm khuyên nên giảm một
chút và luôn luôn theo dõi... Để chi? Vì Hòa Thượng đã dạy rằng, trong giai đoạn này không được quyền tự tu
tinh tấn. Tu công cứ là tu tinh tấn. Cho nên xin chư vị nhớ cho, là
chúng ta phải cố gắng hết sức trói cái tâm mình trong câu A-Di-Đà Phật, nhưng
càng tu nhất định chúng ta phải càng khiêm nhường và càng kết hợp với đạo
tràng, để thí dụ như, thấy chị tu trong một thời gian tại sao khuôn mặt trở nên
mét mét đi! Là bị mệt quá rồi chứ gì? Giảm bớt lại chị. Cẩn thận. Khi thấy
người này tu một thời gian tự nhiên sao thấy hình như là nó lâng lâng trên
trời! Giảm bớt lại, đừng sơ ý nữa… Nhờ vậy mà chúng ta giải cứu cho nhau. Chứ
nếu không, thì xin thưa với chư vị, thực sự là khó khăn! Nhất là trong giai
đoạn này!...
Cố gắng điểm này nhé, càng tu hành chúng
ta phải càng buông xả. Nhất định phải buông xả. Nếu không buông xả thì coi
chừng rất khó khăn trong công cuộc vãng sanh.
Sắp tới đây tôi sẽ liên lạc về Việt Nam,
họ sẽ tìm cách gửi qua một số các hiện tượng vãng sanh nữa cho quý vị coi,
nhiều vô cùng. Họ vãng sanh thực sự, hàng trăm cuộc như vậy. Có thể như vậy và
tôi đang liên lạc để tìm cách gửi qua rồi tôi sẽ công bố cho quý vị coi. Thật
sự đã có vãng sanh. Nhưng thực sự, cũng có những người vì quá vọng tâm mà mất
phần vãng sanh. Không những mất phần vãng sanh mà còn bị trở ngại nữa.
Những lời nhắc nhở chân thành này xin chư
vị hiểu cho, tại vì trách nhiệm của Niệm Phật Đường là cố giúp người vãng sanh.
Nhưng xin chư vị hãy nhớ cho, không thể nào ỷ y, không thể nào lơ là được. Nhất
định nhớ cho, chúng ta phải nương theo A-Di-Đà Phật để Ngài cứu độ chúng ta về
Tây Phương, chứ không phải là chúng ta chứng đắc để tự về Tây Phương.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 2)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật
Với
lòng chân thành, Diệu Âm xin nói lên những điều này, là tha thiết muốn cho tất
cả chư vị đồng tu đến đây tu học, sau cùng được thuận buồm xuôi gió về tới Tây
Phương Cực Lạc, ngoài ra không có một ý gì khác cả.
Trong
pháp tu chúng ta phải rõ thế nào là “Khế
Lý”? Thế nào là “Khế Cơ”? Tu học phải dựa vào kinh Phật là Khế Lý, dựa vào những
lời giảng dạy của chư Tổ Sư là Khế Lý. Đem tất cả những lời giảng đó ứng
dụng trên chính mỗi cá nhân chúng ta để được thành tựu, thì đó gọi là Khế Cơ.
Khế Cơ là hợp với căn cơ của chúng ta.
Ngài
Ấn-Quang Đại Sư nói, tất cả kinh Phật, pháp môn của Phật không có pháp nào cao,
không có pháp nào thấp. Ứng hợp với căn cơ của mình thì mới được diệu dụng.
Pháp
môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của
mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ,
chúng ta được thành tựu. Nếu chúng ta ứng hợp không đúng, dù là ứng dụng lời
Tổ, dù là ứng dụng kinh Phật cũng có thể bị trở ngại như thường. Xin thưa với
chư vị, hiện tại bây giờ trong Email của Diệu Âm có khoảng 400 câu hỏi, mà
đó cũng là cố gắng giải quyết rồi đó, Diệu Âm không dám mở ra nữa, vì mở ra thì
chắc chắn trong đó cũng có những vấn đề tương tự như chúng ta đang giải quyết
đây.
Trong
quá khứ Diệu Âm đã giải quyết khoảng chừng gần mười người, gần mười người tự
khoe mình đã chứng đắc, đã chứng này, chứng nọ. Diệu Âm cũng khuyên hết lời là:
“Phải quyết lòng thành tâm niệm Phật và luôn luôn nghĩ mình
là phàm phu tục tử tội chướng sâu nặng, oan gia trái chủ nhiều, mau mau nhiếp
tâm niệm Phật cầu Phật gia trì thì mới tránh được những hiểm nạn bất ngờ”.
Nhưng
hầu hết các vị đó không nghe! Đến lúc đã bị nạn quá nặng rồi, “Hoảng kinh hồn
vía” lên, mới la làng la xóm lên!... Xin thưa, là lúc đó thì Diệu Âm cũng
khuyên được khoảng sáu người buông được. Khuyên được người thứ sáu, đến người
thứ bảy tiếp tục... người thứ tám tiếp tục... Thôi!... Diệu Âm đành phải đóng
Internet luôn, không dám trả lời nữa! Vì thực sự lực của Diệu Âm này không đủ
khả năng để giải quyết. Trong khi đó, thì xin thưa với chư vị, nguồn tin của
những người hiền lành, chất phác, thật thà, một lòng thành tâm thành kính niệm
câu A-Di-Đà Phật và được những ban hộ niệm đến hộ niệm trong những tư thế hết
sức bình dân, vậy mà họ ra đi với thoại tướng bất khả tư nghì.
Thực
sự, những hiện tượng gần gần với chúng ta đây cũng có những người vừa nhìn thấy
một quyển sách, hay một phương pháp nào giới thiệu rằng niệm Phật bảy ngày, bốn
ngày, năm ngày, hai tuần thì được “Nhập
Tâm”, được “Niệm Tự Niệm”, tức là Niệm mà Vô Niệm,
rồi có thể tăng tiến dần đến cái chỗ “Nhất tâm bất loạn”, thấy hay quá
và vội vã chạy theo!... Có nhiều người rất thân thiện, Diệu Âm cũng chỉ thành
tâm khuyên, ngoài ra không biết cách nào khác hơn! Nhưng khổ một điều là khuyên
mà các vị đó không nghe. Những người ở trong Internet chỉ liên lạc thẳng với
Diệu Âm nên không dám thố lộ ra. Trong khi Diệu Âm đi từ nước này qua nước nọ,
bất cứ nước nào cũng gặp ít ra một người, hai người hoặc ba người bị vướng cái
nạn này. Bây giờ biết làm sao? Thổ lộ với ai đây? Trong dịp vừa rồi, tức là sự
việc nó đã lộ ra rồi, làm chấn động khắp nơi trong nước rồi, thấy sợ quá, mới
xin thổ lộ cho chúng ta biết con đường nào là đường chúng ta thành tựu, con
đường nào là cạm bẫy, nguy hiểm đang giăng ngay trước bàn chân của mình mà
không hay!...
Cho
nên, chúng ta tới đạo tràng này thì hãy quyết giữ lòng “Thành Tâm Thành Ý”. Hòa Thượng Tịnh-Không có lần gặp
Phật tử Ngài lấy nón xuống, Ngài chắp hai tay lại, Ngài cúi đầu xuống... Quý vị
nghĩ coi, một vị đại Hòa Thượng gặp đồng tu mà Ngài lấy cái nón xuống, chắp tay
lại, cúi xuống. Người ta chụp được tấm hình đó đưa lên thành đề tài: “Chí
Thành Cảm Thông”. Quý vị
coi những hình ảnh đó để hiểu những lời dạy tuyệt vời của các Ngài.
Trở
về vấn đề, vì thấy quá nguy hiểm mà không biết cách nào để có thể khuyên nhau!
Khi đã chui vào tình trạng đó rồi thì khó gỡ ra lắm! Nhiều khi mình biết một
người bạn, một người rất thân của mình sẽ bị nạn đó mà cũng đành nhìn thôi, chứ
không biết cách nào khác hơn! Đây là sự thật!
Trở
về vấn đề “Khế Lý - Khế Cơ”. Ví dụ như chúng ta đang tụng kinh A-Di-Đà,
trong kinh A-Di-Đà, Phật nói, Một người nào nhiếp tâm niệm Phật từ một ngày
đến bảy ngày nhất tâm bất loạn thì khi người đó ra đi, Ta sẽ đến tiếp dẫn, chắc
chắn được vãng sanh về Tây Phương. Có nhiều người ứng dụng ngay lời kinh
này, lập ra một phương pháp, rồi tuyên bố rằng với phương pháp tu tập này trong
bảy ngày sẽ nhất tâm bất loạn liền. Người ta đã ứng dụng đúng kinh. Nhưng nếu
là người thực sự cẩn thận, khi nghe nói như vậy thì xin bái chào đi, quyết lòng
rút về, âm thầm khiêm nhường mà niệm Phật. Tại sao vậy? Bảy ngày nhất tâm bất
loạn gọi là kiết thất tinh tấn đó, đúng lý của Phật dạy. Nhưng mà bảy ngày được
nhất tâm bất loạn thì căn cơ của chúng ta nhất định không thể thực hiện được!
Chú ý điểm này, chứ đừng thấy một người nói toàn là kinh Phật hết, rõ ràng
người ta có nói gì sai đâu? Nếu ứng dụng theo, chạy theo, coi chừng sự hiếu kỳ
này sẽ làm chúng ta bị trở ngại!
Ví
dụ khác, như ở trong kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ, Phật dạy tất cả là mười sáu pháp
quán, mà trở về tới thời đại này chư Tổ cấm chúng ta đến mười lăm pháp quán
không được sử dụng. Cũng từ trong kinh Phật ra chứ không phải ở ngoài, vậy mà
chư Tổ chỉ khuyên chúng ta là một lòng chấp trì danh hiệu A-Di-Đà Phật niệm mà
thôi, tức là ứng dụng pháp cuối cùng là pháp mười sáu. Mười lăm pháp khác các
Ngài không cho. Tại sao vậy? Là tại vì căn cơ của chúng sanh trong thời mạt
pháp này rất yếu! Rất nhiều người nghiên cứu kinh mà không chịu chú ý đến chỗ
này, lấy kinh ra đi giảng giải, giảng thì “Khế
Lý” mà ứng dụng
cho chúng sanh thì “Không hợp Cơ”, rất dễ đưa đến tình trạng gọi
là, nói thẳng ra là: “Tẩu Hỏa Nhập Ma!”.
Trong
pháp thứ mười sáu đó là pháp “TRÌ DANH HIỆU PHẬT”, cũng có tới bốn loại:
Thật-Tướng-Niệm-Phật.
Quán-Tưởng-Niệm-Phật.
Quán-Tượng-Niệm-Phật và
Trì-Danh-Niệm-Phật.
Các
Ngài chỉ cho ta được hành trì hai pháp mà thôi, là trì danh hiệu mà niệm và
nhìn hình Phật mà niệm là cùng, còn hai pháp Thực-Tướng và Quán-Tưởng các Ngài
cũng không cho. Như vậy để chúng ta biết rằng một phàm phu này niệm Phật, muốn
thật sự trong một đời này khỏi bị đọa lạc thì bắt buộc phải nghe lời Tổ, mà
phải nghe cho thật chính xác, chứ không phải cứ nghe Pháp ào ào, ào ào... mà
không biết “Trạch”. Trạch là chọn lựa cho kỹ.
Trở
về với cái ví dụ vừa rồi ở Việt Nam, một vị đó thực sự cũng có nghe Pháp của
ngài Tịnh-Không, nhờ pháp của Ngài mới tiến tới chỗ là đọc kinh Vô-Lượng-Thọ,
tụng kinh Vô-Lượng-Thọ, rồi ngộ ra từ một câu kinh trong Vô-Lượng-Thọ mà trì,
để sau cùng bị trở ngại! Vì sao vậy? Vì đoạn này là Phật nói trong cảnh giới
của Chân-Tâm Tự-Tánh. “Khứ Vô Sở Khứ,
Lai Vô Sở Lai” là Chân-Tâm Tự-Tánh của chúng ta. Rõ ràng đó là cảnh
giới của Chân-Tâm Tự-Tánh. Trong khi chính phàm phu của chúng ta chưa biết
Chân-Tâm Tự-Tánh là cái gì? Chưa bao giờ ngộ tới Chân-Tâm Tự-Tánh, gọi là “Minh
Tâm Kiến Tánh”! Không bao giờ có! Không bao giờ có mà ứng dụng cái phương pháp
này, nhất định “Lý” thì cao trên mây xanh, mà “Chân” thì lầm lũi lầm lũi đi vào
cái hố!... Cho nên muốn chứng đắc?... À được! Ta cho chứng đắc, chứng đắc ngon
lành! Chứng đắc đến nỗi mà tất cả mọi người đều phải lầm lẫn hết trơn, để khi
thăng lên tòa rồi, ta rút cái chứng đắc đó xuống, thì từ cái tòa đó rớt xuống
một cái hố sâu vô cùng! Làm sao ai cứu được đây?
Vì
biết được điều này nên cảm thấy khá khổ tâm, nhất là trong giai đoạn này. Diệu
Âm chỉ thành tâm khuyên rằng: Đừng nên sơ ý!
Cách
đây cỡ chừng năm năm, chính Diệu Âm đã gặp một vị, vị này không phải là một
Phật tử bình thường, không phải là một cư sĩ, đã nói với Diệu Âm rằng: Ngày
đó... tháng đó... vãng sanh. Tôi nói với vị đó: Có chắc không? Ngài nói chắc...
Tôi mới nói, bây giờ xin ký giấy đi... Tôi rút trong túi ra, lúc đó không có tờ
giấy, chỉ có cái bì thơ. Tôi nói, Ngài hãy viết vào đây đi. Viết vào cái bì thơ
đó: Tên gì, pháp danh là gì, bút hiệu, v.v... Rồi ký tên vào đàng hoàng....
Ngày đó… tháng đó… tôi vãng sanh. Tôi hỏi, là biết trước được bao lâu rồi? Hai
năm. Tôi làm thinh không nói gì hết. Tôi cũng có nói với vị đó rằng, đây là một
cơ hội rất là may mắn, nhất định phải buông hết tất cả vạn duyên, không còn
dính mắc cái gì nữa cả, tuyệt đối không được thố lộ với ai hết để cơ hội này
được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Tôi
cất kỹ cái thơ đó và tôi bắt đầu trở lại Úc. Tôi tính là đúng khoảng chừng 39
ngày sau, 39 hay 38 ngày sau gì đó là vị đó vãng sanh. Đến gần một tuần là bắt
đầu tôi đã điện thoại theo dõi. Điện thoại, điện thoại riết cho đến ngày đó
cũng không có gì xảy ra và hiện tới bây giờ vị đó cũng còn đang sống!...
Quý
vị thấy không? Tôi là người hết sức cẩn thận, với việc này không bao giờ tôi
dám tung tin ra đâu à. Khi vị đó nói cho tôi biết rồi, tôi nói đừng bao giờ báo
người khác biết nhé. Vị đó nói, không bao giờ đâu... Mới đó, thì ngày hôm sau
tôi điều tra thử đã thấy ba, bốn người biết rồi, mà ba, bốn người này là những
người tôi quen, chứ còn những người khác nữa thì như thế nào?...
Xin
thưa với chư vị, đây là những điều có thực, nói lên để cho chúng ta biết rằng,
nhất định trong đời này muốn vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc thì phải một lòng
khiêm nhường, một lòng vui vẻ, buông hết tất cả những sự câu chấp của thế gian
ra. Phải thường thành tâm sám hối. Bắt chước theo phương pháp của ngài
Tịnh-Không đi, cúi đầu xuống, sám hối đi. Hãy vì chư vị oan gia trái chủ mà
thành tâm niệm Phật, ngày ngày hồi hướng cho chư vị oan gia trái chủ liền đi.
Nếu sơ ý, xin thưa thật đến lúc cuối cùng rồi không ai có thể cứu được cái huệ
mạng của mình đâu! Sơ ý một chút vạn kiếp sau chúng ta vẫn còn bị đọa lạc, chứ
không phải là chuyện dễ! Vậy mà, chỉ cần thành tâm đi, buông xả vạn duyên ra,
nhất định bám lấy đạo tràng này, nhất định bám lấy đồng tu, thành tâm để niệm
Phật đi thì:
- Chư Phật cảm thông.
- Chư Thiên-Long Hộ-Pháp cảm thông.
- Chư Oan-Gia Trái-Chủ cảm thông.
Chúng
ta sẽ được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Cống cao ngã mạn, nhất định bị nạn,
dù cho xin thưa thật, lúc mà quý vị lâm chung chính Diệu Âm này đứng trước mặt
hộ niệm cũng vô ích, tại vì Diệu Âm này không có một lực nào hết, chỉ biết nghe
các vị Tổ mà khuyên nhau một lời để chúng ta đi trong con đường gọi là: “CHÍ
THÀNH CẢM THÔNG”, để được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 3)
Nam Mô A-Di-Đà Phật
Tu hành trong thời đại mạt pháp này có
nhiều chướng ngại lắm, nếu chúng ta sơ ý thì nhiều khi mình tưởng là thuận
nhưng lại là nghịch!...
Nếu mà chúng ta chú ý, với sự hướng dẫn cụ
thể, tiếp xúc được các vị thiện tri thức thì những cái nghịch duyên đó nó biến
thành thuận duyên. Cho nên, trong thời đại này nhất định chúng ta phải lắng
nghe các lời Tổ dạy cho những người phàm phu tục tử như chúng ta cách tu hành
an ổn.
Như hồi sáng chúng ta nói, nhất định phải
kết bè với nhau, thành tâm niệm Phật, tâm ý khiêm nhường, buông xả những thế
trần xuống, tham sân si mạn những cái câu chấp phải bỏ ra. Xin thưa, tu như
vậy, đối với những pháp môn khác, vạn kiếp sau chưa chắc gì thoát ly sanh tử
luân hồi. Nhưng mà đối với pháp môn niệm Phật, chỉ cần buông tình chấp xuống,
những cái gì phiền não bỏ đi, rồi niệm Phật thành tâm nguyện vãng sanh thì ta
được vãng sanh. Đây là con đường tu hành thấp nhất của những người phàm phu như
chúng ta.
Xin nhớ, Tu là tu cho chính ta, chứ không
phải tu cho người khác. Chúng ta thường nghe nói rằng, “Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc”.
Nên sửa ngay những cái lỗi của mình. Trong kinh Phật, có nhiều kinh Phật dạy
cho những người phàm phu tục tử tu. Ngài Tịnh-Không khuyên rằng, trong thời mạt
pháp này nên trì giữ kinh Vô-Lượng-Thọ. Ta đang trì giữ kinh A-Di-Đà, kinh
A-Di-Đà và kinh Vô-Lượng-Thọ là một chứ không phải hai. Nhưng mà xin thưa thực,
kinh Vô-Lượng-Thọ có những lúc Phật nói cảnh giới của Phật, có những lúc Phật
nói cảnh giới của đại Bồ-Tát, có những lúc Phật nói cảnh giới của các vị
A-La-Hán, có những đoạn Ngài nói cho hàng phàm phu tục tử như chúng ta. Vì thế,
ngay kinh Vô-Lượng-Thọ, không phải là toàn bộ kinh đó chúng ta đều có thể ứng
dụng được đâu.
Một chứng minh cụ thể là mới vừa rồi ở quê
nhà, có một vị đã ứng dụng kinh Vô-Lượng-Thọ: “Bỉ Phật Như-Lai, Lai Vô Sở
Lai, Khứ Vô Sở Khứ, Vô Sanh Vô Diệt, Phi Quá Hiện Vị Lai”, ứng dụng câu này mà tu. Rõ ràng là
kinh của Phật trong Vô-Lượng-Thọ, nhưng đưa đến một kết quả thực là phũ phàng!
Chính vì vậy, ngay giảng ký của Hòa Thượng Tịnh-Không, chúng ta nghe cũng cần
phải biết trạch. Trong kinh Vô-Lượng-Thọ, có lúc trên cảnh giới của Phật thì
Hòa Thượng phải giảng cảnh giới của Phật. Nếu thấy cái đạo lý quá ư là nhiệm
mầu, chấp vào đó, ta áp dụng vào, có thể đi sai liền lập tức.
Ngay trong kinh Vô-Lượng-Thọ, cũng là lời
Hòa Thượng Tịnh-Không dạy đó, nhưng muốn áp dụng ta hãy áp dụng theo phẩm 32
đến 37. Nếu quý vị làm được từ phẩm 32 đến 37, thì nhất định sẽ thành công. Vì
sao vậy? Từ 32 đến 37, sáu phẩm này Phật dạy cho chính phàm phu tục tử chúng
ta. Hãy lật giảng ký của Hòa Thượng ra nghe cho thật kỹ chỗ đó, nếu mà quý vị
làm được nhất định thành công. Bây giờ, ví dụ như chúng ta kẹt quá, không có
giờ nghe, đọc kinh Vô-Lượng-Thọ cũng đọc không được, thì xin chư vị đến Niệm
Phật Đường A-Di-Đà này, ngay trên bảng màu vàng vàng đó, chính đó là nội dung
của phẩm 32 đến 37. Phật dạy rõ ràng minh bạch, tóm gọn lại bằng những câu đó:
- Khéo giữ khẩu nghiệp, không nói lỗi
người.
- Khéo giữ thân nghiệp, đừng
mất luật nghi.
- Khéo giữ ý nghiệp, thanh tịnh
vô nhiễm.
- Và sau đó là mười điều thiện.
Đây là nội dung tổng kết từ phẩm 32 đến
phẩm 37. Nếu tu như vậy đối với tất cả những pháp môn khác, ngàn đời ngàn kiếp
không cách nào vượt qua sanh tử luân hồi! Ấy thế mà nhờ câu A-Di-Đà Phật, chúng
ta chỉ tu như vậy thôi, nhưng ta sẽ được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Dễ
dàng đơn giản!
Cho nên chúng ta phải biết vấn đề “Khế
Cơ - Khế Lý” một cách rõ rệt. Kinh Phật nhất định không có kinh nào
nói sai lý đạo. Nhưng căn cơ không xét kỹ, chúng ta áp dụng sai liền!
Chính vì vậy, để cho trong thời mạt pháp
này khỏi bị trở ngại, xin thưa nên biết áp dụng thẳng những điều hết sức là cụ
thể. Khi quý vị nghe những lời pháp của Hòa Thượng Tịnh-Không, từng điểm từng
điểm. Điểm nào là của phàm phu tục tử chúng ta, thì phải làm ngay lập tức. À!
Một là một, hai là hai, tự nhiên chúng ta sẽ thành công. Đừng ứng dụng sai...
Tu là tu cho mình, là hàng phàm phu, chứ
đâu có phải là tu cho Phật!... Câu nói “Về không có chỗ về, đi không có chỗ
đi. Không có quá khứ, hiện tại, vị lai. Không sanh không diệt...” là câu
Phật nói cảnh giới của Phật. Ta tu cho hàng phàm phu chứ đâu phải tu cho Phật,
mà lại áp dụng những điều đó vào trong hàng phàm phu này? Chính vì vậy, ví dụ
như có một đoạn kinh, Ngài nói cho hàng đại Bồ-Tát, Ngài nói với hàng đại
Bồ-Tát thì đại Bồ-Tát tu cho Bồ-Tát. Còn ta tu cho hàng phàm phu, tại sao lại
tu cho Bồ-Tát? Vì là phàm phu mà tu cho Bồ-Tát, nên bị nạn vậy thôi. Rất nhiều
người đã bị trở ngại về chuyện này.
Trở lại chính chúng ta, ta tu sao khỏi bị
chướng ngại? Hãy đọc cái “Quy tắc tu học” của ngài Ân-Quang, đây chính
là lời của chư Tổ dạy cho hàng phàm phu. Ngài nói rõ rệt, thẳng vào hàng phàm
phu này. Hàng phàm phu chúng ta áp dụng quy tắc của ngài Ấn-Quang thì nhất định
thành công. Có một lần ngài Ngộ-Đạo giảng kinh. Ngài nói rằng, có một vị tới
hỏi ngài Ấn-Quang: “Bát Chu Tam Muội là gì? Tu như thế nào?”.
Ngài Ấn-Quang quát mắng, Ngài la liền: “Nhà ngươi hỏi chuyện này để làm chi?”.
Khi mà ngài Ngộ-Đạo giảng tới câu đó làm cho tôi giựt mình!...
Bát Chu Tam Muội là một phương pháp tối
thượng để đưa đến cảnh giới “Nhất tâm bất loạn”, trong 90 ngày thì thành đạo.
Ngài Ấn-Quang nói: “Nhà ngươi có làm được chuyện đó hay không mà
hỏi?”. Hỏi để vọng tưởng, chứ ích gì? Về nhà lo niệm Phật, tìm người
hộ niệm cho nhau thì thành công. Có nhiều người khi tu hành không biết trạch
pháp một cách cẩn thận. Cứ đem những điều quá cao, quá đà của mình mà tu, sau
cùng bị chướng ngại trùng trùng! Mà một khi đã chướng ngại trùng trùng rồi thì không
còn cách nào có thể cứu chữa được!...
Trở lại vấn đề cụ thể của chính chúng ta,
Hòa Thượng Tịnh-Không dạy, muốn thành đạo trong đời này thì câu nói đầu tiên
của Ngài là buông xả.
- Ví dụ, ta thường buồn cái gì,
nhất định hãy bỏ cái buồn đó đi thì niệm Phật được vãng sanh.
- Ví dụ, ta
ghét một người nào, nhất định phải bỏ cái ghét đó đi thì chúng ta mới được vãng
sanh.
- Ngài nói, trong đời của ta mà
còn đố kỵ một người nào, thì nhất định không được vãng sanh.
- Nếu trong đời này mà mình
ghét một người nào, thì nhất định mình không được vãng sanh.
Ngài nói rõ rệt lý do tại sao. Đây là
những lời nói Ngài dạy cho hàng phàm phu tục tử chúng ta. Tại vì toàn bộ phàm
phu tục tử chúng ta là chấp trước, phân biệt... không cách nào có thể thoát
vòng sanh tử luân hồi được. Chính vì vậy mà tu là tu cho mình. Chắc chắn chúng
ta ai cũng có nghe những chuyện một người chết bị vướng vào chỗ nào đó, hàng
đêm trở về khóc than với con cái, chiều chiều hiện về đầu hè khóc với con cái,
nhập vào thân người này phá, nhập vào thân người khác phá, khóc lên, khóc
xuống... Trong những cảnh khổ đó, mình hãy tưởng tượng thử, có phải vì một chút
chấp trước cho nó đã cái cơn sân si, mà bị nạn vạn đời vạn kiếp không? Ích lợi
gì đâu?
Cho nên, tu là tu cho chính mình. Nhất
định không thể nào tu cho đạo tràng, không thể nào tu cho một người nào cả. Nếu
mình nghĩ rằng tu để cho vui, tu để đạo tràng có đông người, tu vì cảm tình...
thì nhất định oan uổng lắm! Xin thưa chư vị, vì huệ mạng ngàn đời ngàn kiếp
phải ráng mà làm cho được chuyện này: Những thứ chuyện cạnh tranh, ganh tỵ trên
thế gian này có chi đâu mà tham chấp như vậy? Tại sao không biết bỏ ra để chúng
ta đi vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nếu mà trong đời này, với cái thân phận
phàm phu tục tử này mà không gặp câu A-Di-Đà Phật, không gặp pháp môn niệm Phật
này, xin thưa thực với chư vị nhất định ta bị nạn! Tại sao vậy? Hòa Thượng
Tịnh-Không nói, mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút chúng ta cứ luôn luôn thâm nhập tất
cả những cái nghiệp, gọi là nghiệp tam ác đạo trong tâm. Không nói người này
xấu thì nói người khác xấu, không chê người này thì cũng chê người khác, không
cười người này thì cũng cười người khác, không tham tiền thì cũng tham danh,
không tham danh thì cũng tham cái gì đó... Những điều này luôn luôn, luôn luôn
trói chặt chúng ta. Tất cả những cái đó là nhân chủng địa ngục hết, tam ác đạo
hết. Như vậy làm sao mà chúng ta không bị nạn? Mà khi đã bị nạn rồi, xin thưa
thực là bị cả ngàn đời vạn kiếp!
Mình nhìn ra ngoài cây coi, con chim đó,
một bộ lông đó, mưa cũng đó mà nắng cũng đó, lạnh cũng đó mà rét cũng đó, nó
vẫn chịu đựng như vậy. Mình chịu đựng như nó được không? Không được đâu! Nhưng
mà coi chừng mình sẩy một cái, có thể, xin thưa thực khi chết đi rồi thành như
vậy đó. Lúc đó rồi vợ chồng cũng đành chịu thua, không cứu nhau được! Cha con
cũng đành chịu thua, không cách nào cứu nhau được! Mà thực sự là có cách cứu,
A-Di-Đà Phật cứu chúng ta một cách rõ rệt. Phàm phu tục tử này nhất định khi
chết phải tùng nghiệp thọ báo, nhưng chỉ cần bứng đi, bỏ đi, ngộ ra liền lập tức
đi, liệng những cái chuyện đó đi, chúng ta thành tâm niệm Phật, thì ngày đó
chúng ta về Tây Phương thành đạo Vô-Thượng.
Xin thưa quý vị, nếu mà chúng ta ngộ ra
chỗ này rồi, thì tại sao không tranh thủ ngày đêm để lo niệm Phật? Tại sao còn
buồn cái này, còn giận cái kia, để mà sau cùng chúng ta đi xuống địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh để chịu nạn? Thực sự đúng như vậy mà. Tôi đi nhiều chỗ lắm chư vị
ơi! Tôi gặp những trường hợp, có những vong linh, họ ứng hiện về, họ nhập vào
những người bà con, anh em mà than mà khóc! Than khóc không được thì lại quýnh
lộn đánh phá với nhau nữa, xé áo xé quần, đâm những người con của mình... Ghê
lắm chư vị ơi! Nhìn tới những hiện tượng đó mình biết rằng cái người về nhập đó
đang chịu khổ, họ khổ kinh khủng lắm, không phải đơn giản đâu à!
Tại sao họ khổ vậy? Tại vì họ không biết
tu. Đã là phàm phu mà không biết tu, nhất định phải chịu cái tình trạng đau khổ
như vậy!...
Bây giờ chúng ta đã thấy rõ rệt rồi... Cái
Niệm Phật Đường này gọi là Niệm Phật Đường A-Di-Đà, đang nhắc nhở cho chúng ta
phải niệm câu A-Di-Đà Phật. Là thân phàm phu này, nhất định suốt cuộc đời này
chúng ta không chứng được gì đâu. Bảo đảm với chư vị, không chứng được gì cả.
Không chứng được nhưng mà ta được đi về Tây Phương là do lòng chí thành chí
kính mà về Tây Phương đó. Nếu người nào mà còn chấp, thì nên nhớ cho, Niệm Phật
Đường này quyết lòng đưa tiễn người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, không thể
nhân nhượng một người nào hết… Tới đây thì giới luật phải nghiêm minh…
- Nhất định phải chân thành
niệm Phật.
- Nhất định phải buông xả cố
chấp ra.
- Buông xả được thì chúng ta
cứu nhau mới được.
- Không buông xả thì chúng ta
cứu nhau không được.
- Cứu nhau không được thì cảm
tình với nhau để rồi ta bị đọa lạc! Ích lợi gì đâu?
Rõ ràng những cái chứng minh cụ thể, những
cái tin tức đã đưa đến dồn dập... Khi khởi một tâm cống cao ngã mạn: Bị nạn!
Khi tham chấp một cái gì: Bị nạn! Bỏ ra đi, dù nghiệp chướng tràn trề, thì
A-Di-Đà Phật dạy, hãy thành tâm sám hối đi! Đã thành tâm sám hối thì làm sao mà
có thể nói lỗi người? Từ bi, đại thiện, đại lành đi! Đã từ bi, đại thiện, đại
lành thì làm sao có thể ghét người? Đơn giản như vậy. Buông ra, tâm ý buông ra,
tự nhiên thoải mái. Chúng ta niệm câu A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật thề rằng làm
được như vậy mà sau cùng niệm được mười câu Phật hiệu của Ngài, cầu về Tây
Phương mà Ngài không đón về Tây Phương, Ngài thề không thành Phật. Đây chính là
cái đầu mối để chúng ta thành công.
Mong cho chư vị nghe được những lời này
nhất định tỉnh ngộ liền lập tức, quyết định thành tâm, chí thành chí kính,
nương vào câu A-Di-Đà Phật.
Chúng tôi ở đây có phát hành công cứ niệm
Phật, nhưng công cứ niệm Phật bắt buộc những người nào nhận công cứ có xác nhận
là chịu buông xả hay chưa? Nếu chưa chịu buông xả mà làm công cứ đó thì vô ích,
mà coi chừng bị vọng tưởng. Tại sao vậy? Hồi sáng đã nói rồi, nếu mà vọng tưởng
nổi lên, “Ta” cho anh một cái đài để anh ngồi, anh ngồi trên cái đài, “Ta” rút
cái chứng đắc ra, bên cái đài đó sẽ có một cái hố thiệt sâu… Đã sụp xuống đó
rồi thì chư Phật mười phương cũng buông tay, không cách nào cứu được.
Vì vấn đề thành đạo giải thoát cho chính
chúng ta, mong chư vị quyết lòng thành tâm, chí thành, chí thiết, khiêm nhường
để nương nhau niệm Phật đi về Tây Phương trong một đời này.
Nam Mô A-Di-Đà Phật
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 4)
Nam Mô A-Di-Đà Phật
Trong khoảng thời gian gần đây, có quá
nhiều biến cố cũng khá trầm trọng chung quanh sự tu hành. Trong những ngày qua
thì mình có nói qua cái vấn đề tu hành cần phải Khế Cơ - Khế Lý.
- Khế Lý là đúng với kinh Phật,
đúng với lời Tổ.
- Khế Cơ là phải hợp với căn cơ
của mình.
Sự-Lý viên dung mới có thể thành tựu. Nếu
tu hành nhắm tới Khế
Lý, tức là lý đạo suôn sẻ đúng với kinh Phật, nhưng mà quên chú ý
đến căn cơ của mình, sẽ đưa đến kết quả hết sức phũ phàng và những hiện tượng
mà mấy ngày trước chúng ta nêu ra là một chứng minh hết sức cụ thể, đã ảnh
hưởng rất tai hại đến căn nhà Phật Giáo ở quê nhà. Thì hôm nay vì vấn đề liên
quan đến Khế Cơ, và vì những biến cố đã đến dồn dập như vậy, ảnh hưởng rất lớn
trong đường tu hành vãng sanh của chúng ta. Cho nên dành trong khoảng thời gian
này, Diệu Âm xin mổ xẻ thêm những điều sơ suất rất là phổ thông, thay vì chúng
ta tiếp tục mở các lời khai thị của ngài Tịnh-Không. Thật ra, đến ngày hôm nay
thì lời khai thị cũng đã hết, đang tìm những lời khai thị mới, nhưng chưa kịp.
Vấn đề Khế Cơ, nếu chúng ta không chú ý, cứ tưởng là dễ, sau cùng rồi có thể
chúng ta hưởng lấy cái quả báo phũ phàng!...
Khế Cơ tức là nói về “Sự”, thì hộ niệm
thật sự là đúng Cơ, đúng Căn, rất hợp Cơ, hợp Căn trong khoảng thời gian này và
trong cái khả năng hạ căn phàm phu của chúng ta. Hộ niệm, như hôm trước mình
nói, là một pháp tu, nó bao gồm cả TÍN-NGUYỆN-HẠNH. Thấy nó đơn giản như vậy,
nhưng chúng ta phải biết: Tin... Tin cho đúng; Nguyện...
Nguyện cho đúng; Hạnh... Hành cho đúng. Nếu chúng ta sơ ý chỉ
cần sai lạc thì có thể phạm phải những lỗi lầm mà dẫn luôn tới kết quả là sau
cùng chúng ta không được vãng sanh.
Ví dụ đơn giản như Nguyện, ai cũng biết ở
đây là chư Tổ dạy, nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Trong kinh Phật dạy,
nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc và ngày ngày chúng ta cộng tu với nhau
cũng “Nguyện sanh Tây Phương Tịnh Độ Trung...”. Đơn giản, gọn gàng như vậy. Chư Tổ
nói, một lòng tha thiết nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
- Nếu cái thân mạng của mình mà
còn, tức là chưa hết, thì tự nhiên hết bệnh.
- Nếu cái thân mạng của mình nó
đến thời hạn ra đi, nhờ lời nguyện này mà mình được vãng sanh về Tây Phương Cực
Lạc.
Có nhiều người cũng niệm Phật, cũng nghe
rất nhiều Pháp, có thể nghe nhiều hơn người ta nữa, nhưng khi có bệnh hiện ra,
vô thường hình như đã gõ cửa(!)... Khi mình tới thăm thì vô tình mới biết rằng
người đó đã phát nguyện sai! Thật là những điều làm cho mình giựt mình! Họ
nguyện như thế nào?... “Ngày ngày tôi quỳ trước bàn thờ Phật, tôi tha thiết
nguyện với Phật, xin Phật nếu mà cái thân bệnh này mãn thì cho con đi liền đi.
Nếu chưa mãn thì xin cho con được hết bệnh để con niệm Phật. Tôi nguyện tha
thiết hàng ngày như vậy, mà bây giờ tôi buồn rơi nước mắt! Tôi khóc… vì tại sao
tôi tu nhiều như vậy mà bệnh vẫn đến với tôi?...”.
Quý vị nghe kỹ đến lời nguyện này, thật sự
có phải là đúng hay không? Chư Tổ dạy là, nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực
Lạc, mình không chịu nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, lại lấy cái lời
giải thích của các Ngài để làm thành lời nguyện của mình. Sai là sai chỗ này!
Tại sao không nguyện rằng: “Nam Mô A-Di-Đà
Phật, xin Phật cho con về Tây Phương”, gọn gàng đơn giản, hợp lý. Mà
lại nguyện: “Nam Mô A-Di-Đà Phật,
nếu cái thân bệnh của con mà hết thì cho con đi liền hôm nay cũng được. Nếu cái
thân bệnh này mà còn, thì cho con được khỏe mạnh”...
Trong lúc nguyện như vậy có
phải mình đang sợ cái bệnh mà mới nguyện như vậy không? Rồi khi bệnh xuống lại khóc.
Tại sao khóc? Tại sao con niệm Phật như thế này mà bệnh cũng không hết? Có phải
mình đang sợ cái bệnh không?
Cho nên khi đối diện tới một sự thật chúng
ta mới thấy rõ vấn đề. Khai triển ra mình thấy sai như thế nào rồi! Khi phát
hiện những chỗ này, nêu lên đây để chư vị chú ý cho kỹ. Trong rất nhiều những
bài viết, những lần tọa đàm, nhất là khi đi hộ niệm, xin chư vị có thể tham gia
ban hộ niệm và nghe cho kỹ những lời, gọi là lời hướng dẫn bệnh nhân… không bao
giờ Diệu Âm nói những lời như vậy!
- Bác ơi quyết lòng nguyện vãng
sanh nghe Bác, đi sớm ngày nào hay ngày đó nghe Bác… Không sợ! ... Nói rõ ràng:
- Ngày đêm niệm Phật, căn bệnh
này nó đến kệ nó nghe Bác, đừng sợ. Nếu mà Bác sợ bệnh, nhất định cái bệnh nó
sẽ bao vây lại, không cách nào thoát được. Đối với đời này khổ quá rồi! Bỏ
luôn, không sợ nữa. Cứ một lòng niệm Phật rồi nguyện vãng sanh. Đi hôm nay cũng
được. Khi nào A-Di-Đà Phật đến là đi liền. A-Di-Đà Phật hiện ra theo A-Di-Đà
Phật mà đi, rồi sau đó chúng con tới hộ niệm sau.
Rõ ràng những lời nói mình thấy đơn giản,
nhưng mà nhất định là chú tâm về nguyện vãng sanh. Chứ không phải là: “Bác
ơi! Bác niệm Phật rồi năn nỉ với Phật nếu mà mạng này còn thì hết bệnh để an
tâm niệm Phật, nếu mà mãn thì cho đi luôn”... Hoàn toàn hai ý nguyện này
khác nhau. Lấy lời giải thích của Tổ thành lời nguyện chính của mình, trong khi
nguyện chính là nguyện vãng sanh về Tây Phương mình lại không nguyện. Tu như
vậy sau cùng nhiều người đã mất phần vãng sanh. Nếu quý vị đã nghe tọa đàm về
hộ niệm, chắc chắn Diệu Âm đã đưa ra những cái mẫu mực của những người đã tu
36, 37 năm trường, kiết thất không biết bao nhiêu lần, tất cả những khóa Phật
Thất Niệm Phật đều tham dự hết, nhưng sau cùng không được vãng sanh. Tại sao
vậy? Là tại vì không có người nhắc nhở cho những điều sơ suất này. Người niệm
Phật đã chìm đắm trong những lời nguyện sai lầm! Trong lúc nguyện vãng sanh thì
họ sợ chết, họ đã nghĩ tới cái bệnh. Họ nguyện là: “Con niệm Phật như vậy
quyết lòng xin Phật cho con được hết bệnh”.
Quý vị có nguyện như vậy không? Nhiều
người có trong đó. Xin thưa rằng, chuyện Nhân-Quả của mình A-Di-Đà Phật không nhúng tay
vào được. Tại vì có Nhân thì có Quả. Nhân ở đâu? Nhân trong vô lượng kiếp, nhân
trong lúc chúng ta mê mờ làm những điều sai trái. Bây giờ mình tu có giỏi cho
mấy, làm thiện nhiều cho mấy đi nữa thì cái nhân nó vẫn còn nguyên đó. Nhân lành
thì hưởng quả lành, nhân ác thì bị quả ác. Nhân lành mà muốn hưởng quả lành thì
cái tâm của ta phải duyên tới cái nhân lành đó, để cho cái nhân lành nó nở ra
cái quả cho chúng ta hưởng. Trong lúc chúng ta tu là tạo nhân lành, nhân lành
thì sẽ hưởng quả lành, nhưng cái tâm chúng ta lại sợ bệnh, tức là nó duyên tới
những cái nhân bệnh, thì cái nhân bệnh nó sẽ hiện ra. Nếu một người giác ngộ,
thì khi cái bệnh hiện tiền, chính đây là một bài pháp sống thực, giúp ta vẫn
vui vẻ, thoải mái.
Nếu quý vị nghe, xem những băng đĩa Diệu
Âm hộ niệm cho người ta. Người ta bệnh… người ta sắp chết... nhưng mình tới vẫn
bắt tay, cười hè hè:
“Như vậy là Bác sướng, Bác được
về trước tôi. Không sao! Bây giờ cái bệnh nó đau, nó càng đau chứng tỏ rằng
mình sắp đi về Tây Phương rồi. Vui vẻ lên, sẵn sàng trả nghiệp đi, không sợ gì
cả. Một lòng niệm Phật, càng đau càng niệm Phật, trông cho nó đau nhiều hơn nữa
đi...”.
Chứ tôi không bao giờ nói rằng:
“Bác ơi! Bác niệm Phật... niệm
Phật cho nó hết đau nghe Bác”.
Mình nói niệm Phật cho hết đau tức là gợi
ý để người ta nghĩ đến chuyện đau đó, nhất định cơn đau này nó sẽ càng ngày
càng tăng lên. Nó mới tăng có một nửa mà người ta cứ tưởng nó tăng đến một trăm
lần! Cái tâm người ta đã chìm đắm trong cái nghiệp đó, chìm đắm trong cơn đau
đó, nhất định người ta không còn cách nào thoát được cái ách nạn của bệnh khổ!
Trong khi đó, xin thưa thật, chính phụ thân của Diệu Âm, là ông già của Diệu
Âm, từ khi bệnh cho đến lúc vãng sanh, ông không bao giờ vô trong bệnh viện, mà
nhiều khi mình muốn đưa ông vào bệnh viện, mình cảm thấy sợ ông bị đau, nhưng
ông không vô là không vô. Cái lực của ông mạnh như vậy đó. Từ một người bình
thường không có tu, khi biết tu rồi thì nhất định không đi. Trước những giờ
phút tắt hơi, mười một ngày bí tiểu. Mình mà bí tiểu một ngày thôi, mình sẽ la
làng la xóm! Ông ta bí tiểu mười một ngày?... Không cần. Ông nói bí tiểu thì đi
về Tây Phương luôn. Thế mà mười một ngày ông ta vẫn cười hè hè trong tình trạng
đó để ra đi. Cái năng lực này xin thưa thật, nếu mà ông cụ đó nguyện rằng: “Nam
Mô A-Di-Đà Phật, xin cho con hết bệnh để con niệm Phật” thì nhất định ông có thể bị đau lăn lộn từ trên giường xuống dưới
giường và ông ta không thể nào an nhiên tự tại ra đi tại nhà, mà phải ra đi
trong bệnh viện! Quý vị nghĩ thử, trong bệnh viện làm sao có thể hộ niệm
được?...
Chính vì vậy mà bắt đầu từ hôm nay, sẵn
trong dịp này, Diệu Âm sẽ cố gắng khai triển ra những điều sơ suất rất là phổ
thông để chúng ta tránh. Nếu không tránh được thì coi chừng tu như thế này gọi
là KHẾ LÝ, nhưng áp dụng thì không KHẾ CƠ, không hợp! Không hợp thì chúng ta có
thể tự rước lấy những ách nạn, chứ đừng nghĩ rằng chúng ta niệm Phật nhiều như
vậy là chắc chắn sẽ được vãng sanh, còn những người kia không niệm Phật thì
không được. Coi chừng những người không niệm Phật đó, nhưng mà nhờ thiện căn
phước đức của họ, đến giờ phút cuối cùng lại gặp những người tới khai thị. Được
khai thị, họ phát lòng tin vững vàng, nói đâu nghe đó. Nói một nghe một, nói
hai nghe hai, nói một làm một, nói hai làm hai, người ta vãng sanh. Còn mình
thì tu nhiều quá(!), nhưng nói một không chịu làm, tưởng những điều này là đơn
giản! Đứng trước bệnh nhân khai thị, tưởng là những lời này đơn giản! Đơn giản
mà coi chừng mình thực hiện sai! Mình đi sai đường!...
Mong cho chư
vị quyết tâm nhất định đừng bao giờ để một cái gì sơ suất, ta sẽ vãng sanh về
Tây Phương Cực Lạc.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ
- KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 5)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Nhân tiện trong những giờ nói về tu hành
cần phải “Khế Lý - Khế Cơ”, Diệu Âm xin nêu ra một vài điều sơ suất rất tế vi
trong pháp tu niệm Phật mà kinh nghiệm đã gặp qua, từ sự sơ suất đó mà nhiều
người đã không được vãng sanh một cách hết sức đáng tiếc! Nói đáng tiếc có
nghĩa là đúng ra họ được vãng sanh, nhưng chỉ vì một sơ suất nhỏ, chú ý lắm mới
thấy, không chú ý không thấy, nên cứ tưởng là đúng, nhưng sau cùng thì kết quả
thực sự là hơi buồn!...
Hôm qua chúng ta có nhắc đến lời nguyện
vãng sanh, là chúng ta phải đơn giản, gọn gàng:
- Nam Mô A-Di-Đà Phật con
nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
- Con thèm vãng sanh về Tây
Phương Cực Lạc.
- Xin Phật cho con về Tây
Phương Cực Lạc.
- Con muốn vãng sanh về Tây
Phương Cực Lạc.
Nói sao nói, mình nói gọn như vậy cũng
được, nhất là trước những giờ phút lâm chung xin đừng có nên dài dòng cái đuôi
phía sau, nhiều khi chính cái đuôi đó nó lộ ra một cái gì sơ suất chính trong
tâm chúng ta. Ví dụ như hôm qua, mình có nói một người đã nguyện: “Nam Mô
A-Di-Đà Phật, nếu mà con số phần đã hết thì cho con vãng sanh liền, nếu mà số
phần con chưa hết thì xin cho con hết bịnh để con tiếp tục tu hành...”. Nghe qua thì thấy không có cái gì sai
hết, tại vì người ta vẫn nguyện vãng sanh, nhưng thực ra cái tâm nguyện này là
tâm nguyện sợ bịnh, mà nhiều khi còn sợ chết nữa trong đó! Thực ra thì chính
những lời này là lời mà chư Tổ dùng để dặn dò những người không biết pháp môn
niệm Phật. Ngài dặn như vậy để cho mình an tâm quyết lòng nguyện vãng sanh,
mình vô tình lại bỏ lời nguyện vãng sanh mà đem cái lời giải thích của các Ngài
thành lời nguyện, nên sức nguyện của mình không đủ mạnh, thành ra không có cảm
ứng, không có tương ưng với đại nguyện, và sau cùng có thể mất phần vãng sanh
một cách oan uổng!
Hôm nay, mình nói thêm một chút nữa về
những điều tế vi trong lời nguyện. Có nhiều người khi bịnh xuống rồi thì phát
nguyện như thế này:
- Nam Mô A-Di-Đà Phật, một đời
con làm thiện làm lành, con quyết đi về Tây Phương để cứu độ chúng sanh. Hôm
nay con bịnh quá cho nên niệm Phật không được, nguyện Phật thương tình cho con
hết bịnh để con niệm Phật để về Tây Phương. Khi con hết bịnh rồi con phát
nguyện con sẽ làm tất cả những việc thiện lành khác để giúp đỡ cho chúng sanh,
còn ngày nào con làm việc thiện lành ngày đó.
Đại khái như vậy... Lời nguyện này nếu
những người không hiểu đạo, nghe qua người ta thấy vĩ đại lắm. Nhưng thực ra
lời nguyện này cũng đi lệch với pháp tu rồi. Tại vì chư Tổ thường hay dặn chúng
ta: Nguyện là nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, không được nguyện hết
bịnh. Các Ngài khuyến tấn chúng ta rõ rệt là cái thân bịnh này nhất định
nó có định kỳ rồi. Nếu ta là một vị ở trên Tây Phương Cực Lạc giáng sanh xuống
đây, tái lai xuống đây để làm đạo, chúng ta cũng giả đò bịnh, giả đò sao đó
cũng được, thì các Ngài muốn nguyện sao nguyện, và các Ngài muốn đi thì đi,
muốn về thì về. Thực ra nhiều khi các Ngài không cần nguyện nữa là khác. Các
Ngài giáng sinh xuống đây thấy một chúng sanh khổ, các Ngài cứ lăn xả vào làm
việc giúp đỡ chúng sanh, các Ngài không niệm Phật nữa, vì các Ngài là người đã
ở trên cõi Tây Phương thị hiện xuống đó thôi. Còn chúng ta là một người hạ căn
phàm phu, thì nghiệp chướng nhiều đời nhiều kiếp nó đã đúc kết đến đời này rồi.
Cái thọ mạng này thực ra là để trả nghiệp. Mình sinh ra mình phải trả nghiệp 70 năm, nhất định
cầu trước một năm, tức là 69 năm không được, tại
vì mình phải trả cho đủ 70 năm. Khi thọ mạng
đến rồi, trong khi phước báu của mình nhiều quá, mình cầu thêm nửa tháng nữa để
hưởng cũng không được.
Thực sự như vậy. Đây là lời Tổ dạy, cho nên xin chư vị, chúng ta
hãy an tâm về vấn đề sanh tử. Tại vì khi đi hộ niệm mình mới thấy rõ rệt điều
này, có những người ngày đêm cầu chết: “Con đau quá rồi, cầu Phật, cầu trời, cầu
miễu gì đó cho con chết”. Họ cầu chết từng ngày, từng giờ thế mà
không chết. Ở tại quê của Diệu Âm có một bà Cụ, 99 tuổi, bà thèm chết đến
nỗi bà làm một cái quan tài để tại đầu hè, bà trải chiếu trong cái quan tài và
bà nằm trong cái quan tài đó để cho chết. Khi bịnh không ai dám tắm nước, còn
bà thì khi bịnh bà lấy nước xối ướt hết áo quần, rồi đến nằm trong cái quan tài
đó cho chết, thế mà không chết. Bà thọ trên 100
tuổi, không chết là không chết, không kiêng không cử gì hết, mà cứ nằm... nằm
trong quan tài rồi đậy cái nắp lại một nửa, để ló cái lỗ chui vô vậy thôi.
Trông chết mà không chết. Tại vì cái thọ mạng người ta nó có định rồi, không
mắc mớ gì mà mình sợ hết.
Khi bịnh xuống, lời nguyện của mình nó xác
định cái tâm nguyện vãng sanh của mình. “Nam Mô A-Di-Đà Phật, con một đời làm thiện
làm lành, chắc chắn con muốn về Tây Phương với Phật, nhưng mà bây giờ đau quá
xin Phật thương con cho con hết bịnh để con niệm Phật”. Rõ ràng mình
đang nguyện hết bịnh. Chư Tổ dạy nếu mà mình nguyện hết bịnh thì cái bịnh của
mình không hết, nhưng nếu lúc đó cái thọ mạng của mình hết thì vì lời nguyện
hết bịnh, bắt buộc mình phải trôi theo thân bịnh này mà tiếp tục thọ sanh trong
lục đạo luân hồi, không biết là cảnh giới nào. Nếu mình nguyện vãng sanh về Tây
Phương Cực Lạc một cách tha thiết, nếu cái thân mạng này hết hạn thì nhờ lời
nguyện này mà cảm ứng với 48 đại nguyện của đức A-Di-Đà Phật, mình được vãng
sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nếu cái thọ mạng của mình chưa hết, có nghĩa là ba
tháng nữa, năm tháng nữa, một năm nữa... thọ mạng mới hết, thì nhờ cái lòng tha
thiết có đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh tự nhiên được chư Bồ-Tát gia trì, được thần lực
của A-Di-Đà Phật gia trì, vì đây là một hành giả đã đủ Tín-Nguyện-Hạnh để đi về
Tây Phương, thì tự nhiên cơn bịnh sẽ giảm, nó giảm một cách rõ rệt. Có rất
nhiều người, Diệu Âm nói rõ ràng là rất nhiều người, đã có hiện tượng này. Lạ
lắm! Có nhiều người đã hết bịnh một năm rồi ra đi, có nhiều người hai năm, có
nhiều người ba năm, có nhiều người đến nay hiện tại bây giờ là gần sáu năm rồi,
từ một bịnh ung thư chuẩn bị chết mà không chết. Có nhiều người bác sĩ đã khám,
có ung thư khắp người, như vậy mà niệm Phật tự nhiên cũng khoảng mấy tháng sau
thì thực sự không còn ung thư nữa. Lạ lắm chư vị!
Những điều này nói ra đối với khoa học
người ta không tin, nhưng Diệu Âm tha thiết nói với chư vị, hãy tin đi, vững
vàng tin đi, chắc chắn. Ví dụ như hồi chiều này có khoe mấy tấm hình cho anh
Thiện Bình coi, tôi chỉ cho Thiện Bình về cô bác sĩ Vân Hương ở bên Đức, chính
người thân của chị là người bị ung thư chuẩn bị chết. Chị là một người bác sĩ
trị bệnh ung thư nhưng đành phải bó tay! Nhờ khuyên cô đó niệm Phật, quyết lòng
buông xả, không cần gì nữa hết, niệm Phật bảy tháng sau thì tự nhiên bịnh ung
thư không còn nữa. Lạ lùng! Hiện tại bây giờ vị đó vẫn còn sống và chính Diệu
Âm có gặp trực tiếp được người bịnh đó. Quý vị thấy lạ lùng chưa? Không thể nào
mà mình tưởng tượng ra được!
Cho nên khi bịnh xuống mà mình nguyện cầu
cho hết bịnh, với lời nguyện này mình tưởng rằng mình tha thiết đi về Tây
Phương, nhưng thực ra nó đã dấu cái tâm sợ chết trong đó. Hay nói rõ hơn, mình
giả đò nguyện vãng sanh, chứ thực ra mình sợ chết. Chư Tổ nói, đã sợ chết thì
nhất định không thể vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Những người có phước báu, những người có
tiền bạc thường là người sợ chết. Còn những người khổ khổ một chút, người ta
thấy đời này quá khổ, nên không tha thiết nữa. Vì không tha thiết nữa, nên
trước những cơn đau họ thèm vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Sự thèm muốn vãng
sanh về Tây Phương Cực Lạc, sự nguyện cầu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc quá
mạnh, nó mạnh đến nỗi mà họ quên mất cái đau luôn...
Hôm qua chúng tôi nêu ra một trường hợp
như chính phụ thân của Diệu Âm. Là một người bị bịnh, hai vị bác sĩ đứng nhìn
thấy một hiện tượng lạ mà phải ngỡ ngàng! Những hiện tượng này nếu ở trong bệnh
viện, họ phải chích cái thuốc giảm đau cực mạnh, nếu không thì ông Cụ đau đớn
phải lăn lộn từ trên giường lăn xuống đất. Thế mà ông Cụ cười hè hè. Mà đặc
biệt nữa, là ông Cụ quyết định không chịu đi vào bệnh viện. Không chịu đi! Nói
đi về Tây Phương thì đi chứ đi nhà thương thì không đi. Ông Cụ cười hè hè cho
đến khoảng chừng mười, mười lăm phút trước khi ra đi là hết cười nữa rồi, rồi
ra đi.
Quý vị hãy coi cái phim của bà Nguyễn Thị
Cúc ở Gia-Lai, tám năm nằm trên giường bệnh, hộ niệm mười ngày tỉnh dậy, tỉnh
dậy rồi nhưng ngồi dậy không được mà nằm trên giường, chắp tay bái: “A-Di-Đà
Phật cho con về Tây Phương”. Bà tha thiết đi về Tây Phương. “Nam Mô
A-Di-Đà Phật cho con về Tây Phương”. Chỉ vậy mà thôi, bà Cụ đã biết được
giờ vãng sanh. Vì sao vậy? Vì trong những giờ phút trước khi xả bỏ báo thân cái
tâm nguyện của Cụ quá mạnh, nó mạnh đến nỗi cảm ứng đến 48 lời nguyện của đức
A-Di-Đà mà được vãng sanh. Quý vị coi bà Phan Thị Diệu Anh, người ta xúi giục
bà, người ta củng cố tinh thần bà, khuyến tấn bà đến nỗi trước giờ chết bà nói,
“Bây giờ tôi mừng quá rồi, tôi muốn nhảy, tôi nhảy múa”. Có nhảy được
không? Nhảy mà mấy người chung quanh sợ bà té. Nhờ nỗi vui mừng đó, cộng thêm
sự thèm muốn đi về Tây Phương, quyết đi về Tây Phương, bà quên hết tất cả, cơn
đau cũng quên luôn, không còn nữa. Nói về tâm lý cũng đúng, mà nói Phật lực gia
trì thì thật sự là có. Không phải dễ!...
Còn trước những giờ phút đó mà ta nói “Nam Mô A-Di-Đà Phật, con tu nhiều quá rồi,
sao Phật không cho con hết bịnh để con niệm Phật cho nhất tâm để con về Tây
Phương...” Đó là cái tâm sợ chết! Đó là lời nguyện sợ bịnh! Nguyện hết bịnh
thành ra mất phần vãng sanh. Có rất nhiều cuộn phim vãng sanh, quý vị coi lại
những phim vãng sanh rồi, thấy đó mình mới hiểu rằng, được vãng sanh hay không
đều nằm trong giây phút này.
Chúng ta nói ở đây là trong lúc chúng ta
còn tỉnh táo chứ không phải nói trong lúc chúng ta lâm chung. Nếu không chuẩn
bị ngay bây giờ, chưa chắc gì khi lâm chung tinh thần của chúng ta mạnh bằng
những người đó. Trong khi những người đó lại tu ít hơn ta, mà người ta thì có
tinh thần mạnh hơn ta. Tại sao ta lại thua họ?
Không chịu vững mạnh ngay từ bây giờ, cứ
chờ đến giờ phút lâm chung tưởng rằng ta ngon hơn sao? Nhưng mà coi chừng tinh
thần chúng ta hình như yếu hơn đó. Vì yếu hơn nên oan gia trái chủ cũng có
những đòn thế dành cho những người tu hành với tâm không vững!... Sau cùng
vướng nạn là tại vì vậy.
Mong tất cả chư vị quyết lòng nguyện vãng
sanh. Rõ ràng! Minh bạch! Đừng ngại, đừng ngùng gì nữa cả, chắc chắn chúng ta
được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 6)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Chúng ta đang triển khai vấn đề “Khế
Lý - Khế Cơ”, trong đó:
“Khế Lý” tức là chúng ta tu đúng theo lời Phật dạy, “Khế Cơ” là tùy sức, tùy
căn mà áp dụng những lời nào chính xác cho căn cơ của chúng ta.
Khế Lý hoàn toàn không phải là ta nói cho
hay, ta luận cho giỏi, ta nói những điều cao siêu huyền diệu. Hoàn toàn không
phải như vậy! Thường thường những người thích nói điều cao siêu huyền diệu, hầu
hết sau cùng không được phần vãng sanh nếu là người niệm Phật. Còn tu pháp môn
khác mà thích nói cao siêu quá, sau cùng cũng khó thành tựu!
Khế Lý tức là đúng kinh Phật. Tuy nhiên
kinh Phật nói có lúc thật là cao, cũng có lúc ứng dụng trong những hàng phàm
phu tục tử chúng ta. Nên lựa những lời các Ngài chỉ cho hàng phàm phu tục tử
chúng ta, rồi ứng dụng mà tu thì gọi là Khế Cơ.
Trong pháp niệm Phật của chúng ta, nhất
định tâm tâm nguyện nguyện là làm sao trong một đời này vãng sanh về Tây Phương
Cực Lạc. Nếu niệm Phật mà không nghĩ tới cái chuyện vãng sanh về Tây Phương Cực
Lạc, là không Khế Lý mà cũng không Khế Cơ luôn! Tức là đi lạc đường, dù hình
thức có hay cách nào đi nữa, sau cùng cũng bị uổng thời gian công phu tu tập!
Ngày hôm qua chúng ta đang nói đến chỗ một
người có cái tâm định vào Tây Phương Cực Lạc, định vào câu A-Di-Đà Phật thì mọi
chuyện xảy ra với họ, họ tự nhiên thoải mái, họ không bị phân vân, chao đảo,
thối chuyển. Thường thường điều làm cho chúng ta thối chuyển nhiều nhất là
những cơn bịnh đến với chúng ta. Có nhiều người trong lúc khỏe mạnh tu hành tưởng
là mình hay lắm, nhưng khi một chút thử thách đến, ví dụ như căn bệnh đến thì
tự nhiên tinh thần của họ sụp đổ, và ý chí của họ hình như tan biến. Lúc đó ta
mới thấy rõ rệt là chính cái tâm mình quá yếu rồi, không còn đủ nữa. Vì vậy, có
nhiều người trước những cơn bịnh, họ cười vui vẻ thoải mái. Có những người khi
mà cơn bịnh xảy ra thì tự nhiên tinh thần của họ đã bay ngõ nào mất hết, và cái
định của họ nó cũng bay ngõ nào mất tiêu. Họ không còn tự tại nữa!... Đây là
điều chúng ta nhắc nhở ngày hôm qua.
Trong kinh Bảo-Vương-Tam-Muội có nói,
người học Phật đừng bao giờ cầu cho thân thể này không bịnh, vì những người
thân thể không bịnh thường thường không tu được. Chính vì thế, khi mà bịnh đến
với chúng ta, xin chư vị nếu đã biết đạo, biết đường về Tây Phương rồi, thì một
căn bịnh đến giống như là một ân huệ giúp cho chúng ta được một chuyến đò để về
Tây Phương Cực Lạc. Nếu chúng ta không chịu ngộ ra đường đạo, thì một cơn bịnh
đến tự nhiên có điều cản trở, làm cho tâm thối chuyển, hoang mang, lo sợ...
Hôm nay chúng ta nói tiếp một chút xíu nữa
về những sơ suất của người học đạo, mà thường thường những cái sơ suất căn bản
này làm cho chúng ta mất phần vãng sanh. Hẳn nhiên, xin nói cho rõ ra, là không
phải sơ suất ở trong lý đạo cao siêu, mà chính là sơ suất ở những chỗ căn bản,
gần gũi nhất, chứ không đâu xa lạ cả.
Vãng sanh về Tây Phương, nên nhớ rõ, là do
quyền lợi của chính mình và được đức từ phụ A-Di-Đà thương xót chúng sanh, do
lòng đại từ đại bi của Ngài tiếp dẫn mình về Tây Phương để một đời khi mình xả
báo thân này, thay vì mình phải chịu đọa lạc trong những cảnh khổ sở đau đớn
qua nhiều kiếp, kiếp này qua kiếp nọ, gọi là “Lũy kiếp nan xuất, thống bất khả ngôn”. Như vậy thì khi vãng sanh về Tây
Phương chính là cái quyền lợi của mình, chứ không phải là quyền lợi của Phật.
Ấy thế mà có nhiều người tu hành lại nghĩ
ngược lại, là khi ta vãng sanh về Tây Phương là do quyền lợi của Phật. Vì quyền
lợi của Phật cho nên ta nguyện vãng sanh về Tây Phương. Chính vì vậy mới sinh
ra những lời nguyện sai lầm, để dẫn tới chỗ sau cùng mất phần vãng sanh. Thường
thường những người này họ nguyện như thế nào? Cứ... “Nam Mô A-Di-Đà Phật, Phật cho con về Tây Phương. Nhưng dù sao đi
nữa Phật cũng cho con hết bịnh, dù sao đi nữa cũng cho con làm cho hết
việc này, làm cho hết cái việc kia… rồi con mới đi”.
Thường thường người ta đặt điều kiện như
vậy, nhiều lắm! Vì những lầm lẫn nho nhỏ này mà làm con đường đi về Tây Phương
của họ bị đoạn mất. Rất nhiều chứ không phải là không có. Khi đi hộ niệm sẽ
thấy những trường hợp này. Những người nghèo người ta không nguyện như vậy, mà
thường nguyện rằng, “Nam Mô A-Di-Đà Phật, xin Phật cho con về Tây
Phương, về lúc nào cũng được, con không sợ gì cả, con quyết lòng về Tây Phương,
nguyện thành Phật độ chúng sanh”.
Tại vì họ khổ quá rồi! Họ không muốn ở đây
nữa. Nhưng một người sống sướng một chút, thì thường thường họ nguyện như vầy: “Nam
Mô A-Di-Đà Phật, trong một đời của con, con đâu có làm điều gì sai. Tại sao con
lại bị bịnh? Nam Mô A-Di-Đà Phật, con cũng bố thí, cũng cúng dường, cũng xây
chùa, cũng cất miễu, cũng làm cầu... nhiều lắm, tại sao Phật lại bất công...
không chịu giúp cho con khỏe mạnh, an khang? Bất công quá!”.
Trong lúc tu hành họ có cái tâm trách móc.
Mà thực ra, rõ rệt là những căn bịnh này, những sự khổ ách này, nhất định là do
chính mình gây ra, chứ không phải là người khác. Chắc chắn. Nếu đời này mình có
làm việc đại thiện đại lành gì đi nữa, mà mình vẫn bị tai nạn, vẫn bị đau đớn,
vẫn chịu nhiều cảnh khổ là do trong tiền kiếp mình tạo ra cái nhân đó, nhất định
không cách nào từ chối được. Thế gian còn có câu, “Nhất ẩm nhất trát mạc phi tiền định”.
Một cái ăn, một cái uống, một cái gặp nhau trong đời này nhất định cũng do tiền
định, thì một cơn đau mà đến với chúng ta, một căn bịnh ngặt nghèo đến với
chúng ta, hoàn toàn là do chính chúng ta tạo ra. Vì thế, khi tu hành cần phải
cố gắng nhớ điều này, “Nhân
Duyên Quả Báo tơ hào không sai”!
Ba cái nó đi với nhau. Vì ưa nói gọn nên
thành ra Nhân-Quả. Chứ thật ra phải nói là: Nhân-Duyên-Quả. Chính nhờ
cái Duyên này mà ta mới thoát nạn đây. Duyên như thế nào? Nếu ta định vào trong
câu A-Di-Đà Phật, quyết lòng đi về Tây Phương thì ta cứ một lòng niệm Phật, một
lòng cầu về Tây Phương. Một cơn bịnh đến ta mừng ta vui, vì ta trả cái nghiệp
này trong ngày hôm nay thì ba tháng sau ta khỏi trả. Nếu ta trả căn bịnh ngặt
nghèo trong tháng này thì tháng sau ta khỏi trả. Ta trả tất cả những cái chuyện
đau đớn này thì lúc lâm chung ta khỏi đau đớn. Hiểu được vậy thì tự nhiên ta an
nhiên đón nhận căn bịnh.
Xin chú ý cho kỹ điểm này, là ta an nhiên
đón nhận căn bịnh của ta, chứ không phải ta cầu mong cho căn bịnh đến với ta.
Hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Xin nhớ kỹ, chứ không thì dễ hiểu lầm chỗ này
mà chúng ta lại có thể bị đại nạn. Có nhiều người sơ ý, khi tu hành thường phát
ra những lời nguyện hết sức sai lầm! Ví dụ: “Nam Mô A-Di-Đà Phật, con nguyện sẽ trả cho hết tất cả những nghiệp
chướng của con để con đi vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Con
quyết tâm giải cho hết mọi ách nạn để rồi con được thành tựu”.
Đây là lời nguyện hoàn toàn sai lầm đối
với một người niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ. Mà đúng ra nên nói rằng, ta an nhiên
tự tại đón nhận căn bịnh. Căn bịnh nó đến nhiều ta an nhiên nhiều. Tâm ta định
vào câu A-Di-Đà Phật. Xin nhớ, cái lực định này tự nó phá tan nghiệp chướng
ngay lúc đó hồi nào không hay. Chứng tỏ được rõ rệt rằng, có nhiều người đau
trên giường, các vị bác sĩ tới thăm, họ nghĩ rằng người này phải bị tê liệt,
bán thân bất toại, nằm dài trên giường, không nói được, không đi được... thế mà
họ đi ngờ ngờ vì tâm lực của họ nó quá mạnh. Cho nên mình phải nhớ,
không nên tạo cái duyên cho cái nghiệp nó nở ra.
Làm sao không tạo cái duyên cho cái nghiệp
khỏi nở ra?...
- Đừng sợ cái nghiệp,
- Đừng mong cái nghiệp,
- Đừng lo cái nghiệp,
- Đừng khổ vì cái nghiệp thì tự nhiên cái
nghiệp nó nằm đó, nó chờ trong tương lai một kiếp nào đó nó mới hiện ra.
Trong thời gian chờ đợi tương lai hiện ra,
thì ta đã được tương ứng với đại nguyện của đức A-Di-Đà Phật, đã về Tây Phương
Cực Lạc rồi. Khi về tới Tây Phương Cực Lạc ta trở thành Bồ-Tát Bất-Thối-Chuyển,
thần thông đạo lực, vô cùng nhiệm mầu, bao trùm pháp giới. Ta dùng cái thần
thông đạo lực đó vì chúng sanh chịu khổ mà xuống các quốc độ cứu độ chúng sanh.
Lúc đó ta trả nghiệp nhưng không phải là ta xuống dưới địa ngục để chịu hành
hình, mà ta trả nghiệp bằng cách dùng thần thông đạo lực và trí huệ của một vị
Bồ-Tát Bất-Thối đi cứu độ chúng sanh, giảng kinh thuyết đạo dẫn chúng sanh đi
về Tây Phương để mà trả nghiệp. Cách này hay vô cùng.
Chính vì thế, xin thưa, nghiệp nó đến với
chúng ta là do chúng ta mời nó. Còn nếu chúng ta cứ một lòng một dạ:
- Duyên với Tây Phương Cực Lạc.
- Nghĩ A-Di-Đà Phật.
- Nhớ A-Di-Đà Phật.
- Niệm A-Di-Đà Phật.
- Nguyện về Tây Phương với
A-Di-Đà Phật...
Thì tự nhiên cái nhân đi về Tây Phương đã
chín muồi trong tâm chúng ta, nhờ do sức nguyện làm thành cái Duyên để nảy nở
cho chúng ta cái Quả báo, Quả báo đi về Tây Phương thành đạo.
Chính vì vậy, khi mà mình biết được một
chút tu hành rồi, mong cho tất cả chư vị cố gắng bắt đầu từ hôm nay, tất cả những
căn bịnh nào đến, chúng ta hãy an nhiên tự tại lên, đừng sợ... Nhất định đời
này đã có vận hạn rồi, không sao cả. Khi cái tâm chúng ta buông ra thì tự nhiên
cái nghiệp nó cũng buông chúng ta ra, nó nằm im đó để cho chúng ta lấy cái Nhân
“A-Di-Đà Phật” để thành cái Quả “A-Di-Đà Phật”, gọi là “Niệm Phật Là Nhân, Thành
Phật Là Quả”.
Còn tất cả những nghiệp khác ta “Đới” nó.
Đới là đem về Tây Phương. Đem về Tây Phương ta dùng thần thông đạo lực, biết
hết trong vô lượng kiếp chúng ta làm gì, ta bắt đầu đi cứu độ chúng sanh để trả
nghiệp. Đây là con đường rất là vi diệu, tuyệt vời của những người niệm Phật
vãng sanh như chúng ta.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 7)
Nam Mô A-Di-Đà Phật
Tu hành cần phải “Khế Lý - Khế Cơ”. Người
phàm phu tục tử chúng ta, ráng cố gắng tránh những hiếu kỳ ngoài khả năng của
mình, để sau cùng mình khỏi bị vướng những cái bẫy hay những sơ suất đáng tiếc!
Trong pháp niệm Phật vãng sanh, hai điểm này rất là quan trọng.
- Thứ nhất là “Niềm Tin”.
Đừng nên nói, “Để khi lâm chung rồi tôi phát khởi tin cho nó vững, chứ bây
giờ đây chưa cần”! Không phải như vậy! Cho nên ráng chú ý xét soi coi mình
có thiếu niềm tin hay không? Nếu mà thiếu niềm tin vãng sanh, thiếu niềm tin về
Tây Phương Cực Lạc thì bây giờ chúng ta tu ba, bốn chục năm, một ngày niệm Phật
mười vạn tiếng, tức là một trăm ngàn câu A-Di-Đà Phật, sau cùng chúng ta cũng
không hưởng được phước phần giải thoát.
Nếu mà lời Nguyện Vãng Sanh
của chúng ta không vững, thì dầu cho có đến đạo tràng này tu suốt cả cuộc đời,
ngày nào cũng tu, một ngày chúng ta niệm một trăm ngàn tiếng Phật hiệu, thì đến
sau cùng cũng không hưởng được phước phần vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Đây là
điều mà chư Tổ thường cũng nhắc nhở như vậy đó.
Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư nói... “Niềm Tin
vững vàng, phát nguyện vãng sanh tha thiết, thì dẫu cho tán tâm niệm Phật, loạn
tâm niệm Phật cũng được vãng sanh”.
Xin chư vị nghe cho kỹ những lời của Tổ,
đừng nên hiếu kỳ tìm những lý luận xa vời cao siêu làm chi! Hãy nghe cho thật
kỹ những lời Tổ dạy. Ngài nói...
“Vãng sanh về Tây Phương được hay không là
nhờ TÍN và NGUYỆN”. Nghĩa là, phải tin tưởng cho vững và phải tha thiết nguyện vãng
sanh về Tây Phương. “Còn phẩm hạnh
ở trên cõi Tây Phương cao hay thấp là do niệm Phật sâu hay cạn”.
Câu này quan trọng lắm! Nhiều người tu mà
quên câu này nên sau cùng chúng ta mới thấy những chuyện xảy ra khá lạ lùng! Có
nhiều người tu rất nhiều mà không được vãng sanh, có lẽ là sơ ý chỗ này. Muốn
vãng sanh về Tây Phương cao phẩm hay hạ phẩm, thì chúng ta cũng phải về tới Tây
Phương trước đã, sau đó mới có thể nói cao phẩm hay thấp phẩm. Chứ nếu không về
được tới Tây Phương thì cao phẩm ở chỗ nào? Thấp phẩm ở chỗ nào? Yếu tố nào để
về được Tây Phương? Chính là Niềm Tin và sự Phát Nguyện…
Rõ ràng!
Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư nói, “Nếu không phát nguyện vãng sanh về Tây
Phương Cực Lạc, niềm tin yếu ớt, thì dẫu cho niệm Phật đến “Nhất tâm bất loạn”
cũng không được vãng sanh”. Ngài nói rõ rệt như vậy!
Ở đây có nhiều người thấy những tập sách
hướng dẫn một cách tu trì nào đó sao hay quá! Người ta định được ba năm vãng
sanh, hai năm vãng sanh, quyết được “Nhất tâm bất loạn”... thì liền muốn chạy
theo để được “Nhất tâm bất loạn”! Trong khi đó thì chính mình nguyện vãng sanh
không tha thiết. Điều này được chứng minh rõ rệt là khi vừa ngã bịnh xuống thì
tinh thần hình như mất hết! Nhìn vô thấy không còn một nét vui nào trên khuôn mặt
nữa! Từng giờ, từng phút lo âu!... Lo lắng không biết làm sao để chữa bịnh này?
Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư nói, nếu mà bạn niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn, mà
bạn không nhắm về Tây Phương, nhất định cũng không được vãng sanh về Tây Phương
Cực Lạc.
Ngài Trung-Phong Đại Sư nói, “Niệm Phật
mà không nguyện vãng sanh về Tây Phương, dẫu cho công hạnh có cao dày cho đến
đâu đi nữa cũng trở nên nên hư thiết”. Tất cả các vị Tổ đều nói như vậy.
Chính vì thế, khi quý vị quyết lòng đi về
Tây Phương để một đời này thành đạo, thì xin thưa thực, ở đây có A-Di-Đà Phật,
ảnh tượng của Ngài tại đây, lời thề của Ngài cũng tại đây, Ngài phóng quang
chiếu khắp tất cả mọi nơi để cứu độ từng người, từng người vãng sanh về Tây
Phương Cực Lạc. Về Tây Phương với Ngài chúng ta thành Phật. Ấy thế mà trong sự
tu hành, chúng ta không chịu tự kiểm điểm lấy, cứ chạy theo những cái lý hão
huyền xa vời! Với năng lực của một người phàm phu tục tử tội chướng sâu nặng
này, không chịu nắm lấy những cái hết sức căn bản, hết sức vững vàng, gọi là “Sự
tu vững vang” để đi về Tây Phương, mà cứ chạy theo cái “LÝ”, gọi là “Lý
nhiệm mầu!” mà quên mất “Sự
tu vững vàng”...
Chúng ta nên biết, là đức Thích-Ca-Mâu-Ni
Phật Ngài dạy có những cái “Lý nhiệm mầu”, tối nhiệm mầu. Ngài
nói cho ai? Đại Bồ-Tát tu trì. Bên cạnh đó, Ngài cũng nói những cái “Sự
tu hành” cụ thể, chắc chắn, vững vàng cho người chấp trì để thành tựu.
Người này là ai? Là hạng hạ căn phàm phu. Cho nên đối với pháp Phật, người
thượng căn thành tựu đạo quả?... Dư! Người hạ căn có thành tựu đạo quả
không?... Cũng dư luôn! Chính vì vậy mà pháp Phật được gọi là Pháp
Cứu Độ Nhất Thiết Chúng Sanh, không phải chỉ cứu độ hàng
thượng căn thượng cơ, còn bỏ rơi hàng phàm phu đâu. Chỉ vì hàng phàm phu chúng
ta không chịu xác định mình là phàm phu, cứ tưởng mình là hàng cao cơ nên sơ
suất đó thôi!...
Hôm trước Thượng Tọa Thích-Trí-Thoát đã
giảng câu hay quá. Ngài nói rằng, Càng tu chúng ta càng cúi mình xuống để
cho cái vạt áo của mình, vạt áo trước nó có thần thông, nó dài ra. Nó dài ra
như vậy, mỗi lần mình bước đi cái áo nó cứ đập, đập, đập vô trong chân của
mình, nó nhắc nhở cho mình đi phải chậm chậm, đi phải từ từ, để đi vững vàng.
Đừng quá vội mà vấp, mà té. Một lần mà vấp té rồi thì muôn đời muôn kiếp không
cách nào có thể gỡ được.
Thường thường những người tu hành hay bị
chướng nạn này, là không chịu cúi mình xuống, mà cứ ngửa lên nhìn trên mây xanh
để tìm đạo lý nhiệm mầu? Trong khi đó cái chân của mình cứ muốn bước đi cho
nhanh mà không để ý những cạm bẫy, những gai góc đang giăng giăng phía trước.
Một lần lỡ sa vào hố rồi, rơi xuống hố sâu thăm thẳm, lúc đó, nhìn lên bầu trời
cao những lý đạo nhiệm mầu đã tan biến vào hư vọng hết rồi! Rồi nhìn lại một
thực tế gì đây? Có phải chăng đang nằm dưới hố sâu đời đời kiếp kiếp, biết bao
giờ mới có thể ngóc đầu lên được?!
Thầy Trí-Thoát nói lên một câu nhắc nhở
chúng ta cần nên nhớ, nhất định phải khiêm nhường!...
Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư, thị hiện một đời của
Ngài cống cao ngã mạn. Ngài khinh thường câu A-Di-Đà Phật, Ngài coi đó không ra
gì hết. Nhưng khi Ngài ngã một cơn bịnh, cơn bịnh thập tử nhất sanh, Ngài tưởng
rằng Ngài phải chết trong cơn bịnh đó. Nhưng may mắn Ngài vượt qua được. Khi
Ngài vượt qua được rồi, Ngài nói rằng: “Ủa! Nếu trong lúc bịnh như
vậy, mà ta chết, thì ta đi đâu?”. Đặt lên một câu hỏi này, làm Ngài
giựt mình! Ngài tưởng rằng hồi giờ Ngài tu tốt, tu cao! Nhưng khi đau xuống,
những cơn đau quằn quại chịu không nổi! Lúc đó tâm thần tán loạn, không biết
đường nào mà đi! Ngài hỏi, trong lúc tán loạn như vậy, ta đi đâu? Ngài cầm
quyển kinh A-Di-Đà lên, Ngài ngộ ra liền con đường niệm Phật vãng sanh Tây
Phương Cực Lạc. Ngài quyết lòng buông xả, niệm Phật cầu vãng sanh. Ngài trở
thành vị Tổ thứ 9 của Tịnh-Độ-Tông Trung-Hoa.
Trong khi chúng ta là phàm phu tục tử, tội
chướng sâu nặng mà không tự liệu thân. Bịnh là do nghiệp, là do tội chướng mang
đến cho mình. Nó là của mình, nhất định không trước thì sau mình cũng phải
nhận. Nếu ngộ ra một chút đạo này, thì nhận trước khỏi nhận sau. Nếu ngộ ra một
chút đạo này, thì bịnh nó đến mình càng vui hơn nữa. Vì sao vậy? Vì nó nhắc nhở
cho mình biết mình là phàm phu tục tử, nó nhắc nhở cho mình nhất định
Tín-Hạnh-Nguyện không thể nào ly ra được.
Cho nên:
- Càng bịnh càng nguyện vãng sanh về
Tây Phương Cực Lạc.
- Càng bịnh càng khiêm nhường.
- Càng bịnh càng phải ngày ngày
ráng cố gắng niệm Phật để tạo công đức hồi hướng cho oan gia trái chủ, hồi
hướng cho những cái nghiệp nhân mà mình đã tạo ra trong quá khứ.
Phải thành tâm làm hàng ngày, cứ
Tín-Nguyện-Hạnh, Tín-Nguyện-Hạnh như vậy mà đi. Nếu tín vững vàng, tin vào lời
Phật dạy. Phật dạy sao? Người nào tội chướng nặng cho mấy đi nữa mà bây giờ
quyết lòng sám hối... Làm sao sám hối? theo lời Hòa Thượng Tịnh-Không dạy đi, “Bất nhị quá”, đừng có làm như vậy nữa...
- Tôi ghét một người nào, nhất
định hôm nay tôi không ghét nữa.
- Tôi chửi một người nào, nhất
định từ nay tôi không chửi nữa.
- Tôi cống cao ngã mạn, nhất
định tôi không cống cao ngã mạn nữa.
- Tôi không làm ra những điều
sai nữa...
quyết định tự mình phải bỏ.
Nếu tự mình không bỏ, thì nhất định “Tín” mình không đúng. Mình không bỏ thế gian này xuống,
không chịu nguyện vãng sanh về Tây
Phương Cực Lạc, thì khi bịnh xuống, mình sợ! Sợ là phiền não!... Mình có đầy đủ
những thứ chướng nạn đó, thì nhất định cái cõi Ta-bà này nó sẽ trói mình lại.
Mình niệm Phật dù cho mười vạn tiếng, ngài Tịnh-Không nói, mười vạn tiếng là niệm 100.000 câu
A-Di-Đà Phật hàng ngày, Ngài nói cũng như không! Ngài Trung-Phong nói, không
nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, dẫu cho công hạnh cao cho mấy đi nữa
cũng trở nên “Hư Thiết”. “Hư”
là không; “Thiết” là cần thiết. “Hư
Thiết” là không thiết thực!... Rõ ràng.
Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư nói, nếu không chịu
tha thiết nguyện vãng sanh mà cứ nguyện những cái gì khác. Tu để kiếm chút
phước này, kiếm chút phước nọ... Niềm tin không đủ! Nói chung, hai cái điểm đầu
không đủ, thì dù cho quý vị có tu suốt cuộc đời cũng không được vãng sanh! Nên
nhớ như vậy...
Cho nên rõ rệt Tín-Hạnh-Nguyện là
điều căn bản để cho chúng ta vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải “Nhất Tâm Bất Loạn” mới được
vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nên nhớ, thời mạt pháp này chính trong kinh
Phật đã nói: “Ức
ức người tu hành, khó có một người nào có khả năng chứng
đắc”. Nhất tâm bất loạn
là cảnh giới chứng đắc, chứ không phải là một điều an khang nào đó trong lúc
nhiếp tâm niệm Phật. Vậy mà có rất nhiều người sơ ý, cẩu thả mong cầu chuyện
nhất tâm bất loạn!
Ngài cư sĩ Hạ-Liên-Cư nói, “Niệm Phật không cầu nhất tâm bất loạn,
mới được nhất tâm bất loạn”. Người nào cầu nhất tâm bất loạn, nhất
định tâm sẽ loạn. Loạn đến có thể bị tẩu hỏa nhập ma, vì đời này là đời mạt
pháp rồi!... Ngài Tịnh-Không nói, cư sĩ Hạ-Liên-Cư không phải là người bình
thường, thân phận dù chưa có thố lộ ra, nhưng Ngài nói, đây không phải là người
tầm thường?...
Nguyện mong cho chư vị nhớ những điểm này,
đã đến đạo tràng này thì quyết lòng phải đi, đi đúng đường, đi cho đến Tây
Phương Cực Lạc để thành đạo. Đây là điều mong ước của A-Di-Đà Phật đang chờ đợi
chúng ta thành đạo giải thoát, trên cõi Tây Phương Cực Lạc vậy.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 8)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Mỗi lần nổi lên một cơn bịnh, mình mới ngộ
ra rằng mình chính thị là phàm phu tục tử!
Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư bị một cơn bịnh thập
tử nhất sanh thì Ngài ngộ ra, Ngài lo niệm Phật và trở thành một đại Tổ Sư, còn
mình chính hiệu là phàm phu tục tử, bịnh rề rề, năm này cũng bịnh, năm kia cũng
bịnh, mình có quá nhiều dịp để ngộ rằng mình là phàm phu tục tử!
Vô thường đến bất kỳ lúc nào, không bao
giờ nó chờ đợi, không có hẹn được. Chính vì vậy mà khi mình biết được con đường
niệm Phật, mình biết trước cả khi mình bịnh nữa, tức là so ra mình hơn ngài
Ngẫu-Ích Đại Sư một chút. Ngài ngộ ra sau khi cơn bịnh, còn ta biết niệm Phật
trước khi cơn bịnh, vậy thì phải lo chuẩn bị.
Trong đường vãng sanh về Tây Phương Cực
Lạc, hôm trước mình có nói qua, cái điểm quan trọng nhất là “Niềm Tin”
và “Lời Phát Nguyện”. Nếu mà niềm
tin yếu thì ta phát nguyện không có tha thiết. Nếu ta không muốn đi về Tây
Phương thì thường thường ta sẽ có những sự phát nguyện lệch đi và sau cùng thì
mất phần vãng sanh. Xin đưa qua đây vài mẫu chuyện có thực...
Ví dụ như ở bên ngoài kia có cái phần hộ
niệm vãng sanh, quý vị coi đĩa Sư Bà Thích-Như-Định, Ngài là Sư Bà trụ trì một
Ni-Viện, nhưng mà khi Ngài bịnh, Ngài dặn dò các hàng đệ tử và Ngài viết thư
nhờ các Ngài khác đừng lo gì khi Ngài chết, mà phải giao cho các ban hộ niệm họ
hộ niệm. Họ hộ niệm xong rồi quý vị mới làm theo các nghi lễ. Thấy lạ lùng
không? Một Sư Bà mà khi ra đi lại giao cho các vị Phật tử, tôi nhớ không lầm,
chính chị Diệu Thường hộ niệm cho Sư Bà. Sư Bà ra đi bất khả tư nghì, thoại
tướng tốt không thể nào tưởng tượng. Trong khi đó thì cách đây cũng không lâu
cũng có một vị Ni, đã tuyên bố là nhất tâm bất loạn, định được ngày giờ ra đi
và có rất nhiều vị Tăng Ni, đông lắm tới hộ niệm. Nhưng mà sau cùng thì không
đi! Không đi được, mà sau đó thì những chướng nạn đến dồn dập!...
Trong những lời tọa đàm về hộ niệm trước
đây, chắc quý vị còn nhớ một câu chuyện, cũng là một vị Ni, khi bị bịnh rất nặng
và bác sĩ đã chịu thua. Vị này được một vị Đại Đức cùng với những ban hộ niệm,
ban hộ niệm đó Diệu Âm biết, những người đó họ khai thị tốt lắm. Vị Đại Đức
cũng quyết lòng hộ niệm cho vị Ni đó. Hộ niệm được mười sáu ngày thì tự nhiên
căn bịnh hết, không còn bịnh nữa và vị Ni đó công phu trở lại được, coi như
người bình thường. Sau khi có hiện tượng như vậy, thì vị Ni đó mới nói với Thầy
rằng, “Chắc là con nghiệp chướng còn,
nên Phật muốn con đem cái thân nghiệp chướng này để độ chúng sanh chăng?”.
Vị Ni đó đã đổi lời nguyện, (nghĩa là nguyện độ chúng sanh chứ không nguyện
vãng sanh nữa). Đổi lời nguyện xong thì khoảng mười ngày sau bị phát bịnh trở
lại. Thì cũng chính vị Đại Đức và ban hộ niệm đó đến hộ niệm, nhưng mà vị Ni
này ra đi không có một cái thoại tướng nào chứng tỏ rằng được vãng sanh Cực Lạc
cả, ngay cả cái thân thể mềm cũng không được luôn!
Tại sao lại như vậy?...
Tại vì lời nguyện. Lời nguyện không chính!
Lời nguyện không thẳng! Chúng ta tu hành, nhiều khi có những điều sơ suất, như
vọng tâm nổi lên, một sự ngã mạn hay một sơ ý nào đó nổi lên, nó có thể đưa
chúng ta đi lệch con đường vãng sanh về Tây Phương liền.
Ví dụ như hôm qua mình có nói vãng sanh về
Tây Phương Cực Lạc thứ nhất là do quyền lợi của chính mình. Trong vô lượng kiếp
qua mình bị đọa lạc trong sáu nẻo luân hồi, chắc chắn ở đó cũng có những cảnh
giới tam ác đạo trong đó mà mình không hay. Với tai nạn lớn như vậy mà bây giờ
gặp được câu A-Di-Đà Phật, nhờ đại nguyện của đức A-Di-Đà mà mình được về tới
Tây Phương, mà về tới Tây Phương thì ngay trong những lời nguyện đầu Ngài nói,
hễ về tới Tây Phương thì tất cả chư vị đều thành Bồ-Tát hết, thần thông đạo lực
nhiệm mầu. Như vậy cơ hội này là để cho chúng ta thoát nạn. Ấy thế mà chúng ta
sơ ý, cứ tưởng rằng là đi về bên Tây Phương là do quyền lợi của A-Di-Đà Phật...
Cho nên, có nhiều người than:
“A-Di-Đà Phật ơi! Con tu
hành tốt quá, con muốn về Tây Phương. Nhưng mà có gì có chứ Ngài cũng cho con
hết bịnh, Ngài phải làm cho con hết bịnh… Tức là đặt điều kiện với Ngài. Con
hết bịnh rồi thì con niệm Phật mới được chứ. Tại sao con niệm Ngài mà Ngài hổng
cho con hết bịnh”.
Rõ ràng đây là lời nguyện sai lầm!
Nhân-Quả của chúng ta chư Phật không có xen vào được. Trong kinh Vô-Lượng-Thọ,
Phật có nói là “Nghiệp nhân quả báo bất khả tư nghì”,
chư Phật không thể chen chân vào được, mà chính chúng ta phải giải quyết. Giải
quyết bằng cách nào? Nếu chúng ta bây giờ không nhớ A-Di-Đà Phật, không niệm
A-Di-Đà Phật, không nguyện về Tây Phương Cực Lạc thì nhất định chúng ta nhớ lục
đạo luân hồi. Nhớ lục đạo luân hồi thì “Duyên” với lục đạo luân hồi, nhất định
chúng ta bị kẹt lại. Niệm Phật là để vãng sanh, khi một cơn bịnh xảy ra mà mình
sợ chết. Sợ chết là gì? Thèm cái thân mạng. Thèm cái thân mạng này chứng tỏ là
quyến luyến cái thân mạng, tâm chúng ta quyến luyến cái nào nhất định đây là
cái “Duyên”, ta sẽ theo cái duyên đó để thọ những cái đại nạn trong lục đạo
luân hồi.
Cho nên, những người không hiểu đạo, nên
lúc lâm chung thường thường sợ chết. Vì sợ chết nên khi chết không bao giờ nhắm
mắt được, con mắt mở trao tráo ra. Tại sao vậy? Tại vì trong lúc ngộp ngộp
người ta sợ chết chứ có gì đâu, người ta ráng mở con mắt ra, hả cái miệng thiệt
to ra để thở, để cố kéo lại sự sống. Vì tha thiết cái mạng sống này nên bắt
buộc họ phải theo cái cục thịt này mà xuống dưới nấm mồ, rồi lang thang từ chỗ
này qua chỗ nọ, bám víu vào những gốc cây... Vô tình ngàn đời vạn kiếp chịu
khổ! Còn người niệm Phật lúc thấy ngóp ngóp, biết rằng sắp chết, họ quyết lòng
niệm A-Di-Đà Phật, quyết lòng đi về Tây Phương, họ mừng lên, họ vui lên, tự
nhiên những lúc đó họ mỉm cười. Họ mỉm cười ra đi, để về Tây Phương Cực Lạc.
Niềm tin tưởng của họ mạnh mẽ vô cùng! Sức nguyện của họ tha thiết vô cùng!
Trong những lúc đau đớn đó, có thể họ niệm Phật không vô, nhưng nhờ những vị
đồng tu hộ niệm, họ nghe lời niệm của người hộ niệm để niệm theo, dù là có thể
nghe mang máng, nhưng giúp cho tâm nguyện của họ quyết chí hơn để đi về Tây
Phương.
Phật dạy tất cả đều do tâm tạo. Tâm ở đâu?
Ở ngay cái ý muốn của mình đó. Chính vì vậy, khi chúng ta niệm Phật mà không
muốn về Tây Phương, thì dù cho mình tu có một trăm năm đi nữa, một ngày mình
niệm mười vạn câu Phật hiệu đi nữa, nhất định đây cũng chỉ là phước báu nhân
thiên, mà phước báu nhân thiên của những người niệm Phật lớn lắm. Nếu việc ác
không làm, việc thiện làm, mà còn niệm Phật nữa thì họ sẽ trở nên những người
giàu có, những người trong nhà vua chúa. Nếu biết đạo mình nên sợ chỗ này, vì
khi thuộc về hàng đó rồi, thì quyền lực quá mạnh, thế lực quá mạnh rồi, thường
thường không ai tu được cả, mà bên cạnh cái quyền lực đó, sinh sát ở trong tay,
tạo ra nghiệp trùng trùng để đời sau nữa phải chịu nạn nặng vô cùng! Đó gọi là
“Tam Thế Oán”: Một đời làm thiện, một đời hưởng quả phước báu, giàu có,
sau đó là đại nạn!
Chính vì vậy, mà cái cơ hội vãng sanh về
Tây Phương Cực Lạc này, xin chư vị nắm cho vững, đừng để sơ suất. Nếu sơ suất
thì mình đi vào con đường sai lạc, sau cùng không ai có thể cứu mình được nữa.
Cách đây cỡ chừng hai tuần chúng ta có đi hộ niệm cho mấy vị, gia đình đó ở
ngoài Inala. Tôi dặn dò rất kỹ. Nhưng có một lần tình cờ tôi đem cái máy bấm để
tới biếu cho bà Cụ, thì vì đi tới bất ngờ, khi bước vào nhà tôi thấy hai mẹ con
đang ngồi coi phim. Đang coi phim Đại Hàn... Tôi không nói một tiếng nào hết,
nhưng thứ bảy sau đó trong một buổi hộ niệm, tôi nói rất nhẹ nhàng nhưng mà rất
cương quyết:
“Nếu bác
không lo cái vận mệnh của bác, nếu bác không muốn về Tây Phương, mà ngồi ôm coi
cái phim này, tôi bắt gặp một lần nữa, nhất định, bây giờ bác có năn nỉ, tôi
cũng không đi hộ niệm. Tại vì có hộ niệm cho bác, chắc chắn bác cũng không được
vãng sanh”...
“Vì sao? Vì
rõ ràng là bác bị bịnh, đang chờ từng ngày để chết mà không lo cho chính cái
huệ mạng của bác, không lo cho bác thì Phật cứu cũng không được, làm sao tôi có
thể cứu?”. Tôi
nói rất là nhẹ nhàng. Tôi nói tiếp...
“Bác phải bỏ
hẳn từ ngày hôm nay, nếu để tôi bắt gặp một lần nữa, bây giờ bác có năn nỉ đi
nữa, tôi không đi hộ niệm là không đi hộ niệm, tại vì đi hộ niệm như vậy... Vô
ích!”.
Xin thưa với chư vị, không phải mình niệm
Phật này là niệm cho A-Di-Đà Phật, mà niệm cho mình và phải tương ứng cho đúng
với đại nguyện của Ngài. Tín-Hạnh-Nguyện phải cho đúng. Hạnh là lo niệm Phật
chứ không phải là ngồi coi phim, không phải hạnh là sợ này sợ nọ. Chỉ cần đi
đúng như vậy, đơn giản rõ ràng, người tội chướng nghiệp nặng này... chúng ta
vẫn được Ngài tiếp độ về Tây Phương để một đời thành tựu đạo quả.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 9)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Trong đề tài đang nêu ra, nhằm để chúng ta
tránh bớt những sơ suất về vấn đề “Khế Lý - Khế Cơ”. Tại vì mình sơ suất, nên thường có
những sự lầm lẫn có tính đáng tiếc để sau cùng bị trở ngại!
Nên nhớ, chúng ta toàn là người hạ căn hạ
cơ, mà hạ căn hạ cơ thì chuyện hộ niệm rất quan trọng. Hộ niệm chính là dành
cho những người không có khả năng chứng đắc, nói đúng theo danh từ của người
niệm Phật, tức là không có khả năng đạt đến cảnh giới “Nhất tâm bất loạn”. Chứ nếu chúng ta có thể đạt được
cảnh giới “Nhất tâm bất loạn”, thì không cần hộ niệm nữa. Nói rõ ra, pháp hộ
niệm chỉ dành cho những người rất dở, gọi là dở thậm tệ! Chúng ta xin tự nhận
là những người dở thậm tệ, nên phải chú ý đến điểm này.
Cách đây cũng mấy năm, có một người tới
nói với tôi như thế này:
- Bây giờ
chúng ta phải quyết lòng tu một thời gian, cho đến khi nào mình có năng lực đã.
Khi thấy có năng lực rồi thì tôi sẽ đi ra làm đạo, cứu người.
Nghe nói vậy thì tôi nói:
-Tốt! Rất là tốt! Có chí khí!
Nhưng mà trong tâm của tôi thì thầm nêu ra
câu hỏi:
- Ủa!... Chứ chừng nào anh mới có đủ năng lực
vậy?
Chỉ thầm nghĩ như vậy chứ không dám nói
ra. Khi tu hành mà tự nhận mình có năng lực, thì chưa biết cái năng lực đó đúng
hay sai? Chưa biết! Nhưng theo lời khai thị của các vị Tổ Sư, thì chúng ta đã
đi ngược lại với lời dạy của các Ngài rồi. Các Ngài luôn luôn dạy chúng ta càng
tu càng phải khiêm nhường, càng tu càng thấy mình còn phàm phu, tội chướng sâu
nặng. Mà càng thấy mình tội chướng sâu nặng rồi, thì làm sao dám đặt vấn đề là
đến một ngày nào đó tôi sẽ có năng lực!... Năng lực gì đây?
Cách đây cỡ chừng sáu năm, có một vị tu
rất tốt! Rất tinh tấn! Một ngày hành trì của vị này cỡ 16-17 tiếng đồng hồ niệm
Phật. Thật không phải dễ! Vị này đã tuyên bố mình chứng đắc và định được ngày
giờ vãng sanh, rồi đã thông báo cho nhiều người biết rằng A-Di-Đà Phật đã chính
thức thọ ký rồi. Vị này cũng lập ra một chương trình cho đại chúng tu học: Mười
ngày thì ngửi được hương thơm. Bốn tới năm tuần thì nghe được âm thanh niệm
Phật từ trong tâm phát ra. Khoảng một đến hai tháng, khoảng thời gian như vậy
thì thấy được ánh sáng, quang minh... Vị đó đã đưa ra một chương trình tu học
trong vòng ba năm nhất định được “Nhất tâm bất loạn”, chắc chắn được vãng sanh.
Vị đó tuyên bố rằng:
- Tôi sẽ lấy
chính cái năng lực của tôi, cái chứng đắc của tôi để chứng minh cho chư vị biết.
Sự việc có như vậy…
Đến ngày giờ đã định để vãng sanh, thì…
làm thinh? Không chịu vãng sanh! Vị đó ra tuyên bố rằng, A-Di-Đà Phật đã thông
báo cho tôi biết ngày đó Ngài bị bận... nên không tới tiếp dẫn được. Ngài hẹn
lại một tháng sau...
Thì một tháng sau nó cũng đến liền, rồi sự
việc cũng im lặng như tờ. Vị đó lại thông báo lại, nói rằng, tại vì trong thời
gian qua quý vị làm ồn ào quá, tôi báo cho chư vị biết mà chư vị đi nói lung
tung, nên A-Di-Đà Phật quở trách. Ngài phải dời lại cuộc vãng sanh hai tháng.
Rồi hai tháng nữa, sự việc cũng im lìm.
Người đó lại nói, tại vì có một chút chuyện, nên bây giờ Ngài lại dời thêm hai
tháng nữa. Chắc chắn?!...
Sự thực là đến bây giờ người đó vẫn còn
sống... mà kèm theo cái sống đó... trở ngại chập chùng!...
Xin thưa, đây là những chuyện có thực xin
nói lên để nhắc nhở cho nhau biết rằng, tu hành phải hết sức cẩn thận. Tại vì
“Nhất tâm bất loạn” là cái đỉnh lý tưởng chứng đắc của người niệm Phật. Chư Tổ
đều nói chúng ta cố gắng niệm Phật cho “Nhất tâm bất loạn”. Đó là cái mẫu
chung, nhắc nhở cho mình tinh tấn tu hành, chứ không phải các Ngài bắt buộc
mình phải nhất tâm bất loạn mới được vãng sanh. Nếu A-Di-Đà Phật đã phát ra một
lời thề, những người niệm Phật phải “Nhất tâm bất loạn” thì ta sẽ tiếp dẫn về
Tây Phương Cực Lạc, thì ta mới quyết lòng, chết sống gì đi nữa, muốn đi về Tây
Phương ta cũng phải niệm Phật cho “Nhất tâm bất loạn”. Còn ở đây Ngài không
nguyện như vậy. Ngài nguyện rằng, dẫu cho những người có nghiệp chướng sâu nặng
mà chỉ cần thành tâm sám hối, thành tâm cung kính niệm danh hiệu của Ngài với
Tín-Hạnh-Nguyện đầy đủ, tha thiết nguyện vãng sanh, thì dẫu cho trước khi xả bỏ
báo thân niệm được mười tiếng, Ngài sẽ tiếp độ về Tây Phương Cực Lạc.
Như vậy, lời nguyện của Ngài không có bắt
buộc chúng ta phải niệm cho đến “Nhất tâm bất loạn”. Nói như vậy, không có
nghĩa là chúng ta ngăn cản những người có khả năng niệm Phật “Nhất tâm bất
loạn”. Chỉ xin nhắc nhở cho chúng ta nên nhớ một điểm, “Nhất tâm bất loạn” là
một cảnh giới chứng đắc. Sự chứng đắc này không phải tầm thường, mà tương đương
với “Minh tâm kiến tánh, Kiến tánh thành Phật”, là những vị đã
vượt qua “Chấp Trước”, vượt qua “Phân Biệt”, có thể phá từng phẩm vô minh,
chứng từng phần pháp thân, gọi là “Phần Chứng Tức Phật”,
cảnh giới của những vị đại Bồ-Tát ở cõi Hoa-Nghiêm chứ không phải tầm thường.
Có nhiều người sơ ý, tự xưng này xưng nọ… và danh từ này trở thành món mồi quá
ngon cho những người hiếu kỳ, đưa họ đến chỗ vô cùng nguy hiểm!
Có một vị nữa, Diệu Âm xin kể những chuyện
có thực, nếu mà các vị đó nghe được những lời này thì cũng xin tha thứ cho Diệu
Âm. Diệu Âm lấy những chuyện có thực này để nhắc nhở cho chúng ta biết con
đường an toàn, để giúp nhau vãng sanh Tây Phương, giúp cho chúng sanh có duyên
tránh được những ách nạn, để họ thoát được những cảnh khổ của sự vô thường này,
(chứ không phải bươi móc chuyện cá nhân).
Vị đó tu rất tốt và tự xưng rằng đã đột
phá cảnh giới Hoa-Nghiêm rồi. Vị đó có một năng lực đặc biệt làm cho nhiều vị
khác phải phủ phục tôn làm sư phụ. Đó là sự thật! Vị đó có một cái... hình như
giống như là Thiên-nhĩ thông vậy. Có một lần vị đó ở cách đây trên một trăm cây
số mà nghe được tiếng của Diệu Âm này mỗi sáng tụng kinh. Quý vị tưởng tượng
đi, trên một trăm cây số, gần một trăm năm chục cây số mà nghe được. Có một lần
vị đó trở về Brisbane, tới thăm Diệu Âm và nói rằng:
- Tôi mỗi
sáng đều nghe tiếng anh tụng kinh, nhưng tuần qua tôi không nghe tiếng anh tụng
kinh nữa. Tôi vào trong định để quán thì thấy hào quang của anh phóng tới và
trong hào quang đó tôi biết anh bị bịnh. Cho nên hôm nay tôi về tôi thăm anh.
Rõ ràng, đúng là tuần qua chính Diệu Âm
này bị bịnh. Nếu lúc đó mà Diệu Âm cũng có chút hiếu kỳ, cũng tham chứng đắc,
thì có lẽ đã quỳ xuống bái làm sư phụ. Nhưng khi nghe “Ngài” đó nói như vậy thì
giựt mình! Vì chính mình hiểu mình rõ hơn ai hết. Rõ ràng mình là một phàm phu
tục tử, bịnh lên bịnh xuống, nhức đầu muốn chết luôn, làm gì mà mình có quang
minh? Rõ rệt không? Làm gì mà mình có quang minh?... Diệu Âm mới nói:
- “Bây giờ
tới đây, mình ở gần Hòa Thượng Tịnh-Không, là một vị cao tăng đức độ. Tại sao
mình không đem điều chứng đắc gì của mình đó trình với Ngài, bạch với Ngài, xin
Ngài một lời khuyên và nhờ Ngài giảng trạch cho...”.
Thì vị đó hình như không bằng lòng mấy!
Nói rằng, Hòa Thượng Tịnh-Không đang giảng kinh Hoa-Nghiêm, nhưng mà Ngài có
một cái kẹt nào đó nên chưa khai kinh được! Chắc có lẽ đây là cái duyên cho tôi
đến để khai kinh cho Ngài chăng?!!!...
Quý vị tưởng tượng đi? Thì sau đó có một
dịp vị đó tới gặp Hòa Thượng… mới gặp có năm phút, Hòa Thượng đã mời ra khỏi
đạo tràng. Ngài nhất định không thay đổi ý kiến.
Xin thưa với chư vị, mình nói đây không
nên nêu tên nêu tuổi, nhưng mà thực ra thì có rất nhiều người đã lầm lẫn! Lầm
lẫn giữa “Lý” và “Sự”. Lầm lẫn giữa “Lý
đạo nhiệm mầu của Phật” và “Căn cơ thực chất của
mình”.
Chỉ vì tâm của mình chưa có định lực, nên thường hay háo kỳ. Chính vì cái háo
kỳ đó mới nảy sinh ra những vọng tưởng. Cái vọng tưởng đó nếu không có người
khai giải thì nó càng ngày càng trưởng dưỡng, càng phát triển, đến một lúc nó
phát triển ngoài cái tầm kiểm soát của chính mình, đưa đến chỗ là cái vọng tưởng
đó chi phối tâm trí mình luôn. Không phải là chuyện dễ đâu!...
Có những người khi tu hành niệm Phật như
thế này, năm này qua năm khác, sao thấy mình không được chứng đắc gì cả? Cái
tâm của mình sao vẫn còn lộn xộn! Mà sao vị kia nêu lên một cách hành trì khác
chỉ cần một tuần, hai tuần thì tâm hồn tự nhiên an tịnh, được đắc này, đắc
nọ... Tìm hiểu thì họ nói cũng giống như lời Phật nói, họ nói cũng giống như
lời Tổ nói!?... Thấy thích thú quá!
Thực ra, cũng là lời Tổ nói. Nhưng lời Tổ
thì đang nói trên cảnh giới của Chơn Tâm Tự Tánh, mà khi áp dụng thì ta lại áp
dụng cho những người, xin thưa thực, chính ta làm chưa được, mà cứ đem ra áp
dụng cho những người nghe đó, thì làm sao những người đó áp dụng cho được? Áp
dụng không được mà lại xúi người ta làm, vô tình xúi tới chỗ vọng tưởng!
Chính vì vậy, nương theo những sự cố vừa
mới xảy ra ở trong nước cũng như ở trên thế giới, tình thực Diệu Âm đã gặp
nhiều chuyện trên thế giới lắm, nhiều lắm không phải ít đâu, cũng hai mươi mấy
vụ như vậy, hoàn toàn từ chỗ này mà phát sinh ra. Nhận thấy đây là con đường
nguy hiểm quá! Mong cho chư vị đồng tu ở đây, chúng ta cứ một lòng Thành Tâm
- Kính Cẩn - Khiêm Nhường để niệm Phật, đừng nên móng tâm mong cầu
một cách sơ suất. Nên nhớ, khi đã bị vướng vào đó rồi thì không cứu được! Nhất
định không cứu được! Những kinh nghiệm này xin thố lộ ra để cho chúng ta cùng
nhau đi con đường an toàn, chầm chậm, vững chắc. Luôn luôn nương theo đại thệ
của đức A-Di-Đà, nương theo chư Long-Thiên Hộ-Pháp, chư đại Bồ-Tát gia trì bảo
vệ thì chúng ta mới an tâm được để vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Nhất định nên nhớ rằng, ta vãng sanh là do
lòng Chí Thành, Chí Kính mà được các Ngài tiếp độ, chứ không phải
là sự chứng đắc. Mong chư vị nhớ kỹ điều này để đường đi không bị trở ngại.
A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 10)
Nam Mô A-Di-Đà Phật
Trong việc tu hành có hai vấn đề mà chúng
ta thường nhắc trong những ngày gần đây, thứ nhất là “Lý Đạo”, thứ hai là “Sự Đạo”.
“Lý Đạo” là chúng ta không đi ra ngoài
quỹ đạo của Phật, những lời khuyên dạy trong kinh điển. “Sự Đạo” là phải biết ứng hợp cho đúng. Nếu
chúng ta không chú ý tới “Sự Đạo”,
thường khi “Lý Đạo” thì đúng mà ứng dụng để tu hành thì sai. Tại vì tất
cả kinh điển, những lời Phật dạy đều có cái đối tượng ứng trị khác nhau chứ
không phải giống nhau.
Trong vấn đề ứng trị đó, về lý đạo chúng
ta không nên chú tâm tìm hiểu những đạo lý quá cao siêu, vì những đạo lý quá
cao siêu thường thường chỉ hợp những căn cơ rất cao. Chúng ta chỉ nên áp dụng
làm sao cho cụ thể những việc hàng ngày chung quanh chúng ta, thì tự nhiên việc
tu hành không có gì trở ngại và chúng ta cũng dễ được thành tựu.
Đem việc “Khế Lý - Khế Cơ” ứng dụng vào vấn đề hộ niệm
cũng rất là hay. Ví dụ như có người vì không tin vào sự hộ niệm, nên suốt cuộc
đời của họ khó có thể thấy được một người vãng sanh, vì vậy họ cứ nghĩ rằng
không có vãng sanh. Ngược lại, có những người khi hộ niệm thành công một số
trường hợp, ví dụ như ở Việt Nam có những ban hộ niệm người ta báo cáo hơn 100
người vãng sanh. Có ban hộ niệm thì 77 - 78 người vãng sanh, và thành phần bị
rớt vãng sanh chiếm cỡ chừng một phần ba, nhiều khi một phần tư, cũng có ban hộ
niệm cỡ chừng một nửa, một nửa thành công, một nửa thất bại. Khi họ hộ niệm
được một số người vãng sanh như vậy, tự nhiên họ thấy rằng hình như chính họ có
một cái năng lực nào đó để làm cho người ta vãng sanh. Đây chính là cái mốc
điểm thối chuyển chứ không hay ho gì hết! Thường thường gặp những trường hợp
như vậy, thì Diệu Âm hay khuyên rằng:
- Khi một người mà được ta hộ niệm vãng
sanh, thì xin chư vị hãy nhớ cho, người vãng sanh đó là do thiện căn phước đức
của chính người đó. Ta phải nói là do thiện căn phước đức của chính người đó
kết hợp lại, rồi ta tạo cái duyên cho họ. Hoặc mình nói rằng, thiện căn phước
đức của người đó đã chín muồi, khi gặp cái duyên này, tức là duyên hộ niệm,
người ta mới hội tụ được cái thiện căn phước đức đó mà vãng sanh về Tây
Phương.
Mình nói như vậy thì hay hơn là nói rằng, “À! Người này nhờ tôi hộ niệm mà được
vãng sanh”.
Thường thường những lời nhắc khéo này để
cảnh cáo những người hộ niệm hãy bớt đi cái tâm ngạo mạn. Khi liên lạc về Việt
Nam, thường thường tôi liên lạc những ban hộ niệm lớn trước, thì phát hiện ra
điều này, lâu rồi chứ không phải là mới đây. Thì trong cơ hội này tôi xin nói
ra, mong rằng những lời nói này sẽ đến tai những người đó. Tôi thấy rằng cái
tâm ý cống cao ngã mạn của người hộ niệm đã khởi lên. Từ từ nó khởi lên! Có
người hộ niệm cho rằng họ có khả năng cứu độ chúng sanh! Khi gặp những trường
hợp như vậy, tôi áp dụng theo lời khuyên của Hòa Thượng Tịnh-Không, là chỉ
khuyên ba lần, không bao giờ khuyên tới bốn lần. Trực tiếp nói rất mạnh thì hai
lần, lần thứ ba thì bắt đầu nói xa nói gần, đến lần thứ tư thì chỉ nói chung
chung, chứ không nói thẳng nữa. Người nào nghe thì nghe, không nghe thì thôi,
chứ bây giờ không biết làm sao hơn!...
Trường hợp này gọi là “Thối Chuyển”! Cũng như chúng ta tu hành ở đây, khi
thấy rằng ta niệm Phật như vậy là tốt! Công phu của ta như vậy là hay! Tự nhiên
ta thấy có cái gì chứng đắc! Khi đã thấy một cái gì chứng đắc, tức là khởi đầu
từ đó cái tâm thối chuyển! Chắc chắn như vậy. Thối chuyển ở chỗ nào? Vì tâm ý
của những người thấy rằng mình chứng đắc đã bị nạn cống cao ngã mạn nổi lên
rồi. Trong sáu cái phiền não căn bản của một người phàm phu, Tham, Sân, Si,
Mạn... Thì “Mạn” nó nằm cái hàng thứ tư. Khi đã ngã
mạn lên rồi thì thường thường nối theo “Ác Kiến”. Ác kiến là gì? Thường
thường cho ta chứng đắc, bắt đầu khinh khi người khác. Cái “Mạn” này
cũng có thể nằm trong những người đi hộ niệm. Đầu tiên tâm người hộ niệm chân
thành, có lòng từ bi đi hộ niệm cho người ta. Những lần đầu tiên vì quá chân
thành, quá tin tưởng, quá nhiệt tâm nên cảm ứng rất mạnh, họ cứu độ rất nhanh.
Có những ban hộ niệm khi gặp được phương pháp hộ niệm, một tuần sau họ báo cáo
có người vãng sanh, hai tuần sau, ba tuần sau có người vãng sanh. Có một người
được vãng sanh đã làm cho niềm tin của những người chung quanh lên rất cao và
sau đó người ta hộ niệm hầu hết được thành công, có thể nói mười vụ thành công
được chín vụ. Khi số lượng vãng sanh lên cao như vậy, tự nhiên họ thấy rằng họ
có cái năng lực nào đó!... Từ đó bắt đầu mới sinh sự ra! Khi sinh sự ra như
vậy, thì chỉ cần có một vụ, hai vụ trở ngại, thì tâm bắt đầu thối xuống... Đây
là lời nhắc nhở chung. Chắc chắn ở đây thì chúng ta chưa lâm vào tình trạng
này, nhưng xin chư vị cũng nên lưu ý, tại vì Niệm Phật Đường chúng ta là đạo
tràng hộ niệm. Chúng ta phải nhớ rằng, hộ niệm cho một người được vãng sanh là
do cái phước phần của người đó.
- Người đó có quyết lòng hay không?
- Người đó có Tín hay không?
- Có Nguyện hay không?
- Hạnh đủ hay không?"...
Đó đều là phước phần của họ và chúng ta
chỉ là cái duyên mà thôi. Như vậy khi hộ niệm cho một người mà họ không được
vãng sanh là phải trả về cho chính họ:
- Người đó có thực hiện được
hay không?
- Người đó còn có tham chấp hay
không?
- Người đó còn có thị phi hay
không?
- Người đó còn có tin tưởng hay
không?
- Hay là, ở trước đạo tràng thì
tin tưởng, về nhà thì mất tin tưởng!
- Ở trong Niệm Phật Đường thì
niệm Phật, ra khỏi Niệm Phật Đường thì thị phi ganh tỵ!
- Ở trong Niệm Phật Đường thì
nguyện vãng sanh, về nhà thì “Nguyện phim chưởng”!...
Ví dụ như hôm trước, rõ ràng là một người
mà chính mình tới hộ niệm mấy lần, khuyên răn hết lời, lo đầy đủ hết. Ấy thế
khi tình cờ đi thăm thì thấy cả nhà đang ngồi coi phim chưởng. Thật tình, khi
gặp như vậy, tất cả tinh thần của mình bị xuống... xuống như diều đứt dây! Tôi
đã nói thẳng thắn, nếu để tôi bắt gặp một lần nữa, nhất định không hộ niệm
tiếp. Tại vì chính người ta không tha thiết chuyện vãng sanh, thì làm sao chúng
ta có thể cứu người ta vãng sanh được?...
Trở lại vấn đề người hộ niệm, sau khi có
một số thành công mỹ mãn thì thường khởi lên những tâm ý ngạo mạn. Việc này tôi
cũng có nhắc nhở trong Internet, cũng có thường điện thoại, nhưng không cách
nào nhắc nhở hết được. Vì nhiều lắm cũng chỉ liên lạc được một vài chỗ thôi,
chứ hàng mấy trăm ban hộ niệm làm sao nhắc nhở cho hết. Thì lời này cũng chỉ là
nói chung. Nếu chúng ta nghĩ rằng mình có khả năng như vậy, thì có thể chúng ta
sẽ bỏ niệm Phật luôn! Vì đã có khả năng cứu người vãng sanh, thì mình cũng dư
sức vãng sanh rồi!?... Đây là một cái bẫy rất tệ hại, nó sẽ làm cho mình mất
phần vãng sanh!
Hơn nữa, đôi lúc cũng có những người sau
khi hộ niệm cho người ta được một số vãng sanh rồi, thì tự nhiên thấy có những
cảm ứng này cảm ứng nọ!... Rồi tự dưng đi ra khoe này khoe nọ!?... Gặp như vậy,
tôi nói, nhất định đừng bao giờ nghĩ rằng, mình hộ niệm cho người ta là Nhân,
thì cái Nhân này sẽ làm thành cái Quả. Tôi nói, Nhân-Quả này đúng, nhưng mà Duyên của chị đã mất rồi. Cái duyên cống cao ngã mạn không phải
là duyên về Tây Phương Cực Lạc. Cái duyên tự cho mình ngon hơn thiên hạ không
phải là cái duyên về Tây Phương Cực Lạc. Nên nhớ cho kỹ điểm này.
Cũng có lúc sau một thời gian hộ niệm được
vãng sanh rồi, thì lời điều giải oan gia trái chủ của người hộ niệm cũng khác
đi. Tôi phát hiện như vậy!... Khác chỗ nào? Khi điều giải oan gia trái chủ họ
nói có vẻ tự thị lắm! Họ nói những lời giống như một người thầy dạy đứa học
trò, dạy những người oan gia trái chủ. Nhiều người đã nói những lời rất trịch
thượng. Khi gặp vậy, thường thường tôi cũng cảnh cáo liền…
Chúng ta cứu người bịnh,
nhưng cũng phải có tâm cứu luôn những vị oan gia trái chủ của người bịnh nữa. Đó mới thực sự là Phật
Pháp, mới thực sự là đại từ đại bi, bình đẳng.
Những vị oan gia trái chủ đó thực sự là
nạn nhân của người bịnh đó, chứ không phải người bịnh là nạn nhân của oan gia
trái chủ. Trên nguyên tắc, người bịnh đó đã sát hại họ trước, nay họ chỉ đến
đòi lại sự công bằng mà thôi. Cho nên trước những hiện tượng này, chúng ta
không được quyền làm một điều gì để trấn áp các vị oan gia trái chủ, mà mình
phải cúi đầu xuống, chắp tay lại, lạy lục, khẩn nguyện các Ngài và cái tâm của
mình là tâm cứu những vị oan gia trái chủ đó. Mình thành tâm khuyên giải họ,
chứ không phải vì cứu người bịnh mà chúng ta làm hại đến các vị oan gia trái
chủ. Đây là việc hoàn toàn sai lầm! Có thể trong lúc đó mình có tới năm, bảy
chục người. Quá mạnh! Cái lực của mình mạnh quá làm cho các vị oan gia trái chủ
phải dạt ra khiến ta cứu được người bịnh. Nhưng dạt ra đó không phải là do sự
tự nguyện của họ đâu à! Như vậy vô tình mình rước lấy những sự xích mích, thù
hằn cho chính cá nhân mình sau này mà mình không hay!?...
Cho nên, tôi khuyên các vị hộ niệm đó nhất
định không bao giờ được đánh giá những vị oan gia trái chủ là hung hiểm, xảo
quyệt, ác hiểm... Mình không được quyền nói như vậy. Mà phải kêu các vị đó bằng
Ngài, và mình thành tâm để cứu họ. Vì muốn cứu họ, nên mình khuyên họ đừng có
chấp vào thị phi nữa, đừng có chấp vào giận hờn nữa, đừng có trả thù qua lại
nữa... Chúng ta hãy cùng nhau niệm Phật để liễu thoát sinh tử. Chúng ta thành
tâm khuyên như vậy, thì với lòng thành tâm của mình, tất cả mọi người đều thành
tâm, thì tự nhiên được cảm ứng.
Luôn luôn bắt buộc người bịnh phải sám
hối, phải nhận lấy những cái lỗi này. Phải thành tâm sám hối và chỉ có người
bịnh thành tâm sám hối thì mới gỡ được ách nạn. Nếu người bịnh không thành tâm
sám hối mà mình dùng cái lực của mình để ép buộc các vị oan gia trái chủ phải
dạt ra, họ dạt như vậy chẳng qua cũng tạo thêm sự căm hờn! Họ trả thù người
bịnh không được, coi chừng họ đi trả thù những người bắt họ phải dạt ra. Chính
vì vậy, xin thưa với tất cả chư vị, phải nhớ là luôn luôn chúng ta có cái tâm
gọi là “Từ Bi Bình Đẳng” cứu những vị oan gia trái chủ, cứu cả
người bịnh, thì mới có thể an toàn cho người bịnh, an toàn cho mình. Đây gọi là
cứu độ bình đẳng tất cả chúng sanh vậy.
Mong cho những lời này đến được tai những
người hộ niệm, xin cần chú ý thật kỹ. Đừng nên sơ suất nữa.
A-Di-Đà Phật
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 11)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Hôm nay là ngày “Niệm Phật Tinh Tấn”.
Chúng ta tạm gọi là tinh tấn, chứ thật ra là chúng ta không tinh tấn! Vào đêm
hồi hôm có một vị thầy ở Việt Nam điện thoại qua đây, Ngài ở tỉnh Gia-Lai, Ngài
nói rằng Ngài đang hướng dẫn một cái đạo tràng kiết thất niệm Phật, kiết thất
quanh năm, hết Phật thất này đến Phật thất khác, cứ liên tục như vậy. Ngài hỏi,
bên cư sĩ có làm được như vậy không? Thì Diệu Âm mới thưa là, nếu Thầy làm được
như vậy thì thật sự là bất khả tư nghì! Còn đạo tràng A-Di-Đà của Diệu Âm hai
tuần mới có được một ngày tinh tấn, nhưng mà ngày tinh tấn đó là giả đò tinh
tấn, chứ cũng không phải thực tinh tấn!...
Nghe Ngài nói như vậy, mới biết rằng mình
tu hành thực sự còn quá yếu, và cái ách nạn sinh tử luân hồi của mình chưa chắc
gì đã nắm vững phần giải thoát. Trong khi đó thì đời này đã là mạt pháp rồi, mà
chúng ta gặp câu A-Di-Đà Phật thì đây chính là cơ hội cuối cùng để chúng ta
thành đạo. Đã là cái cơ hội cuối cùng nếu mà nó thoát qua, nó vượt qua mà chúng
ta không thành tựu, thì nhất định đời sau chúng ta bị đại nạn! Đúng như vậy,
nhất định đại nạn!...
Nếu mình hiểu một chút xíu thì thấy rõ vấn
đề này. Trong kinh, Phật dạy thời mạt pháp này muốn được thành tựu thì người tu
hành phải biết lánh xa, gọi là “Viễn Ly” những nơi gọi là “Hội náo
chi chúng”. Ồn ào! Những chỗ ồn ào đông người! Nên trong mấy ngày Tết ngay
tại đạo tràng của chúng ta im lìm, lặng lẽ, thế mà chúng tôi còn dặn với nhau
rằng, nếu có một người nào tới thăm đạo tràng, thì hãy mời họ vào trong Niệm
Phật Đường niệm Phật, đừng mời những người đang niệm Phật trong Niệm Phật Đường
ra tiếp họ. Tức là, chương trình của chúng ta không có tiết mục tiếp một người
khách nào trong suốt ba ngày Tết, để cho chúng ta yên lặng thanh tịnh niệm
Phật. Có như vậy chúng ta mới thoát được cái ách nạn mà trong vô lượng kiếp qua
ta thoát không được.
Nếu quý vị đã về Tây Phương rồi, một người
nào vãng sanh về Tây Phương thì có cái năng lực gọi là “Túc-Mạng Thông”, biết
được vô lượng kiếp về trước, biết được vô lượng kiếp về sau, cái thế giới nó
hình thành như thế nào, quý vị sẽ thấy được điều này. Là thật ra, trong vô
lượng kiếp về trước chúng ta đã bị đọa lạc, bị đau khổ, trải qua những cảnh khổ
vô cùng khổ mà chúng ta không hay!
Trong những lần chúng tôi đi ra thăm cái
ao sen, chúng tôi thấy một con sâu, con sâu bám vào cái lá sen để ăn, mình
không đưa nó ra ngoài thì nó phá hết đọt hoa sen, mà mình đưa nó ra ngoài thì
không biết chỗ nào cho nó trú. Tôi mới bắt những con sâu đó đưa qua lá môn, vì
lá môn và lá sen tương tự với nhau. Tôi mới mời các ngài qua ăn lá môn đó. Quý
vị không tưởng tượng được đâu, chưa chắc nó đã ăn được đâu à! Nó chưa kịp ăn,
thì con chim đã tới ăn nó rồi, và cuộc sống của nó lại qua một cái đời khác!...
Có lần đức Thế-Tôn gặp một đàn kiến, chỉ
đàn kiến và nói với ngài A-Nan, “Con
biết đàn kiến này trải qua bảy đời Phật rồi mà chúng vẫn còn làm con kiến”.
Quý vị tưởng tượng đi, chúng ta ở đây là thân người, một cái cơ may vô cùng,
trong cái thời mạt pháp này mà gặp được câu A-Di-Đà Phật, xin thưa thực, đúng
là cơ hội cuối cùng cho ta thoát nạn. Đã là cái cơ hội cuối cùng thì không có
cơ hội thứ hai. Nếu mà chúng ta sơ ý không chịu bám víu lấy cơ hội này để quyết
lòng vãng sanh về Tây Phương, thì thôi không còn có cơ hội nào khác nữa hết.
Ngày hôm qua có một vị tới đây ngỏ ý muốn
chúng tôi tới hộ niệm. Tôi mới nói, hãy về liên lạc với gia đình đi, và tôi bày
cho cái cách tu, là khuyên bà Cụ mỗi ngày hãy niệm năm ngàn danh hiệu A-Di-Đà
Phật. Nghe nói vậy thì Cụ đó giựt mình nói, “Ôi! Tôi mệt quá! Tôi niệm không nổi!”.
Tôi mới nói, nếu Cụ niệm không nổi thì con cũng không có cách nào có thể hộ
niệm cho Cụ vãng sanh được.
Thực ra, cái tiêu chuẩn năm ngàn câu đó
chẳng qua là sự thử thách đầu tiên đó thôi. Tiếp theo đó phải tăng lên mười
ngàn, tăng lên hai chục ngàn, tăng lên ba chục ngàn… thì may ra chúng ta mới có
khả năng vượt qua cái ách nạn sinh tử luân hồi trong một đời này. Còn không thì
xin thưa thực, hôm trước chúng ta đã nói rồi, “Hộ Niệm Là Một Pháp Tu”, nó:
- Bắt buộc mình phải cố gắng,
- Bắt buộc
mình phải kiên trì,
- Bắt buộc
mình phải vượt qua tất cả những ách nạn.
Chúng ta ở đây kiết thất niệm Phật, kiết
nhất tịnh khẩu niệm Phật thực ra là để chi? Để tất cả những tập khí gì, chúng
ta cố gắng bỏ, ráng bỏ, ráng bỏ… Nếu không ráng bỏ thì những tập khí này nhất
định sẽ lôi mình lại trong lục đạo luân hồi.
Chúng ta phải nhớ rằng, đới nghiệp vãng
sanh là đới những nghiệp cũ, không thể nào đới những nghiệp mới. Đối với những
ngày tháng trước chúng ta làm điều gì sai, A-Di-Đà Phật không có màng cái
chuyện đó đâu à! Ngài sợ là sợ cái tập khí chúng ta không chịu bỏ. Chư
Thượng-Thiện-Nhơn trên cõi Tây Phương, các Ngài mong muốn chúng ta về trên đó
hội tụ với các Ngài. Các Ngài nói:
“Chư vị mà
làm các điều sai lầm trong quá khứ, tôi không sợ, tôi chỉ sợ cái tập khí của
chư vị không bỏ được”.
Trong kinh A-Di-Đà, Phật nói người về bên
Tây Phương là để hội tụ với chư Thượng-Thiện-Nhân. Chư vị nên biết,
“Thiện Nam Tử - Thiện Nữ Nhân” có cái tiêu
chuẩn của nó, chứ không phải là chúng ta cứ đi tới Niệm Phật Đường niệm vài câu
A-Di-Đà Phật, niệm vài giờ A-Di-Đà Phật là Thiện-Nam-Tử, là Thiện-Nữ-Nhân.
Không phải đâu! Hoàn toàn không phải!
Trong những giờ tới chúng tôi sẽ cố gắng
khai thác chỗ này, quý vị sẽ thấy. Trong ý định của chúng tôi là trong năm
Tân-Mão này, chúng ta hô hào lần lần, tức là trước khi mở ra một chương trình
gì chúng ta đều hô hào, hô hào tinh tấn hơn nữa. Tức là hiện tại bây giờ chúng
ta hai tuần có nửa ngày tịnh khẩu niệm Phật. Quá ít! Chúng ta phải tiến lần lên
hai tuần chúng ta có hai ngày liên tục tịnh khẩu niệm Phật, đúng 48 tiếng đồng
hồ không nói một lời nào hết. Đây là tập sự.
Chúng ta tu hành cần phải có hợp lý, hợp
cơ. Căn cơ chúng ta yếu quá mà áp dụng một cách mạnh mẽ thì sợ rằng chúng ta
chịu không nổi! Thì bây giờ chúng ta phải tập sự trước, tập lần lần. Hôm nay
chúng ta có nửa ngày tịnh khẩu, hãy vui vẻ thoải mái với thời gian này để chúng
ta tập cho trong thời gian sau, chúng ta tăng lên, thay vì nửa ngày chúng ta sẽ
tăng lên một ngày, rồi chúng ta tăng lên hai ngày, hai ngày, đúng 48 tiếng đồng
hồ nhất định không mở miệng ra nói chuyện. Để chi vậy? Xin thưa, chư Tổ dạy
rằng: “Bớt
đi một câu chuyện, niệm thêm câu Phật hiệu, đánh chết tập khí đi, để chân tâm hiển lộ”. Lời Tổ dạy
như vậy đó. Ngài dạy cho những người phàm phu tục tử chúng ta chứ không dạy cho
ai hết. Chính cái thị phi, chính cái nói chuyện nó phá tiêu hết tất cả các công
đức của người niệm Phật. Cho nên Ngài dạy rõ ràng... “Bớt đi một câu
chuyện”.
Nói chuyện thế gian làm chi? Nói câu chuyện thị phi làm chi? Hãy “Niệm
thêm câu Phật hiệu”.
Quý vị hãy phát tâm ra, quyết thề đánh
chết cái tập khí đi. Cái tập khí gì? Tập khí không chịu niệm Phật mà niệm
chuyện lục đạo luân hồi. Phải đánh chết cái tập khí này thì chân tâm chúng ta
mới hiển lộ, không hiển lộ tại đây thì chư Thượng-Thiện-Nhơn sẽ tiếp đón chúng
ta về Tây Phương với các Ngài, rồi các Ngài sẽ giúp cho ta hiển lộ chơn tâm tự
tánh. Chúng ta chỉ cần buông đi, bỏ đi. Nhất định:
- Ngày hôm
qua ta ghét một người nào, hôm nay quyết định không ghét nữa.
- Ngày hôm
qua ta nói một người nào xấu, nhất định hôm nay không nói xấu nữa.
- Ngày hôm qua ta giận dữ, nhất
định hôm nay đừng giận dữ nữa.
Tại vì chúng ta phải làm người hiền. Chỉ
làm người hiền là được.
- Người hiền
thì không có tham.
- Người hiền
thì không có giận, tại vì giận nó kèm chữ dữ, chứ không phải nói là lành.
Thiện lành! Cứ vậy mà tu. Sẵn sàng Niệm
Phật Đường tại đây sẽ hộ niệm cho chư vị vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Chư
Thượng-Thiện-Nhân trên cõi Tây Phương sẵn sàng đón chư vị về đó, dù rằng trong
quá khứ mình làm lỗi như thế nào thì các Ngài không sợ chuyện đó. Các Ngài chỉ
sợ rằng cái tập khí này không chịu bỏ.
Đã không chịu bỏ, thì A-Di-Đà Phật ngày
đêm buông tay xuống để tiếp độ chúng sanh nhưng mà cái hoa sen của chúng ta
trên cõi Tây Phương đã tiêu rồi. Chư Thượng-Thiện-Nhân đã biết được cái tập khí
này nó còn hiển hiện ra, hễ tập khí còn hiển hiện ra thì không cách nào có cảm
ứng được, không cách nào vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc được.
Chính vì vậy, xin thưa... chư vị ơi! Quyết
lòng mà hạ quyết tâm tu hành, một lòng một dạ ăn ở hiền lành là được. Buông xả
vạn duyên ra, thành tâm niệm Phật, chỉ vậy thôi, bao nhiêu cái nghiệp trùng
trùng trong quá khứ chúng ta được đem nó về Tây Phương để hội ngộ cùng chư
Thượng-Thiện-Nhân, và chúng ta thành Phật.
A-Di-Đà Phật.
KHẾ KÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 12)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Ngày hôm qua, khi chúng ta nói về cái
hướng tu hành trong tương lai cố gắng tịnh tâm hơn. Bây giờ thì hai tuần chúng
ta được nửa ngày tinh tấn, chỉ có nửa ngày. Nhưng ước vọng trong tương lai
chúng ta tiến lên nữa. Phải tiến chớ không thể lùi được. Cố gắng tinh tấn được
hai ngày liên tục, ít ra phải có 48 tiếng đồng hồ và tính từng giờ thì chúng ta
mới tập sự, tập sự cho được và thực hành cho được, để khi lâm chung chúng ta
mới niệm được mười câu A-Di-Đà Phật đó quý vị. Không dễ đâu!
Hôm trước bác Trí nói một câu làm tôi ngộ.
Tôi ưa ngộ lắm!
- Bác nói: “Trời ơi! Tôi đau như vậy, mới cảm thôi,
nằm trên giường muốn niệm Phật mà tôi niệm không được! Cố gắng niệm mà niệm ít
tiếng thì cái cơn đau đến làm cho quên mất tiêu!”.
Những lời nói hết sức đơn giản này nhưng
thật sự nó có cái đạo lý vi diệu trong đó. Mới đau cảm sơ sơ chúng ta đã niệm Phật
không được, đừng nghĩ rằng là trong những giây phút mà “Tứ Đại Phân Ly” ta dễ cất
lời niệm Phật được. Đừng có sơ ý chuyện này. Chính vì vậy mà chúng ta phải cố
gắng thực tập, cố gắng giống như là trui luyện. Thật ra những giờ phút chúng ta
ngồi đây niệm Phật, là để thực tập cho lúc lâm chung chúng ta niệm được câu
A-Di-Đà Phật đó. Nếu mà chúng ta cứ tu tà tà, tà tà như thế này, bên ngoài thì
người ta nói rằng ở Niệm Phật Đường A-Di-Đà tu 365 ngày, không bỏ một ngày nào.
Nghe thấy ngon lắm! Nhưng thực ra 365 ngày, một ngày chỉ có hai tiếng rưỡi đồng
hồ, trong hai tiếng rưỡi đồng hồ mình niệm Phật hình như chỉ có 5 phút nhiếp
tâm là nhiều lắm rồi, còn lại tất cả đều loạn tâm hết! Tức là ta thực tập cũng
không được cái pháp “Mười Niệm Tất Sanh”.
Bây giờ mình thử coi, giả sử trong lúc
niệm Phật, có một người kia nói lên một tiếng thì tâm mình động liền. Tắt cái
quạt một chút, không khí hơi nóng nóng lên một chút thì mình giận rồi. Khi mình
giận đó biết chừng đâu bao nhiêu công đức mà mình đang tu hành bị nó đốt hết
trơn rồi! Chư vị ơi! Nguy hiểm vô cùng! Chính vì vậy mà rất nhiều người tu, sau
cùng không được vãng sanh.
Ngày hôm qua mình có đưa ra tiêu chuẩn một
dạng người Hiền, tức là làm sao chúng ta tập:
- Bỏ
cho được những cái khó chịu,
- Bỏ
cho được những cái cay cú,
- Bỏ
cho được những cái giận hờn.
Để chi? Để chúng ta thật sự là một người
Hiền.
Một người hiền thì thường thường không
chấp những thứ đó. À! Lạnh một chút cũng được, nóng một chút cũng được, thôi
thì mình tha thứ hết tất cả. Được như vậy thì đến lúc mình lâm chung những tập
khí đó nó không bao vây mình nữa, lúc đó mình mới niệm Phật được. Và lúc đó
người hộ niệm mới hộ niệm với mình mới được. Chớ đừng có nghĩ rằng hộ niệm là
vãng sanh đâu. Không đâu à!... Người ta tới hộ niệm, niệm lớn tiếng một chút
mình tức mình. Mình tức mình trong lúc sắp sửa ra đi, bao nhiêu công đức của
mình tiêu hết rồi, còn đâu nữa cái hoa sen mà đức A-Di-Đà Phật cầm trên tay đưa
xuống để cứu mình lên Tây Phương!
Mình ghét một người kia, ngày nào mình
cũng nêu những điều sai trái của họ, lúc đó họ thấy mình sắp sửa chết, tự nhiên
họ phát tâm thương hại, họ thành tâm tới hộ niệm cho mình. Mình mở mắt ra vừa
thấy người đó thì phiền não. “Đấy, bà tới
hại tôi rồi! Bà tới làm cho tôi bị đọa địa ngục!”. Mình nổi một cơn sân
giận lên, là tự mình đi vào con đường địa ngục đó chứ!...
Cho nên hôm qua mình có nói, chư
Thượng-Thiện-Nhân trên cõi Tây Phương các Ngài luôn luôn chờ mình về trên đó,
các Ngài nói rằng:
“Chư
vị chúng sanh ơi! Bao nhiêu nghiệp chướng trùng trùng phía trước, xin đừng có
lo đến. Hãy đừng làm như vậy nữa! Rồi thành tâm niệm Phật đi. Niệm mười câu
quyết lòng nguyện vãng sanh thì quý vị được vãng sanh. Tôi sợ nhất là chư vị
không chịu phá cái tập khí này”.
Hòa thượng Tịnh-Không đã nói lên, nói
xuống không biết bao nhiêu lần, Phật chỉ cho chúng ta đới
Nghiệp, không cho chúng ta đới Tập-Khí. Cái này khó nhất! Mà đây là cái dễ
vướng. Nói chung là 99% người bị vướng. Không vãng sanh là vì tập khí này.
Tại sao một người làm ác! Một người mổ
heo, một người làm bò, một người trong quá khứ tạo những tội... những tội đọa
địa ngục A-tỳ đi nữa! Nhưng đến giờ phút lâm chung gặp thiện tri thức tới khai
thị, họ buông xả hết, kiệt thành sám hối... niệm Phật họ vãng sanh? Là tại vì,
thật ra cái tâm của họ thoải mái trong đó. Họ có cái phước trong quá khứ, cái
phước đó dồn tới đời này, nhưng vì họ chưa có cái duyên gặp được Phật đạo nên
họ nhất thời hồ đồ làm ác. Họ dùng cái phước đó mà làm ác, nhưng cái ác trong đời này chưa thành quả
báo để họ hưởng, còn những thiện căn phước đức trong đời kiếp trước lại hiển
hiện về. Tại sao vậy? Tại vì trong nhiều đời kiếp trước họ là người “Hiền”. Còn
mình bây giờ tu hành ở đây, nhưng chưa chắc gì mình đã có cái tâm “Hiền” bằng
họ. Tại sao? Vì một lần tu là một lần nghĩ rằng mình hơn thiên hạ. Một khi nghĩ
hơn thiên hạ tức là tập khí đã nổi lên rồi!...
Hòa Thượng Tịnh-Không nói, một trăm thứ
phiền não của chúng sanh, trong đó có sáu đại phiền não nhất định phải bỏ cho
được: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác kiến. Sáu thứ căn bản phiền não này nó tạo
ra hàng trăm cái phiền não khác. Chính vì vậy, Diệu Âm thường cứ nhắc đi nhắc
lại những điều hết sức căn bản. Ví dụ như ta thường nổi giận, nổi giận ở thế
gian người ta coi bình thường lắm. “Ôi! Cái ông đó ưa nổi giận, chứ
ổng tốt lắm!”. Không phải đâu ạ! “Giận” nó kèm theo chữ “Dữ”. Người giận không thể nào là
người hiền được! Tại vì dữ nên không thể tương ưng với cảnh giới của hàng đại
Thượng-Thiện trên cõi Tây Phương Cực Lạc.
Biết được như vậy, khi mà nổi cơn sân giận
lên, chúng ta hãy sám hối liền. Bằng cách nào? Chắp tay lại niệm... “A-Di-Đà
Phật, A-Di-Đà Phật”... “Bất phạ niệm
khởi, đản phạ Giác trì!”, là đừng sợ cái
niệm giận khởi lên, mà hãy sợ là lúc đó mình có tiếp tục giận nữa hay không?
Hãy ngừng lại liền đi để niệm Phật. Hãy quyết lòng khởi tâm niệm Phật liền đi.
Nghĩa là, ta chỉ sợ rằng cái “Giác” mình chậm quá mà thôi! Nếu
mình tập được điều này, thì khi nổi cơn giận lên, thì mau mau bỏ ngay hiện
trường, ra uống một ly nước, tạt nước lên mặt, rửa mặt, xoa cái đầu một chút,
rồi niệm câu A Di Đà Phật, tưới mát cơn giận liền lập tức đi, thì chúng ta sẽ
phá được cái tập khí này. Phá được cái tập khí này để ta có cơ hội về Tây
Phương Cực Lạc. Không phá cái tập khí này nhất định ta bị nạn!...
Chính vì vậy, ngày hôm qua khi tôi thấy
bốn năm người, ba bốn người gì đó, phát tâm lập công cứ, tôi mừng vô cùng. Xin
thưa, khi mình lập công cứ thì:
- Mình
không dám coi Ti-Vi nữa đâu à! Coi Ti-Vi mình mất cái phước.
- Mình
không dám coi phim chưởng đâu à! Coi phim chưởng mình không lập được công cứ.
- Không
có dám nói người này xấu, người kia xấu đâu à! Vì nếu cái duyên này khởi lên
thì nó cứ truyền truyền với nhau... Mình không niệm Phật được đâu à!
Vì mình lo làm công cứ, thành ra mình
không dám nói chuyện, mình bỏ đi cái duyên của thế gian, mình bỏ đi cái tập
khí. Công cứ này giống như nấc thang cho mình leo, tự mình phải lo lấy chứ
không ai lo được. Đừng bao giờ nghĩ rằng có ban hộ niệm là ta vững vàng. Không
phải! Quan trọng là ta có chấp nhận hộ niệm hay không? Vì sao? Vì hộ niệm là
một phép tu rõ rệt:
- Người
ta dạy mình phải bỏ tập khí: Đây là một phép tu.
- Người
ta dạy mình phải nhiếp tâm lại niệm câu A-Di-Đà Phật: Đây là một phép tu.
- Người
ta dạy mình phải nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc: Đây là một phép tu.
Mình mới đau bịnh một chút thì sợ lên sợ
xuống, nhất định ý nguyện này là nguyện láo, là nguyện sai lầm! Chính vì thế,
xin thưa với chư vị, tu cần phải “Khế cơ - Khế lý”.
- “Khế lý” là như trong kinh
Pháp-Hoa nói, tám vạn bốn ngàn pháp môn trùng trùng điệp điệp, rộng rãi vô
cùng, không cách nào mà nói cho thấu đáo.
- Nhưng còn “Khế cơ” là gì? Vì
chính căn cơ của mình đang hạ liệt:
Mình thường giận dữ, hãy bỏ
mau. Mình hay thị phi, mau mau bỏ. Mình buồn rầu cái gì, mau mau bỏ đi. Hãy bỏ
liền lập tức đi. Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến phải bỏ liền lập tức đi.
Không bỏ được thì mình phải bỏ ngay trong lúc mình vừa khởi lên đó, gọi là “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Niệm
ngay câu A-Di-Đà Phật đi!
Xin thưa với chư vị, chỉ cần như vậy chúng
ta đã bắt đầu cảm ứng được với đại nguyện của đức A-Di-Đà Phật, và chắc chắn
trên cõi Tây Phương Cực Lạc, cái hoa sen của chúng ta dù không lớn mấy, nhưng
mà nó cũng đã có rồi, nó không nở nhưng ít ra là nó cũng đã có. Có như vậy thì
cái hoa sen trên tay của đức A-Di-Đà Phật, chính là công đức của mình, nhờ công
đức đó mà mình mới ngự vào để đi về Tây Phương. Nếu không có công đức đó,
A-Di-Đà Phật cũng không cách nào tới tiếp độ mình về Tây Phương được.
Mong chư vị hiểu được chuyện này thì nhất
định chúng ta có cái căn bản đi về Tây Phương để thành đạo Vô-Thượng.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ KÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 13)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Trong mấy ngày hôm nay, chúng ta phải đưa
ra chương trình “Cố Gắng Niệm
Phật”, vì tiêu chuẩn niệm Phật của chúng ta so ra vẫn còn yếu.
Trong ngày hôm nay thì tôi có vào website của chùa Thanh-Hà ngoài Đà-Nẵng,
người ta báo cáo là ban hộ niệm của họ đã hộ niệm cho được 101 người vãng sanh,
và người ta đưa chi tiết từng người một lên trang web đó. Mấy tháng trước người
ta báo cáo 77 người, thì bây giờ lên đến 101 người…
Mình thấy rõ rệt là niệm Phật vãng sanh
Tây Phương thật sự có thật, nhưng nếu chúng ta tu yếu quá thì sau cùng có thể
bị ách nạn. Như hổm nay chúng ta có nói qua là nghiệp chướng của chính những
người chúng ta cũng thuộc về phần hạ căn, phước mỏng, đức bạc nên còn nặng nề
lắm, khó thoát lắm chứ chẳng phải dễ đâu.
Ban hộ niệm của chùa Thanh-Hà đặt ra tiêu
chuẩn những người tham gia vào ban hộ niệm, trung bình mỗi người phải niệm một
ngày hai chục ngàn câu A-Di-Đà Phật. Những người mới vào thì tiêu chuẩn niệm
mười ngàn câu A-Di-Đà Phật. Sau mấy tháng thì tăng lên mười lăm ngàn câu và khi
đạt được hai chục ngàn câu A-Di-Đà Phật thì người ta mới chịu.
Đây cũng là điều hay để nhắc nhở cho chúng
ta thấy rằng, ngay tại đạo tràng của chúng ta đang có chương trình gọi là công
cứ. Công cứ chúng ta đưa ra đầu tiên mới có năm ngàn mà nhiều người đã dội!
Nhưng xin thưa rằng, năm ngàn quá ít! Nếu như chúng ta cứ giữ năm ngàn một
ngày, thì sau cùng vượt không được ách nạn đâu. Vì chắc chắn nếu niệm chỉ có
năm ngàn câu, thì một ngày hai mươi bốn giờ, ít ra ta cũng có tới hai chục giờ
nói chuyện Ta-bà, hai chục giờ đi theo con đường sanh tử, còn những giờ khác
thì cơm nước gì đó... Rốt lại, tu hành chẳng có bao nhiêu hết. Cho nên nếu thật
sự chúng ta thấy rằng cái huệ mạng của chúng ta đang ở trong cơn nguy hiểm vô
cùng thì chính chúng ta phải lo, chúng ta phải cứu chúng ta, chứ không ai cứu
ta được. Pháp môn niệm Phật rất dễ thành tựu, nhưng cũng không dễ đến nỗi mà
chúng ta không muốn về cũng về được đâu. Không phải vậy!
Hôm qua, chúng tôi có nhắc đến vấn đề “Mười
niệm tất sanh”, xin
quý vị đồng tu đừng nghĩ rằng, mười câu A-Di-Đà Phật trước phút lâm chung là
đơn giản. Không có như vậy đâu! Anh Minh Trí bịnh một ngày, anh muốn niệm Phật,
mà niệm không được. Anh niệm không được! Đó là lúc bệnh sơ sơ. Còn lúc sắp chết
nếu mình đi vô bệnh viện, bác sĩ chích cho mình vài mũi thuốc morphine để cho
mình nằm thiêm thiếp rồi đi luôn. Nếu cho rằng đó là sự an toàn ra đi thì thôi
những lời này không còn giá trị gì nữa. Nhưng nếu thật sự mình biết rằng trong
khi mê man bất tỉnh đó, nó sẽ dẫn mình tới vô lượng kiếp về sau trong cảnh khổ
đau bất tận thì phải lo, lo lắm, nếu không lo, thì không ai lo cho mình được.
Trong năm 2011 này, chúng tôi dự định rằng
sẽ cố gắng tiến thêm nữa để tu. Hẳn nhiên sự tu hành không ai bắt buộc hết. Có
người có thể theo được, có người có thể không theo được, hoàn toàn tùy duyên.
Những ai cố gắng theo được thì cứ theo. Còn 365 ngày tu hành thì chúng ta vẫn
cứ giữ. Ví dụ như có người thì có ngày đi có ngày không, có người thì ngày nào
cũng đi, chúng ta phải có người trên người dưới kéo nhau. Nhưng riêng vấn đề tu
tinh tấn chúng ta vẫn còn yếu quá! Thật sự yếu quá! Chúng ta phải tiến đến hai
ngày kiết nhật niệm Phật, mà hai ngày nghiêm chỉnh chứ không phải là một ngày
còn có nửa ngày như bây giờ... Không phải. Tiến đến làm sao một ngày phải đúng
24 tiếng đồng hồ không nói chuyện, hai ngày phải đúng 48 tiếng đồng hồ, đó là
những người muốn ghi danh tu toàn thời. Còn những vị tu bán thời, thì có thể
tham gia thời nào thì tới, nhưng khi bước vào trong cánh cổng Niệm Phật Đường
thì không được nói chuyện, và khi bước ra khỏi cổng Niệm Phật Đường thì lúc đó
không còn có giới hạn trong cái quy luật nữa. Có như vậy chúng ta mới có khả
năng thật sự yên lặng thanh tịnh, để khi cuối đời trước những giờ phút ra đi,
tâm chúng ta luôn luôn giữ được câu A-Di-Đà Phật để vãng sanh.
Mình cứ tưởng tượng, khi mình nói chuyện
như thế này nếu tắt cái máy lạnh đi, máy lạnh tắt nhưng không khí này cũng cỡ
chừng 21°C hay 22°C, vậy mà có nhiều người chịu không nổi. Ấy thế, khi rơi
xuống địa ngục, mình biết địa ngục gọi là cái hầm lửa, nó sẽ thiêu đốt ngày này
qua ngày khác, đời này qua đời khác, kiếp này qua kiếp nọ... “Thiết
Sàng, Đồng Trụ” hiển hiện! Mình thấy rằng
với không khí không phải là tệ lắm như ở tại đây mà chúng ta đã chịu không nổi
rồi, trời nắng một chút chúng ta chịu không nổi rồi, chẳng lẽ chúng ta lại coi
thường những sự thiêu đốt, lửa cháy bừng bừng đời này qua đời nọ, kiếp nọ qua
kiếp kia, gọi là “Lũy kiếp nan xuất” ở dưới đó sao? Chẳng lẽ
dễ dàng? Chẳng lẽ chúng ta thấy đơn giản để xuống đó xem coi cho biết sao? Mong
chư vị, vì cái huệ mạng rất ư nguy hiểm của mình có thể bị nạn lâu dài tới vô
lượng kiếp mà mình phải ráng lên, tự mình ráng lên.
Cho nên trong những khóa tu đó, đang kêu
gọi chư vị phát tâm ghi tên. Hẳn nhiên hoàn toàn không ép một người nào hết,
nhưng mà tự mình phải ráng.
Ngài Tĩnh-Am Đại Sư có dạy như thế này:
“Đường tu hành quý ở chỗ Phát Tâm. Đạo nghiệp của mình quý ở
chỗ Lập Hạnh”.
Hai chữ “Phát Tâm” và “Lập
Hạnh” vô cùng quan trọng đối với những người thật sự tu hành, đối với
những người thật sự trong đời này muốn thoát vòng sanh tử, đối với những người
thật sự muốn niệm Phật vãng sanh. Chứ còn như niệm Phật mà không muốn vãng sanh
thì thôi không nên nêu ra vấn đề này.
Phát Tâm!
Đường tu vạn nẻo, chúng ta phát tâm niệm Phật thì chúng ta phải thẳng một
đường. Sự phát tâm này cần phải chuyên nhất mới tốt... Hòa Thượng Tịnh-Không
luôn luôn nhắc nhở chúng ta cần phải chuyên nhất. Nếu không chuyên nhất thì
nhất định sẽ bị trở ngại! Đang đi con đường niệm Phật mà kèm thêm một đường nào
khác là một cái ngã rẽ. Tụng hai bộ kinh thành ra ngã rẽ. Ta niệm một câu
A-Di-Đà Phật, lại niệm thêm một cái gì nữa là thành ra ngã rẽ. Chính vì cái ngã
rẽ này...
- Nó
sẽ chia cái tâm của chúng ta!
- Nó
chia cái trí nhớ chúng ta!
- Nó
chia cái niềm tin!
- Nó
chia cái đường đi!
Để đến lúc mà nằm xuống rồi ta sẽ phân vân
vô cùng không biết con đường nào chọn lựa. Bên cạnh đó, nên nhớ cái nghiệp của
mình, oan gia trái chủ của mình ở sát bên cạnh chứ không đâu xa hết... Họ tìm
mọi cách ngăn cản, không cho mình vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Họ chỉ cần
làm cho mình rớt lại trong lục đạo, là không biết bao nhiêu cơ hội để họ trả
thù. Dễ sợ vô cùng! Chính vì vậy, Hòa Thượng Tịnh-Không luôn luôn nhắc nhở là
phải chuyên nhất. Không chuyên nhất thì nhất định sẽ bị trở ngại!
Lập Hạnh. Ví dụ đơn giản như chúng ta
niệm Phật một ngày không biết là niệm bao nhiêu? Hình như hai trăm, ba trăm hay
bốn trăm câu... Ít quá! Chúng ta phải phát một tâm nguyện ra, niệm năm ngàn,
bảy ngàn... Như ở ban hộ niệm Hoa Sen tiêu chuẩn của người ta là hai chục ngàn
câu, ai chịu nổi vào tu, ai không chịu nổi thì rớt đài. Tại vì họ tuyển chọn như
vậy, nên mới qua có mấy tháng trời mà bây giờ cái số lượng vãng sanh lên đến 101 người. Ngày
hôm nay tôi mới mở web ra xem thấy lên đến 101
người. Có những ban hộ niệm đã lên đến một trăm mấy chục người. Ở Việt Nam có
đến mấy trăm ban hộ niệm như vậy, quý vị tưởng tượng đi, biết bao nhiêu người
vãng sanh?
Ấy thế mà chúng ta ở đây chưa có lập hạnh.
Chúng ta còn nghĩ rằng sự vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc có vẻ rẻ rúng quá,
giống như đi ra ngoài shop mua vài bó rau lang, lựa lên lựa xuống, trả lên trả
xuống!... Không phải như vậy đâu! Vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc quý giá vô
ngần, làm cho mình trong vô lượng kiếp không còn đau khổ nữa. Từ trong vô lượng
kiếp qua mình bị đọa lạc! Từ giờ phút này trở đi chúng ta an vui cực lạc, tiến
thẳng về Tây Phương để thành đạo. Cái giá này không cách nào có thể so sánh với
bất cứ cái gì được!
Xin thưa với chư vị đồng tu, hãy cố gắng
lên, vững vàng phát cái nguyện dũng mãnh lên, lập hạnh vững vàng lên.
- Cầm
tờ báo lên đọc để làm chi? Mất đi năm, mười phút. Năm mười phút đó ta niệm được
một ngàn câu A-Di-Đà Phật.
- Nói
vài câu chuyện với hàng xóm làm chi? Một tiếng đồng hồ ta niệm được cả năm, sáu
ngàn câu A-Di-Đà Phật.
- Kình
cãi với hàng xóm làm gì? Chúng ta niệm Phật!
Cho nên, cái công cứ nó hay vô cùng. Ngày
hôm qua có bốn người phát tâm làm công cứ. Hay vô cùng! Tôi mừng vô cùng!... Nó
buộc mình bỏ đi Ti-Vi, nó buộc mình bỏ đi cái phim chưởng, nó buộc mình bỏ đi
không nghĩ tới những chuyện trong lục đạo luân hồi nữa. Bà kia xấu, kệ bả! Ông
nọ tốt, kệ ổng! Mình cứ lo niệm Phật.
Lúc nằm xuống mình phải lo niệm Phật. Bịnh lên mình niệm Phật. Bịnh xuống mình
niệm Phật. Gặp bất cứ một điều trở ngại nào trong đời mình đều trả lời bằng câu
A-Di-Đà Phật... thì lúc ngộp ngộp mình sẽ niệm câu A-Di-Đà Phật. Oan gia trái
chủ, những người mà mình đã lỡ sát hại họ, họ nhìn thấy rõ rệt mình đang quyết
lòng đi về Tây Phương để cứu họ... thì họ sẽ cảm thông... sẽ tha thứ cho mình.
Chư Thiên-Long Hộ-Pháp sẽ gia trì cho mình, A-Di-Đà Phật cũng sẽ gia trì cho
mình, mình mới có thể vượt qua cái ách nạn này. Nếu không thì vô phương! Không
dễ gì đâu!...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 14)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Ngài Tĩnh-Am Đại Sư khuyên tất cả chúng
ta, việc tu hành nên phát tâm, nếu không phát tâm thì chúng ta sẽ lơ mơ lờ mờ
trong sáu nẻo luân hồi, không biết đường nào đi.
Chúng ta đã niệm Phật, quyết lòng chuyên
tu câu A-Di-Đà Phật để vãng sanh, tức là ta đã phát tâm. Khi phát tâm rồi, nếu
chúng ta không có cái nấc thang để đi, thì nhiều khi đoạn đường sanh tử trong
một phần đoạn này, một đời này đi không tới. Ngài nói, “Đạo
nghiệp cần ở chỗ Lập Hạnh”. Mình nói cho dễ hiểu hơn, “Phát Tâm” là có hướng đi, “Lập Hạnh” là tốc độ đi.
Phải có cái tốc độ đi phù hợp thì chúng ta mới tới đích. Ta biết hướng đi,
nhưng con đường dài quá mà ta đi tà tà, dù cũng đi theo hướng đó nhưng ta sẽ
ngã quỵ ở giữa đoạn đường! Nghĩa là chúng ta cũng không được thành tựu, không
đạt được tới mục đích. Trong cái ý hướng để quyết lòng bước đi, vừa vững mà vừa
đủ thời gian tới đích, có nghĩa là khi tới giờ phút lâm chung ta vững vàng niệm
câu A-Di-Đà Phật, theo A-Di-Đà Phật, Quán-Âm, Thế-Chí về Tây Phương Cực Lạc. Ta
nói đến chuyện “Lập Hạnh”.
Có nhiều người khi đã phát tâm rồi, nhưng không
chịu lập hạnh, nói cho rõ ra tức là tu tà tà, thì đến lúc lâm chung chướng nạn
đến họ chịu không nổi. Chính vì thế rất nhiều người đã mất phần vãng sanh Tây
Phương Cực Lạc, dù rằng họ đã niệm Phật.
Trong ngày hôm nay có một vị tới thăm, nói
rằng, “Nếu mà tu tinh tấn hai ngày thì
tôi không có giờ, làm sao tham
gia?”.
Thì tôi cười và nói... Không sao đâu! Việc tu hành không ai ép buộc cả. Hồi giờ mình
tu được như vậy thì cũng đã đáng khen rồi. Hai tuần chúng ta kết
nhau lại từ sáng cho đến tối để niệm Phật cũng đáng khen rồi!... Nhưng mà riêng
Diệu Âm này tự xét mình thì thấy nghiệp chướng còn nặng quá! Căn cơ còn yếu
quá! Tu hành mười mấy năm qua nhưng tâm này chưa có mở chút xíu nào hết trơn!
Tức là cái nghiệp của mình còn dày quá! Trí huệ của mình còn mỏng quá! Chính vì
sợ rằng trước những giờ phút ra đi niệm câu A-Di-Đà Phật không được! Nên mới âm
thầm, thật sự ra, hổm nay âm thầm vạch ra chương trình để quyết lòng tu. Khi
lập chương trình tu như vậy thì muốn hô hào cho các vị đồng tu tham gia. Nhưng tham
gia được hay không chẳng sao cả. Những người nào bận đi làm việc thì cứ việc đi
làm. Tu theo không được cũng không sao, cứ tu đều đều như vậy. Chỉ có những
người nội trú trong Niệm Phật Đường, thì bắt buộc phải tham gia toàn thời trong
những ngày tu tinh tấn đó. Còn các vị ở ngoài thì có thể sáng Chủ Nhật tới tu
tinh tấn, tu xong rồi tối về như thường lệ. Ngày tiếp theo, tức là ngày thứ hai
không tham gia cũng không sao, cứ tối lại chúng ta vào tu, tu rồi ra về.
Chúng tôi cũng đã dự định rằng, hễ có nhiều
người thì tu nhiều người, không có người nào tham gia, những ngày tinh tấn đó
giả sử như chỉ có một mình Diệu Âm, thì Diệu Âm cũng quyết lòng vẫn tu như vậy.
Tức là, ngày đó là ngày tịnh khẩu, chỉ cần chư vị vào đây tịnh khẩu niệm Phật
để hỗ trợ cho nhau là được. Nếu chúng ta không lập hạnh vững vàng thì sợ rằng
chúng ta sẽ không qua được ách nạn!...
Tôi nhớ cách đây cỡ chừng mười năm hay
mười một năm, tôi có xem một cuộn DVD quay lại một vị Pháp Sư ở bên Trung Quốc.
Ngài lặng lẽ rời ngôi chùa, rời tất cả đại chúng, không báo cho một ai biết
hết. Một túi gạo, một con dao, một hộp quẹt, một bình nước và một số lương
khô... rồi lặng lẽ rời chùa đi thẳng vào núi, tức là cứ hướng tới ngọn núi đó
mà đi thẳng thẳng vào, đi suốt suốt suốt vào trong ngọn núi, một mình như vậy
mà đi. Ngài đã âm thầm tu trong núi sâu suốt mười năm trường, quyết lòng không
liên lạc với đại chúng. Mười năm sau, có một vị đại úy người bắc Hàn, được một
vị Thần tới báo mộng, nói: “Ông hãy
dẫn đại đội của ông đi về phía nam, cứ vào trong núi đó để mà cứu một người”...
Ông đại úy đó không chịu đi. Ngày hôm sau
vị Thần đó lại đến báo mộng cho ông ta lần nữa, “Anh phải dẫn đại đội của
anh đi thẳng vào hướng nam, tới vùng núi đó để cứu một người”.
Ông ta cũng không đi. Ngày thứ ba thì vị Thần
đó kêu ông ta dậy, cũng trong mộng, “Ngày hôm nay nhất định ông phải đi,
đem đại đội đi vào trong núi đó cứu một người”.
Ba ngày liên tục như vậy. Thì sáng sớm hôm
sau, ông đại úy đó mới dẫn một đại đội đi thẳng vào núi. Đi từ sáng, ban đầu
thì đi bằng xe, vào núi, xe chạy không được nên để xe lại... Đi sâu vào trong
núi. Đi đến chiều luôn cũng không thấy. Đi ngày thứ hai cũng không thấy. Đi đến
ba ngày, thì ngày cuối cùng họ đã gặp một người với đầu tóc râu ria giống như
một người ở thời thượng cổ. Họ bắt về. Người này nói tiếng Hoa được. Khi bắt về
xong rồi thì mới biết ông này gốc là một nhà Sư. Lúc Thầy bỏ chùa đi chỉ có ba
mươi tuổi mà thôi. Khi bị bắt, thì Thầy đã 40 tuổi.
Bắt về xong, họ thấy ông này dơ dáy, bẩn
thỉu!... Thôi! Cho tắm rửa, cạo râu, cạo tóc… rồi kêu bên Trung Quốc trả lại.
Khi bên Trung Quốc nhận người đó về rồi thì tin đó được tung ra. Lạ thật! Cái
nơi mà nhà Sư đó ở tự nhiên phát triển lên. Thực ra, có lẽ tại vì nghe tin lạ
quá, khắp nơi người ta ùa tới... nào là xe bus, nào là xe đò, nào là quán xá...
nổi lên một cách nhộn nhịp. Cuộc sống tại nơi đó tự nhiên phát triển nhanh lên.
Sau đó, bên Bắc Hàn muốn đòi người đó lại, vì nói rằng người này là người được
họ bắt về. Thế nhưng bên Trung Quốc không chịu trả lại. Vô tình nhà Sư đó đã
làm cho cả tỉnh đó được phồn thịnh lên. Đây là một sự thực. Mắc cười quá!
Quý vị thấy không? Lập Hạnh!...
Thường tại vì ta sợ rằng làm không được, cho nên ta làm không được! Chứ nếu mà
ta lập hạnh chuyên chí tu hành, quyết lòng niệm Phật. Xin thưa với chư vị,
trong kinh có nói: “Quang trung hóa Phật
vô số ức. Hóa Bồ-Tát chúng diệc vô biên”. Trong kinh
Thập-Vãng- Sanh, Phật có nói, người nào phát tâm niệm Phật, có 25 vị Bồ-Tát kèm
sát bên cạnh người đó, để hộ trì cho người đó.
Chính vì ta không đủ lòng tin, nên sợ rằng
ta tu như vậy thì mệt quá, ta xỉu đi. Quý vị không biết đâu, 25 vị Bồ-Tát!...
Trong một lần ngài Tịnh-Không nói:
- Quý
vị tu... mà quý vị bị chết đói, chẳng lẽ các vị Bồ-Tát đó mất chức sao? Ngài nói như vậy.
Cho nên chúng ta phải biết tin, niềm tin
phải vững vàng. Nếu thật sự đi về Tây Phương thì phải phát tâm nguyện mạnh mẽ
lên... Phải tu hành!
Mấy ngày hôm nay chúng ta đưa ra chương
trình công cứ. Cái mức công cứ đầu tiên đưa ra chỉ có năm ngàn một ngày. Nếu so
với những chỗ khác thì mức này còn quá tệ! Ấy thế mà có người khi nghe tới năm
ngàn thì dội! Tôi nói:
- Nếu nghe năm ngàn mà dội, thì con
đường vãng sanh của chúng ta thật sự vẫn còn quá xa vời! Xa vời!...
Ngài Tịnh-Không nói rằng, quý vị niệm
Phật, niệm một ngày tới mười vạn tiếng, là một trăm ngàn câu, liệu rằng chưa
chắc tu suốt đời mà cái nghiệp của mình đã giải được. Ấy thế mà chúng ta mới
đặt ra có năm ngàn câu Phật hiệu một ngày, mà có nhiều người làm không tới! Thì
hôm nay Diệu Âm xin thưa thực với chư vị, hãy cố gắng quyết lòng bằng cái khởi
điểm là năm ngàn đi. Năm ngàn, một thời gian rất ngắn thôi, rồi tăng lên đi...
Mười ngàn. Nếu không lo cái huệ mạng của mình, nhất định vạn kiếp bị trầm luân,
chắc chắn chúng ta không cách nào đổ thừa cho ai được hết.
Hôm qua mình có nói mà, tắt máy lạnh một
chút mình nhức đầu chịu không nổi. Đi xuống địa ngục, lửa cháy bừng bừng thiêu
đốt cả ngàn vạn kiếp như vậy!... Dưới địa ngục có “Thiết Sàng”. Thiết
sàng là cái giường đốt nóng lên, rồi bắt tội nhân để trên đó cho cháy tan ra. Tại
sao người ta đốt mình như vậy? Có phải là mình bắt con cá rô, mình bắt con cá
lóc... để lên trên cái vỉ sắt mà nướng nó không? Ở dưới địa ngục có những loài
quỷ họ bắt mình liệng trong chảo nước sôi, liệng vào trong chảo dầu sôi, sự
thực có phải mình đã từng bắt con cua liệng trong chảo dầu không? Đúng như vậy
mà!... “Nhân-Duyên Quả-Báo tơ hào không sai!”...
Ta đã làm cái chuyện này, ta phải trả cái
nợ này. Ta mà sơ ý xuống địa ngục... nhất định ta phải trả, trả từng chút từng
chút, gọi là “Tơ
hào không sai”. Trong cái duyên, khi chúng ta còn
làm kiếp người, chưa gặp quả báo địa ngục, thì cái duyên này, cái cơ hội này
nhất định ta phải trân quý, phải tranh thủ từng thời gian, đừng để phải xuống
địa ngục. Nếu không, nhất định những nghiệp báo này ta phải trả hết, đó gọi là
“Nhân-Duyên Quả-Báo”.
Xuống địa ngục thì cái duyên này hợp với những quả ác, nhất định tất cả những
cái nhân ác sẽ nở thành quả ác... Nhất định chúng ta sẽ phải trả từng cái, từng
cái, từng cái… Trả cho đến khi nào hết mới thôi, gọi là “Lũy kiếp nan
xuất”, không thể nào ra được!...
Biết được đạo lý này, xin thưa với chư vị,
hãy phát tâm tu hành vững vàng. Một câu A-Di-Đà Phật thành tâm mà niệm sẽ phá
tan cho ta 80 ức kiếp nghiệp chướng sanh tử trọng tội. Nếu ta không thành tâm
niệm, hôm nay niệm, ngày mai không, đấy chỉ là niệm giả thôi, không phải niệm
thật! Bữa nay nguyện vãng sanh, về nhà chúng ta cạnh tranh ganh tỵ... toàn là
nguyện giả mà thôi! Chắc chắn vì chúng ta không muốn vãng sanh! Không muốn vãng
sanh thì oan gia trái chủ cũng biết rằng mình vẫn còn cái tâm ác trong đó, nếu
anh còn ở đây, thì một ngày nào đó anh cũng sẽ giết chúng sanh để ăn thịt. Chắc
chắn họ sẽ chuẩn bị tất cả những gì cần thiết để đòi lại cho được cái nợ gọi là
nợ xương máu đối với họ. Nhất định!...
Chính vì vậy, chư Tổ thường khuyên chúng
ta phải cố gắng Lập Hạnh để mà đi. Chúng ta Lập Hạnh đi, thì 25 vị Bồ-Tát sẽ ở
sát bên ta giúp đỡ cho ta, chúng ta vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, một đời
thành đạo.
Xin chư vị cố gắng đi thành
đạo, đừng đi xuống địa ngục. Xuống địa ngục thì không có ai cứu ta được nữa
đâu!
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 15)
Nam Mô A-Di-Đà Phật
“Tu là tu thật, chứ không phải
là tu thử”. Có nhiều người hay nói tu thử! Tu thử thì
có tu hành nhiều tới đâu cũng vô ích!...
Chúng ta ở đây kết nhóm với nhau niệm Phật
là chúng ta tu thật. Xin chư vị đừng nên tới đây tu thử. Tại vì tu thử tức là
trong tâm của ta không có định hướng, thấy người ta tu vui vui, mình tới tìm
vui chứ không phải là tu. Ngài Tĩnh-Am dặn chúng sanh tu phải có phát tâm.
Chúng ta ở đây phát tâm niệm Phật là hướng đi đã được xác định. Phát tâm rồi
nhưng mà không lập hạnh thì phát tâm này cũng là phát tâm thử! Chính vì phát
tâm thử, nên rất nhiều người tu hành sau cùng không có thành tựu.
Chúng ta biết rằng, khi mình chết đi nhất
định không phải là hết. Nếu mà hiểu đạo thì rõ rệt, nói thẳng thắn ra, là cái
thân xác này chúng ta bỏ, chứ còn “Chính Ta” không bỏ đi đâu
hết. Ở trước cửa kia có chiếc xe của anh Phước, cái xe bị hư anh Phước bỏ chiếc
xe, chứ anh Phước vẫn còn, chị Nhung vẫn còn. Ta tu là để khi ta liệng cái xác
này, ta được giải thoát. Nếu không xác định được rõ rệt như vậy, thì chúng ta
tu cũng chỉ là tu thử! Thật sự, có thể nói rằng hơn 90% người tu hành trong
thời này thường là tu thử!...
Nhiều người khi nghe có lễ lộc thì đi tới
chùa thử coi. Khi tới thì nhìn vô thử coi! Nhìn vô thử coi xong rồi... À! Như
vậy là ta tu rồi đó! Tu rồi thì ra phía sau nhập vào bàn cờ tướng, nhập vào tờ
báo, nhập vào nhóm ca nhạc... Tất cả những thứ đó nhất định sẽ lôi kéo chúng ta
lại. Có nghĩa là, trong cuộc đời này dù cho có tới chùa nhiều như thế nào đi
nữa, dù cho hình thức tu hành hay như thế nào đi nữa, đọa lạc vẫn bị đọa lạc
như thường!...
Chính vì vậy, Niệm Phật Đường này lập ra
là để dành cho những người tu thật. Xin thành tâm kêu gọi tất cả mọi người,
chúng ta hãy thực tâm tu hành, vì cái huệ mạng ngàn đời ngàn kiếp mà đến đây
niệm Phật. Từ đây cho đến tương lai, nhất định đạo tràng này không làm lễ,
không tụ hội, không cờ xí, không quảng cáo... Chỉ âm thầm lặng lẽ niệm Phật.
Nhất định tu thật.
Trong kinh Đại-Tập, Phật nói: “Đời mạt pháp vạn
ức người tu, khó tìm ra một người chứng đắc. Chỉ có những người nào phát tâm niệm
Phật mới vượt thoát ra khỏi cảnh luân hồi”.
Nghe theo lời Phật, nên chúng ta đóng cửa
tu hành. Đóng cửa tu hành trong thời mạt pháp này có nghĩa là cố gắng xa lìa
những nơi đông đảo, hội náo. Đó là lời Phật dạy trong kinh Bửu-Tích. Thời mạt
pháp này, nếu không biết lặng lẽ tìm nơi an tịnh để niệm Phật, thì nhất định
chúng ta sẽ thất bại!
Ngày hôm qua chúng ta đưa ra hình ảnh một
vị pháp sư trốn tất cả thế gian, đi thẳng vào trong rừng sâu, lặng lẽ tu một
mình mười năm trường. Những ngày đầu tiên Ngài gặp rất nhiều khó khăn, nhưng
nhất quyết không lui. Khi lương thực hết, thì tự nhiên có những loài khỉ, những
loài chim chúng lại đem thức ăn tới cho Ngài. Khi bị bắt ra rồi, Ngài mới có 40
tuổi. Ngài đứng lên nói lại những chuyện đó.
Chúng ta không dám làm chuyện đó đâu, vì
thật sự đây là những người đặc biệt mới làm nổi. Chúng ta chỉ kêu gọi tất cả
mọi người cố gắng, quyết lòng, đã tu thì nhất định tìm một cách tu nào vững
vàng để thành tựu cho được. Còn không, thì xin thưa, nạn sanh tử luân hồi vẫn
còn nguyên vẹn, không cách nào thoát ly! Ở đây chúng ta đang hô hào tăng thêm
thời gian tinh tấn niệm Phật, đây là một sự tập sự để đến khi mãn báo thân này,
nhất định khi nằm xuống, trước những giờ phút lâm chung ta niệm được câu
A-Di-Đà Phật.
Chúng ta nên nhớ, nghiệp chướng của chúng
ta quá nặng! Đừng nghĩ rằng một người nào đó đưa vào bệnh viện bị mê man bất
tỉnh, còn mình thì không đến nỗi như vậy. Không phải! Nó chưa đến đó thôi. Khi
đến rồi, nhiều khi chính mình còn bị nặng hơn nữa! Muốn giải quyết chuyện này
thì phải làm sao? Trong kinh Phật có dạy rằng, vãng sanh có “Ý
Niệm Vãng Sanh”.
Ý Niệm Vãng Sanh là như thế nào? Là người đó khi lâm chung bị nghiệp chướng
đánh họ, bị chướng nạn làm cho họ mê man bất tỉnh, nhưng mà trong tâm của họ âm
thầm niệm Phật trong đó mà mình không hay. Nếu làm được chuyện này thì người đó
được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, theo cái diện “Ý Niệm Vãng Sanh”.
Ta niệm Phật như thế này?... Chưa chắc!
Xin thưa thật với chư vị, chưa chắc gì ta sẽ giải hết tất cả những ách nạn. Mà
ta có thể bị mê man bất tỉnh! Muốn trong khi mê man bất tỉnh đó mà ta niệm câu
A-Di-Đà Phật, thì không có gì khác hơn là ngay từ bây giờ phải mau mau tỉnh ngộ
đường tu, quyết lòng trì giữ câu A-Di-Đà Phật.
- Những
chuyện thị phi, ganh tỵ, câu chấp... của thế gian nhất định phải buông ra.
- Những cái lo lắng, sầu bi,
khổ sở... nhất định phải buông ra.
- Những cái này phải buông ra,
buông ra, buông ra... Mỗi ngày mỗi buông, mỗi ngày mỗi buông. Tập buông... Phải
buông liền để cho những cái đó không dính vào tâm của mình, thì khi nằm xuống
mới niệm Phật được.
Trong tất cả những ngày trước khi lâm
chung, mình huân tập câu A-Di-Đà Phật, huân tập cho đến nhập vào tâm luôn. Nếu
không nhập vào tâm được, thì ít ra cũng phải thành một thói quen, gặp bất cứ
chuyện gì cũng trả lời bằng câu A-Di-Đà Phật. Thì khi ta gặp đại nạn đến, ta
gặp oan gia trái chủ đến, ta gặp những chướng nạn của cận tử nghiệp... tâm ta
vẫn giữ được câu A-Di-Đà Phật. Cố gắng niệm Phật, thành tâm niệm Phật. Cứ câu
A-Di-Đà Phật mà niệm, chư Thiên-Long Hộ-Pháp, chư Bồ-Tát gia trì cho chúng ta
trong lúc đó.
- Nhân Quả của chúng ta... thân chúng ta
trả. Đường về Tây Phương… tâm chúng ta đi.
Cho nên nhân quả cứ trả trên cái thân này,
còn cái tâm này vẫn giữ câu A-Di-Đà Phật để niệm.
Ngài Tĩnh-Am khuyên chúng sanh phải “Lập
Hạnh”. “Lập Hạnh” là như thế nào? Ví dụ, chúng ta đưa ra
chương trình “Công Cứ Niệm Phật”. Lập công cứ niệm Phật chính
là “Lập Hạnh”. Tại vì, nếu chúng ta không niệm Phật, thì đừng nghĩ rằng có mười
người, hai mươi người ở Niệm Phật Đường A-Di-Đà này đến chung quanh cái xác của
ta, họ hộ niệm cho ta thì ta được vãng sanh. Hoàn toàn không phải! Nếu quý vị
đã nghe qua những lời Diệu Âm nói trước đây, hoàn toàn không phải như vậy! Mà
bắt buộc người nằm đó, người bệnh đó phải niệm câu A-Di-Đà Phật, phải nguyện
vãng sanh, phải quyết lòng đi về Tây Phương dù với bất cứ hoàn cảnh nào, nếu
được người hộ niệm tới hỗ trợ tích cực nữa, thì ta mới dễ được vãng sanh. Nếu
lúc đó ta chìm đắm trong một cảnh giới nào đó, dẫu cho một ngàn người đến hộ
niệm đi nữa, nhất định cũng không thể vãng sanh!
Quý vị nên nhớ rằng, ngài Lương Võ Đế là
một đại Hoàng Đế, Ngài triệu tập được cả hàng ngàn vị Tăng, đại Tăng, tới hộ
niệm cầu siêu cho người vợ thứ của Ngài, thì kết quả nhiều lắm cũng chỉ lên một
cảnh trời trong Dục-Giới là cùng, trong khi phước đức của Ngài bỏ ra hộ pháp
cho Phật pháp có thể nói là bao trùm cả thế giới. Cái phước đức lớn như vậy,
cộng thêm một ngàn vị đại Tăng như vậy, mà cứu chỉ được lên một cảnh Trời mà
thôi. Trong khi đó, nếu chỉ cần năm người, mười người đồng tu đứng chung quanh
chúng ta niệm Phật, hộ niệm, nếu mình niệm Phật được thì mình về tới Tây Phương
Cực Lạc để thành đạo Vô-Thượng. Cái giá trị này lớn đến cỡ nào?...
Xin thưa với chư vị, tu phải biết đường rõ
rệt, tu phải hiểu đạo rõ rệt. Phải nắm vững những nguyên tắc này: Muốn được
A-Di-Đà Phật đến cứu độ mình, nhất định “Tự Lực” mình phải lo trước. Tự lực là
gì? Đối với pháp môn niệm Phật, xin thưa là: Tín-Hạnh-Nguyện,
không có gì khác. Nếu Diệu Âm nói rằng: “Quý vị lập công cứ niệm
Phật một tuần thì phải “Nhất tâm bất loạn”, nói như vậy, quý vị có thể đánh giá
rằng Diệu Âm đã sai lầm! Sai lầm vì không ứng hợp căn cơ. “Nhất
tâm bất loạn” là hợp Lý, bắt người ta phải “Nhất
tâm bất loạn” là không hợp Cơ! Vì
chính Diệu Âm này cũng không có khả năng niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, thì
làm sao dám nói với chư vị niệm Phật nhất tâm bất loạn?!...
Nhưng mà Diệu Âm nói rằng, chư vị ơi!
Ráng niệm Phật lập công phu. Trong công cứ chỉ khuyến tấn rằng, khởi đầu một
ngày hãy niệm năm ngàn câu A-Di-Đà Phật. Số lượng năm ngàn câu A-Di-Đà Phật
thật sự quá ít! Ta chỉ cần bỏ ra một tiếng đồng hồ là có thể niệm được. Thế mà
chúng ta không chịu niệm! Không chịu niệm thì ban hộ niệm cũng đành bó tay! Tại
sao chúng ta không niệm năm ngàn câu được? Tại vì không chịu
Lập-Hạnh!
Cách đây mấy ngày, có một người tới đây
xin chúng tôi hộ niệm. Tôi nói, Cụ về sáng ra nguyện: “Nam Mô A-Di-Đà
Phật, xin Phật cho con được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc”, rồi niệm
Phật ghi vào bảng công cứ, cố gắng một ngày Cụ niệm năm ngàn câu A-Di-Đà Phật.
Cụ đó nói: “Niệm
nhiều quá như vậy, tôi niệm không được!”. Tôi trả lời thẳng thắn rằng: “Cụ
niệm không được, thì chúng tôi cũng không thể hộ niệm cho Cụ vãng sanh về Tây
phương Cực Lạc” được.
A-Di-Đà Phật muốn cứu tất cả chúng sanh,
không bỏ một người nào hết. Nhưng tự mình không chịu đi, đường đi không vững,
lập hạnh không vững, niệm Phật chơi chơi!... Ở đây thì niệm Phật, về nhà xin
chư vị tự xét mình thử coi, trong lúc rảnh rỗi mình có niệm Phật hay không? Hay
là trong lúc rảnh rỗi mình coi Ti-Vi, mình coi phim chưởng, mình kình cãi, mình
nói chuyện này chuyện nọ?... Nếu vậy, thì rõ ràng, tâm của mình là tâm luân hồi
lục đạo, thì A-Di-Đà Phật cũng đành buông tay không có cách nào có thể cứu mình
được.
Chỉ cần phát tâm niệm Phật, quyết lòng
niệm Phật, quyết đi về tới Tây Phương Cực Lạc. Xin thưa thực, có ban hộ niệm ở
tại Việt Nam người ta trợ duyên được một trăm mấy chục người vãng sanh chỉ
trong vòng mấy năm trường. Tại sao được vậy? Tiêu chuẩn của họ đưa ra cho những
người trong ban hộ niệm là các thành viên phải niệm mười ngàn câu A-Di-Đà Phật,
phải niệm mười lăm câu A-Di-Đà Phật, hai chục ngàn câu A-Di-Đà Phật một ngày.
Có nhiều người niệm trong một tháng, hai tháng thì người ta đã đạt được tiêu
chuẩn đó rồi. Khuôn mặt của họ tự nhiên càng ngày càng sáng sủa ra. “Pháp
hỷ sung mãn” rõ rệt.
Thật sự người niệm Phật có chư Thiên-Long
bảo vệ, có các vị Bồ-Tát gia trì, A-Di-Đà Phật phóng quang gia trì cho những
người niệm Phật. Thế mà chúng ta lại bỏ sự gia trì đó để đi theo con
đường lục đạo, làm sao mà được thoát nạn?!...
Nam Mô A-Di-Đà Phật
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 16)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Từ lúc chúng ta biết được phương pháp hộ
niệm mới thấy được người vãng sanh, và khi thấy người vãng sanh rồi mới giật
mình tỉnh ngộ rằng con người chúng ta sống trên đời này, khi chết đi bị đoạ lạc
nhiều quá mà chúng ta không hay. Phải nói là khi biết được chuyện này rồi,
nhiều lúc suy nghĩ lại mình sợ mà rịn mồ hôi trán ra!
Sở dĩ con người bị đoạ lạc nhiều quá là
tại vì nghiệp chướng sâu nặng quá rồi, không còn cách nào có thể vượt thoát cái
ách nạn trong thời mạt pháp này. Con người cứ nhìn thấy những gì hiển hiện
trước mắt thì cho đó là đúng, không biết chuyện đọa lạc, nên chúng sanh cứ tiếp
tục rơi vào những cảnh khổ vô cùng vô tận, hãi hùng vô cùng mà không hay!
Sở dĩ như vậy, là tại vì đã là nghiệp
chướng sâu nặng mà không biết tu. Rất nhiều người không tu. Đời mạt pháp này
không tu thì chắc chắn phải bị nạn! Trong khi đó thì có người cũng tu mà thường
lại tu thử. Đây cũng là điều thực tế, cứ đi dạm hỏi thì biết. Nhiều người tu
thử lắm! Có nghĩa là, thấy người ta tu mình tới để coi thử? Cứ đứng xa xa để
nhìn thử?
Cũng có những người tu thực chứ không phải
tu thử, họ quyết tâm tu nhưng lại không có hướng tu rõ rệt, gọi là tu mà không
biết đường đi, thành ra suốt cuộc đời tu hành của họ cũng không thành tựu được
gì cả. Những dạng người này cứ thấy người này tu như thế này, mình chạy theo.
Rồi thấy người khác tu cách khác, mình cũng chạy theo. Thấy người này đưa ra
phương pháp này, mình chạy theo. Thấy người khác đưa ra phương pháp khác, cũng
chạy theo...
Hòa Thượng Tịnh-Không nói, “Theo một
thầy thì có một đường, theo hai thầy thì có hai đường, theo ba thầy thì có ba
đường, theo bốn thầy thì có bốn đường”... Ấy thế mà có nhiều người theo cả
hàng chục thầy, thì như đứng giữa ngã ba đường, cuối cùng phân vân không biết
đường nào mà đi? Bên cạnh đó, oan gia trái chủ cài bẫy giăng giăng khắp nơi,
nhất định không để cho mình lựa chọn con đường thoát ly sanh tử luân hồi.
Hay hơn nữa là người tu hành có đường đi,
có hướng rõ rệt. Nhưng lại không chịu “Lập
Hạnh”. Tức là biết đường đi, biết điểm về nhưng mà không chịu
đi, hoặc đi chập chững, gọi là không chịu lập hạnh. Không chịu lập hạnh thì
việc tu hành cũng giống như người tu mà không có hướng. Tức là đến sau cùng họ
có thể hưởng được một chút ít phước báu nào đó trong đời sau mà thôi.
Khi hiểu được chút ít đạo rồi thì mình mới
thấy có điều này. Tức là trong đời này mình tu hành tốt, nhưng nếu không được
thành tựu, không được giải thoát tam giới, thì những công đức, phước báu mà
mình tu được trong đời này nó chỉ cộng thêm vào những phước báu mình đã có
trong vô lượng kiếp.
A-lại-da thức của ta nó giống như một cái
thùng, cái thùng chứa vô đáy... Cái khổ là ở chỗ này! Chứ nếu mà ta tu tốt như
vậy mà đời sau ta hưởng ngay được cái phước này, thì có thể ta được sung sướng.
Nhưng khổ một nỗi, là khi lâm chung cái tâm của mình đã bị mê rồi, những cái
chướng nạn của mình nó ngăn cản rồi, phước mình tu trong đời này nó trộn lộn
xộn trong cái thùng chứa đó, rồi nó khởi lên nhân nào mình đi theo cái nhân
đó...
Cho nên, nhiều khi người tu tốt, có tạo
phước, nhưng sau cùng lại hưởng cái quả xấu là sở dĩ do cái điểm này. Nghĩa là,
cuối cùng mình không hưởng được cái phước mình đã tu. Cái phước mình tu được đó
có thể trở thành cái nhân trong vô lượng kiếp về sau, trong khi đời này cái
nhân ác lại hiện ra. Một khi nhân ác hiện ra, thì nó đưa ta vào trong tam ác
đạo làm ta bị lãnh những cái quả xấu ác, những cảnh đau khổ!... Còn cái phước
mình tu trong đời này sẽ chờ cái duyên, hoặc cho đến khi nào ta vượt qua tam ác
đạo rồi mới hưởng. Nó khổ là khổ chỗ này!
Trở về với chuyện tu hành của chúng ta,
xin thưa thực với chư vị, niệm Phật vãng sanh về Tây Phương là lời của đức
Thích-Ca-Mâu-Ni Phật dạy cho chúng sanh trong thời mạt pháp. Ngài nói rõ rệt, thời
mạt pháp chỉ còn có niệm Phật mới thành tựu. Không niệm
Phật không thể thành tựu.
Vì sao vậy?
- Vì nghiệp chướng của chúng sanh trong thời mạt pháp nặng vô cùng.
- Vì căn cơ của chúng sanh
trong thời mạt pháp hạ liệt vô cùng.
- Vì đức độ của người trong
thời mạt pháp mỏng vô cùng.
Chính vì nghiệp chướng sâu nặng, căn cơ hạ
liệt, đức độ mỏng manh, nên bắt buộc chúng sanh phải nương theo đại lực của
A-Di-Đà Phật mới có hy vọng thoát vòng sanh tử.
Mà nương như thế nào? Xin nhắc lại, không
tu thì bị đọa lạc, tu thử cũng chẳng qua gieo được chút duyên nào đó trong vô
lượng kiếp về sau, trong thời gian vô lượng kiếp mình vẫn có thể bị đọa lạc. Tu
đúng đường nhưng mà đi không tới, thì rốt cuộc nhiều lắm, gọi là nhiều lắm chứ
không phải chắc chắn, là hưởng được một ít chút phước báu nào đó trong cảnh
nhân thiên là cùng, vẫn có thể bị đọa lạc...
Nếu thực sự muốn được vãng sanh về Tây
Phương Cực Lạc, thì cố gắng Lập Hạnh.
Những lời nói này chẳng qua là khai triển
ba cái tư lương của pháp môn niệm Phật chứ không có gì khác: “TÍN-NGUYỆN-HẠNH”.
Tín thì chúng ta nói nhiều rồi, những người chưa tin phải tin,
phải tin đi, tin mau mau đi. Nếu chần chờ, không tin mau mau, tức là cứ để
chừng nào thấy rõ ràng rồi mới tin, thấy người ta vãng sanh rồi mới tin, đòi có
được chứng minh rồi mới tin... thì nhiều khi suốt cuộc đời mình không bao giờ
gặp được một sự chứng minh đâu! Vì sao vậy? Vì niềm tin bạc nhược! Niềm tin bạc
nhược thì không khởi được thiện căn phước đức. “Tín
năng trưởng dưỡng chư thiện căn”.
Niềm tin của mình không mạnh, thì trưởng dưỡng thiện
của mình không được, mà thiện căn của mình không trưởng dưỡng
được, thì không có cái duyên để gặp được hiện tượng vãng sanh đâu!...
Cho nên, khi Phật nói mình phải tin, nhất
định phải tin. Khi niềm tin mình vững vàng rồi thì tự trong tâm mình khởi ra
trí huệ, tự trong tâm mình khởi ra công đức, khởi ra thiện căn... tự nhiên mình có cơ hội để gặp. Xin thưa
thực với chư vị, một lần điện thoại về Việt Nam là một lần tự nhiên tôi thấy
hứng khởi lên và muốn đem cái lòng hứng khởi này nói cho chư vị biết là thực sự
người ta vãng sanh nhiều lắm. Không phải là ít đâu! Từ trước tới giờ chúng ta chưa
thấy được hiện tượng này đâu à, mà bây giờ hiện tượng người ta vãng sanh bất
khả tư nghì. Họ vãng sanh bất khả tư nghì, nên ta nhất định phải tin tưởng.
Chỉ có tin tưởng được vậy thì bao nhiêu sự nghi ngờ xóa tan hết.
Đối với pháp môn niệm Phật, thì “Tin Tưởng” ví như có chiếc thuyền. Muốn
qua cái bể khổ ta phải có chiếc thuyền. “Phát
Nguyện” là
có cái bánh lái. Ta phải phát nguyện cho vững vàng. Đừng có phát nguyện hết
bệnh, đừng có phát nguyện được trí huệ gì cả. Hãy phát nguyện vãng
sanh về Tây Phương là
nhất định ta phải đi về cho tới Tây Phương, tức là cái bánh lái của ta phải lái
thẳng về Tây Phương. Đừng có lái con đường nào khác... Hãy lái thẳng tới Tây
Phương Cực Lạc, đó gọi là “Nguyện”.
Con thuyền đã có, bánh lái đã có. Còn “Hạnh” thì sao? Hạnh
chính là Lập Hạnh! Ngài Tĩnh-Am nói dễ hiểu vô cùng. Hạnh là Lập hạnh. Lập hạnh
là hãy ráng sức mà chèo, chèo một ngày hai chục tiếng đồng hồ, ráng sức mà
chèo. Vợ con, bạn bè... cùng nhau trên thuyền mà chèo, chèo cho nhanh lên. Chèo
nhanh để ta vượt qua cho được cái biển khổ mênh mông này. Nếu mà chèo chậm chạp
thì con thuyền chúng ta qua đoạn đường này không nổi. Nếu có thuyền rồi, có
bánh lái rồi, mà không chèo thì con thuyền chúng ta cũng cứ dập dềnh, dập dềnh
tại bể khổ này, sau cùng nó cũng sẽ chìm xuống bể khổ này mà thôi! Chúng ta về
Tây Phương không được.
Đối với “Lập Hạnh”, Diệu Âm thấy rằng chúng ta
nên cố gắng. Đã tu thực thì ráng mà đi về Tây Phương chư vị ơi! Tôi biết rằng
có người có thể một năm, hai năm, có người có thể mười năm, có nhiều người mới
nói vậy mà tháng sau đã đi rồi... Trong một tháng đã đi rồi mà cái “Hạnh”
chúng ta chưa tốt, câu A-Di-Đà chưa nhập tâm, chúng ta còn lơ là... Thôi chịu
thua rồi! Lúc đó chịu thua! Oan gia trái chủ đã chận hết rồi. Cho nên, đừng bao
giờ nói để tháng sau tôi mới niệm Phật... Không đâu ạ! Đây là lời nói của oan
gia trái chủ đó! Họ khiến mình nói như vậy đó! Tại vì họ biết rằng mười hai
ngày nữa là mình phải chết rồi đó chư vị! Vì thế, họ nói là mình chưa chết, mà
hãy chần chừ... chần chừ cái đã!...
Cho nên trong vấn đề lập hạnh
niệm Phật này, giả sử những vị mắc bận đi làm, thì một ngày có thể dành một
tiếng, một tiếng rưỡi, dành trọn thời gian đó để niệm Phật. Trong một tiếng
rưỡi niệm Phật như vậy, chúng ta có thể niệm được năm ngàn câu A-Di-Đà Phật
rồi! Còn nếu người già rồi, đã bệnh rồi, đã “pension” rồi không còn đi làm nữa
rồi…Trời ơi! Thời gian này là thời gian thích đáng để chúng ta niệm Phật. Đừng
có chần chừ nữa. Tôi nói thật, tôi sắp xếp tất cả những thời gian, tại vì xin
thưa, chư vị mà thấy tôi làm việc, tôi làm việc suốt ngày, nhiều khi trưa ngủ
một chút mà cũng chập chờn... Tại vì nhiều chuyện quá đi, tôi muốn cắt mà cắt
không được. Đúng là cái số của tôi là số bất phước!...
Phải lập công cứ. Khi mà công chuyện đã ổn
ổn rồi, tôi sẽ quyết lòng đóng cửa lập công cứ để tu. Tại vì tôi biết rằng chắc
chắn cái huệ mạng này của tôi không ai có thể cứu được. Nếu tôi không niệm
Phật, nếu không có lập hạnh ra để niệm Phật ngày đêm, tôi sợ rằng chưa chắc gì
đã vượt qua ách nạn của cái nghiệp khổ mà tôi đã tạo ra trong vô lượng kiếp!
Chính cá nhân của Diệu Âm này, trước khi biết tu đã tạo nhiều điều sai lầm vô
cùng! Giết hại sinh vật quá nhiều, bắn chim quá nhiều, suốt cá quá nhiều, làm
những chuyện vô cùng tai hại. “Nhân duyên quả báo tơ
hào không sai”. Nghĩ đến chuyện đó mình không
cách nào tu lơ là mà có thể vượt qua ách nạn.
Thế nên xin thưa với chư vị, hổm nay chúng
ta hô hào chuyện lập hạnh, thực ra là để tự mình cứu mình mà cố gắng đi.
Nếu không thương mình, thời gian nhiều quá mà không chịu niệm Phật. Ở đây chính
phủ nuôi mình ăn, mình không làm cũng không chết đói mà không chịu niệm
Phật!... Ở nhà mình nếu có người bệnh, thì mình ráng mà niệm Phật với người nhà
của mình để cứu người nhà của mình! Năm ngàn hãy niệm thêm năm ngàn nữa đi, thành
mười ngàn. Rồi mình cũng niệm mười ngàn nữa đi để kéo người nhà theo. Nhờ như
vậy mà tất cả chúng ta đều đi về Tây Phương hết.
Xin thưa thực, với cách tu như thế này,
đối với những pháp môn khác thì không bao giờ có một chút hy vọng nào vượt qua
tam giới đâu à! Nhưng mà với cách tu như thế này, niệm Phật, ăn ở hiền lành
thôi... A-Di-Đà Phật quyết thề sẽ đưa ta về tới Tây Phương để ta thành đạo
Vô-Thượng. Quý vị ơi! Quý vô cùng.
Nguyện cho chư vị hiểu được những chỗ này
mau mau phát tâm niệm Phật, tự mình phát tâm đừng đợi ai mời, đừng chờ ai nhắc
nữa hết. Vì chính mình lo trước cho mình, đừng để mất phần vãng sanh.
Đã tới đây rồi mà để mất phần
vãng sanh thì oan uổng lắm chư vị ơi!...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 17)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Trước khi vào tu thì sư huynh Tiên nói
rằng, Diệu Âm có cái phước nói pháp. Bây giờ ngồi trước chư vị, xin đính chính
lại, là Diệu âm này không có biết nói pháp, mà đây chỉ là những cuộc tọa đàm
giải thích vài điều căn bản cho nhau. Theo phương pháp niệm Phật của
Tịnh-Độ-Tông, chư Tổ đều khuyên rằng, một buổi cộng tu cần có một thời gian
ngắn mười, mười lăm phút, một vị đại diện có những lời hướng dẫn cụ thể để sau
một thời gian tu tập tất cả mọi người cộng tu đều có hướng đi rõ rệt và khỏi bị
lạc đường. Vì phương pháp tu tập đưa ra như vậy, chúng ta phải cố gắng làm
theo, chứ không phải Diệu Âm nói pháp đâu.
Trở lại đề mục chúng ta đang triển khai,
đó là tu hành cần phải “Khế Lý - Khế Cơ”.
“Khế
Lý” là hợp với “Lý Đạo”. “Khế
Cơ”
là hợp với “Sự Đạo”. Trong đó niệm câu A-Di-Đà
Phật, phát tâm niệm Phật, là hợp với “Lý Đạo”. Trong kinh điển, đức
Thế-Tôn luôn luôn dạy chúng sanh trong thời mạt pháp này phải niệm Phật. Ngài
Quán-Thế-Âm cũng dạy phải niệm Phật. Ngài Đại-Thế-Chí cũng dạy phải niệm Phật.
Tất cả chư Bồ-Tát đều dạy chúng sanh trong thời mạt pháp phải niệm Phật! Như
vậy, niệm Phật là “Khế Lý”, hợp với lý đạo. Niệm Phật là niệm ngay chơn
tâm tự tánh chúng ta, vì đúng theo lý đạo thì chính cái chơn tâm chúng ta là
Phật. Chúng ta niệm A-Di-Đà Phật là để cho chơn tâm tự tánh chúng ta khởi dậy,
hiện ra, cũng giống như là một viên ngọc ở trong bùn, bây giờ chúng ta tìm cách
bươi lên để cho nó phát quang ra. Cho nên, niệm Phật là hợp với Lý Đạo.
Còn mình triển khai phương pháp hộ
niệm triệt để, thật kỹ càng là Khế Cơ, hợp với căn cơ. Tại vì chơn tâm
tự tánh chúng ta là Phật, nhưng ta vẫn là phàm phu không thành Phật được! Sở dĩ
như vậy, là vì nghiệp chướng đã quá nặng, căn cơ của chúng ta quá yếu,
tự mình niệm Phật để cho chơn tâm tự tánh hiển lộ không nổi! Nếu chúng ta sơ ý
cho rằng, chơn tâm tự tánh chúng ta là Phật thì niệm Phật sẽ dễ dàng hiển lộ,
dễ dàng chứng đắc, sẽ nhất tâm bất loạn... thì chẳng khác gì mình đang chờ mong
nhìn thấy “Hoa đốm giữa hư
không”.
Danh từ “Hoa đốm giữa hư không”
đức Thế-Tôn đã nói trong kinh Viên-Giác. Chính vì vậy, ta phải áp dụng phương
pháp hộ niệm.
Tại sao phải áp dụng phương pháp hộ niệm?
Vì ta niệm Phật không có khả năng được Nhất Tâm Bất Loạn! Muốn
được nhất tâm bất loạn trong thời này, thì nói thẳng rằng, phải
là hàng thượng căn, thượng trí, đại Bồ-Tát mới làm nổi. Ta không phải là đại
Bồ-Tát, cũng không phải là tiểu Bồ-Tát, mà lại là phàm phu chính hiệu nữa, thì
chờ đến ngày được nhất tâm bất loạn, chẳng khác gì chờ
thấy hoa đốm giữa hư không! Trên hư không làm gì có hoa trên đó? Chẳng qua là
những đám mây lúc tan lúc hợp đổi thay vô thường!...
Ấy thế, mà ngài Tịnh-Không nói, chúng ta
không phải Bồ-Tát. Chúng ta chỉ là Bồ-Tát giả, nhưng biết thành tâm quyết lòng
niệm Phật, thì Bồ-Tát giả này được A-Di-Đà Phật tiếp độ về Tây Phương, Bồ-Tát
giả này thành Bồ-Tát thật. Mà Bồ-Tát thật ở trên cõi Tây Phương thì khi nhìn
lên bầu trời trên cõi Tây Phương có những lộng hoa đẹp lắm! Hằng ngày có những
lộng hoa rất to, rất đẹp, lơ lửng lơ lửng trên không. Mà lạ thay, lộng hoa đó
cuống thì ở trên còn mặt hoa thì ở dưới, nhờ thế ở dưới mình nhìn lên mới thấy
hoa. Rồi hoa đó cứ từng đốm, từng đốm, từng đốm rơi... rơi... rơi xuống dưới
đất. Khi Mình đi khi đạp lên thì nó lún xuống, khi mình giở chân lên thì tự
nhiên cái hoa nó trở lại như cũ. Nó có sự đàn hồi. Đẹp vô cùng!...
Cho nên, ở đây mà nói hoa đốm giữa hư
không thì phiêu phỏng hão huyền! Về trên Tây Phương mình thấy rõ rệt có hoa đốm
giữa hư không, được chư Bồ-Tát cúng dường, A-Di-Đà Phật dùng thần lực của Ngài
hóa hiện để cúng dường cho tất cả chúng sanh ở trên đó. Đẹp vô cùng.
Chính vì vậy, vấn đề khế cơ, tức là hợp
với căn cơ rất quan trọng. Trong đó pháp hộ niệm là đại hợp căn cơ cho người tu
học trong thời mạt pháp này. Vì sao vậy? Vì những người hạ căn hạ cơ như chúng
ta, nếu không nhờ phương pháp hộ niệm này, nhất định một ngàn người tu, một vạn
người tu, tìm không ra một người chứng đắc! Đây là lời Phật dạy.
Chính vì thế, xin chư vị khi bắt đầu niệm
Phật, hãy khởi cái tâm ra, hãy phát cái tâm thật vững vàng, quyết định một đời
này về tới Tây Phương Cực Lạc. Nhất định đừng nghĩ rằng:
- Mình tu, để kiếm chút phước.
Nhất định những câu nói này sai lầm!
- Đi tu, để tìm chút vui vẻ. Nhất định những câu nói này
sai lầm!
- Đi tu, tới chùa người ta tu
sao mình tu vậy.
Nhất định những câu nói này sai lầm!
Vì toàn bộ những lời nói này không ứng hợp
lý đạo, không ứng hợp căn cơ. Lý đạo không hợp, vì đức Bổn Sư Thích-Ca-Mâu-Ni
Phật dạy chúng ta niệm Phật để vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nếu ta
phát tâm vững mạnh nhất định đời này ta phải đi về Tây Phương Cực Lạc thì ta
ứng hợp lý đạo, đúng theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích-Ca-Mâu-Ni Phật. Ta quyết
lòng đi về Tây Phương Cực Lạc là hợp với đại nguyện của đức A-Di-Đà Phật, ta
mới về được Tây Phương Cực Lạc để thành đạo Vô-Thượng.
Nếu hàng vạn người bên ngoài nói rằng, tu
cho vui, mình cũng tu cho vui, thì nhất định không hợp lý đạo. Người ta nói bữa
nay tu cái này cho lạ một chút, ngày mai tu cái kia cho lạ một chút, thì nhất
định đã sai với căn cơ. Tại vì, đi không có đường, về không có hướng!
Nhất định sau cùng khi nằm xuống, tức là lúc trước khi chết, sẽ phân vân vô
cùng, mơ hồ vô cùng! Không biết đường nào đi? Chắc chắn ta phải tùng nghiệp thọ
báo. Oan gia trái chủ nhất định sẽ cản ngăn tất cả những con đường giải thoát,
bắt buộc ta phải chịu nạn! Xin chư vị chú ý điểm này.
- Hợp Lý là Khế Lý.
- Hợp Cơ là Khế Cơ.
Có nhiều người vì không để ý chuyện này,
thường chỉ nêu lên vấn đề “Khế Lý”, đem những lý đạo
cao siêu giảng cho hàng chúng sanh mê muội như chúng ta. Ngài Ấn-Quang nói:
- Giảng kinh thuyết đạo mà không hợp với căn cơ, không những không đem
ích lợi gì cho chúng sanh, mà còn làm cho họ vọng tưởng.
Vì khi giảng về lý đạo thì nghe hay lắm!
Vì hay quá nên dễ đam mê! Mê vào trong đó mà thực sự thì làm không được! Làm không
được thì cũng giống như ở cõi Ta-Bà này cứ cố hướng mắt nhìn lên trên mây để
tìm hoa đốm. Trên đó hoa đốm đâu có mà tìm? Chỉ thấy những đám mây kết lại,
thành những hình ảnh vô thực hão huyền, lúc tan lúc hợp, huyễn mộng vô thường!
Không thể nào thành tựu được!
Trở lại vấn đề khế cơ là hộ niệm. Xin chư
vị cố gắng nghiên cứu thật nhiều về pháp hộ niệm. Xin nói thật, không có nơi
nào nói về hộ niệm nhiều, đầy đủ, mà còn chi tiết như ở Niệm Phật Đường A-Di-Đà
này.
Tại sao cần hộ niệm? Tại vì trong suốt thời
gian niệm Phật này, nghiệp chướng của mình phá không được, cái tâm của mình
cũng chưa vững, sự tham chấp của mình vẫn chưa rời ra! Nên khi mình nằm xuống
những thứ đó nó quyện lấy mình, không cách nào tự mình có thể giải tỏa được.
Chính vì vậy nhờ người hộ niệm ở bên cạnh, người ta nhắc nhở mình:
- Chị
ơi! Hồi giờ chị thương đứa cháu lắm phải không? Nhất định, nếu bây giờ chị còn
thương đứa cháu, thì vì đứa cháu mà chị bị đọa lạc. Mau mau xả liền. Nếu không
xả thì vô tình vì đứa cháu mà chị đọa lạc. Đứa cháu đó gián tiếp làm cho chị
đọa lạc, nên nó cũng liên quan chịu nạn luôn. Như vậy thương đứa cháu, nhưng mà
thương như thế nào cho đúng? Phải niệm Phật để về Tây Phương. Về Tây Phương thì
khi đứa cháu mình lâm chung, mình trở về đây tìm cách hộ niệm cho nó, cứu nó về
lại Tây Phương. Cứu nó tức là mình thương đứa cháu đó.
Mình tham tiền bạc? Lúc đó, người hộ niệm
nói:
- Chị
ơi! Bây giờ tiền bạc không cứu được chị nữa rồi. Phải buông ra. Nếu mình đang
cho ai vay 20.000 đô-la, hãy mạnh dạn liệng đi. Nếu không muốn liệng, thì hãy
thông báo cho con cái biết đi, để chúng nó tìm người đòi lại cho chị. Nếu nó
đòi không được thì mình cũng phải liệng đi nhé, mình tha cho người ta đi, mình
cho người ta đi. Cho tiền thì khỏi bị tai nạn, gọi là “Tản tài tiêu tai”. Tiêu
tai là mình khỏi bị chướng nạn. Nhờ cái phước đó mà mình được về Tây Phương. Hãy mạnh dạn buông ra.
Pháp hộ niệm là phương pháp dạy chúng ta
tập tính buông xả chuyện thế gian ra. Buông cho càng nhiều ra, ráng mà buông
ra.
Hôm trước gặp bác Hội, Bác đang lập cái
Niệm Phật Đường. Tôi hỏi, sao rồi Bác? Bác nói:
- Trời ơi! Phước báo tôi không có, bây
giờ lập lên nó khổ muốn chết luôn! Khổ muốn điên cái đầu luôn!.
Rõ ràng, lập lên một cái Niệm Phật Đường
khó dữ lắm chư vị ơi! Không phải là đơn giản đâu à! Mình tới tu thì không sao,
mà người lập đó thì gặp nhiều khó khăn lắm! Khó như vậy thì bây giờ làm sao?
Khi nằm xuống, cái Niệm Phật Đường cũng phải buông luôn. Được như vậy thì mới
về Tây Phương được. Chính vì vậy, chư Tổ nói, “Đến lúc nằm xuống thì vạn duyên
cũng phải buông”. Chúng ta muốn vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc thì
bây giờ vạn duyên phải buông, buông cho nhiều đi, để sau cùng thì còn những gì
sơ suất, ban hộ niệm sẽ giúp cho mình...
- Mình thương cái gì, người ta gỡ ra.
- Mình ghét cái gì, người ta gỡ ra.
- Mình còn bận tâm cái gì, người ta năn nỉ
mình... người ta vỗ về mình... rồi người ta niệm Phật bên cạnh mình.
Lúc đó mình mới mạnh dạn, kiên cường,
không sợ đau, quyết lòng niệm câu A-Di-Đà Phật. Nhất định, xin thưa thực, chỉ
cần niệm mười câu Phật hiệu thôi chúng ta đi về Tây Phương.
Đây là con đường chúng ta thành đạo! Xin
chư vị hiểu được những điều này, quyết lòng tới đây thực tâm niệm Phật để vãng
sanh về Tây Phương. Con đường tu thẳng tắp như vậy, đừng nên chao đảo,
đừng nên lơ là...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 18)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Tu là quyết tu cho thành tựu. Chúng ta ở đây niệm Phật là quyết lòng
trong báo thân này được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Về được Tây Phương Cực
Lạc là thành tựu!
Trong những ngày qua, chúng ta hô hào,
động viên tất cả chư vị quyết lòng tu thực, không nên tu thử. Vì trong nhân
gian bây giờ hiện tượng tu thử rất nhiều. Chín mươi phần trăm, có thể hơn nữa,
thường là tu thử. Tại sao gọi là tu thử? Vì họ không mong ngày thành tựu. Những
người gọi là tu đó, họ không cần thành tựu gì hết. Thấy người ta tu mình cũng
tu. Thấy người ta làm gì mình bắt chước làm theo. Một tháng, một năm, một tuần
tu một bữa hai bữa, vậy gọi là tu!?...
Đạo tràng ở đây chúng ta quyết lòng phải tu
cho thành tựu. Có nghĩa là tu thực chứ không phải tu thử. Mong chư vị xác định
lập trường cho kỹ, đã đến đạo tràng này tu thì quyết lòng phải đi cho tới nơi.
Nếu không, chắc chắn trong suốt cuộc đời niệm Phật sau cùng rồi cũng không
hưởng được gì cả. Muốn biết rằng mình tu thử hay tu thực thì mình lấy ngay Tín-Hạnh-Nguyện
của pháp môn niệm Phật ra soi thì biết liền...
Trong mấy ngày hôm nay, chúng ta nói
nhiều, rất nhiều về vấn đề “Lập Hạnh”. Nếu mình
lập hạnh được thì chứng tỏ mình tu thực. Nếu mình không lập hạnh tức là tu chơi
chơi! Tu tà tà! Tu lấy lệ!... thì những ngày giờ đến đạo tràng này sẽ trở nên
vô ích!
Nhất định tu là tu cho chính mình, đừng
nên tu cho đạo tràng. Nhất định tu là vì cái huệ mạng ngàn đời ngàn kiếp trong
tương lai của chúng ta, chứ không được tu vì vị nể một người nào hết.
“Lập Hạnh” nghĩa là sao? Bắt buộc
phải xây dựng nấc thang mình đi cụ thể. Ví dụ như trong những ngày qua mình đưa
ra cái công cứ và công cứ khởi điểm đầu tiên là năm ngàn câu A-Di-Đà Phật trong
một ngày. Nếu mình thấy rằng năm ngàn câu niệm Phật nhiều quá, nhất định cuối
đời này vấn đề vãng sanh Tây Phương Cực Lạc không ai dám bảo đảm cho mình được
hết! Tại vì năm ngàn câu A-Di-Đà Phật chỉ cần bỏ ra một tiếng đồng hồ là chúng
ta niệm xong. Trong khi bệnh hoạn đến nơi rồi! Chúng ta hầu hết trên 60 tuổi
rồi, gần 70 tuổi rồi mà năm ngàn câu A-Di-Đà Phật niệm không tới! Hai năm nữa,
ba tháng nữa, bảy tháng nữa... chúng ta chết, ai bảo đảm cho chúng ta tránh
được sự đọa lạc trong ba đường ác đây? Nghiệp chướng quá nặng rồi! Trong nhiều
đời nhiều kiếp chúng ta làm nhiều tội lỗi quá chừng rồi! Trong khi đang tu hành
như thế này nhưng chúng ta vẫn tiếp tục, hình như vẫn tiếp tục tô bồi cái núi
tội chướng ngày càng lớn trong đó!!!...
Vì sao vậy?... Phân biệt, Chấp
trước, Thị Phi, Ganh Tỵ, Tức giận, Buồn rầu, Lo sợ...
Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi... đầy đẫy, ta phá không được. Trong khi
ở đây mỗi ngày đều có niệm Phật, nhiều người hằng ngày đến đây niệm Phật, dù có
niệm hằng ngày như vậy vẫn chưa phá hết được nghiệp chướng, huống chi là người
một tuần lễ một ngày, nhiều khi hai tuần lễ một ngày, nhiều khi nửa đi nửa ở và
thường thường tới đây niệm Phật cũng không có nhiếp tâm, thì làm sao mà có thể
phá được?...
Nghiệp chướng trùng trùng này là cái nhân
của chúng ta bắt buộc ta phải trả quả báo. Việc này A-Di-Đà Phật cứu ta không
được.
Trong mấy ngày qua chúng tôi nói rất nhiều
về chuyện lập hạnh,
đưa ra công cứ và tha thiết kêu gọi mọi người tham gia. Quý vị biết
không? Ngài Tĩnh-Am Đại Sư khi kêu gọi Phật tử niệm Phật, Ngài quỳ xuống chắp
tay lại… Quý vị chưa thấy sự tha thiết của các vị Tổ đâu. Ngài quỳ xuống, Ngài
chắp tay lại, Ngài thưa với đại chúng rằng:
- Vì vấn đề sanh tử của chúng ta, nó
quá nguy hiểm rồi!...
Vì quá thương chúng sanh nên Ngài chắp tay
lại, rơi nước mắt ra mà nói:
- Chư
vị ơi! Xin lập hạnh, xin niệm Phật liền! Nếu mà
chư vị không lập hạnh, không niệm Phật thì không ai có thể cứu được.
Dù rằng A-Di-Đà Phật phát một lời thề niệm mười niệm trước giờ phút
lâm chung Ngài tiếp độ về Tây Phương. Nhưng quý vị có biết không? Nghiệp chướng
như núi Tu-Di rồi, khi nằm xuống mê man bất tỉnh trong bệnh viện rồi... Một câu
A-Di-Đà Phật niệm không được!
Ngài nói mà Ngài rơi nước mắt ra... Bữa
nào tôi đưa những bài đó cho quý vị xem. Tại sao Ngài phải như vậy? Vì Ngài
thương chúng sanh quá! Chúng sanh không chịu niệm Phật, Ngài cứu không được.
A-Di-Đà Phật phát một lời thề rất là đơn giản:
“Chúng sanh ráng niệm danh hiệu
của ta, mười câu A-Di-Đà Phật
mà
nguyện vãng sanh Tây Phương trước giờ phút ra đi, nếu Ta không đem về Tây
Phương để chư vị thành đạo Vô-Thượng, Ta thề không thành Phật!”...
Nhưng mà hầu hết, chín trăm chín mươi chín
phần ngàn chúng sanh không niệm được câu A-Di-Đà Phật! Chắc chắn. Chư vị cứ đi
thăm dò thử coi! Hãy vào bệnh viện một ngày thử coi? Hỏi bác sĩ thử coi? Những
người nào trước giờ phút ra đi mà được tỉnh táo, nói chuyện được? Có phải trong
một vạn người mê man may ra mới có một người nói chuyện được không? Rồi một
người nói được đó, hỏi thử người ta có niệm câu A-Di-Đà Phật hay không?...
Xin thưa, không đâu ạ! Chính vì vậy mà
trùng trùng lớp lớp chúng sanh khi chết đi bị đọa lạc. Con người khi chết đi bị
đọa lạc quá nhiều mà không hay! Trong khi ở đây, chúng ta lập Niệm Phật Đường
quyết tâm đóng cửa âm thầm quanh năm niệm Phật, trong tương lai chúng ta còn
tiến mạnh hơn nữa để quyết lòng đi cho tới Tây Phương Cực Lạc. Tức là càng ngày
việc tu hành tinh tấn của chúng ta càng tăng. Những người nào tham gia được cứ
việc tham gia, những người nào không tham gia được thì tự họ phải chạy theo,
chạy không được thì đuối hơi ráng chịu, chứ không cách nào có thể quay lại chờ
nhau được.
Trong cuốn “Khuyên Người Niệm Phật” tôi khuyên bạn bè rằng,
nhất định giữ Tín-Nguyện-Hạnh mà đi, giống như một con thuyền cắt
sóng xẻ nước mà đi. Sau đó, theo những đường sóng rẽ, những con thuyền khác,
những người khác muốn đi thì cứ theo đó mà đi, nhất định ta không được quyền
quay trở lại chờ nhau, vì quay trở lại chờ nhau, chúng ta không còn kịp thời
gian để đi tới đích.
Trong mấy ngày qua, tôi khuyên rằng, chúng
ta phải khởi đầu ngay lập tức đi. Ngày hôm nay khởi đầu liền. Những người bệnh
thì chắc chắn phải lo khởi đầu liền, vì đã bệnh xuống rồi tức là không biết
ngày nào mình ra đi? Bệnh tim, thì ngày hôm nay mình nói oang oang, nhưng ngày
mai có thể bị ngất xỉu rồi, bị đột quỵ rồi... Thôi chịu thua! Không ai cứu được
nữa!...
Cho nên phải lo cho chính mình, năm ngàn
mà niệm không được? Chịu thua!... Một tháng sau tăng lên bảy ngàn đi, hai tháng
sau phải tăng lên tám ngàn đi, mau tăng lên tới đơn vị là mười ngàn câu A-Di-Đà
Phật. Mười ngàn câu A-Di-Đà Phật thực ra chỉ niệm hai tiếng đồng hồ là xong.
Trong ba tháng sau hãy tăng lên mười lăm ngàn đi...
Tự mình tăng lên. Vì huệ mạng của mình mà tăng. Chứ không phải vì cái Niệm Phật
Đường này mà tăng. Chứ không phải vì cái lời xúi giục này mà tăng.
Nếu chư vị không quyết lòng đi như vậy thì
chịu thua! Nhất định, thay vì ta được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, ta không có
cách nào thoát vòng sanh tử được. Vì oan gia trái chủ của chúng ta đang chờ
từng giây từng phút để hãm hại cái huệ mạng của ta, chư vị có hay không? Tại
sao có nhiều người tu ba, bốn chục năm mà sau cùng bị mê man bất tỉnh trên
giường, không vãng sanh được? Là vì không chịu lập hạnh. Một tuần ở
đây chỉ có một ngày tinh tấn, một ngày đó mà còn nói chuyện, mà âu sầu, mà lo
lắng... thì làm sao có công đức để phủ lấp một tuần lễ ở nhà cạnh tranh, ganh
tỵ, tạo nghiệp?...
Chính vì vậy mà mỗi ngày mỗi ngày cái núi
nghiệp chướng của chúng ta càng lớn ra, trong khi cái công đức chúng ta gửi về
Tây Phương thực ra mỏng manh, quá ít, thì làm sao mà có thể vãng sanh về Tây
Phương được? Ở đây chúng ta nói về hộ niệm, là để tận sức cứu độ từng người
đồng tu, từng người có duyên vãng sanh về Tây Phương. Nhưng nên nhớ, bắt buộc
người đó làm sao trước giờ phút lâm chung phải niệm được câu A-Di-Đà Phật, làm
sao trước giờ phút lâm chung nghe được lời hướng dẫn, nghe được những người hộ
niệm tới khai thị. Nếu mà bị mê man bất tỉnh trong bệnh viện, thì Niệm Phật
Đường A-Di-Đà này chịu thua rồi! Xin thưa, đức A-Di-Đà Phật cũng chịu thua luôn
rồi! Chư Thánh Chúng trên cõi Tây Phương cũng chịu thua rồi!
Làm sao để khỏi bị mê man bất tỉnh? Phải
lập công cứ lên, xin quyết lòng niệm Phật. Nhất định từ đây mở tờ báo ra để làm
gì? Đọc tờ báo ba chục phút thì ta niệm được ba ngàn câu A-Di-Đà Phật, tại sao
không niệm? Vì huệ mạng ngàn đời ngàn kiếp mà chúng ta cứ thả cái huệ mạng theo
những thứ trần lao, vô thường... Uổng vô cùng!
Thà rằng chúng ta không biết con đường về
Tây Phương thì thôi khỏi cần bàn thêm! Giống như hàng vạn người tu thử... Nghĩa
là, tới chùa giả đò lạy lạy mấy cái rồi ra nhập vào bàn cờ tướng, lạy lạy mấy
cái rồi ra nhập cuộc karaoke, lạy lạy mấy cái rồi ra nhập vào bốn, năm người
trò chuyện... Nếu tu như vậy thà rằng ở nhà. Chứ tu như vậy để làm chi? Sau
cùng cũng bị đọa lạc, ích lợi gì đâu? Cho nên ngài Tịnh-Không, quý vị biết
không? Khi mà Ngài ra một thông báo Ngài nói thế này: “Tịnh-Không
tôi quỳ xuống lạy chư vị...”. Ngài nói như
vậy đó! Tại sao vậy? Ngài nói mà muốn khóc luôn!... Vì chúng sanh không chịu
nghe, không chịu đi. Trùng trùng điệp điệp con người chết đi, đi vào đọa lạc
Ngài cứu không được. Là tại vì người ta không chịu tu, người ta không chịu niệm
Phật.
Chư vị ơi! Con đường đọa lạc nằm ngay
trước mũi bàn chân. Nếu chúng ta không tu thì sẽ lún xuống dưới hầm lửa. Nếu
chúng ta chịu tu, chỉ cần bắt đầu từ đây hạ thủ công phu liền. Người bệnh hạ
thủ công phu theo người bệnh, quyết lòng tranh từng hơi thở để niệm Phật. Người
khỏe cũng tranh từng hơi thở để niệm Phật. Mình có công đức thì mới cứu được
người bệnh. Người bệnh đó phải quyết lòng niệm Phật để cảm thông với chư Phật,
cảm thông với oan gia trái chủ thì mới thoát nạn được. Chúng ta cùng nhau phải
làm như vậy, thì chúng ta mới cứu nhau được. Cứu chính mình và cứu người khác.
Con đường đi về Tây Phương ở ngay trước mắt.
Còn nếu chúng ta ỷ y, cứ tưởng rằng tu là
tới đây một vài lần như vậy thì đủ! Xin thưa nhất định chúng ta bị nạn!...
Vì muốn cứu tất cả mọi người, nên trong
những ngày này tôi tha thiết nói chỗ này và trong tương lai chuẩn bị bắt đầu tu
hành. Chúng tôi sẽ tăng thêm thời gian tu hành, tăng thêm tinh tấn niệm Phật.
Và đề nghị rằng, ngày chủ nhật tuần tới sẽ bắt đầu liền. Bắt đầu như thế nào?
Cũng vẫn tu y hệt như vậy, nhưng mà những người nội trú trong Niệm Phật Đường
bắt đầu từ 0 giờ tối tịnh khẩu, tịnh khẩu suốt cho tới 0 giờ, tức là 12 giờ đêm
hôm sau. Chư vị đồng tu ở ngoài tới tu một ngày, một ngày tu xong 9 giờ tối. 9
giờ không phải ra ngoài nói chuyện, mà vẫn tiếp tục im lặng cho tới khi ra khỏi
Niệm Phật Đường xong thì coi như chấm dứt. Còn những người ở lại đây, nhất định
phải tịnh khẩu. Tức là chúng ta bước vào trong khuôn viên Niệm Phật Đường trong
ngày đó thì phải tịnh khẩu, chứ không phải đợi tới 9 giờ lên hành lễ rồi mới
tịnh khẩu. Chúng ta tập sự lần, chuẩn bị tương lai tới hai ngày đúng 48 tiếng
đồng hồ tịnh khẩu. Có lập hạnh như vậy chúng ta mới giải được ách nghiệp. Còn
nếu không, cứ đem so sánh với người ở ngoài kia, tại sao người ta ca hát được
còn mình thì không?... Người ta ca hát được thì một vạn người đó không có một người
nào giải thoát đâu! Ta ở đây không ca hát, im lặng như tờ, để một người tới đây
tu là một người có hy vọng vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Ta đang theo tiêu chuẩn của ngài Ấn Quang
Đại Sư, “Một đạo tràng thành tựu là một đạo tràng có người vãng sanh về Tây
Phương Cực Lạc, chứ không phải là một nơi có hàng vạn người lui tới mà suốt
cuộc đời của họ không có một người nào được thoát vòng sanh tử luân hồi”.
Vì cái huệ mạng của chúng ta,
vì cứu cái huệ mạng của mình, xin chư vị tha thiết, rơi nước mắt mà tha
thiết... Phải tu như vậy, đáp ứng như vậy để chúng ta quyết lòng thành tựu!...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 19)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Để mình thật sự tinh tấn trong tương lai,
thì Chủ Nhật tuần này mình phải thực hiện liền.
Tức là thay vì tịnh khẩu từ 9:00 giờ,
trước khi hành lễ cho đến 9:00 giờ tối, thì đề nghị là chúng ta bắt đầu tịnh
khẩu từ lúc 12:00 giờ đêm suốt cho đến 12:00 giờ đêm hôm sau luôn. 24 tiếng
đồng hồ này chỉ dành cho những vị nội trú trong Niệm Phật Đường thôi, còn chư
vị ở ngoài vào thì không có vậy. Quy định được yêu cầu là khi bước vào cổng thì
chúng ta không nói chuyện cho đến khi bước ra khỏi cổng. Nếu chư vị nào muốn
tham gia một ngày đúng 24 tiếng đồng hồ có thể tới đây trước 9:00 giờ tối ngày
hôm trước, ở lại đây tu, rồi ngủ lại đây luôn. Tu xong chúng ta về phòng nghỉ,
trong suốt khoảng thời gian đó có thể niệm Phật hoặc im lặng, không được nói
chuyện. Nếu ngủ không được thì có thể chúng ta niệm Phật suốt đêm. Nếu đêm đó
chúng ta muốn vào trong Niệm Phật Đường này để niệm Phật thì rất là hoan
nghênh, nghĩa là chúng ta có thể niệm Phật suốt đêm. Một đêm không sao hết,
chắc chắn ngày hôm sau sẽ pháp hỷ rất là sung mãn.
Trong những ngày này chúng ta hô hào
chuyện phát tâm lập nguyện. Vì thực sự nhìn cho rõ ra thì cái huệ mạng của mình
quá nguy hiểm rồi, không phải đơn giản đâu! Nếu mình tu mà không có lập nguyện,
thì nhiều khi mình bị liệt vào cái hạng người tu thử, tu tà tà, tu lai rai, tu
chơi chứ không phải tu thực! Nếu bị liệt vào cái hạng người đó, thì thường
thường là nghiệp chướng của mình nặng lắm rồi! Đến lúc lâm chung xuống sợ rằng
ta cự với nó không được, mà ngược lại nó hành hạ ta cho đến mê man bất tỉnh,
cho đến tâm trí quay cuồng, lúc đó có hộ niệm cũng đành chịu thua!
Cho nên trước tiên mong muốn chư vị cố
gắng lập công cứ. Ở đây chúng tôi có cái công cứ gọi là “Cửu Phẩm Liên Đài
Vãng Sanh Tịnh Độ”, chúng ta có thể phát tâm nhận về làm. Đây giống như cái
nấc thang cho mình đi vậy.
- Mình không dám nói chuyện với người
ta tại vì mình trân quý từng chút thời giờ.
- Mình không dám ngồi trước bàn
cờ tướng vì mình trân quý câu A-Di-Đà Phật.
- Mình không dám nghĩ này nghĩ
nọ thì cái tâm sẽ nhiếp vào trong câu A-Di-Đà Phật.
Tập sự được như vậy thì trước những giờ
phút ra đi mình có hy vọng được “Tâm bất điên đảo”, tâm không bị khủng bố, không bị não
loạn, vì trong tâm của mình luôn luôn xuất hiện câu A-Di-Đà Phật. Và mình niệm
liên tục, niệm cho đến cái giây cuối cùng trước khi mình tắt hơi ra đi vẫn còn
tiếng Phật hiệu. Sau đó cái tâm thức của mình vẫn tiếp tục niệm Phật.
A-Di-Đà Phật phát cái đại thệ rằng, Người
nào trước lúc lâm chung niệm danh hiệu của Ngài cầu vãng sanh về Tây Phương,
dẫu cho mười niệm mà không được vãng sanh về Tây Phương thành vị Bồ-Tát bất
thối chuyển ở đó, Ngài thề không thành Phật.
Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư nói rằng, Một
người nào mà thành tâm niệm Phật, một ngày niệm được 30.000 câu A-Di-Đà Phật, cứ giữ cái mức này mà niệm, đến cuối đời mà không được vãng sanh thì
chư Phật trên mười phương nói lời vọng ngữ. Ngài nói như vậy!
Ngài Thiện-Đạo cũng nói như vậy. Ngài đưa
ra cái tiêu chuẩn 30.000 ngàn câu. Người nào thành tâm niệm 30.000 câu Phật
hiệu một ngày, mà đến lúc lâm chung không được vãng sanh chẳng lẽ chư Phật mười
phương chịu tội vọng ngữ sao?.
Các Ngài khẳng định cho ta niệm Phật tới
mức độ đó, nói chung từ sáng đến chiều, từ chiều đến sáng chúng ta hoan hỷ cái
tâm của mình, vui tươi cái tâm của mình trong tiếng Phật hiệu, tự nhiên khuôn
mặt càng ngày càng sáng ra, nghiệp chướng càng ngày càng tiêu đi, tự nhiên bao
nhiêu những ách nạn, những khó khăn gì của mình trong đời nó biến đi hồi nào
không hay! Rồi khi đối trước cơn hấp hối, cái bệnh khổ hình như nó không còn
hiện hình nữa. Lúc đó mình mới thấy rõ rệt là một câu A-Di-Đà Phật mà chí thành
niệm đã phá tan 80 ức kiếp nghiệp chướng sinh tử trọng tội. Một câu chí thành
mà niệm được trong lúc lâm chung thì một người tội đọa xuống địa ngục A-Tỳ được
đi thẳng về Tây Phương thành đạo luôn.
Cái năng lực này không có cái gì có thể
sánh bằng được. Có nhiều người khi bệnh xuống thì sợ bệnh, lo chạy đọc kinh này
đọc kinh nọ, đọc chú này đọc chú nọ để giải nghiệp. Tốt hay xấu? Tốt! Chứ không
xấu. Nhưng thực sự chư Tổ đã nói: “Đọc kinh không bằng niệm chú, niệm chú
không bằng niệm Phật”. Đọc chú nhiều lắm là xóa cho mình cái
nghiệp đó, còn vạn cái nghiệp khác ai xóa đây? Còn niệm Phật xóa được nghiệp
thì tốt. Không xóa được cũng không sao, vẫn có thể vượt về tới Tây Phương Cực
Lạc. Nên nhớ rằng, dù phá được nghiệp nhưng ta vẫn còn trong sanh tử luân hồi,
vì cái nghiệp của mình đã “Năng địch Tu-Di” rồi! Mà phá làm chi? Hãy
gói lại là được rồi. Lấy câu A-Di-Đà Phật gói lại. Cái năng lực của câu A-Di-Đà
Phật đưa một người phàm phu, đưa một chúng sanh tội lỗi từ địa ngục A-Tỳ lên
tới Tây Phương Cực Lạc. Ấy thế có nhiều người niệm Phật mấy chục năm rồi mà
chưa chịu hiểu đến chỗ này!... Chính vì vậy, khi tu hành cần phải hiểu cho liễu
nghĩa, hiểu cho rõ lý đạo để chúng ta áp dụng đúng đắn thì mới được vãng sanh
về Tây Phương.
Chủ yếu cái chương trình chúng ta nói về “Khế
Lý - Khế Cơ” là như vậy! Hiểu lý của
Phật nhưng chúng ta áp dụng không đúng, nhiều khi vẫn bị trở ngại. Với hạng
phàm phu tục tử như chúng ta, nếu chúng ta chú tâm diệt nghiệp thì không cách
nào diệt được. Vì sao vậy? Vì trong lúc muốn diệt nghiệp tức là sợ nghiệp, sợ
nghiệp chính là duyên với nhiều nghiệp khác. Cố tình diệt cái nghiệp này thì
cái nghiệp khác nó tràn ra, “Duyên khởi trùng trùng”.
Chúng ta diệt không nổi! Nếu chúng ta không sợ nghiệp, chúng ta sẵn
sàng đón nhận tất cả những nghiệp đến, nó đến nhiều ta chịu nhiều, nó đến ít ta
chịu ít, an nhiên tự tại đi. Trong lúc đó là lúc tâm ta an nhiên niệm câu
A-Di-Đà Phật. Câu A-Di-Đà Phật đi trên cái nghiệp đó, bao cái nghiệp lại. Thành
ra, là một người phàm phu tục tử, nhưng nhờ đại lực của A-Di-Đà Phật, đại
nguyện của A-Di-Đà Phật đưa ta về Tây Phương. Tuyệt vời vô cùng.
Chính vì vậy mà phát nguyện, lập nguyện
hay vô cùng, tốt vô cùng. Nếu không lập nguyện coi chừng tưởng là tu giỏi,
nhưng mà không đâu ạ! Oan gia trái chủ sẵn sàng tới sát bên mình, âm thầm, lặng
lẽ chờ đến lúc lâm chung mới ra tay. Một sáng một chiều thì chịu thua, không
còn cách nào có thể cứu vãn được nữa!
Liên quan tới chuyện lập nguyện, Diệu Âm
nhớ ra một câu chuyện như thế này, có thực. Diệu Âm kể chư vị nghe thử để coi
cái nguyện của mình như thế nào?...
Đó là khoảng năm 2003-2004 gì đó, thì ngày
đó là cái ngày tiễn đưa anh Bốn (Anh Phước) đi về Mỹ, nên mới để cái đồng hồ
báo thức reng lên lúc hai giờ rưỡi, mà quên đi không lấy lại. Đêm đó ngủ, hai
giờ rưỡi nó reng lên. Thông thường thì bốn giờ rưỡi mới reng, vì bốn giờ rưỡi reng thì tôi thức dậy
rửa mặt, vệ sinh, xong đi đi vào trong Tịnh-Tông-Học-Hội lạy Phật, rồi năm giờ
rưỡi ra tụng kinh với người ta.
Đêm đó là một đêm trăng sáng vằng vặc. Hai
giờ rưỡi đồng hồ reng lên, tôi thức dậy rửa mặt đánh răng, rồi lủi thủi mở cửa,
âm thầm đi ra ngoài đường, cầm xâu chuỗi trên tay cứ niệm “A-Di-Đà Phật,
A-Di-Đà Phật” đi vô trong Tịnh Tông, chứ không coi giờ. Đường thì vắng
teo, ánh trăng sáng vằng vặc, lại có mưa phùn phùn nữa… Khi tới cổng của Tịnh
Tông thì cửa còn đóng.
Tôi lấy làm lạ! Ủa tại sao kỳ vậy? Từ
trước đến nay, tới giờ này thì cửa đã mở rồi, tại sao bây giờ người mở cửa lại
quên đi? Cái cổng đó rộng lắm, nên tôi lách qua được, vì tôi nhỏ con mà. Lách
một cái, chen vô để vào bên trong. Khi tôi vừa vô bên trong rồi, thì có một
chuyện xảy ra làm tôi ngỡ ngàng, giật mình!...
Có một ông Cụ trên 70 tuổi, ông trải cái
khăn tắm(?) ra giữa đám cỏ trước căn liêu phòng số 18, ở giữa trời gần mấy cái
gốc cây bự mà lạy Phật… Cứ niệm “A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật”... Vừa
niệm vừa lạy.
Lúc đó, tôi vô đúng là ba giờ. Vì thường
khi tắm rửa xong, tôi vô đó là đúng năm giờ. Hôm nay thức dậy hai giờ rưỡi thì
tôi vô tới đó chắc chắn là đúng ba giờ. Tôi thấy ông ta cứ niệm: “A-Di-Đà
Phật, A-Di-Đà Phật”... và lạy. Ông cứ tiếp tục lạy... Tôi không biết là do
trời mưa hay vì mồ hôi của ông ta ra mà cả cái khăn và người ông ta đều ướt.
Tôi đi ngang qua, ông vẫn làm thinh coi như không có gì xảy ra. Ông cứ tiếp tục
lạy, cứ lạy xuống niệm “A-Di-Đà Phật”... Cứ lạy như vậy, lạy giữa
không trung. Tôi giật mình! Sửng sốt! Một ông Cụ hơn 70 mấy tuổi lạy Phật giữa
trời qua đêm! Không biết ông đã bắt đầu lạy từ hồi nào?...
Nếu giả sử như đêm đó tôi không tới, thì
chắc chắn không bao giờ phát hiện ra chuyện này!... Mà vì vô tình thức sai giờ,
tôi tới đó trong lúc quá sớm, mới phát hiện lúc ba giờ sáng có một ông Cụ đã
thức dậy từ hồi nào, trải cái khăn giữa bãi cỏ lạy Phật qua đêm...
Quý vị nghĩ đi? Cái tâm hạnh người ta lớn
như vậy, người ta quyết lòng đi về Tây Phương như vậy, mới có thể vượt qua
những ách nạn để đi về Tây Phương! Còn ở đây, mình nghĩ rằng có làm được như
vậy không?
Xin thưa, cái Niệm Phật Đường ở đây trang
bị không phải là cao sang gì, nhưng cũng vừa đủ tiện nghi để niệm Phật, phương
tiện đầy đủ. Nếu người đi làm bận bịu thì không nói gì, có những người không đi
làm mà khi đến giờ niệm Phật nhiều khi cũng trằn lên trụt xuống, không chịu
niệm Phật. Như vậy thì...
- Làm sao dám gọi mình là người
tu thực?
- Làm sao dám gọi mình là người
muốn về Tây Phương?
- Làm sao mà oan gia trái chủ
thông cảm cho mình?...
Rõ rệt mà! Cho nên, hãy trực nghĩ lại, hãy
thương lấy thân phận của mình, mà quyết tâm hạ thủ công phu niệm Phật. Ở đây có
ai dám từ chỗ này cứ một bước một lạy, lạy ra tới cổng kia không? Mười thước
thôi đó. Có ai dám không? Tôi sợ rằng không ai dám đâu à! Ấy thế mà đã có lần,
cũng một lần khác đi vào hớ như vậy, tôi đã gặp một vị Sư Cô lạy chung quanh
cái Niệm Phật Đường đó, lạy từ hồi nào không biết mà hai đầu gối của Cô đã rướm
máu ra rồi! Cứ ba bước một lạy… Ba bước một lạy… Ngài làm như vậy đó!...
Quý vị thấy cái nguyện của người ta không?
Quý vị thấy cái quyết tâm đi về Tây Phương không? Trong khi đó thì chúng ta ở
đây một ngày niệm Phật đều đều như vậy, đó là cái căn bản thôi, cái tập sự
thôi! Cố gắng lên chư vị. Phát tâm lên chư vị. Vì cái huệ mạng ngàn đời ngàn
kiếp của mình, mình phải cố gắng cứu mình, không tự cứu mình thì không ai cứu
mình được.
Cố gắng quyết lòng phát tâm,
quyết lòng lập nguyện để chúng ta cùng nhau đi về Tây Phương thành đạo, cứu độ
vô lượng vô biên chúng sanh!...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 20)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Ngày hôm qua, chúng ta nói vấn đề
tinh tấn niệm Phật, Chủ Nhật tuần này chúng ta bắt đầu áp dụng tinh tấn luôn.
Có nghĩa là thời gian thực sự tịnh khẩu
bắt đầu từ 0:00 giờ sáng ngày Chủ Nhật cho đến 0:00 giờ sáng ngày thứ hai, suốt
24 tiếng đồng hồ không nói một lời nào hết trong toàn thể khuôn viên Niệm Phật
Đường. Với các vị nội trú trong Niệm Phật Đường, xin chư vị chú ý thực hiện đầy
đủ. Các vị ở ngoài vào thì khi bước vào cổng Niệm Phật Đường bắt đầu tịnh khẩu.
Xin chư vị cố gắng giữ trang nghiêm, để cho Niệm Phật Đường chúng ta càng ngày
càng trang nghiêm thanh tịnh.
Đây chẳng qua là cái bước tập sự, để trong
tương lai gần đây ta sẽ tiến lên là 48 giờ tịnh khẩu niệm Phật, rồi 72 giờ tịnh
khẩu niệm Phật. Quyết tâm tịnh khẩu, đúng giờ, không có sự ưu tiên cho một
người nào hết.
Xin thưa rằng, nghiệp chướng của chính
chúng ta quá lớn, ta tu như thế này thực sự so với cái nghiệp báo mà chúng ta
sẽ thọ hưởng trong lúc xả bỏ báo thân thì chưa thấm thía vào đâu hết. Chính vì
vậy, nếu mà chư vị thấy sợ con đường đọa lạc, cúi xin chư vị hãy hạ quyết tâm.
Ngài Tĩnh-Am mỗi khi kêu gọi Phật tử hạ
quyết tâm, Ngài quỳ xuống!.. Một vị Hòa Thượng mà Ngài quỳ xuống, chắp tay
lại... Trước khi Ngài nói những lời gì đó mà dòng nước mắt của Ngài rơi
xuống!...
Ở đây chúng ta toàn là phàm phu tục tử, mà
không hạ quyết tâm thì chắc chắn con đường vãng sanh bị nhiều trở ngại. Ngài
Ấn-Quang Đại Sư là một đại Tôn Sư của thời cận đại mà Ngài âm thầm, lặng lẽ
niệm Phật. Ngài không dám nhận một chức trụ trì chùa nào hết, vì Ngài nói rằng
cái nghiệp của Ngài nặng quá, Ngài không đủ khả năng!?... Mà thực tế, đức độ
của Ngài rất là cao, nên khi Ngài tới một đạo tràng nào thì Phật tử lại ùa tới
rất đông. Khi đông người quá thì Ngài lại lẳng lặng tìm một cái miếu hoang tới
đó tu. Ngài cần phải tăng thêm thời gian tu hành! Nhưng vì đức độ của Ngài cao,
nên đi tới chỗ nào thì Phật tử cũng ùa theo tới đó. Sau cùng Ngài mới trốn
trong Tàng Kinh Các để quyết lòng tu… Chúng ta thấy, những vị đại Tôn Sư như
vậy mà các Ngài còn phải hạ quyết tâm!
Ngài nói, “Vì sợ
địa ngục cho nên phải tu ngày tu đêm”...
Trong căn phòng niệm Phật của Ngài, Ngài để một tấm hình
A-Di-Đà, một quyển kinh A-Di-Đà và sau tượng Phật đó Ngài để một chữ “Tử”
rất lớn. Ngài khuyên chúng sanh hãy viết chữ “Tử”,
tức chữ “Chết” dán lên cái đầu này, dán lên cái trán này để ngày ngày
nhắc nhở chúng ta là sẽ chết bất cứ lúc nào... Mà khi chết chúng ta bị đoạ lạc!
Sợ địa ngục cho nên phải tu. Sợ địa ngục cho nên phải tăng cường thời gian tu.
Niệm Phật đường chúng ta nhất
định quyết lòng tu thực, quyết lòng tu cho đến nơi đến chốn, ta niệm Phật quyết
định về Tây Phương Cực Lạc cho được!...
Chính vì vậy, những người đã bệnh, xin chư
vị hãy hạ quyết tâm liền đi, đừng để đến ngày mai. Nhiều khi chỉ qua một đêm,
sáng ra chúng ta:
- Đã
bị đột quỵ rồi!
-
Đã bị tai biến mạch máu não rồi!
-
Đã bị mê man bất tỉnh rồi!...
Có lẽ năm ngoái chúng ta có nghe một vị
mới 54 tuổi, đang rất là khỏe. Từ nhà lái xe đi làm, vừa đậu chiếc xe bước vô
trong tiệm thì tự nhiên té xỉu, đem vô bệnh viện một ngày sau thì chết. Thật
không thể đơn giản!
Cho nên người đã bị bệnh, đây là một bài
pháp vô thường nhắc nhở cho chúng ta. Xin chư vị mau mau hạ quyết tâm, không
thể nào ỷ y vào ban hộ niệm của Niệm Phật Đường được. Năm ngàn câu A-Di-Đà Phật
một ngày quá ít! Phải tăng lên liền. Nếu chúng ta niệm không đủ mười ngàn câu
A-Di-Đà Phật thì phải tăng nhanh lên, không tăng sức niệm nhanh thì phải tăng
thời gian lên. Quyết lòng mà niệm Phật. Nằm trên giường trong lúc chóng mặt
niệm câu A-Di-Đà Phật, sau cơn ho phải niệm câu A-Di-Đà Phật, sau khi đi vệ
sinh xong thì niệm câu A-Di-Đà Phật...
Ngài Ấn-Quang Đại Sư dạy niệm như thế này,
đi vào trong nhà vệ sinh cũng phải thầm niệm Phật, chứ không phải ngồi trong
nhà vệ sinh mà không niệm Phật. Lúc đó phải niệm thầm, đừng niệm lên tiếng.
Ngài Đại-Thế-Chí nói rằng, phải đóng lục
căn lại. Tức là không coi báo, không coi Ti-Vi, không coi phim chưởng, không nói
chuyện thị phi, không kêu bạn bè tới bàn ra tán vô, không bày cuộc trà ra nói
chuyện... Nhất định đóng hết lại!
“Tịnh niệm tương kế”. Thanh tịnh niệm câu A-Di-Đà Phật liên
tục, không ngừng. Không cần gì khác cả, nhất định tâm chúng ta sẽ khai mở, nhất
định khi đó sẽ pháp hỷ sung mãn.
Chính vì vậy, những cuộc tinh tấn này mà
chúng ta thấy vui vẻ thoải mái tham gia, nếu như tuần qua ta còn tu thử, thì
tuần này nhứt định bắt đầu ta tu thực. Ngược lại, nếu ta thấy rằng những cuộc
tinh tấn này làm cho mình mệt mỏi quá, thì có lẽ ta đúng là những người tu thử!
Tu thử tức là tu giả. Tu giả tức là hàng ngày chúng ta tới đây giả đò niệm
Phật! Quỳ trước bàn thờ Phật chúng ta nguyện cái gì đó, là nguyện láo! Hòa
Thượng nói: “Tu thử, nguyện
láo là gạt Phật!”... Sáng gạt một lần, chiều gạt một lần, nhất định ách nạn
không có thể nào trốn thoát được! Tất cả đều do chính cái tâm của chúng ta thể
hiện lấy.
Một người thích “Casino”, nhìn tới cái
chùa, nhìn tới Niệm Phật Đường thấy người ta tu hành sao chán quá! Đây chính vì
cái tâm của người ta là tâm lục đạo. Một người vào trong Niệm Phật Đường niệm
Phật say mê, niệm câu A-Di-Đà Phật thấy vui vô cùng. Đi xi-nê họ chán vô cùng,
còn tới Niệm Phật Đường thì vui vẻ... Đây là người thực tu, cái tâm người ta là
tâm tu hành, cái tâm này là tâm giải thoát! Con đường giải thoát làm cho họ vui
vẻ, còn nếu tâm lục đạo luân hồi thì nhất định những cuộc tinh tấn niệm Phật,
những buổi niệm Phật giống như một sự ép buộc, nó dài lê thê!... Họ chịu không
nổi!
Xin thưa, vì “Sanh tử sự đại”, vì sự giải thoát của chính mình,
mong chư vị hạ quyết tâm. Và dù thế nào đi nữa, nhất định Niệm Phật Đường của
chúng ta cũng sẽ tiến tới, phải tu càng ngày càng tinh tấn hơn. Những người nào
không đi làm, thời gian rảnh rỗi, tuổi đã lớn thì cơ hội này giúp cho chư vị
thực hiện sự thành tựu... Nhất định. A-Di-Đà Phật phát thệ, trước giờ phút lâm chung niệm danh hiệu của
Ngài mười niệm, mà Ngài không tiếp dẫn về Tây Phương Ngài thề không thành Phật. Đây là cái
đầu mối gần nhất, dễ nhất cho chúng ta thành đạo Vô-Thượng trong một đời này.
Tuy nhiên, mình niệm tà tà như thế này,
một ngày hai tiếng rưỡi đồng hồ niệm tại Niệm Phật Đường không thể nào được
nhất tâm bất loạn đâu! Ta có nhị tâm, tam tâm, có hàng vạn tâm trong đó. Khi
bước ra khỏi Niệm Phật Đường thì chúng ta lười biếng niệm Phật, chứng tỏ rằng
cái tâm chúng ta theo lục đạo luân hồi nhiều hơn theo A-Di-Đà Phật về Tây
Phương. Chính vì vậy mà sau cùng chúng ta vẫn có thể bị ách nạn...
Nhắc đi nhắc lại câu này... Đừng bao giờ ỷ
y vấn đề hộ niệm!
- Người ta hộ niệm cho mình được là
khi mình niệm câu A-Di-Đà Phật được. Nhớ cho kỹ cái điều này.
- Người ta hộ niệm cho mình được là
khi mình phát nguyện vãng sanh được.
- Người ta hộ niệm cho mình được là
khi niềm tin của mình vững vàng, nhất định hạ quyết tâm.
Cho nên hổm nay chúng ta nói lập nguyện,
những người nào hạ quyết tâm niệm Phật là những người quyết lòng đi về Tây
Phương. Những người không hạ quyết tâm niệm Phật thì nguyện vãng sanh là nguyện
láo, niệm Phật là niệm chơi, tu là tu thử, không phải tu thực. Chính vì vậy mà
vạn ức người tu hành không tìm ra một người đắc đạo chính là cái chỗ này. Cứ
nghĩ rằng đã có ban hộ niệm, họ tới hộ niệm thì mình vãng sanh. Hồi giờ đi
hướng dẫn hộ niệm khắp nơi, chưa bao giờ Diệu Âm nói câu này. Mà phải nói rằng,
người nằm đó phải niệm câu A-Di-Đà Phật cho được. Hôm trước hộ niệm cho một
người đã mê man bất tỉnh trong bệnh viện. Vì quá nể nang nên phải tới. Nhưng
chúng tôi không dám hứa gì cả... Vì sao? Vì họ đã mê man bất tỉnh rồi!
Cho nên, chư vị muốn được vãng sanh thì
phải coi chừng, đừng mê man bất tỉnh. Nếu bị mê man bất tỉnh rồi, thì một trăm
người nhiều khi chỉ có vài ba người thoát được mà thôi! Nghĩa là lúc người ta
nằm xuống đó, một cơ may nào đó đã làm cho thần thức họ tỉnh lại, oan gia trái
chủ buông ra mới được. Chứ thường thì mình chỉ nói chuyện với cục thịt, còn cái
thần thức của họ đã chìm trong hàng vạn cảnh khổ đau, hàng vạn cảnh đọa lạc và
oan gia trùng trùng đã bao vây hết trơn rồi!...
Muốn giải quyết chuyện này không có cách
nào khác hơn là phải phát cái tâm vững mạnh mà niệm Phật ngày đêm. Xin những
người đã bệnh phải lo niệm Phật ngày đêm, nhất định không thể chờ được. Nếu một
ngày niệm được năm ngàn quá ít!... Hãy phát thệ lên, niệm mười ngàn câu A-Di-Đà
Phật một ngày. Mười ngàn câu A-Di-Đà Phật một ngày thực ra cũng quá ít! Phải
tăng lên mười lăm ngàn liền, phải tăng lên hai chục ngàn liền. Ngẫu-Ích Đại Sư
đã đưa ra chỉ tiêu là ba chục ngàn câu A-Di-Đà Phật, thành tâm mà niệm một
ngày. Ngài Ấn-Quang Đại Sư đưa ra tiêu chuẩn năm chục ngàn câu A-Di-Đà Phật một
ngày. Chư vị đừng có nghĩ rằng đã là Đại Sư rồi, các Ngài tu ít. Người nào muốn
được vãng sanh phải niệm như vậy. Thành tâm mà niệm.
Bây giờ chúng ta niệm không tới, thì lấy
sự chí thành chí thiết. Quyết lòng phải buông xả cạnh tranh, ganh tỵ. Quyết
lòng phải buông xả buồn rầu, lo lắng... Phải tập buông xả liền lập tức. Nếu
không, xin thưa, đến đây kêu chúng tôi hộ niệm làm chi? Mà khi hỏi tới:
- Bác niệm được một ngày năm
ngàn câu Phật hiệu không?
- Mệt quá! Tôi niệm không nổi”...
Niệm không nổi, thì chúng tôi cũng không
có cách nào cứu được chư vị!...
Chính chúng ta phải cứu chúng ta! Mình
quyết lòng niệm Phật như vậy mới có sự cảm thông, mới có sự gia trì. Rồi lúc đó
người hộ niệm tới khai thị. Họ khai thị mà mình nghe được thì mới có tác dụng,
mình nghe không được thì thôi chịu thua! Nghe rồi mình phải làm liền lập tức,
chứ nghe rồi mà nói: “Trời ơi, tôi đau quá làm sao tôi niệm cho được?”... Họ cứ nghĩ
đến cơn đau, không chịu nghĩ đến câu A-Di-Đà Phật! Họ không chịu tin! Đây thực
sự là những người không chịu tin, không chịu phát nguyện, không muốn đi vãng
sanh. Phật đã nói rằng, cứ tin cho vững vàng đi, phát nguyện cho thật là tha
thiết đi, thì bao nhiêu cơn đau chập chùng đổ tới tự nhiên tan biến...
Tôi đã từng đưa ra những ví dụ, như chính
ông Cụ thân nhà tôi, là một người mà hai vị bác sĩ đứng nhìn không biết cách
nào giải thích được. Ông Cụ bí tiểu mười một ngày, bàng quang căng cứng lên.
Tôi hỏi ông Cụ:
- Đi bác sĩ không?
- Không!
- Đi bệnh viện không?
- Không! Không đi! Không cần!
- Chứ làm Sao?
- Niệm Phật!...
Ông Cụ chỉ có niệm A-Di-Đà Phật…
Hai vị bác sĩ nói, trường hợp này thì
người bệnh phải bị mê man bất tỉnh! Nhưng ông Cụ tỉnh táo cho đến giây phút
cuối cùng. Tại sao vậy? Tại vì ông ta đã được xúi giục phải vững vàng tin, phải
mạnh dạn buông xả, nên tự nhiên ngày giờ ông ra đi được tỉnh táo.
Nếu ông ta nói, Trời ơi! Bắt cha tu
thế này thì:
- Làm sao cha đánh được cuộc cờ
tướng?
- Làm sao cha đi thăm bạn bè?
- Làm sao hưởng được các thú
vui? Người ta hưởng mà mình không có....
Thì ông Cụ sẽ lăn lộn từ trên giường đến
dưới giường để mà chết trong cảnh khổ đau!
Nhưng mà ông quyết lòng niệm Phật... Nhất
định sẽ được sự gia trì.
Mong cho chư vị quyết lòng, vì cái huệ
mạng ngàn đời ngàn kiếp quá ư là nguy hiểm, thật sự là nguy hiểm. Mong chư vị
hạ quyết tâm.
Vui vẻ trong câu A-Di-Đà Phật. Lánh xa
những chỗ ồn náo. Quyết định không chạy theo người thế gian. Một lòng giữ tâm
mình trong câu A-Di-Đà Phật. Ngày ngày đều phát thệ nguyện vãng sanh về Tây
Phương. Đối với bệnh trạng, đối với những gì khổ đau của thế gian hãy coi như
là KHÔNG có đi, thì tự nhiên...
Vạn Pháp do tâm tạo. Chúng ta đi về Tây
Phương thực sự bằng cái tâm niệm “A-Di-Đà Phật”, chứ không có gì khác hết!...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 21)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Trong chương trình nói về “Khế Lý - Khế Cơ” là để
nhắc nhở cho chúng ta trong thời mạt pháp này phải biết trạch pháp để tu hành.
Lý đạo thì thâm sâu cao rộng quá, chúng ta niệm câu A-Di-Đà Phật
thì chắc chắn không thể nào sai Lý được. Vậy thì, điều này chúng ta hãy an tâm.
Còn việc “Khế Cơ” là thật ra để ứng
hợp với căn cơ hạ liệt của chúng ta, phải áp dụng cái phương cách nào an toàn
thì mới được thiện lợi. Chính vì vậy mà trong những ngày qua ở đây hoàn toàn không
có chủ trương lập nên một chương trình nào để niệm Phật “Nhất Tâm Bất Loạn”, “Niệm Vô
Niệm”.
Đây thật sự là một lý tưởng tốt, nhưng căn cơ của những người hạ liệt như chúng
ta không làm nổi! Không làm nổi mà cố gắng làm, thì như chư Tổ thường hay nói,
cái lực của mình không đáp ứng đúng cái tâm nguyện của mình, gọi là “Lực
bất tòng tâm!”. Từ đó có thể đưa tới chỗ trở ngại!
Có nhiều người không để ý đến sự ứng hợp căn cơ, tu hành mới đầu
thì thấy hay, nhưng sau cùng thì kết quả thường thường bị trở ngại rất nhiều.
Chính vì thế, trong chương trình công cứ niệm Phật đưa ra chỉ để cho chúng ta
tập tu hành cần cù, kiên nhẫn, chân thành... bám lấy câu A-Di-Đà Phật. Hãy niệm
cho thành thục, niệm thành một thói quen để mong cầu trước những giây phút lâm
chung, ta được nhiều điều thiện lợi.
Bắt đầu từ khi vận động chương trình lập công cứ, đến nay đã có
một số vị, cũng khá đông rồi, đều nhận công cứ về để niệm Phật. Có những vị đã
niệm được trên mười ngàn câu A-Di-Đà Phật một ngày. Công phu này được, có triển
vọng. Trên mười ngàn câu, mười lăm ngàn câu, thì công cứ này bắt đầu đã có hiệu
lực tốt. Có một ít người niệm được hai chục ngàn câu niệm Phật một ngày. Đây là
điều tốt. Hạ quyết tâm như vậy tốt. Có những vị đã niệm được hai mươi lăm ngàn
câu A-Di-Đà Phật trong một ngày. Điều này rất là đáng khen. Tiêu chuẩn này đáng
khích lệ, đáng khen! Và cũng có người nhận cái công cứ về và đã khẳng định niệm
trên năm chục ngàn câu A-Di-Đà Phật trong một ngày. Đây là công phu rất được
tán thán. Muốn làm được như vậy phải hạ quyết tâm lớn lắm. Ngoài ra thì cũng có
những vị niệm được năm ngàn câu, bảy ngàn câu một ngày. Số này thì nhiều hơn
một chút. Được! Khích lệ! Nên cố gắng tăng thêm.
Cái nghiệp chướng của chúng ta lớn lắm! Nếu mà lơ là, phí thời
gian vào những chuyện vô ích, thì sau cùng ta vẫn có thể bị trở ngại. Vận mạng
của mình, cái thân này thì vô thường, cái huệ mạng ngàn đời ngàn kiếp thì quá
nguy hiểm, mà đến nay cũng có người hình như chưa phát tâm lập công cứ niệm
Phật. Thì đây cũng là tùy duyên mà thôi!...
Trong con đường đấu tranh với sanh tử luân hồi, đấu tranh với tam
ác đạo để vượt qua những cảnh khổ vạn kiếp, mỗi người chúng ta phải tự lo lấy.
Người nào tu người đó đắc. Vợ tu vợ đắc, chồng tu chồng đắc. Bạn bè đồng tu với
nhau tới Niệm Phật Đường này, người nào hạ quyết tâm niệm Phật sẽ được vãng
sanh. Người không hạ quyết tâm niệm Phật, thì sau cùng không được vãng sanh,
tức là bị lọt vào trong những cảnh khổ đau. Nếu có tình cảm với nhau thì nhiều
lắm là góp chút ít tiền, mỗi người vài chục đô-la, mua một vòng hoa tới phúng
điếu là cùng! Chứ không còn cách nào khác hơn được nữa!...
Vì thế, kính thưa với chư vị, phải cố gắng lên. Nhất định niệm
Phật đừng bao giờ đợi tới lúc yếu rồi mới niệm nhé!... Không phải! Trước kia
chúng ta không biết, bây giờ lỡ yếu rồi thì cố gắng tranh thủ mà niệm. Nếu yếu
quá niệm không được, nên số lượng câu A-Di-Đà Phật niệm không nhiều, thì chúng
ta hãy lấy cái tâm chân thành tha thiết muốn vãng sanh để niệm, ráng niệm được
câu nào hay câu đó. Nhờ vậy mà giải bớt ách nạn, để sau cùng rồi ta được phước
phần cảm thông của chư đại Bồ-Tát, của chư Thiên-Long Hộ-Pháp, với những vị oan
gia trái chủ, rồi nhờ các bạn đồng tu tới hộ niệm, ta vẫn có thể được may mắn.
Nhưng dù thế nào đi nữa cũng phải cố gắng. Cố gắng tối đa! Bên
cạnh đó phải nhớ rằng, khi mình thành tâm cố gắng như vậy thì A-Di-Đà Phật sẽ
phóng quang gia trì, quang minh của Ngài chủ chiếu đến ta, nhiều khi nghiệp
chướng của ta tiêu đi rất nhiều mà không hay. Chứ nếu thấy mệt mình buông xuôi,
thì sau cùng mình niệm câu A-Di-Đà Phật không được. Những người còn khỏe chưa
bịnh thì phải lo đi! Đừng nên đợi tới lúc yếu mới tính. Vì xin thưa, lúc khỏe
như thế này mà không niệm Phật, chỉ chờ tới Niệm Phật Đường vài tiếng đồng hồ,
niệm vài câu rồi về, rồi đi chơi, rồi tán gẫu... thì sự niệm Phật ở Niệm Phật
Đường này cũng chỉ là niệm thử, niệm chơi!... Đến lúc nghiệp báo trổ ra rồi, nó
đến rồi, xin thưa, khi đó cái lưỡi của chúng ta đã bị đớ rồi, không nói được
nữa, nhiều khi tiếng “Phật” mà thành ra tiếng “OẠS!…”, tiếng “OÀH!…”.
Nói không được đâu!...
Trong kinh, Phật có nói đến điều này. Một trong những hạng người
không được vãng sanh, thì có hạng người bị trúng gió, á khẩu… niệm Phật không
được. Chúng ta đừng nghĩ rằng cái miệng tôi không niệm được, nhưng tâm tôi
niệm. Không phải đâu à! Không có chuyện dễ như vậy đâu à! Nếu nói rằng cái
miệng tôi niệm không được, nhưng tâm tôi niệm được, thì đây là những người tâm
họ rất thành, lòng họ rất kính. Họ đã hạ quyết tâm nhiều lắm rồi. Cái nghị lực
của họ đã được nuôi sẵn rồi, nên lúc đó người ta mới niệm được. Những người có
nghị lực sẵn như vậy, thì nhứt định trong lúc khỏe này:
- Người ta buông bỏ hết tất cả những niệm thế gian ra,
tranh thủ để niệm Phật, ngày đêm niệm Phật, âm thầm niệm Phật, lặng lẽ niệm
Phật...
- Không bao giờ thấy người đó đi ra ngoài shop đâu à!
- Không bao giờ thấy họ tụm hai tụm ba người mà nói chuyện
đâu à!
Họ âm thầm lặng lẽ niệm Phật.
- Đó mới là những người có nghị lực.
- Đó mới là những người có tâm thành.
- Đó mới là những người đã hạ quyết tâm niệm Phật.
Có như vậy thì câu A-Di-Đà Phật mới nhập vào tâm của họ, và cái
nghị lực đó nó truyền từ bây giờ, nó nuôi từ bây giờ cho đến khi nằm xuống họ
vẫn còn câu A-Di-Đà Phật trong tâm, dù rằng thân của họ có thể bị bại liệt. Chớ
bây giờ còn đi rao rảo thế này, nói “O-O”
thế này, mà nhứt định không chịu niệm Phật thì đến lúc đó không còn cách nào có
thể niệm được câu Phật hiệu đâu!
Chính vì vậy, chúng ta cần phải sợ. Phật nói, những người á khẩu
niệm Phật không được, tại vì những người hạ căn thấp kém nhứt như thế này trước
những giờ phút lâm chung phải cất lên câu A-Di-Đà Phật, phải niệm Phật thành
tiếng. Tại sao phải niệm Phật thành tiếng? Quý vị coi trong kinh đi, niệm ra
tiếng có lực bố ma. Oan gia trái chủ của chúng ta mạnh hơn chúng ta gấp ngàn
lần, trong khi đó thì thể lực của chúng ta lại yếu hơn lúc bình thường một ngàn
lần. Cái tâm chúng ta thì mê man bất tỉnh rồi, quay cuồng, không còn một thể
lực nào nữa, thì làm sao mà chúng ta có thể cất lên một tiếng Phật hiệu? Hiểu
được những điều này xin chư vị hãy cố gắng tận sức mà niệm Phật. Nếu không, thì
không còn cách nào trở tay cho kịp! Nên nhớ, một cơn đột quỵ nó đến không bao
giờ báo trước. Một cơn ngất xỉu vì chứng suy tim mạch nó đến bất ngờ, một tiếng
đồng hồ sau là tiêu liền.
Xin phải chuẩn bị ngay từ bây giờ.
- Niệm Phật thật là chân thành.
- Niệm Phật thật là thành tâm.
- Niệm Phật thật là nhiều.
Để chi? Nghiệp của chúng ta nhiều, ta không thể phá nghiệp được.
Nhưng chúng ta có thể dùng câu A-Di-Đà Phật này làm tăng cái phước của mình
lên. Giống như mình bị nợ tiền người ta, đã nợ tiền người người ta thì dù có sợ
cái nợ cũng vô ích! Hãy lo làm việc đi, tích cực làm việc để kiếm tiền. Có tiền
thì tự nhiên món nợ sẽ giảm xuống. Không có tiền thì bây giờ mình nghĩ tới món
nợ đó, nghĩ cho đến ngàn đời, ngàn kiếp người ta vẫn nạo đầu mình như thường.
Bây giờ đối với nghiệp chướng cũng vậy. Trong vô lượng kiếp mình đã tạo ra quá
nhiều nghiệp chướng rồi. Bây giờ đừng sợ nghiệp nữa, mà hãy dùng đến câu “Vạn
Đức Hồng Danh” đi. Niệm một câu Phật hiệu lên có “Vạn
Đức, Vạn Phước”. Cứ niệm cho thật nhiều lên, niệm cho thật chân thành lên thì
phước đức của mình càng ngày càng tăng lên. Hễ phước đức của mình càng ngày
càng tăng lên, thì tự nhiên nghiệp chướng của mình càng ngày càng giảm xuống.
Giống như mình nợ người ta, thì đừng sợ cái nợ! Hãy nói, “Bà
chủ ơi! Đừng có lo! Tôi đang làm việc đây. Tôi đang làm “Overtime” đây. Đang
làm ngày làm đêm đây"... Làm việc “Overtime” thì tiền mình có, thì món nợ đó sẽ giảm xuống, giảm
xuống, giảm xuống... Đó là luật bù trừ. Chính vì vậy, xin tất cả chư vị hãy
ráng cố gắng, đừng nên lơ là. Đừng nên để tới phút cuối rồi thì chúng ta không
còn cách nào trở tay kịp đâu!
Mong cho những lời nói này làm chư vị giựt
mình! Quyết lòng quyết dạ niệm A-Di-Đà Phật để chúng ta cùng về Tây Phương Cực
Lạc.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ -
KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 22)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Người ta hay nói là
hộ niệm lúc lâm chung, chứ thực ra thì hộ niệm có thỉ có chung, mà tại vì người
ta vô ý quên cái “Thỉ” tức là khởi
đầu, mà cứ nhớ cái “Chung” tức là lâm chung. Thực ra thì
phương pháp hộ niệm là một pháp tu nó có từ A tới Z. Nó là một quá trình toàn
bộ.
Từ A, ví dụ cụ thể
như chúng ta đi chùa bắt đầu niệm Phật là từ A. Rồi từ B là khởi tâm ăn chay,
làm việc thiện lành. Rồi từ C là chúng ta bỏ cống cao ngã mạn, bỏ thị phi ganh
tỵ... Nói chung, đây là một pháp tu hướng dẫn chúng ta từ khởi thỉ, cho đến lúc
lâm chung cuối cùng. Tới Z tức là cái bước cuối cùng để vãng sanh về Tây Phương
Cực Lạc.
Nhiều người không
hiểu, nên cứ nói khi lâm chung thì kêu ban hộ niệm tới, cho đó là phận sự hộ
niệm. Cho nên người ta cứ để cho đến mê man bất tỉnh trong bệnh viện, cái lúc mà sắp hấp
hối, sắp lìa khỏi cái báo thân này mới kêu ban hộ niệm. Thực là lầm lẫn quá
lớn! Ngay tại Niệm Phật Đường của chúng ta có trương một tờ thông cáo thật lớn, màu
vàng, dán trên bảng trắng. Nếu người nào mới tới thì chúng ta nên hướng dẫn họ
đọc cái thông báo đó. Thông báo đó nói rằng, hộ niệm là một phương pháp giúp
cho mọi người có đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh. Thực hiện đầy đủ những thứ đó để vãng
sanh Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải là cứ đợi cho đến lúc bệnh sắp chết,
sắp lâm chung hay đang hấp hối mới kêu ban hộ niệm tới. Nếu mà đợi tới lúc đó
thì xin thưa thực, đã quá muộn màng!
Ở đây chúng ta thường
xuyên nói về hộ niệm, thì chúng ta cũng phải hiểu một cách liễu nghĩa, rõ ràng.
Hòa Thượng Tịnh-Không nói ba điều:
- Một là
tỉnh táo.
- Hai là gặp thiện tri thức khai thị.
- Ba là người đó phải mau mau thực hiện liền những lời
của người thiện tri thức đó hướng dẫn.
Như bây giờ chúng ta
đang ở đây, chưa bệnh, chưa mê man bất tỉnh, tức là chúng ta đang “Tỉnh
táo”. Điều kiện thứ nhất chúng ta có. Chúng ta đang nghe Hòa
Thượng thuyết pháp, khai thị, hướng dẫn niệm Phật vãng sanh, là ta “Gặp thiện tri thức khai thị”. Cái điều thứ ba là ta
có chịu mau mau “Y giáo phụng hành”, ứng dụng lời dạy
của Ngài để thực
hiện liền hay không? Nếu chúng ta làm được ba điều đó tức là chúng ta thực hiện
phương pháp hộ niệm vãng sanh, sau cùng ta được vãng sanh.
Ta bây giờ đang tỉnh
táo, hàng ngày chúng ta đang nói chuyện hộ niệm với nhau, dẫn dắt rất là kỹ,
từng chút từng chút, tức là chúng ta đã có điều kiện có người hướng dẫn vãng
sanh, thì gọi là gặp thiện tri thức khai thị. Ta có chịu áp dụng lời khuyên này
để thực hiện liền, thì với ba điều kiện này đúng, sau cùng chúng ta vãng sanh.
Nếu ta đang tỉnh táo
như thế này, đã gặp được người hướng dẫn pháp vãng sanh, nhưng ta không chịu
làm. Ta cứ chờ cho đến lúc lâm chung rồi mới kêu ban hộ niệm tới, tức là hoàn
toàn ta đã sai! Tức là tỉnh táo, nhưng thực ra thì ta bị lầm lẫn ở chỗ nào đó,
không tỉnh táo đúng mức!
Ta nghe thiện tri thức
nói chuyện về hộ niệm, mà ta không áp dụng, tại vì ta nghe lướt qua, rồi bỏ
qua. Ta cho chuyện này là quá tầm thường, nên ta tiếp tục nằm ở đó để
chờ chết! Sắp chết rồi mới kêu ban hộ niệm tới, thì tất cả ba điểm: tỉnh táo,
gặp thiện tri thức và áp dụng ta đã bị thiếu sót quá nhiều.
Đây chính vì từ cái
niềm tin không vững. Tất cả những cái đó đều là “Duyên” hết.
Ví dụ như tôi từng đi các nơi, tôi gặp những người đã nghe pháp của Hòa Thượng
Tịnh-Không, không phải họ ngồi để mà nghe đâu à, mà người ta sắp hàng với nhau
rồi quỳ xuống, chắp tay lại để nghe suốt đoạn khai thị. Mà nhiều ngày người ta
cũng làm như vậy nghen, không phải là một ngày đâu à. Người ta có những cái bồ
đoàn thế này, tất cả họ quỳ dọc dọc như vậy, quỳ xuống chắp tay để mà nghe lời
pháp của Hòa Thượng.
Chính vì họ có cái
tâm chân thành như vậy, nên nơi đó vãng sanh rất nhiều. Ta ở đây thì trực tiếp
nghe, lại gặp qua Hòa Thượng, ta nghe chính Ngài khai thị. Nhưng mà nhiều khi cái
tâm chúng ta không có để ý, ta chỉ nghe cho vui! Có nhiều người mỗi khi nghe
Hòa Thượng về thì tìm đến gặp Hòa Thượng cho vui. Thật ra, đâu cần cái vui này!
Ở Việt Nam người ta
có gặp trực tiếp Ngài đâu à?
Người ta chỉ nhìn thấy trên màn ảnh thôi. Người ta để Ti-Vi đó, rồi sắp hàng
dài quỳ xuống như vậy. Một phần thành
tâm, một phần lợi ích, hai phần thành tâm hai phần lợi ích; mười phần thành tâm
mười phần lợi ích. Tại đây chúng ta không có đủ thành tâm, nên nhiều
khi đến gặp Ngài mà ta còn
lười biếng. Mà thực ra gặp Ngài để làm chi? Gặp Ngài chính là gì? Chính là nghe những
lời giảng pháp của Ngài, rồi thực
hiện theo cho đúng.
Pháp hộ niệm là một
pháp tu có từ A tới Z. Trong đợt nói chuyện trước, ta đã nói đến đề tài này.
Tại sao ở nơi đó người ta thành tựu? Thành Tâm!... Còn
trong khi chúng ta ở đây trực tiếp nói chuyện với nhau, ngày ngày nói chuyện
thẳng luôn hầu củng cố phương pháp hộ niệm được vững vàng, nghĩa là đường vãng
sanh chúng ta không bị sơ suất. Nhưng mà coi chừng! Hễ chúng ta để ý thì chúng
ta sẽ vãng sanh, còn nếu không để ý thì chúng ta mất phần vãng sanh, trong khi
đó người ở xa mà lại được vãng sanh. Lạ vậy đó chư vị.
Cũng như Hòa Thượng ở
tại đây, nhiều người ngày nào cũng gặp Hòa Thượng. Mỗi lần Hòa Thượng đến là tổ
chức đi đón. Nhưng mà coi chừng, chưa chắc những người này sẽ được vãng sanh. Còn
những người ở xa, người ta chỉ thấy trên màn ảnh thôi. Dù chỉ thấy trên màn ảnh
nhưng người ta quỳ xuống lạy. Nghe pháp trên màn ảnh, mà người ta chắp tay lại,
quỳ xuống, suốt một tiếng đồng hồ để lắng nghe lời pháp của Ngài. Chính cái lòng
chân thành này, chính cái lòng thành kính này, khiến cho từng lời từng lời của Ngài lọt vào tâm của
họ và họ đi rất vững. Họ đi liền. Họ không chần chờ. Họ được vãng sanh.
Rồi ở mỗi nơi như vậy
họ sao chép giảng pháp ra, phổ biến tiếp... Họ ráng cố gắng theo dõi để ứng
dụng. Thế mà, thực sự ở chỗ đó lại có người vãng sanh. Ở Việt Nam, có một ban
hộ niệm đến nay hộ niệm được một trăm lẻ một người, có ban hộ niệm khác hộ niệm
một trăm ba mươi mấy người... Hiện tại ban hộ niệm ở Việt Nam, bây giờ tổng kết
lại, không đếm được. Có thể trên mấy trăm ban hộ niệm.
Tại sao người ta được
vãng sanh? Là tại vì người ta thấy cuộc đời này khổ quá! Là tại vì khi gặp được
pháp hộ niệm này làm cho người ta ngỡ ngàng! Trong suốt cuộc đời của họ, người
ta không ngờ có chuyện này đâu à! Trong bao nhiêu năm tu hành, người ta không
ngờ có chuyện được vãng sanh đâu à! Nhưng bây giờ gặp được rồi, người ta mừng
quá. Quá vui mừng thành ra người ta mới nghiên cứu từng chút, từng chút, từng
chút như vậy, rồi ứng dụng liền.
- Chính vì cái lòng
Thành Tâm.
- Chính vì cái lòng
Kính Cẩn.
- Chính vì cái lòng
Tin Tưởng… mà họ vãng sanh.
Cho nên muốn được
vãng sanh không có gì khác hơn là chúng ta phải bắt đầu đi từ A, rồi tới B, tới
C, tới D... để sau cùng chúng ta tới Z. Z là lúc lâm chung. Tức là cố gắng tu hành, cố gắng buông xả, cố
gắng lập nguyện. Nhiều khi mình còn phải đi làm, thì khi về nhà dành ba
mươi phút… Ba mươi phút có thể niệm được hai ngàn tiếng Phật hiệu, ba ngàn
tiếng Phật hiệu rồi. Chiều lại mình niệm thêm ba mươi phút nữa, ba mươi phút có
thể niệm ba ngàn nữa. Sáu ngàn câu A-Di-Đà Phật. Phải làm như vậy. Để chi? Để
cho đến lúc Z, tức là khi chúng ta lâm chung, chúng ta sẽ có một cái số vốn
niệm Phật.
Những người không đi
làm, thì khi đến Niệm Phật Đường niệm Phật, rồi về thay vì chúng ta đánh cờ
tướng để làm chi? Thay vì bàn luận lý lẽ làm chi? Hãy cố gắng cầm xâu chuỗi mà
niệm Phật. Ta niệm ba mươi phút rồi ta đếm thử coi? À! Ta niệm được mấy chục
chuỗi. Rõ ràng ba mươi phút ta có thể niệm hai ngàn, ba ngàn câu A-Di-Đà Phật.
Có người niệm nhanh, trong ba mươi phút có thể niệm tới năm ngàn câu A-Di-Đà
Phật. Người ta niệm nhanh như vậy.
Niệm Phật...
- Để cho cái tâm mình hòa nhập với câu A-Di-Đà Phật.
- Để cái miệng mình mở ra là A-Di-Đà Phật.
Khi miệng mình mở là
niệm A-Di-Đà Phật, rồi thì...
- Nhất định những
chuyện thị phi.
- Nhất định những
chuyện nói người này tốt, người kia xấu... sẽ xa lần, xa lần, xa lần...
Câu A-Di-Đà Phật thâm
nhập vào trong tâm mình, nó đuổi những cái đó ra. Nghiệp chướng của mình cũng
theo cái dòng đó mà trôi ra ngoài. Thay vì mình bệnh, mê man bất tỉnh thì mình
không còn bệnh nữa. Thay vì mình bị chướng ngại thì mình không còn chướng ngại
nữa. Nghiên cứu mười điều lợi của sự niệm Phật quý vị sẽ thấy, chư Thiên mà còn
phải đảnh lễ người niệm Phật nữa.
Cho nên, khi vô trong
Niệm Phật Đường này, xin thưa quý vị chú ý, khi chúng ta đã là người niệm Phật
rồi thì đừng nên sơ ý. Đừng nên nói chuyện trong Niệm Phật Đường. Đừng thấy
rằng trong Niệm Phật Đường chỉ còn có một mình mình thôi, thì muốn làm gì làm.
Không phải như vậy đâu à. Đừng bao giờ bước ngang qua khoảng giữa này, mà chúng
ta phải đi vòng. Nên nhớ, “Tuy vô tân khách chí, diệc hữu Thánh Nhân
hành”, chính là chỗ này. Những chỗ tu hành tinh tấn, thường có chư
vị Thánh Nhân, Thiên-Long, Hộ-Pháp tới lui, các Ngài kinh hành, các Ngài niệm
Phật với mình...
Nếu mà mình làm đúng
như vậy thì chư vị đó sẽ hỗ trợ cho mình, phước đức của mình tăng lên, nghiệp
chướng của mình giảm đi, và chúng ta sau cùng được an nhiên tự tại vãng sanh
Tây Phương Cực Lạc.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 23)
Nam Mô A-Di-Đà Phật
Chúng ta nói chuyện hộ niệm mà sao nói
hoài không bao giờ hết! Ấy thế mới biết là muốn cứu một người vãng sanh về Tây
Phương Cực Lạc khó lắm, không có dễ đâu. Ta phải cố gắng tối đa, dùng đủ
mọi cách để cho người có duyên phát được tâm nguyện đi vãng sanh về Tây Phương
và người ta thực hiện đúng phương cách vãng sanh.
Nói cho rõ ra là Tín-Nguyện-Hạnh
đầy đủ. Tất cả đều nằm trong ba điểm này chứ không có gì khác. Đến ngày nay vẫn
có nhiều người khinh thường phương pháp hộ niệm, người ta cho đó là chuyện nhỏ!
Trong khi ở đây chúng ta rất đề cao cái phương pháp hộ niệm này.
Tu hành là điều quan trọng. Công phu là
điều cần phải chú ý thực hiện. Nhưng nếu sơ suất không nghĩ đến vấn đề hộ niệm
thì coi chừng... Dã tràng se cát biển đông!
Vì xin thưa với chư vị, tất cả cái gì cũng
phải có Nhân và Duyên kết hợp lại mới thành
cái Quả được. Mình quyết tâm công phu niệm Phật là mình có cái
Nhân, nhưng coi chừng khi cuối đời cái Duyên chẳng lành đến với mình thì cái
Nhân này cũng không thể nào kết thành Quả được. Ví dụ như khi mình nằm xuống,
những người bên cạnh không biết hộ niệm, người ta khóc than, đụng chạm, ồn
ào... trước cái thân xác mệt mỏi, tan rã, đau đớn của mình, khiến mình chịu
không nổi! Đó là những người có Nhân niệm Phật, nhưng không có cái duyên lành
thuận lợi, họ vẫn không được vãng sanh.
Nếu bây giờ chúng ta chỉ lo về hộ niệm mà
không lo niệm Phật, thì chúng ta chỉ chú trọng tới cái Duyên. Khi nằm xuống,
người ta tới hộ niệm thì...
- Nghiệp
chướng của mình ào ào!...
- Oan gia
của mình chập chùng!...
- Bệnh khổ
của mình quá nặng!...
Mình cũng không đủ sức bình tĩnh để niệm
theo với người hộ niệm. Như vậy mình có cái Duyên được hộ niệm, nhưng cái Nhân
niệm Phật mình không tạo, mình cũng không được vãng sanh.
Cho nên mấy ngày qua chúng ta hô hào
chuyện lập nguyện niệm Phật bằng hình thức là lập công cứ, thực ra là để nhắc
nhở chúng ta cố gắng tăng thêm thời giờ niệm Phật, để cho quen tạo được cái
Nhân, để sau này dễ kết hợp với cái Duyên mà thành ra cái Quả vãng sanh về Tây
Phương.
Nhiều người sợ về lập công cứ niệm Phật.
Ví dụ như hồi trưa, chị Tư có nói:
- Tôi hôm nay niệm mười ngàn, ngày mai
tôi niệm xuống còn có năm ngàn, như vậy tôi bị lỗi sao?
Ở đây ai bắt lỗi mình? Mình phát tâm được
thì ai cũng thương, Phật cũng thương, Bồ-Tát cũng thương, chúng sanh cũng
thương... Làm gì mà bắt lỗi?
Sở dĩ mình niệm Phật cần đến công cứ, là
vì khi cầm cái công cứ lên thì ta phải niệm. Thay vì nghĩ tới cuộc cờ tướng,
thì bây giờ nên ở nhà niệm Phật, niệm được câu A-Di-Đà Phật nào hay câu đó.
Ngày nay mình niệm được mười ngàn, ngày mai chỉ còn hai ngàn... À! Tại sao hôm
nay mình lại giải đãi như vậy?... Thôi! Phải tăng lên! Đó là sự tự nguyện của
mình, tự mình trói mình trong câu A-Di-Đà Phật, để cho cái Nhân của mình được
tròn đầy. Chứ có ai bắt tội mình? Có người nghĩ, nếu ngày mai niệm ít hơn hôm
nay, thì bị phạt? Bao giờ lại có chuyện đó. Chẳng qua là sự khuyến tấn.
Muốn Lập Hạnh chúng ta phải phát tâm, phải
đi liền. Hễ đi được, cái bước khởi đầu thì phải chậm, nhưng mà đi được rồi thì
tự nhiên nó có cái trớn để tiếp tục mình đi nhanh lên. Còn mình ngập ngừng, e
ngại... thì mình cứ giậm chân tại chỗ hoài, không bao giờ đi được.
Lập Hạnh!... Hạnh này chính là một trong ba chữ
Tín-Hạnh- Nguyện.
Hổm nay mình nói “Hạnh”
nhiều rồi, thì hôm nay mình nói qua chữ “Tín” một chút.
Chữ “Tín” nó khởi
đầu cho tất cả. Ví dụ như việc lập hạnh niệm Phật mà mình sợ lên sợ xuống… Đây
cũng do Tín Tâm của mình yếu quá! Mình tin rằng hôm nay nhận công cứ
về mình niệm được mười ngàn một ngày, mai mình niệm xuống còn chỉ có năm ngàn,
vậy là mình bị lỗi, bị tội. Tin vậy là sai! Tại vì, ví dụ như là người kia
không có lập công cứ chẳng lẽ người ta khỏi bị tội sao? Đúng không? Mình lập
công cứ thì mình hơn những người không công cứ chứ? Dù mình niệm chỉ có hai
ngàn đi nữa, thì cũng hơn những người không niệm chứ, cớ gì lại có tội? Đây
chẳng qua là cái nấc thang để mình đi thôi. Như vậy thì có công đức chứ không
bao giờ là có tội được. Ít hay nhiều. Như vậy thấy người ta niệm nhiều thì mình
cũng ráng mình niệm nhiều lên. Để cho cái nhân của mình nó ngon hơn người không
niệm. Đúng không? Chứ có mắc mớ gì đâu...
Không nên vì một niềm tin sai lệch mà
không dám nhận công cứ. Thực ra nó chỉ là cái tờ giấy mình in ra, mình copy ra
chứ có gì khác đâu? Nó có lực gì đâu?
Đã tin A-Di-Đà Phật thì tin cho mạnh, tin
cho vững. Thường thường những người tin vững rồi, thì người ta không còn chao
đảo nữa. Ví dụ như khi mình nghe Hòa Thượng Tịnh-Không giảng, quý vị để ý coi,
Ngài giảng kinh nào Ngài cũng nói cái kinh này là “Number One” hết.
Giảng kinh Địa-Tạng, Ngài nói kinh Địa-Tạng là kinh số một, là một kinh nhất
định chúng ta không thể nào bỏ qua được. Ngài giảng tới kinh Hoa-Nghiêm, Ngài
nói kinh này cũng là kinh số một luôn, đây là chánh mạch của Phật. Rồi giảng
kinh Vô-Lượng-Thọ, Ngài nói kinh Vô-Lượng-Thọ là quan trọng nhất. Rồi giảng tới
kinh Thập-Thiện-Nghiệp-Đạo, Thập-Thiện-Nghiệp-Đạo cũng là số một luôn...
Quý vị để ý coi. Có nhiều người nghe nói kinh này là kinh số một, nên quyết tâm
tụng cho được kinh này. Vô tình Ngài giảng kinh Vô-Lượng-Thọ thì mình cũng tìm
kinh Vô-Lượng-Thọ tụng. Ngài giảng kinh Địa-Tạng, thì mình cũng tìm kinh
Địa-Tạng tụng. Giảng tới kinh Hoa-Nghiêm, mình cũng tìm kinh Hoa-Nghiêm
tụng. Rồi giảng tới kinh Thập-Thiện-Nghiệp-Đạo, mình cũng tìm kinh
Thập-Thiện-Nghiệp-Đạo tụng... Vô tình mình đi tới chỗ tạp tu rồi!...
Chính vì vậy, khi nghe pháp không kỹ,
thường hay bị vướng lắm! Vì sao vậy? Xin thưa thật, là tất cả kinh Phật đều do
đức Bổn Sư Thích-Ca-Mâu-Ni Phật từ trong chơn tâm Ngài nói ra. Mà từ trong chơn
tâm của Ngài nói ra thì kinh nào, pháp nào cũng là vi diệu cả. Nhưng chúng ta
quên ở chỗ đối trị của nó. Nói cho rõ ra là như vậy, chứ không có gì khác.
Giống như lên một ngọn núi, cái đỉnh là
nơi mình muốn tới…
- Người ở
phía nam thì Ngài giảng kinh ở phía nam, thì cái kinh ở phía nam là nhất cho
người ở phía nam rồi… Bảo đảm không có cách nào khác hơn.
- Một người ở phía đông, Ngài giảng kinh
đông, thì kinh đông, con đường đông là đúng nhất cho người ở phía đông rồi.
Đơn giản như vậy. “Đồng quy” là đi
về một chỗ, “Thù đồ” là đường đi khác nhau. Kinh nào cũng nhất, đường
nào cũng nhất. Mình đang ở phía bắc, Ngài giảng kinh phía bắc thì kinh phía bắc
là nhất của mình. Nghe Ngài giảng kinh phía nam, mình thấy đường phía nam là
nhất, vội chạy qua phía nam. Qua phía nam chưa đi được đường phía nam, thì lại
nghe cái đường phía đông là nhất, thế là chạy qua đường phía đông... Vô tình ta
cứ chạy vòng vòng. Chạy vòng vòng, vòng vòng thì không bao giờ lên được tới
đỉnh núi!
Hòa Thượng nói: Nhất kinh thông,
nhất thiết kinh thông.
Đây là câu mình nên nghe cho kỹ. Là một bộ kinh mà thông suốt thì tất cả các
kinh đều sẽ thông suốt cả. Nghĩa là sao? Nếu mình đang ở phía bắc cứ theo con
đường bắc mà đi, nhất định đi cho được, đi cho nhanh. Đi một đường gọi là “Chuyên Tu”. Đi một đường sẽ
tới đỉnh. Tới đỉnh rồi thì tất cả các kinh, tất cả các đường, ở từ trên ta nhìn
xuống đều thấy chúng chạy về tới đỉnh đó hết. Vậy thì, đâu có gì mà khác?
Cho nên chúng ta đừng nên nghĩ rằng kinh
nào cũng là kinh Phật, thì mình phải đọc hết. Không cần. Làm sao mình đọc cho
hết đây? Cuộc đời này sống bao nhiêu năm? Đã bảy, tám chục tuổi rồi! Hãy đọc
đi... Hai bộ kinh nữa là nhiều! Ba bộ kinh nữa là nhiều! Đọc đi. Không bao giờ
được nhập tâm đâu à! Không bao giờ được thanh tịnh đâu à!... Nhưng mà:
- Thời gian
đã hết rồi!
- Huệ mạng
đã cạn rồi!
- Thọ
mạng đã mãn rồi!...
Không còn cách nào tìm ra một đường để
thành tựu hết!...
Cho nên, biết được chỗ này chúng ta phải
định cái tâm lại:
- Một kinh A-Di-Đà niệm tới cùng,
- Một câu
A-Di-Đà Phật niệm tới cùng...
Để nhất định trong thời gian năm năm, ba
năm... khi mình chết, thời gian này đủ sức cho mình đi về Tây Phương. Hễ lên
tới đỉnh rồi thì từ trên đó nhìn xuống... À! Đường này cũng đi về đây. À! Đường
kia cũng đi về đây... Nhất định như vậy.
Hòa Thượng nói, những người niềm tin yếu
quá thì hãy cố gắng đọc kinh cho nhiều, nghe giảng ký cho nhiều để tăng trưởng
niềm tin. Có người mới nghe như vậy, lại cố gắng nghe pháp. Nghe hoài, nghe
hoài... bỏ mất rất nhiều thời giờ niệm Phật. Đây cũng là điều nghĩ sai nữa rồi!
Ngài nói những người mà niềm tin yếu thì nghe pháp cho nhiều để mà hiểu, hiểu
để mà tin. Còn ta đã quyết lòng tin tưởng, ngày nào cũng nói về niềm tin, nhắc
nhở Tín-Hạnh-Nguyện, Tín-Hạnh-Nguyện,
nói mãi cho đến dẻo miệng luôn, để chúng ta khởi một niềm tin
vững vàng. Khi khởi niềm tin vững vàng rồi, thì Ngài nói sao? Những người
nào mà niềm tin vững vàng rồi thì khỏi cần nghe kinh nữa. Một câu A-Đi-Đà Phật
đi tới cùng.
Có những bà già không biết đọc kinh, không
biết chữ nghĩa nào hết trơn, chỉ niệm một câu A-Di-Đà Phật mà đứng vãng sanh,
ngồi vãng sanh. Rõ ràng!
Có người nghe lời pháp của Ngài, mà nghe
không kỹ! Chính vì vậy, hễ mà bệnh xuống là sợ. Sợ gì? Nghiệp của con nặng quá!
Sợ lăn vào trong tam ác đạo! Cho nên khi nghe Hòa Thượng giảng tụng kinh
Địa-Tạng thì khỏi vào tam ác đạo... Thế là lo trì tụng kinh Địa-Tạng...
Đâu có biết rằng, khỏi vào tam ác đạo có
nghĩa là, nhiều lắm thì trở lại làm người. Trở lại cõi thiện trong tam giới,
chứ có qua khỏi tam giới đâu? Trong khi một câu A-Di-Đà Phật là lên tới đỉnh
thượng luôn. Ngài nói, khi chúng ta tu hành mà gặp được câu A-Di-Đà Phật, trì
được câu A-Di-Đà Phật là lên tới đỉnh thượng rồi, tại sao lại có người cứ muốn
leo xuống dưới này để tìm cách khác mà đi? Thành ra sẽ không bao giờ thành đạt!
Chính vì vậy mà niềm tin chúng ta cần phải
vững vàng. Tôi hướng dẫn cho ông Già tôi chỉ một câu A-Di-Đà Phật. Ông tu từ
một đạo khác chuyển qua niệm Phật. Khi niệm Phật rồi thì ông biết kinh nào để
mà tụng. Chỉ niệm một kinh A-Di-Đà, mà niệm cũng đâu có thuộc. Sau cùng rồi
cũng chỉ còn bốn chữ “A-Di-Đà Phật” Ông ta niệm tới cùng để vãng sanh.
Nếu lúc đó tôi nói:
- Cha
ơi! Hãy tụng kinh Vô-Lượng-Thọ đi. Cha ơi! Hãy tụng kinh Địa-Tạng đi. Cha ơi!
Hãy tụng kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ đi...
Thì làm sao còn giờ đâu nữa để ông niệm
Phật vãng sanh? Bây giờ bà Già tôi cũng vậy. Má ơi! Một câu A-Di-Đà Phật... bà
Già cứ vậy mà đi. Mỗi sáng bà Già lên trước chánh điện ngồi, ngồi khom khom như
vầy, bà khấn nguyện...
Con xưa vốn tạo bao ác nghiệp.
Đều do vô thỉ tham sân si.
Từ thân miệng ý phát sinh ra.
.. Con xin sám hối?...
Cái câu thứ tư Bà quên mất!... Bà nói, “Con
xin sám hối, xin Phật cho con về Tây Phương”. Nói y hệt như
vậy rồi, thì niệm “A-Di-Đà Phật... A-Di-Đà Phật...”. Tôi
không dám lên chánh điện, vì khi bà Già thấy tôi tới thì Bà đứng lên. Bà ngại,
Bà né ra... nên tôi không dám lên. Tôi nằm dưới này, tôi để cho bà Già an tịnh
công phu như vậy. Bà cứ: “Con xưa
vốn tạo bao ác nghiệp. Đều do vô thỉ
tham sân si. Từ thân miệng ý phát sinh ra. Con xin sám hối...”.
Câu thứ tư là, “Con xin sám hối, Nam Mô
A-Di-Đà Phật cho con về Tây Phương”, rồi Bà niệm A-Di-Đà Phật. Bà cứ thế mà đi, đủ rồi! Nhất định
không còn gì nữa cả, hi vọng bà Cụ sẽ vãng sanh. Chứ bây giờ còn ép: Má ơi!
Tụng kinh Địa-Tạng đi để giải cái nghiệp tam đồ ra, để khỏi xuống dưới tam ác
đạo... Thì cuối cùng Bà lo tụng kinh Địa-Tạng. Nhưng làm sao tụng cho vô? Một
bà Già tám mươi mấy tuổi rồi, làm sao mà tụng cho vô? Nếu mà giới thiệu kinh
này hay quá, kinh kia hay quá, thì ông Già làm sao tụng cho vô?
Chính vì vậy, càng nói chúng ta càng củng
cố Niềm Tin vững vàng. Hòa Thượng nói, nếu người nào niềm tin
đã vững vàng thì được... Xin hỏi:
- Vững
chưa?...
- Vững!
- Thì
sao?
- Thì
một câu A-Di-Đà Phật được vãng sanh.
Mình tin chắc chắn mình được vãng sanh.
Ngài nói, chỉ một câu A-Di-Đà Phật đi tới cùng...
Còn nghe pháp? Thì nghe pháp có giờ. Giờ
nào nghe pháp thì nghe pháp. Hết nghe pháp rồi thì phải niệm câu A-Di-Đà Phật.
Để trước giờ phút lâm chung ta niệm được câu A-Di-Đà Phật. Không được trước giờ
phút lâm chung ta đọc một bài kinh. Nhớ cho kỹ, vì đây là lời
Phật dạy. “Mười
niệm tất sanh” chính là mười câu A-Di-Đà Phật.
Hôm nay chúng ta chuyển qua Niềm
Tin. Xin chư vị càng ngày càng Tin vững vàng, để chúng ta đều được
vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 24)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
“Tín-Nguyện-Hạnh” là ba tư lương của người niệm Phật vãng sanh. Pháp hộ niệm
nói lên nói xuống cũng quy tụ vào ba điểm này.
Ngày hôm qua chúng ta nói về chữ “Tín”.
Chữ “Tín” này được thể
hiện ở những người niệm Phật. Ví dụ khi bệnh người ta an nhiên niệm Phật thì
người đó có “Tín”. Lúc trở
ngại gì cũng an nhiên tự tại để niệm Phật thì đó là “Tín”. Con đường
tu hành chuyên nhất không còn lao chao phân đo giữa pháp này pháp nọ nữa, như
vậy là “Tín Lực” của họ mạnh vô cùng, họ đã định rồi. Nhờ lòng tin này mà
phát khởi thiện căn. Những người thiện căn cao thì tín tâm càng cao. Những
người thiện căn yếu thì thường hay phân vân, do dự. Cho nên “Tín Tâm” liên quan
mật thiết với “Thiện
Căn”.
“Thiện Căn” là
gì? Nói cho đơn giản, khỏi cần triết lý làm chi, là những người hiền lành.
Trong quá khứ người ta có cúng dường chư Phật, có tu hành, đó là những người
hiền lành. Trên cõi Tây Phương toàn là chư Thượng-Thiện-Nhân hết. Chính vì vậy,
khi xét thấy rằng niềm tin của mình còn yếu, thì biết là thiện căn trong nhiều
đời kiếp mình tu yếu. Như vậy thì bây giờ làm sao? Hãy hạ quyết tâm tin tưởng
vào câu A-Di-Đà Phật. Khi bắt đầu tin tưởng vào câu A-Di-Đà Phật, mình vùng
lên, mình nguyện tha thiết, mình lập công cứ vững vàng. Thì cái niềm tin này nó
làm tăng thiện căn lên, rồi nhờ cái thiện căn đó nó mới giúp cho niềm tin của
mình vững vàng. Hai cái nó giống như nấc thang, cái này hỗ trợ cho cái kia, cái
kia hỗ trợ cái nọ...
Khi tâm mình chao đảo, phân vân, lo lắng điều gì đó, không nghĩ rằng
pháp niệm Phật này vi diệu như vậy, thì chứng tỏ niềm tin của mình yếu! Bây giờ
đừng nên phân đo nữa. Phật nói như vậy thì mình cứ quyết lòng tin đi, hạ quyết
tâm niệm Phật thì tự nhiên thiện căn của mình từ đó mà tăng trưởng lên.
Hôm nay chúng ta nói qua cái “Nguyện”
một chút. Hễ người mà có tín tâm mạnh thì sự phát nguyện sẽ tha thiết. Người
không có tín tâm mạnh thì phát nguyện không tha thiết. Như vậy, sự phát nguyện
không tha thiết nó bắt nguồn từ niềm tin yếu. Bây giờ, nếu mình đã thấy một bà
Cụ kia niệm Phật được vãng sanh, cái hình tượng đó động viên cho mình tin, dù
mình không hiểu lý do tại sao? Mình thấy bà Cụ đó không biết chữ nghĩa gì,
không biết kinh điển gì, nhưng Cụ cứ thành tâm chắp tay “Nam Mô A-Di-Đà Phật
cho con được vãng sanh Tây Phương”. Chính Bà cũng không biết Tây Phương là chỗ
nào cả, chỉ nghe Phật nói vậy thì tha thiết vô cùng, ngày đêm niệm, ngày đêm
nguyện, thế mà bà đó vãng sanh! Chính chỗ này đáng làm cho mình phải giựt mình,
tỉnh ngộ. À! Nhất định phải có một điều gì nhiệm mầu trong này? Phát khởi niềm
tin lên.
Đối với người căn cơ hạ liệt như chúng ta thì nên nhớ điều này:
- “Nguyện” là tha thiết nguyện
vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải là nguyện hết bịnh.
- “Nguyện” là tha thiết nguyện
vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải là nguyện cho con giải quyết xong
hết tất cả nợ đời rồi con mới tu.
- “Nguyện” là quyết lòng nguyện
vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, chứ đừng có nguyện tôi làm cho xong công
chuyện gia đình, tôi giúp vợ, giúp chồng, giúp con, giúp cái, giúp dâu, giúp
rể... cho xong, rồi tôi mới an tâm niệm Phật.
- “Nguyện” là nguyện vãng sanh về
Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải: “Nam Mô A-Di-Đà Phật, cho con thân thể
tráng kiện, khai mở trí huệ để con niệm Phật”.
Quý vị phải nhớ cho thiệt kỹ điểm này. Diệu Âm nhắc đi nhắc lại
không biết bao nhiêu lần. Có nhiều người tu cũng rất lâu nhưng sau cùng lại có
những lời nguyện sai lầm! Mình là hàng phàm phu tục tử thì bệnh khổ, nghiệp
chướng, nợ đời... nó cứ đeo mình, nó đeo cho đến khi mình tắt hơi rồi nó vẫn
còn đeo, đến nỗi mình phải mở mắt ra để cố làm cái gì đó(?) chứ nhắm mắt không
được đâu!
Đừng bao giờ nghĩ rằng:
- Tôi làm cho xong cái nợ đời rồi tôi mới tu.
Không bao giờ có đâu. Không bao giờ:
- À! tôi phải lo cho đứa con gái, tôi phải lo cho đứa con
trai, tôi lo cho đứa cháu nội, tôi lo cho đứa cháu ngoại... Nếu tôi không lo
thì không còn ai lo!...
Không phải đâu! “Dép dưới giường lên
giường vội biệt. Sống ngày nay há biết ngày mai?”. Không bao giờ có chuyện như vậy đâu!
Đừng bao giờ để cho những đứa cháu, đừng bao giờ để cho những đứa
con, đừng bao giờ để cho những người thân nhân của mình chịu tội. Vì chính họ
là nguyên nhân làm mình đọa lạc.
Hôm trước mình đã nói chuyện này. Nếu biết thương con cháu thì
phải biết lo tu hành. Để chi? Để làm sao khi nó chết mình là người thuộc chư
Thượng-Thiện-Nhân trên cõi Tây Phương xuống đây cứu nó. Đây là người biết điều.
Chứ còn không, thì cha dắt con xuống địa ngục, rồi con dắt cháu xuống địa
ngục... Trên cũng địa ngục, dưới cũng địa ngục. Cùng nhau đi vào con đường đó,
nhất định không ai cứu ai được cả! Hiểu đạo là hiểu thấu chỗ này.
Mình là người phàm phu tục tử thì:
- “Nguyện”
là nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải nguyện cho con được
“Nhất tâm bất loạn”.
- “Nguyện”
là nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải nguyện cho con niệm
Phật cho đến “Vô Niệm”.
- “Nguyện”
là con được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, sớm ngày nào con mừng ngày đó, chứ
không phải nguyện cho con niệm Phật cho được “An khang”.
- “Nguyện”
là nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nam Mô A-Di-Đà Phật, con quyết lòng
đi về Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải nguyện cho con niệm Phật được chứng
đắc, “Niệm Phật Tam Muội”.
Vì nên nhớ, “Niệm Phật Tam Muội”, “Nhất
Tâm Bất Loạn”... đều là trong kinh phật nói, nhưng mà Ngài dành cho những người
thượng thiện căn, đại thượng thiện căn, là những vị đại Bồ-Tát. Các Ngài đó
muốn nguyện sao cũng được. Còn đối với mình thì Phật dạy, phàm phu tục tử là
phải nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Còn chuyện “Nhất tâm bất loạn” ra
sao, kệ nó! Chuyện “Niệm bất niệm” ra sao, kệ nó! Đừng để trong tâm.
Chư Tổ nói, niệm Phật không cầu nhất tâm
bất loạn thì mới có thể nhất tâm bất loạn. Người cầu nhất tâm bất loạn, thì
nhất định vọng tâm nó sẽ nổi lên, không bao giờ nhất tâm bất loạn được!
- “Nguyện” là nguyện vãng sanh
về Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải nguyện cho con hết vọng tưởng để con niệm
Phật được nhất tâm, để vọng tưởng đừng xảy ra.
Vọng tưởng nó đến sao đến kệ nó, mình niệm
cứ niệm, chứ không phải khi vọng tưởng nổi lên thì đối trước bàn Phật: “Nam
Mô A-Di-Đà Phật, xin cho con hết vọng tưởng”.
Như vậy, Diệu Âm đã nhắc lên nhắc xuống
không biết bao nhiêu lần câu: “Nguyện vãng
sanh về Tây Phương Cực Lạc”. Tất cả
mọi vấn đề khác xin buông hết.
Vọng tưởng đến? Vọng tưởng càng đến càng
biết rằng mình là hạng phàm phu tục tử. Đã biết rằng mình là phàm phu tục tử
thì bắt buộc phải có vọng tưởng. Có vọng tưởng rồi thì nhất định hãy nhờ cái
vọng tưởng này mà nhắc nhở để làm tăng thượng duyên cho mình niệm Phật. Còn
những người cứ cố gắng đối trị với vọng tưởng, tức là cứ làm sao diệt cho hết
vọng tưởng, thì vô tình càng niệm Phật càng bị nhức đầu!...
Cho nên ngài Hạ-Liên-Cư mới nói: “Niệm Phật không cầu hết vọng tưởng. Niệm
Phật không cầu cho nhất tâm bất loạn. Niệm Phật chỉ để cầu vãng sanh về Tây
Phương Cực Lạc”. Vì mình biết mình là hàng phàm phu tục tử, cho nên càng
niệm càng loạn. Càng loạn thì càng biết mình là phàm phu. Biết là phàm phu rồi
thì lo mà mua cái máy bấm. Cái máy bấm tức là cái máy công cứ. Bây giờ đây chùa
nào cũng có cái máy bấm hết. Bấm, bấm, bấm... Thay vì mình đếm thì nó bấm giùm
cho mình. Cứ niệm, cái tay cứ bấm, bấm, bấm, bấm... Đó là máy công cứ.
Những người nào khởi phát tâm lập công cứ,
thì bắt đầu chúng ta đi. Những người nào chưa khởi phát tâm lập công cứ thì đi
quá chậm, hoặc là ngồi một chỗ. Nhiều khi người kia niệm một ngày hai mươi lăm
ngàn, còn ta niệm mới có hai ngàn! Hai ngàn ta cũng phải niệm. Vì chỉ có hai
ngàn như vậy, ta mới bắt đầu suy nghĩ... À! Tại sao mình yếu vậy? Mình phải
tiến lên ba ngàn, tiến lên bốn ngàn... Nghĩa là cái máy của mình khởi phát
chậm, nhưng khi bắt đầu mình đi... đi... đi... Sau khi nó đã có trớn thì nó sẽ
đi được. Cho nên khi mà người có tín tâm thì tự nhiên cái nguyện của họ tha
thiết vô cùng và cái hạnh của họ được lập một cách tự nhiên. Phát được tín tâm,
người chưa lập hạnh sẽ phát tâm lập hạnh liền.
Tôi xin kể ra đây một câu chuyện, câu
chuyện này có thật. Có nhiều người thường nói, để từ từ rồi tôi mới lập
hạnh?!... Có một ông Cụ đó 77 tuổi, đúng rồi, 77 tuổi. Cụ đã tu và ăn chay
trường ba mươi mấy năm. Cụ từng tu qua hình như là mười lăm, mười sáu chùa.
Trong vùng Sài Gòn ít có chùa nào mà cụ không đến. Tất cả những khóa thọ Bát
Quan Trai, Cụ tham dự đầy đủ, những khóa Phật Thất cũng đều dự đầy đủ. Nhưng về
nhà, khi có những người biết được phương pháp hộ niệm, đến khuyên Cụ niệm Phật
thì Cụ không niệm. Cụ nói:
- Ta tu như vậy đã tốt quá rồi, đâu
cần phải niệm sớm như vậy. Ta chưa chết mà, để từ từ sẽ tính...
Cỡ chừng sáu tháng sau, có một lúc Cụ đang
đứng trước cửa nhà thì Cụ thấy có một cái bao gạo đổ ra, rồi có một đàn gà tới
ăn cái bao gạo đó. Cụ ở trong nhà chạy ra đuổi mấy con gà, thì Cụ vấp phải cái
ngạch cửa và té xuống, rồi bị chấn thương mê man bất tỉnh. Khi Cụ tỉnh lại, Cụ
mới nói tại sao gà ở đâu mà tới nhà mình nhiều dữ vậy? Nhưng thật ra hoàn toàn
không có gạo gì hết, cũng không có gà gì hết! Cụ vô nằm trong bệnh viện khoảng
một tháng gì đó... có lúc tỉnh lúc mê. Bệnh viện chịu thua mới đem về nhà, và
chính tôi là người có đi tới hộ niệm cho ông Cụ đó. Tôi không phải là người
chính thức hộ niệm. Chương trình của tôi không có ở nơi đó lâu được. Ông Cụ mê
man bất tỉnh, cứ tỉnh tỉnh mê mê, tỉnh tỉnh mê mê như vậy cho đến lúc chết
không được vãng sanh.
Khi tôi tới hộ niệm cho ông Cụ, tôi hộ
niệm cũng được hơn một tuần, tận sức để khai thị mà ông Cụ không tỉnh lại. Tôi
mới kêu gia đình ra hỏi, hỏi cặn kẽ từ đầu tới đuôi, thì mới phát hiện được ra
những chuyện này. Là trước những ngày mà ông ta mất, ông thường đứng trước cửa
nhà cầm cái tay lái xe Honda nói chuyện rầm rì rẩm rỉ, rầm rì rẩm rỉ gì đó? Sau
cùng thì ông ta thấy một đàn gà... Nhưng mà thật ra không có đàn gà đó?...
Quý vị coi, hôm trước mình nói rằng là
người hạ căn phàm phu tục tử thì oan gia trái chủ đi kèm sát bên mình. Cho nên
khi muốn phát tâm mình phải phát tâm liền, mình phải làm liền. Mình niệm năm
ngàn không được thì niệm hai ngàn. Hai ngàn không được thì lúc “Cờ tướng” hay
“Nói chuyện”... bắt đầu niệm Phật. Nếu mà có cái máy bấm, lúc mình đang đứng
giữa ba, bốn người, họ đang nói chuyện, mình không biết trốn đâu, thì hãy đút
tay trong túi, cứ để tay vô túi mà bấm bấm trong đó: “A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà
Phật”. Thật ra mình giả đò cười cười với họ, nhưng mà cái tâm của mình là chìm
trong câu A-Di-Đà Phật. Nhờ cái máy bấm đó nó giúp cho mình niệm. Đó gọi là
công cứ. Cái máy bấm đó gọi là máy công cứ chứ không có gì khác. Nhờ như vậy mà
chiều lại ta có chút công đức. Đem công đức này hồi hướng liền cho oan gia trái
chủ. Xin đừng chờ!...
Hôm trước, có vị nào đó nói rằng, để tôi
làm ăn cho ngon lành, sắp sửa chuẩn bị cho ngon lành xong rồi tôi mới niệm
Phật? Không được. Đã phát tâm thì nên phát tâm liền. Người ta phát tâm lớn thì
có khả năng lớn. Mình không có khả năng thì phát tâm nhỏ. Để chi? Để tạo công
đức liền lập tức, để hồi hướng cho oan gia trái chủ liền đi. Tại vì nếu không,
thì họ sẽ xúi mình hãy chờ sáu tháng nữa, ba tháng nữa mới làm công cứ... Nhưng
thực ra, họ đã biết cái vận mạng của mình sẽ tới lúc nào rồi!... Quý vị ơi! Có
những cái thế nó cài lạ lùng lắm!
Cho nên, khi biết được như vậy rồi, đã tu
thì phải phát tâm tu liền đi chư vị ạ. Vì huệ mạng của mình mà tu, chứ không
phải vì một người nào khác. Không phải vì một đứa con, vì một đứa cháu, một
người vợ hay một cái đạo tràng, mà chính vì mình. Mình không biết ngày nào ra
đi. Hơi thở, thở ra không hít vào là xong liền. Chính vì vậy mà hộ niệm là nhắc
nhở cho chúng ta phải lo tu hành liền, để rồi khi mình nằm xuống, thì tất cả
những kiến thức này mình biết hết, biết hết thì hộ niệm dễ lắm. Chỉ ngồi bên
cạnh: À bác Sáu ơi! Niệm Phật đi nha. Ừa!... Có gì nói với tôi nghen. Ừa!...
Biết hết trơn rồi. Lúc đó tất cả mọi người ngồi chung quanh niệm “A-Di-Đà Phật,
A-Di-Đà Phật”. Ta nằm đó ta cũng niệm “A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật”.
Nhất định sẽ cảm ứng, nhất định sẽ tương ưng với đại nguyện A-Di-Đà Phật. Ta về
Tây Phương dễ dàng!...
Nam Mô A-Di-Đà Phật!
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 25)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Ngày hôm nay niệm
Phật đường chúng ta “Tịnh khẩu, niệm Phật” trong 24
tiếng đồng hồ. Sở dĩ chúng ta tịnh khẩu niệm Phật, là để tập tâm thanh tịnh, tập cho
trong tương lai chúng ta tịnh tâm hơn. Tịnh khẩu hai ngày, 48 tiếng đồng hồ, rồi tịnh khẩu lên ba ngày để cho tâm chúng ta
định lại trong câu A-Di-Đà Phật. Để cho nghiệp chướng của
chúng ta giảm bớt, và để cuối
cùng từ cái Niệm Phật Đường này ta đi về một cái đại Niệm Phật Đường ở trên cõi
Tây Phương của A-Di-Đà Phật.
Tất cả chư Tổ, vị nào cũng cẩn thận đến vấn đề
khẩu nghiệp. Các Ngài luôn luôn nhắc
nhở chúng ta, tu hành cần phải cố gắng tịnh khẩu lại. Khẩu mà tịnh
được thì tâm chúng ta mới tịnh được. Mà tâm tịnh được thì công phu mới thành
tựu và công đức mới có. Trong mười điều ác đức Thế-Tôn đưa ra, thì khẩu nghiệp nó chiếm gần một nửa. Mười điều thiện để
cho chúng ta làm phước làm đức, thì cái miệng của chúng ta nó chiếm gần một nửa. Cho nên khi bắt đầu quyết
định tu hành, nhất định chúng ta phải cẩn thận về khẩu nghiệp, vì đây chính là cái cửa ngõ
nó tuôn hết công đức của chúng ta ra.
Khi mình vào một Thiền Đường, nếu đúng là một Thiền Đường thì mình thấy chư vị
luôn luôn giữ im lặng. Đi, các Ngài đi nhẹ nhàng.
Đứng, các Ngài cũng đứng
nhẹ nhàng. Ngồi, các Ngài ngồi im lặng như tờ, ngón tay không dám động đậy, đừng nói chi là mở lời
ra nói. Nếu mình vào trong một mật thất của Mật Tông, chúng ta sẽ thấy các Ngài tịnh khẩu niệm
chú, niệm mà câu chú vang ra rào rào giống như là tiếng gió thổi, không còn là tiếng
niệm nữa. Khi vào một Niệm Phật Đường, nếu thật sự là một Niệm Phật Đường, thì xin thưa với chư vị, mình thấy người niệm
Phật khi đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín… đều ở trong câu A-Di-Đà Phật.
Chúng ta đừng nghĩ rằng...
- Một người đang thái rau trong nhà bếp
người ta không niệm Phật. Không phải! Thái rau
nhưng người ta đang niệm Phật trong đó.
- Trong khuôn viên Niệm Phật Đường, có người đang nhổ cỏ.
Nhổ cỏ, nhưng người ta đang niệm Phật trong đó.
- Một người đang
quét nhà. Quét nhà, nhưng người ta đang
niệm Phật trong đó.
Nếu mà chúng ta tới bên cạnh người đó nói
chuyện, người đó sẽ không niệm Phật được. Nếu mình không để
ý, cứ tưởng
rằng nói vài lời cho vui tươi, thoải mái, đem chuyện thế gian
ra kể một vài câu cho đỡ
buồn... vô tình chúng ta đã làm mất rất nhiều phước mà không hay. Chính vì vậy, có nhiều vị ở
trong Niệm Phật Đường thường hay nhắc
nhở với tôi rằng, hãy chú ý vấn đề nói chuyện.
- Nói với chị đó đừng tới nói chuyện, trong khi tôi đang nấu
cơm.
- Nói anh đó đừng tới nói
chuyện, trong khi
tôi đang nhổ cỏ.
- Nói người đó đừng nói chuyện, trong khi tôi đang
niệm Phật.
Thật sự có người nhắc đến, nhưng chưa có dịp để nói ra chuyện này. Hôm nay nhân
buổi tịnh khẩu niệm Phật, xin đại diện cho Niệm Phật Đường chúng tôi xin nói ra vấn đề này.
Thường thường các vị đồng tu vì vị nể, không dám nói. Người ta muốn thanh tịnh niệm Phật, mình lại tới
nói chuyện, chẳng lẽ người ta bảo mình đừng nói chuyện được sao? Thật sự là người ta đang niệm
Phật, mình lại tới
cản trở sự niệm Phật của họ, mình bị mất nhiều công đức.
Trong thế gian cũng có câu: “Bệnh từ miệng
nhập, tội từ miệng xuất”. Nhất là trong
một Niệm Phật Đường trang nghiêm,
xin chư vị cố gắng tế nhị về chuyện này, tìm cách giảm bớt được
chuyện nào hay chuyện đó. Chư Tổ nói: “Bớt đi một câu
chuyện, niệm thêm câu Phật hiệu. Đánh chết
tập khí này,cho chân tâm hiển lộ”. Tất cả ở một đạo tràng trang nghiêm nào, một vị Sư nào, một vị Tổ nào cũng đều nhắc nhở chúng ta về
chuyện tịnh khẩu. Chúng ta
vâng lời, “Y
Giáo Phụng Hành” lời dạy của các Ngài. Chính chúng ta
cũng hiểu được rằng, cái miệng của mình nó phá quá nhiều công đức!...
Cho nên chúng ta tập hành theo các Ngài mà lập ra một
ngày 24 tiếng đồng hồ tịnh khẩu. Khi tịnh khẩu, giả như lúc đó trong
Niệm Phật Đường không có một ai, chúng ta cũng không nên mở lời
lên nói, mà hãy nhiếp tâm vào câu
A-Di-Đà Phật. Quý vị nên
biết rằng, khi đã sinh ra
trong thời mạt pháp này, cái nghiệp của chúng ta nó
lớn lắm! Vì mình không
để ý đó thôi, chứ để ý một chút là thấy liền. Thấy ở chỗ nào?
- Vào trong
bệnh viện, sẽ thấy liền!
- Đi ra ngoài nghĩa địa, sẽ thấy liền!
- Đi vào trong các nhà quàn, sẽ thấy liền!
Thấy những gì? Hằng ngày, hằng giờ người ta chết đi vào con đường đoạ
lạc! Chắc chắn như vậy! Khi biết được như vậy rồi, thì rõ ràng ta cần phải tịnh khẩu
tu hành. Ráng cố
gắng giảm bớt được câu chuyện nào cứ giảm, để dành thời gian
niệm
Phật. Thấy một người đang cắm hoa, người ta cắm hoa nhưng
mà họ đang âm thầm niệm Phật trong đó, mình không nên tới đứng bên cạnh nói
chuyện. Nếu mình
nói chuyện thì người ta không niệm Phật được. Người ta không niệm Phật được thì họ không
tạo công đức được!
Còn mình nói chuyện thì phá mất công phu của người ta. Phá công
phu của người ta thì mình mất công đức. Mất công đức thì nhiều nghiệp
chướng sẽ đến với mình. Chính vì vậy, người nói chuyện nhiều thường tu
không được.
Vì vậy, ở tất cả những đạo tràng trang
nghiêm đều nhắc nhở chuyện này. Mỗi lần chúng ta nhắc một chút, mỗi lần chúng ta nhắc
một chút. Vì thực sự, chư vị ơi! Đọa lạc quá dễ dàng! Mà
giải thoát thì quá khó khăn! Đã quá khó khăn giải thoát mà chúng ta còn tự dễ dàng cho mình nữa, thì không còn
cách nào để mong thành tựu được.
Như hôm qua chúng ta có nói chuyện về
vấn đề công cứ. Có những người lập hạnh niệm hai mươi lăm ngàn câu Phật
hiệu, thì công phu
cao. Có những người
lập hai mươi lăm ngàn không được thì lập mười ngàn. Lập mười ngàn không
được
thì lập
năm ngàn. Lập năm ngàn không được
thì lập hai ngàn... Công phu
khác nhau, nhưng có lập công cứ còn hơn không có công cứ. Đừng sợ rằng,
hôm qua ta được niệm mười ngàn, nhưng hôm nay niệm chỉ được sáu ngàn,
như vậy ta sẽ bị
tội! Không! Không có gì là tội cả. Có sáu ngàn câu A-Di-Đà Phật thì
chúng ta có sáu điểm. Có mười
ngàn thì có mười điểm. Có bữa vì bận chuyện gì
quá chỉ niệm được hai
ngàn, thì hai ngàn chúng ta có hai điểm. Hai
điểm còn hơn những người không có điểm nào.
Như vậy rõ ràng là
chúng ta tự nguyện trói mình với câu A-Di-Đà Phật. Để chi? Để cho bánh
“Xe Nghiệp” của chúng ta lăn, phải cho cái nghiệp của chúng
ta lăn, lăn đến chỗ giải
thoát. Nếu “Xe Nghiệp” này đã nặng quá, mà còn trì trệ lại đây,
không
chịu tiến về con đường giải thoát, thì nhất định đời đời kiếp kiếp chúng
ta sẽ chịu
nạn!...
Đời này đã mạt pháp rồi, nếu luống qua một đời này, tức là cuộc
đời tu hành này chúng ta không giải thoát được, nghĩa là không vãng sanh về Tây Phương
được, thì xin thưa, chắc chắn rằng vạn kiếp sau, gọi là “Bá thiên vạn kiếp”, không cách
nào mà có thể gặp lại câu A-Di-Đà Phật.
Vì sao vậy?...
- Tại vì đời mạt pháp, thì một đời phải xấu hơn một đời!
- Tại vì đời mạt pháp, thì một kiếp
phải xấu
hơn một kiếp!
- Tại vì đời mạt pháp, thì những đời
sau của chúng ta nhất định sẽ khổ hơn đời này! Nghiệp chướng của chúng ta
trong đời sau nhất định phải lớn hơn trong đời này.
Thế nên, đời này mà giải thoát không được,
đừng bao giờ hy vọng tới đời sau.
Cho nên chúng ta tịnh khẩu
niệm Phật là vì thương cái huệ mạng của chúng ta mà tịnh khẩu, chứ không phải vì cái giới luật của đạo
tràng này ban ra ép buộc chúng ta phải tịnh khẩu. Hiểu được như
vậy rồi thì một ngày tinh tấn niệm Phật, thật sự mình thấy vui vô cùng. Những người nào thật sự là người chân tu, chân chánh tu
hành, thì họ sẽ rất trân quý
những cơ hội này để niệm Phật. Còn nếu chỉ là người muốn tu
thử, tu chơi chơi, tu giỡn giỡn… thì những ngày giờ này sẽ chán ngán lắm, khổ sở lắm! Và có thể
rằng, một ngày nào đó họ sẽ thối lui! Mà một khi đã thối lui, chắc chắn phải thối luôn vào những
cảnh đọa lạc, không
bao giờ có thể ngoi lên được! Vì
sao vậy? Ức ức người tu
hành, làm sao tìm cho ra một người giải thoát, trong đời mạt pháp này...
Ấy thế mà đức Bổn Sư Thích-Ca-Mâu-Ni Phật dạy, quý vị cứ niệm Phật
đi, quý vị hãy nương theo pháp niệm Phật đi, nhất định quý vị sẽ
thoát vòng sanh tử luân hồi. Tại sao? Tại vì đại thệ của A-Di-Đà Phật sẵn sàng đón
tiếp chúng ta về Tây Phương Cực Lạc để thành đạo. Các Ngài không đòi hỏi chúng ta điều gì cao
siêu, chỉ đòi hỏi chúng ta Thanh Tịnh, Chân Thành, Buông Xả
thế gian ra.
Nói thêm một câu chuyện, mất đi bao nhiêu phước đức. Niệm một câu
A-Di-Đà Phật thêm biết bao
nhiêu công đức. Phải đánh chết cái tập khí thế gian, quyết lòng không
nói lỗi người
khác, quyết lòng không nói chuyện đời, quyết lòng không nói người này
xấu, người kia tốt. Để chúng ta đánh cho chết cái tập khí này đi. Vì
không đánh chết tập
khí này, thì A-Di-Đà Phật cứu ta không
được.
Xin thưa với chư vị, ráng cố gắng,
quyết lòng tới đây niệm Phật, tịnh
khẩu. Rõ ràng đây là cơ hội cho
chúng ta tiếp nhận quang minh của A-Di-Đà Phật. Giữ tâm ta trong câu
A-Di-Đà Phật, nhất định trong một đời này, chúng ta về thẳng Tây Phương
Cực Lạc để thành đạo!...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 26)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
“Tịnh Khẩu Niệm Phật”.
Tịnh: là tập cho trong tâm chúng ta thanh tịnh. Ba nghiệp Thân Khẩu
Ý thanh tịnh. Bên ngoài tịnh nghĩa là buông xả ra, tịnh khẩu để cho chúng ta
thanh tịnh. Bên trong và bên ngoài những gì không cần thiết, thì tập buông ra.
Vì phàm phu tục tử tội chướng thâm trọng như chúng ta, con đường đọa lạc quá dễ
dàng, nếu sơ ý một chút rơi vào trong tam ác đạo liền. Trong khi đó thì đối với
con đường giải thoát chúng ta phải cẩn thận từng chút, từng chút, nếu không thì
không kịp trở tay!...
Diệu Âm xin kể ra một câu chuyện có thực
để chư vị nghiệm thử coi. Câu chuyện này hoàn toàn có thực, ở đời này chớ không
phải là chuyện đời xưa. Vào cỡ tháng 6 năm 2004, có một bà Cụ ở Việt Nam, bà Cụ
này bảy mươi mấy tuổi, là mẹ của một người bạn. Bà Cụ này bị bán thân bất toại
nằm trên giường không đi được nữa đã sáu tháng qua rồi, tức là nằm để chờ chết.
Người bạn tới hỏi tôi, bây giờ phải làm sao để cứu người Mẹ? Tôi mới nói là hãy
về khuyên người Mẹ buông hết đi, thành tâm niệm Phật cầu vãng sanh, còn mình
thì tìm cách tổ chức hộ niệm. Nhắc nhở bà Cụ niệm Phật, gọi là hộ niệm. Người
bạn này về Việt Nam khuyên bà mẹ niệm Phật, thì bà Cụ nói rằng:
- Con
cứ thử nghĩ đi, thằng em trai út của con chưa có vợ, chưa có việc làm, làm sao
mà mẹ đành lòng tu hành đây?...
Người bạn đó khuyên hoài mà người mẹ nhứt
định không chịu nghe theo. Bà cứ nói:
- Bây
giờ nỡ nào mà Mẹ niệm Phật cho được trong khi người em của con còn khổ như vậy!
Thời gian khuyên qua khuyên lại như vậy bà
mẹ cũng vẫn không niệm Phật. Khoảng bốn, năm tháng sau gì đó thì bà Cụ chết.
Chết rồi, sau khi mai táng xong thì cái tấm hình của bà Cụ để thờ trên bàn tự
nhiên rơi ra nước mắt. Tôi hỏi, nước mắt rơi ra từ khóe nào? Người bạn nói là
rơi từ khóe ngoài. Tự nhiên cái khóe mắt trong tấm hình tự nó rơi nước ra lăn
xuống má đọng lại một giọt nước. Ban đầu người ta tưởng là có người vô ý làm
rơi nước. Nhưng không phải, tấm hình đó để trong khuôn kiếng, và nước vẫn cứ
rịn ra liên tục ba ngày như vậy, chặm không khô. Chặm cái giọt nước này rồi lại
rỉ ra giọt nước khác rồi lăn xuống má.
Người bạn đó cũng cầu siêu, làm nhiều việc
lắm... Sau đó có một cái chuyện lạ lùng khác xảy ra. Khoảng chừng mấy tuần sau
thì linh hồn của người mẹ đó ứng mộng về báo cho người con trai rằng, sáng mai
hãy đến tại địa điểm đó để nhận việc làm, mẹ đã xin được việc cho con ở đó rồi.
Người con đó thấy như vậy mới nói lại với người nhà, thì người nhà bàn rằng,
chắc là mẹ hiển linh xin được việc làm thật đó, nên cứ theo lời mẹ đi. Người em
trai mặc áo quần chỉnh tề, sáng ngày hôm sau tới tại địa điểm đó... Đúng như
vậy, người con tới tại chỗ đó và người ta nhận cho anh làm việc.
Không biết là việc làm đó có tốt lắm
không? Nhưng có việc làm thì gia đình cũng thấy yên tâm. Nhưng sau đó lại có
thêm một hiện tượng khác xảy ra tiếp. Sau khi cúng thất 49 ngày xong rồi, thì
chiều chiều khoảng chừng 5 - 6 giờ, tức là mặt trời vừa lặn, thì bà Cụ lại hiện
thân về trước đầu hè của gia đình đó mà khóc! Người ta thấy được, các con cái
đều thấy được bà Mẹ hiện về ngay tại đầu hè ngồi khóc. Người con của bà Cụ nghe
nói vậy mới sợ quá! Sợ mất hồn! Thực sự là sợ quá! Mới tới tìm tôi và hỏi, làm
sao để giải quyết vấn đề đây? Thực sự, là trong trường hợp đó tôi cũng không
biết cách nào giải quyết. Tôi chỉ khuyên người bạn đó hãy mau mau trở về lại
Việt Nam, lấy số tiền mà bà Cụ tích trữ được đem ra in kinh, ấn tống, in hình
Phật, phóng sanh, làm tất cả những việc thiện lành, rồi hồi hướng thẳng cho
hương linh của bà Cụ, và mỗi chiều niệm Phật xong, đứng trước bàn thờ của bà Cụ
khai thị cho bà Cụ:
- Mẹ
ơi! Mẹ đã bị đọa lạc rồi! Vì tình chấp không bỏ, nên Mẹ đã bị khốn khổ rồi! Bây
giờ Mẹ trở về đây khóc than với tụi con, tụi con cũng không cứu được Mẹ. Chỉ có
Mẹ ngộ ra, quyết lòng buông xả, thành tâm niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương.
Con sẽ làm tất cả những việc thiện lành để hồi hướng cho Mẹ. Mẹ phải mau mau
ngộ ra để tìm con đường giải thoát cho chính Mẹ.
Tôi khuyên đại khái như vậy. Tôi cũng
khuyên người bạn hãy đến một tự viện nào đó, xin các Sư cầu siêu cho Mẹ mình
thêm 49 ngày nữa, cứ tận sức mà làm chớ không biết cách nào hơn? Người bạn đó
đã về Việt Nam và làm đúng như vậy. Sau đó người mẹ không về khóc nữa, còn vấn
đề có giải thoát được hay không thì không dám nói. Khi trở lại Úc, người bạn đó
đã đến biếu cho tôi một chồng hình Phật như thế này, và nói với tôi rằng:
- Đây
là những việc tôi đã làm được. Tôi cúng dường những hình Phật này ở Việt Nam
nhiều lắm, nay tôi đem tới đây gởi cho anh để anh đi phát cho người ta, hồi
hướng công đức cho Mẹ tôi.
Sự việc đó có thật đã xảy ra vào khoảng
giữa năm 2004.
Mình thấy đó, đã nằm trên giường bệnh trên
nửa năm để chờ từng phút ra đi, thế mà tình chấp không buông xả được. Vì tình
chấp không buông xả, nên khi chết đi, mới lặn lội kiếm cho người con một việc
làm. Việc làm không biết như thế nào? Đến bây giờ người con đó không biết còn
giữ được việc làm đó hay không? Không biết! Nhưng vì cái chấp này, người Mẹ đã
bị nạn rồi! Sau 49 ngày mà hiện thân về trước đầu hè cho người ta thấy và khóc,
thì chắc chắn bị khổ rồi! Địa ngục thì chắc không thể nào xuống được đâu, vì nếu
đã rơi vào trong địa ngục, thì dễ gì ra được để báo cho người thân? Nếu mà lọt
vào trong hàng bàng sanh súc vật thì cũng không về được nữa rồi, vì đã biến
thành bốn cẳng chạy lăn quăn ở đâu đó rồi, nhưng đây không phải. Nếu mà đầu
thai chuyển thế thành người cũng không thể nào trở lại được nữa.
Mình dùng cái phương pháp loại suy để tìm
hiểu thì rõ ràng bà Cụ này đã rơi vào trong hàng quỷ đói. Kinh Phật chúng ta
gọi là “Ngạ Quỷ”. Quý vị thấy không? Dễ sợ không? Người con đó có được việc làm
đó, có đánh đổi được sự đọa lạc của người mẹ trong vạn kiếp ở hàng quỷ đói hay
không? Khi mà rơi vào đó rồi dù có khóc, khóc cho một vạn đời đi nữa, nước mắt
có biến thành biển đi nữa, cũng không giải quyết được gì cả! Trong cảnh giới
của quỷ đói còn khổ nhiều hơn tiếng khóc đó nữa! Nó khổ đến nỗi mà khóc không
còn ra lời nữa kìa, đừng có nói là ít... Tại vì sao? Vì đói quá rồi! Không nhà
không cửa, lang thang, thường thường là tìm những cái cây để mà tấp vào đó,
nương vào cái sức nóng của cây đó mà sống. Mà thực sự phải tìm cây nào xấu
nhứt, dở nhứt, tệ nhứt chớ những cây tốt thì đã có người chiếm rồi, không dễ gì
đâu ạ! Thường khi rơi vào tình trạng đó rồi, thì phải lang thang từ chỗ này đến
chỗ nọ, không biết chỗ nào mà sống ổn định cả! Cảnh khổ như vậy đó!...
Người tu hành chúng ta hiểu được chỗ này
rồi, phải biết sợ. Sợ gì? Sợ cảnh ngạ quỷ! Sợ cảnh bàng sanh! Sợ cảnh địa ngục!
Dễ sợ lắm!...
Nếu người con mà nhìn thấy được cảnh người
mẹ đó, thì người con mới giật mình.
- Trời
ơi! Tại vì con chưa có việc làm, Mẹ vì con mà Mẹ bị đọa lạc vào cảnh ngạ quỷ,
bây giờ làm sao đây?
Người con mà ngộ ra đạo lý này, thì ngày
đêm lo tu hành, ngày đêm lo niệm Phật, để đem tất cả công đức hồi hướng cho Mẹ,
cầu cho Mẹ vượt qua ách nạn. Nhưng xin hỏi, chắc gì người con ngộ được chuyện
này?! Thấy thế, rõ ràng người con đã gián tiếp gây tội cho người Mẹ. Người Mẹ
vì không biết buông xả, không biết đường thoát nạn, cứ chấp vào tình thức để bị
nạn. Khi đã bị nạn rồi, thì làm sao còn có thể trở về nói rằng: “Con ơi,
thằng em trai của con chưa có việc làm, thì nỡ nào
ta tu hành cho được!”. Mà chỉ hiện về ân hận, ngồi khóc mà thôi! Còn lời nào để
nói nữa đây? Đau khổ vô cùng!
Khi nghe được mẫu chuyện này, ở đây có ai
ngộ ra không? Ngộ ra đi, gọi là “Hồi đầu thị ngạn”, niệm câu
A-Di-Đà Phật về Tây Phương thành đạo. Không ngộ ra, tiếp tục mê muội, mê muội
này nó sẽ dẫn tới chỗ, nếu tránh khỏi địa ngục, thì cũng phải rơi vào ngạ quỷ!
Nếu tránh được ngạ quỷ, thì nhất định phải là bàng sanh! Có những con chó sanh
ra lạ lùng lắm, nó cứ chui vào trong nhà của mình, mình đá lăn cù ra, nó cũng
lại chui vô. Con cái không biết, cứ tưởng đó là con chó của hàng xóm, lấy roi
đánh nó ra, nhưng mà đánh nó, nó cũng chạy vào. Tại sao nó không chạy vào nhà
hàng xóm mà cứ chạy vào nhà mình? Coi chừng người Mẹ mình đó mà không hay! Ở
quê có nhiều người không biết đạo, thấy con chó vào trong nhà thì bắt nuôi
luôn. Nuôi con chó không phải vì thương nó, mà vì con gái mình vừa mới sanh một
đứa cháu ngoại, đứa cháu nó bỉnh ra đầy giường đầy chiếu không ai giải quyết. Thôi
nuôi con chó để nó giải quyết giùm... Đau khổ vô cùng!
Chính vì vậy, khi nghe câu chuyện này,
chúng ta phải biết giật mình. Tự mình cứu lấy mình. Hồi đầu đi. Tỉnh ngộ đi.
Một câu A-Di-Đà Phật đi về Tây Phương, giải thoát cho mình, giải thoát cho tất
cả dòng họ, bà con, cửu huyền thất tổ trong nhiều đời nhiều kiếp, cứu cho bà
con thân thuộc trong vô lượng kiếp về sau. Xin chư vị chú ý.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 27)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Ta bây giờ còn đang sống, chưa có lâm
chung! Cho nên ta hướng dẫn cho người trước khi lâm chung, tức là trong
những ngày mà chúng ta chưa chết, chớ khi lâm chung rồi thì không dễ gì hướng
dẫn được nữa đâu.
Chính vì thế, ta nói đây là đưa ra tất cả
những kiến thức về hộ niệm cho vững vàng, để lúc lâm chung ta phải vui vẻ đi về
Tây Phương Cực Lạc với Phật... Chớ đừng có sơ ý nói là... niệm Phật khi lâm
chung... thì cứ đợi đến lúc sắp “Queo râu” rồi mới kêu A-Di-Đà Phật...
Mấy bài tọa đàm nói về “Hộ Niệm Là Pháp Tu”
đưa ra, thì có nhiều người vừa nghe nói Hộ Niệm Là Pháp Tu mới viết thư tới
nói:
- Tôi
đồng ý với anh Diệu Âm, là phải tu hành mới vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, chớ
nghiệp chướng nặng quá như vầy mà cứ nằm đó chờ hộ niệm. Làm gì có chuyện hộ
niệm vãng sanh? Hòa Thượng Tịnh-Không cũng nói không được hộ niệm.
Nghe người ta nói như vậy, thì tôi mới trả
lời:
- Nếu biết mình nghiệp chướng sâu nặng
thì phải lo tu hành, khuyến tấn tu hành, đừng nằm đó chờ là đúng. Còn nói rằng Hòa
Thượng Tịnh-Không bảo không được hộ niệm, thì xin lỗi tôi chưa nghe. Coi chừng hiểu lầm!...
Có nhiều người không tin rằng có thể vãng
sanh, vì đưa ra vấn đề nghiệp chướng chúng ta lớn quá. Còn nghiệp chướng như
vậy làm sao có thể vãng sanh? Dù cho trong kinh Phật nói về vãng sanh Tây
Phương rất nhiều, nhưng họ vẫn không tin tưởng rằng với người nghiệp sâu tình
nặng như thế này có thể được vãng sanh! Cho nên người ta nói làm gì có chuyện
hộ niệm vãng sanh? Họ nghe từ đâu không biết, lại nói rằng, Hòa Thượng
Tịnh-Không không cho hộ niệm! Tôi mới nói, đừng có nên hiểu lầm về Ngài. Ngài
nói chỗ nào đâu? Trong đoạn nào đâu đưa ra coi?
Trong khi đó, thì cách đây cỡ bốn, năm
tháng, có một vị ở bên Mỹ ngày đêm dịch một bài khai thị của Hòa Thượng
Tịnh-Không với cái chủ đề là “Sự Kiện Quan Trọng Nhất Trong Đời Người” Bài khai thị đó Ngài dạy
phải hộ niệm, và hộ niệm là điểm quan trọng nhứt. Tập sách
đó dày cũng khoảng chừng hai mươi mấy ba mươi trang, cũng khá dày. Ấy thế mà
ngày nay có người nói rằng làm gì có chuyện hộ niệm được vãng sanh? Họ đem việc
này ra bài bác! Đây là một nỗi khó khăn! Thật sự, tôi thấy làm đạo cái gì cũng
khó khăn hết, không có cái gì mà dễ dàng! Nói một lời cũng khó nữa, chớ đừng
nói chi tới chuyện lớn!...
Nhiều người không chịu tin tưởng vào pháp
hộ niệm, cứ đòi hỏi tu cho đến chứng đắc để được vãng sanh. Nói về lý đạo thì
đúng, ta phải có công phu. Chứng tỏ mấy ngày hôm nay chúng ta cổ động chuyện
lập công cứ, để công phu được tinh tấn hơn nữa. Tăng thêm ngày tu tinh tấn.
Đúng! Nhưng vì không tin tưởng vào pháp hộ niệm, để trợ giúp tích cực cho người
lâm chung vãng sanh, nên suốt cuộc đời của họ, hình như khi gặp một người Phật
tử nào ra đi cũng im lìm lặng lẽ!... Không biết đi về đâu? Một người thân thuộc
nào ra đi cũng im lìm lặng lẽ!... Mê man, bất tỉnh ra đi!... Không biết đi về
đâu? Thậm chí, sau cùng coi chừng chính mình ra đi, bên canh không có một người
nào hộ niệm cho mình. Tại vì sao? Tại vì trong suốt cuộc đời, mình không bao
giờ giảng giải về phương pháp hộ niệm cho những người chung quanh!... Rồi mình
ra đi cũng im lìm lặng lẽ!... Không biết đi về đâu?!!!...
Cái gì cũng có Nhân có Quả. Cái nhân mình
gieo ra như thế nào, thì cái quả mình gặt lại như thế đó. Cái nhân mình gieo ra
là truyền bá phương pháp hộ niệm, thì cái quả là khi mình nằm xuống, mình cũng
được những người chung quanh tới hộ niệm cho mình.
Xin thưa thật, nói về “Khế Lý”, thì
muốn nói sao nói, muốn lý luận sao cũng được. Vì nói về Lý thì
không thể không hay. Nhưng mà “Khế Cơ”, là hợp căn cơ, thì nói
làm chi những “Lý Luận” cao siêu mà ngay cả chính mình chưa chắc gì thực hiện
được, thì làm sao những người chung quanh có thể thực hiện được? Thực hiện
không được, mà tham vào đó thì thường dễ đưa đến tình trạng gọi là Vọng
Tưởng!...
Để biết được phương pháp hộ niệm quan
trọng như thế nào, thì chúng ta nên đọc quyển sách đó: “Sự
Kiện Quan Trọng Nhất Trong Đời Người” chính ngài
Tịnh-Không giảng hơn một tiếng đồng hồ. Ngài dặn là phải niệm Phật, phải hộ
niệm cho người ta. Ngài chỉ từng chút, từng chút, căn bản, rất rõ ràng. Và cũng
để biết phương pháp hộ niệm quan trọng như thế nào, thì ở Tịnh-Tông-Học-Hội lúc
nào người ta cũng lập ban hộ niệm rất là cẩn thận, và nhứt là Tịnh-Tông-Học-Hội
tại Úc Châu này, cứ mỗi lần ngài Ngộ-Hạnh, là vị Pháp Sư rất uy tín, khi Ngài
về Tịnh-Tông thì phiên họp đầu tiên thường là Ngài họp ban hộ niệm. Hễ cứ về là
kêu ban hộ niệm họp. Chính tôi đã làm việc trong đó bảy, tám năm. Ngài giảng
rất kỹ và Ngài còn viết những lời khai thị mẫu, cho những người hộ niệm đọc để
thâm nhập vào tâm. Điều này chứng tỏ các Ngài chú trọng về pháp hộ niệm kỹ lắm.
Ví dụ như ở Việt Nam, có những người họ tu
hành đâu có nhiều, nhưng mà nhờ thiện căn phước đức của họ trong quá khứ nó dồn
lại, nên gặp cái duyên hộ niệm này mà người ta vãng sanh bất khả tư nghì. Xin
thưa rằng, trước đây vài chục năm có nhiều người có được thiện căn phước đức
không? Có chứ, làm gì không!... Chắc chắn! Con người tiếp tục sinh, năm nào
cũng sinh, càng ngày càng tăng lên. Thời nào cũng có những người có thiện căn
phước đức, thời nào cũng có những người tạo ra nghiệp chướng hết. Thế mà những
người có thiện căn phước đức trước kia tại sao họ không vãng sanh? Phải chăng
vì họ không gặp được cái duyên hộ niệm. Không gặp cái duyên có người chỉ điểm
cho họ phải làm như thế nào để được vãng sanh!...
Thường thường khi lâm chung ta có thể thấy
Cha, thấy Mẹ, thấy Ông, thấy Bà tới... Có nhiều người đi khoe ra:
- Ông
Bà của tôi đã được đắc đạo rồi. Bây giờ Ông Bà tôi về đây để dạy dỗ tôi, để
chuẩn bị tiếp dẫn tôi....
Người ta mừng như vậy đó. Thì người biết
hộ niệm người ta đã hiểu rõ rồi...
- Không phải đâu chị ơi!... Không phải
đâu anh ơi!...
Vì người ta biết là không phải, nên người
ta mới nói:
- Anh ơi! Lo niệm Phật đi và hồi hướng
công đức cho họ. Hãy chắp tay lại thưa với chư vị đó, là tôi với chư vị không
biết duyên như thế nào? Nếu mà tôi làm lỗi lầm với chư vị, thì bây giờ tôi xin
thành tâm sám hối. Xin chư vị hộ pháp cho tôi, hộ niệm cho tôi, tôi niệm Phật
tôi đem công đức niệm Phật của tôi hồi hướng cho chư vị, để chúng ta cùng về
Tây Phương, chứ nếu chư vị đến với tôi, tôi cũng không cứu được...
Nhờ như vậy mà người thấy đó mới giật mình
tỉnh ngộ, người ta mới chắp tay lại thành tâm niệm Phật. Trước đó cũng có những
người thấy như vậy, nhưng vì không ai giảng giải cho họ biết sự thật, lại còn
xúi họ:
- Đúng rồi đó, đi theo ông bà đi!...
Nhiều người đứng trước bàn thờ ông bà
thường khấn vái như vầy:
- Ngày
nay là ngày giỗ của Cha Mẹ, xin Cha Mẹ linh hiển về đây cứu độ con!...
Càng khấn nguyện chừng nào thì Cha Mẹ,
những người thân đã chết của mình càng về nhiều để cứu độ mình! Nhưng xin thưa
thực, khi mình biết được pháp hộ niệm rồi, quý vị phải dặn dò cho rõ ràng:
- Khi lâm chung chỉ đi theo
A-Di-Đà Phật, không được đi theo bất cứ một người nào.
Được sự hướng dẫn này là vì phước phần của
những người trong giai đoạn này, nhờ có duyên hộ niệm mà người ta chỉ cho thấy
con đường vãng sanh, tránh đường lầm lạc. Thế thì tại sao có người nói rằng hộ
niệm không quan trọng?
Bây giờ đây mình tu hành, có những người
nghĩ rằng mình sẽ chứng đắc để được này, được nọ. Có những người niệm Phật được
một tuần, nghe được âm vang A-Di-Đà Phật từ trong tâm phát ra(?). Từ chỗ nào nó
phát ra và hô hoán lên rằng tôi đã chứng đắc rồi, tôi đã nghe được âm thanh của
chơn tâm tự tánh rồi(?). Xin thưa thực, nói về lý đạo, thì chơn tâm tự tánh
chúng ta là Phật. Là Phật thì tự niệm Phật. Là Phật thì tự nhiên có tất cả.
Nhưng đó là nói về Lý mà thôi, (nghĩa là “Lý Tức Phật”). Chớ
còn có “Danh Tự Tức Phật”, còn có “Quán Hạnh Tức Phật”,
còn có “Tương Tự Tức Phật”, v.v... mình chưa đạt được. Ngay
cái chuyện “Thập Thiện” đơn giản kia mà mình cũng chưa làm
được... thì nói chi những chuyện xa vời! Nghĩa là cái chơn tâm tự tánh của mình
đang chìm trong trùng trùng lớp lớp của những gì đen tối nhứt. Thế mà mới niệm
có năm, bảy ngày thì ra tuyên bố:
- Tôi niệm Phật đã được nhất tâm bất loạn rồi!
Nếu như những người này may mắn gặp được
ban hộ niệm, họ sẽ chỉ dẫn cho:
- Anh ơi! Ngài Ấn Quang Đại Sư
nói rằng, phải lo nhiếp cái tâm lại, thành tâm niệm Phật, thì anh sẽ được thiện
lợi. Nếu anh mở cái tâm tâm ra, anh hồ hởi lên... thì Ngài nói, Thắng Cảnh đó sẽ biến thành Ma Sự ngay lập tức!...
Ai dạy cho những người đó biết vậy? Chính
là những người hộ niệm. Người ta biết được những chuyện đó. Cho nên chúng ta ở
đây hô hào với nhau, là quyết lòng tinh tấn hơn nữa, nhưng càng tinh tấn phải
càng khiêm nhường. Có khiêm nhường mình mới cảm thông được với chư vị oan gia
trái chủ, và sau cùng mình mới cảm thông được với chư đại Bồ-Tát và cảm thông
được với A-Di-Đà Phật, chư đại Thánh-Chúng ứng ra gia trì cho mình. Chớ đừng có
bao giờ sơ ý, cho rằng chứng đắc này, chứng đắc nọ, nhất là trong thời kỳ này
đức Phật đã nói rõ rệt: “Vạn ức người tu hành
khó tìm ra một người chứng đắc”. Không dễ gì
có người niệm Phật năm ngày, mười ngày là được chứng đắc? Có người niệm hai
tháng, ba tháng là chứng đắc? Không có bao giờ có chuyện đó đâu ạ! Nếu mà có
như vậy thì chư Tổ đã dạy cho mình rồi.
Ngài Ấn-Quang Đại Sư không bao giờ dạy cho
ai phải nhất tâm bất loạn. Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư nói... “Tín tâm cho thật vững, Nguyện cho thật tha
thiết, thì dù có loạn tâm niệm Phật cũng được vãng sanh. Nếu mà không chịu
Nguyện vãng sanh, Tín tâm mình không vững, thấy gì cũng chao đảo... dù niệm
Phật cho đến “Nhất tâm bất loạn(!)” cũng không được vãng sanh”.
Các Ngài nói giống giống nhau hết, là để
nhắc nhở cho những người phàm phu như chúng ta:
- Luôn luôn khiêm nhường,
- Luôn luôn kính cẩn,
- Luôn luôn giữ niềm tin cho
vững. Cứ như vậy mà đi...
Rồi sau cùng, ban hộ niệm này sẽ hộ niệm,
sẽ nhắc nhở. Tất cả những kiến thức ta đã biết hết, nên ta vãng sanh
Bất Khả Tư Nghì.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 28)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Mới đây có được tin bên New Zealand, một
nước sát bên chúng ta bị động đất. Nghe nói cũng khá nặng nề! Thế giới này “Vô
An”! Càng ngày những tai nạn này càng nhiều. Thấy như vậy thì nhắc nhở cho
chúng ta phải cố gắng tinh tấn niệm Phật.
- Một là hồi
hướng cho pháp giới chúng sanh, cầu tiêu tai giải nạn.
- Hai là cầu
cho chính mình, sau khi xả bỏ báo thân này đừng có lọt lại đây làm chi nữa...
Những thiên tai, họa hại này rất là kinh
khủng! Muốn vãng sanh về Tây Phương thì chúng ta cần phải cố gắng tinh tấn tu
hành. Bên cạnh cũng cần phải nghiên cứu cho tường tận phương pháp hộ niệm. Nói
chung, chúng ta cần nên lịch lãm cái phương pháp này, nhờ đó chúng ta sẽ giải
được rất nhiều ách nạn cho chính mình và cho đồng tu. Vì vậy, khi gặp một ca hộ
niệm, một người cần hộ niệm, thì chúng ta nên tham gia. Hay lắm! Cứ tham gia
nhiều lần đi, tự nhiên sau cùng khả năng hộ niệm của chúng ta sẽ có hiệu quả.
Hôm trước một người em của tôi dẫn một
nhóm hộ niệm ở trên Gia-Lai, Đăk-Lăk về đạo tràng của bà Mẹ tôi để niệm Phật
trong hai ngày tu tinh tấn. Những người em của tôi là những trưởng ban hộ niệm,
bây giờ chúng nó hộ niệm rất vững vàng. Trước kia thì tôi hướng dẫn chúng nó hộ
niệm, nhưng bây giờ hình như tụi nó hộ niệm còn vững vàng hơn anh Năm của nó.
Em gái cũng vậy, em trai cũng vậy. Những người trong làng, những người em con
người Cô... hầu hết đều là trưởng ban hộ niệm, một khi Mẹ già của Diệu Âm yếu
thì tất cả những người đó đều hứa sẽ về hộ niệm. Ngay những ban hộ niệm ở các
xã chung quanh đó cũng hứa rằng:
- Anh Diệu Âm ơi! Đừng lo. Nhất định tôi
sẽ tới hộ niệm cho bà Cụ ...
Nghe vậy mà tôi cảm thấy an lòng! Rất là
an lòng! Bà Mẹ của Diệu Âm cũng biết hộ niệm rồi, vì chính bà Cụ là người ngồi
bên cạnh Cha tôi niệm Phật cho đến khi ông Cụ tắt hơi ra đi. Trải qua một kinh
nghiệm như vậy, thì rõ ràng rằng bà Cụ cũng biết hộ niệm.
Mình thấy lợi ích của sự hộ niệm thật là
bất khả tư nghì! Giả sử như trước đây Diệu Âm không phổ biến phương pháp hộ
niệm này, nghĩa là chỉ lo tu cho chính mình, không chú ý tới chuyện hộ niệm,
thì chắc chắn rằng ngày người Cha của Diệu Âm khi ra đi đã không cứu được, vì
một người không có kiến thức về hộ niệm thì không thể hướng dẫn được người bệnh
con đường vãng sanh!...
Ấy thế mà bây giờ những người ở Việt-Nam
họ rất lịch lãm về phương pháp hộ niệm. Chị Diệu Thường, một trưởng ban hộ niệm
ở chùa Hoằng Pháp, là người đầu tiên học cái phương pháp hộ niệm này. Ngay
trong lúc đang học thì chị đã cứu được một người, đó là bà Bùi Thị Gái ở tại
Quận 7. Người thứ hai là chị Thu Hương ở Đà-Nẵng, chị quyết tâm học phương pháp
hộ niệm. Chị đã học từ Đà-Nẵng, theo vô tới Sài-Gòn, theo lên tới Bình-Dương để
cố tình học cho được phương pháp hộ niệm. Học xong rồi về áp dụng liền. Diệu Âm
lúc đó chưa kịp qua tới Úc thì chị đã báo cáo: “Tôi đã hộ niệm được một
người vãng sanh rồi”... Vi diệu
quá! Không tưởng tượng được!
Thật sự ở Việt Nam có nhiều người phát
tâm, thấy đó mà mình cảm động vô cùng!
Có một anh ở ngoài Quảng-Ninh, vào năm
2006 khi Diệu Âm về Hải-Phòng nói chuyện ở một đạo tràng về pháp hộ niệm, thì
anh ở Quảng-Ninh tới nghe. Nghe rồi thì về anh lập ban hộ niệm. Ảnh kéo cả một
đại gia đình của anh vào ban hộ niệm. Ảnh hộ niệm luôn... hình như bốn, năm
tháng gì đó, mà không có ca nào được kết quả hết. Ảnh tự hỏi, “Ủa tại sao kỳ
vậy”?... Lạ lùng! Anh mới
kéo luôn cả một nhóm hộ niệm của ảnh đi vào Đà-Nẵng học nghề với chị Thu Hương.
Anh học đến một tháng rưỡi, đi hộ niệm chung với chị Thu Hương. Khi anh nắm
vững những nguyên tắc hộ niệm rồi, anh quay trở về Quảng-Ninh. Sau đó, hình như
là năm 2007, khi Diệu Âm về thì phái đoàn của ảnh đi theo Diệu Âm tới ba chiếc
xe bus, mỗi chiếc chở tới năm, sáu chục người... Anh nói:
- Khi cháu
học xong rồi, chú Diệu Âm ơi! Cháu hộ niệm luôn hai mươi sáu ca, không có ca
nào mà không vãng sanh hết...
Quý vị thấy không?... Nó có những sự tế nhị
trong đó. Hồi giờ anh nghiên cứu trong sách vở, anh cứ nghiên cứu như vậy...
như vậy... rồi đem ra áp dụng. Áp dụng đâu trật đó! Áp dụng đâu trật đó! Đến
khi theo chị Thu Hương học, chị Thu Hương huấn luyện cho anh bằng cách dẫn nhóm
của anh theo hộ niệm, ngồi đó mà nghe, có những lúc bắt anh lên khai thị. Ấy
thế mà qua một tháng rưỡi về... Anh hộ niệm hai mươi sáu ca liên tục, không có
một ca nào mà không có cái thoại tướng tốt.
Thực sự, pháp hộ niệm thấy đơn giản, nhưng
thực tế có những điều nhạy bén trong đó mà người ta không hay. Khi hướng dẫn
cho mấy đứa em của Diệu Âm hộ niệm. Mắc cười lắm! Tụi nó khai thị hướng dẫn dở
quá! Cũng bị la. Khai thị cho người bệnh mà cứng ngắc, coi như nghiêm quá! Cũng
bị la. Nói lớn quá! Cũng bị la. Nói nhỏ quá! Cũng bị la... Thật ra là để chú ý
rằng, cách khai thị hướng dẫn quan trọng vô cùng. Đi hộ niệm mà sơ ý chuyện
này, thì hộ niệm hoài cũng không bao giờ có người được vãng sanh hết. Ví dụ,
đối với người lãng tai mà mình nói nhỏ quá thì làm sao người ta nghe? Cho nên
nói nhỏ quá, bị la. Còn những người lỗ tai thông mà mình nói lớn quá, giống như
hét người ta, thì sao lại không la? Cho nên, điều nào cũng bị la hết! Có nhiều
lúc đùa giỡn quá đáng, thì cũng phải la chứ! Biết được điều này, thì người hộ
niệm cần phải biết uyển chuyển. Sau những trận la như vậy, bây giờ mấy người em
biết hết trơn rồi, vững tâm hết trơn rồi, nên hộ niệm hay vô cùng!...
Có nhiều người nghĩ rằng, hộ niệm chỉ là
điều thứ yếu, không quan trọng!... Thì xin thưa rằng, coi chừng nhiều khi suốt
cuộc đời của họ không cứu được một người, ngay cả những người sát bên cạnh!...
Giờ đây lý luận, giảng giải... thì hay lắm! Mà thực tế thì không cứu được ai!
Họ coi thường pháp hộ niệm? Vì phải chăng
trong suốt cuộc đời của họ chưa từng trải qua một lần hộ niệm nào? Nếu có trải
qua một lần hộ niệm đi nữa, thì có lẽ lần hộ niệm đó là lần thất bại! Tại vì
sao? Vì không chịu học hỏi trước! Không chịu nghiên cứu trước! Khi đi hộ niệm
thì hộ niệm với tinh thần “Vạn bất đắc dĩ”!... Chính vì lòng tin không
có, nên khi ở trước bệnh nhân họ niệm thử! Họ niệm chơi! Họ giả đò khai thị!...
Không có tâm chân thành!...
Người không có tâm chân thành thì không có
cảm ứng. Họ cũng làm dáng chắp tay lại nói: “Nam Mô A-Di-Đà Phật... Nguyện A-Di-Đà phật phóng
quang tiếp độ cho bà này...”, nhưng
thật sự tâm của họ không tin! Lòng không tin thì không có “Cảm”! Cảm
không có, thì không có tương ứng với đại nguyện của đức A-Di-Đà, thành ra không
có “Ứng”. “Không Cảm thì không Ứng!”.
Chính vì vậy, những lời niệm Phật của họ
nó trôi... trôi... trôi trong không gian như trò chơi thôi!...
Xin thưa rằng, một người đứng trước người
bệnh khuyên họ niệm
Phật...
- Mà lòng
mình chân thành.
- Mà lòng mình tha thiết.
- Mà lòng mình thèm muốn cho
người đó vãng sanh.
- Mình tha thiết cứu người.
Thì tự nhiên trong âm hưởng đó làm cho
người bệnh cảm động, làm cho người bệnh tin tưởng, tự nhiên người bệnh thành
tâm niệm Phật theo. Đây là sự thật.
Có nhiều người cứ nói rằng, tu hành mới là
chính, làm gì có chuyện hộ niệm vãng sanh? Họ thường mơ tìm những cơ hội chứng
đắc. Điều này cũng đúng đấy. Chúng ta cần phải tu hành, cũng như chúng ta đang
hô hào phải cố gắng niệm Phật cho nhiều, niệm Phật cho thành tâm. Chúng ta niệm
Phật 365 ngày một năm, mà còn phải thêm những ngày tinh tấn nữa để giải bớt ách
nạn. Nhưng nếu lơ là, khinh thường việc hộ niệm, thì coi chừng đến ngày chính
người Cha của mình ra đi, mình sẽ lúng túng không biết cách nào cứu đó!...
Trong những ngày qua có nhiều người gặp
tôi than thở và hỏi rằng:
- Anh Diệu Âm ơi! Làm sao giới thiệu
cho tôi một ban hộ niệm?
Thật sự... một người xa lạ tới gặp một ban
hộ niệm... Muốn giới thiệu cho họ, mà chính người nhà của họ không tin, chính
người nhà không chịu tham dự, thì làm sao những người hộ niệm đó có thể hộ niệm
cho người nhà của họ được?...
Phải nói người nhà của mình tới tham gia
với ban hộ niệm. Người nhà phải tới hỏi han ban hộ niệm. Để chi vậy? Để kết
duyên với họ. Để họ có dịp điều tra thử... Bà này còn bị kẹt chỗ nào? Bà này bị
vướng những cái gì? Được vậy họ mới tìm cách hóa giải ra. Trong lúc giảng giải,
thì họ lại có thêm những lời khuyên khác. Khuyên một lần không nghe thì họ
khuyên hai lần, khuyên ba lần... Khéo léo khuyên nhiều lần khiến cho người bệnh
cảm động. Nhờ thế người bệnh mới bắt đầu hạ quyết tâm niệm Phật. Chứ còn khơi
khơi tới kêu ban hộ niệm, thì ban hộ niệm làm sao biết được gia đình mình như
thế nào? Người bệnh như thế nào?...
Người hộ niệm rất cần gặp gia đình để tìm
hiểu về:
- Có đứa em nào, có đứa cháu nào ngỗ
nghịch hay không?
- Bà Cụ này
có quyến luyến chồng lắm không?
- Ông Bác
này có thương đứa con gái lắm hay không?
- Ông Cụ này
có lo lắng cái nhà hay không?
- Có thích
giữ tiền bạc hay không?... v.v… và v.v…
Nếu người hộ niệm hoàn toàn không biết gì
cả, thì làm sao có thể điều giải được? Làm sao có thể gỡ ra được? Chính vì vậy,
khi nghe biết những chuyện này rồi, chúng ta hãy đi hộ niệm. Tôi nghĩ rằng,
chắc chắn chư vị sau này sẽ là những người hộ niệm rất tài. Rất là tài! Cũng
như ở Việt Nam, đầu tiên họ hộ niệm hai ca, ba ca, năm ca đầu... thường thường
không có kết quả tốt! Nhưng sau những lần hộ niệm thất bại đó, họ mới bắt đầu
tìm tới những người có kinh nghiệm để hỏi:
- Tại sao chị hộ niệm giỏi vậy?...
- À! Thì đến
đây đi hộ niệm chung với tôi...
Khi đi hộ niệm chung với nhau, thì tự thấy
có điều khác liền.
Trong thời gian Cha của tôi sắp ra đi, có
nhiều người tới hộ niệm. Tôi thường thầm để ý đến những người mà tôi nghĩ họ có
năng khiếu hộ niệm ngon lành!... Khi thấy người đó tới, thì tôi không đứng ra
“Khai Thị” cho Ông già đâu, mà tôi mời:
-Chị ơi! Chị tới khai thị cho
Ông Già đi.
-Anh ơi! Anh lên khai thị giùm
cho Ông Già đi.
Tôi muốn tập cho người ta khai thị. Tôi
lấy ông Già của mình làm người mẫu để họ thực tập hộ niệm. Chính vì mấy đứa em
tôi được hộ niệm cho ông Già, chính những người được hộ niệm cho ông Già tôi,
một thời gian sau đó họ hộ niệm hay vô cùng!...
Tình thực, bây giờ ở Việt Nam có những ban
hộ niệm người ta hộ niệm trên một trăm người vãng sanh... Vững vàng! Mỗi khi
tôi về thì người ta cứ kêu, “Anh
Diệu Âm ơi! Đi... đi cứu độ...”.
Tức là họ cầu cứu tôi! Nhưng mà thực ra là tôi tới đó để âm thầm học hỏi ở họ.
Họ hộ niệm còn giỏi hơn tôi nhiều. Tôi hộ niệm được hai, ba, bốn tiếng đồng hồ
thì khan tiếng, đành đi về, chịu không nổi! Trong khi đó, có người ngồi hộ niệm
suốt đêm. Có những bà Cụ bảy, tám mươi tuổi mà ngồi từ đầu đêm cho tới cuối đêm
để hộ niệm. Nếu có cuộc hộ niệm nào không kêu tới bà thì bà buồn. Hộ niệm xong,
sáng ra bà còn bưng cái rổ bánh ít đi rao bán ngoài đường phố. Vậy đó! Thế mà
Cụ cứ ngồi từ đầu đêm cho đến cuối đêm để hộ niệm cho người bệnh mà không bao
giờ biết mệt!...
Hộ niệm vi diệu quá! Khi chính mắt thấy
được những hiện tượng vãng sanh, thì niềm tin của người ta đã phát khởi mạnh
mẽ. Vậy thì chúng ta nên phát tín tâm mạnh mẽ lên, đừng chao đảo. Quyết lòng
niệm Phật cho chân thành, thành tâm đi hộ niệm cho người ta. Cứ tham dự đi, cứ
mạnh dạn nói chuyện với người bệnh đi, một, hai lần đầu mình có thể bị vấp,
nhưng sau đó mình sẽ là những chuyên gia hộ niệm cứu độ chúng sanh đi về Tây
Phương, rồi mình cũng thành đạo luôn.
A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 29)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Chúng tôi ở đây có một tờ giấy in ra từ
một trang web chỉ cách hướng dẫn gia đình hộ niệm của ban hộ niệm Hoa-Sen ngoài
Đà-Nẵng. Hay lắm! Chúng tôi sẽ in ra và để trong hộp phía trước, chư vị có thể
lấy về để nghiên cứu, trong đó có những điều rất cụ thể. Càng cụ thể chừng nào
thì chúng ta càng biết rõ rệt để đi hộ niệm cho những người bệnh và đồng tu
vãng sanh.
Trở lại chủ đề của chúng ta trong mấy ngày
hôm nay: “Hộ Niệm: Khế Lý - Khế
Cơ”.
“Khế Lý” chính là câu A-Di-Đà Phật. Vì “Niệm Phật là nhân, thành Phật
là quả”. Niệm Phật, chúng
ta thành Phật luôn. Lý đạo này quá nhiệm mầu! Sâu thăm thẳm! Cao vời
vợi! Không ai có thể giải thích được viên mãn! Đức Thế Tôn thường hay dùng câu:
“Bất Khả Tư Nghì”!
Chư Tổ nói, bất khả tư nghì, là không thể nào có thể bàn luận được. Bàn luận là
sai! Bàn luận sẽ không đi tới đâu hết. Trong kinh Hoa-Nghiêm, Phật nói: “Duy Phật dữ Phật phương năng cứu cánh”,
là nói cho câu A-Di-Đà Phật. Có nghĩa là chỉ có Phật với Phật mới biết được cái
vi diệu của câu A-Di-Đà Phật mà thôi. Chính chư vị đại Bồ-Tát cũng không hiểu
được, các vị Bồ-Tát còn phải lấy lòng tin mà niệm Phật để về Tây Phương Cực
Lạc.
Nhắc nhở như vậy để củng cố thêm niềm tin
của chúng ta thật vững vàng, đừng nên hồ nghi. Chỉ cần một chút hồ nghi thôi
thì vô tình công phu chúng ta tu hành nhiều khi bị lạc mất, và sau cùng không
vãng sanh được. Đây là một điều hết sức là oan uổng!...
Nói về “Khế Cơ” tức là ta phải tìm một phương pháp nào thật
hợp với căn cơ của chính mình để được thành tựu. Nếu sơ ý, chúng ta đi vượt qua
khỏi căn cơ của mình thì chịu thua, không cách nào có thể giúp ích nhau được!
Trong đó, pháp hộ niệm rất hợp với căn cơ của chúng ta. Trong tám vạn bốn ngàn
pháp môn thì pháp niệm Phật là “Tam
căn phổ bị, phàm thánh tề thâu”. ba hạng Thượng, Trung, Hạ đều có
phần. Chúng ta là đại hạ căn đi nữa cũng được câu A-Di-Đà Phật gia bị. Người
phàm cũng dùng câu A-Di-Đà Phật để thành Phật. Thánh nhân cũng dùng câu A-Di-Đà
Phật để thành Phật, gọi là “Tề Thâu”, “Bình Đẳng”.
Hay chính là ở chỗ bình đẳng này. Phàm Thánh tề thâu, chư đại Bồ-Tát và phàm
nhân đều được bình đẳng vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Điều này hay lắm!
Tuyệt vời lắm!...
Tu theo pháp niệm Phật thì chắc chắn là mình
chọn lựa không sai. Nhưng bên cạnh đó, cái pháp hộ niệm còn thấp hơn nữa, còn
cụ thể hơn nữa. Vì trước những người bệnh sắp sửa rời bỏ báo thân, mình nhắc
nhở họ, mình dụ dỗ họ để họ phát tâm niệm được câu A-Di-Đà Phật, họ tin tưởng
vững vàng và họ tha thiết muốn vãng sanh. Làm sao giúp cho người đó có được cái
tâm này:
- Nam Mô
A-Di-Đà Phật cho con đi liền hôm nay...
- Nam Mô
A-Di-Đà Phật con quyết lòng đi về Tây Phương...
Chỉ vậy mà thôi! Tức là làm sao ba điểm
Tín-Nguyện-Hạnh này cho vững vàng trong tâm người bệnh, thì họ vãng sanh về Tây
Phương. Đây là một chuyện mà xin thưa thật...
- Không cách
nào có thể hiểu được!
- Không cách
nào có thể bàn được!
- Gọi là
“Bất Khả Tư Nghì!”...
Đây chính là sự gia trì của A-Di-Đà Phật.
Chính là đại nguyện của đức A-Di-Đà Phật.
Làm sao một người trước những giây phút ra
đi niệm được câu A-Di-Đà Phật. Niệm thành tâm chứ không phải niệm giỡn. Phát
nguyện vãng sanh tha thiết. Phải phát nguyện vãng sanh, nhất định đừng có chen
cái nguyện nào khác trong lúc sắp sửa buông xả báo thân và có niềm tin vững
vàng thì A-Di-Đà Phật sẽ đến tiếp độ. Chỉ ba điểm này thôi xuất hiện ngay trong
thời điểm đó, thì người đó được vãng sanh. Cho nên tất cả những gì mà hổm nay
chúng ta nói, tất cả những điều chúng ta cộng tu ở đây... đều chuẩn bị cho cái
giây phút đó hết.
Nói về “Khế Cơ” thì liên quan rất nhiều đến những gút mắc,
những nghi vấn trong lòng, liên quan đến pháp vãng sanh, pháp hộ niệm, pháp
niệm Phật. Thì trong giai đoạn này, xin chư vị nào có câu hỏi nên viết ra rồi
để vào hộp ý kiến. Chúng ta sẽ cố gắng mổ xẻ càng sâu. Nếu có những thắc mắc
chứa chấp trong lòng không thố lộ ra, thì nhiều khi chúng ta cứ đắm vào đó mà
có thể bị trở ngại. Ví dụ như hôm qua, khi ở trên xe anh Hai có hỏi một câu mà
làm tôi ngộ! Anh hỏi, có phải mười hai lạy là liên quan đến “Thập-Nhị-Nhân-Duyên” không?
Mười hai là thập nhị đó! Câu hỏi này rất là hay!
Chính những nghi vấn này mình nên khui ra.
Nhiều khi có những vấn đề mình hiểu rồi, nhưng cũng nên hỏi ra, vì biết rằng
còn có người chưa hiểu!
Thì xin thưa rằng, mười hai lạy đó không
phải là “Thập-Nhị-Nhân-Duyên”.
Thập-Nhị-Nhân-Duyên là pháp quán của các vị Bích-Chi-Phật trong hàng nhị thừa.
Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bích-Chi-Phật và thường thường các ngài Bích-Chi-Phật tu
theo cái pháp đó. Còn ở đây thì chúng ta tu pháp niệm Phật để đi về Tây Phương.
Hai đường đi, hai chứng đắc khác nhau. Bích-Chi-Phật, Thanh-Văn, Duyên-Giác Gọi
chung là A-La-Hán, thường thường các Ngài tu về Thiền Định để tự vượt qua
Tam-Giới. Đối với pháp Niệm Phật mà nói, thì các vị đó đã chứng tới chỗ gọi là “Vị
Bất Thối”. “Vị”
tức là “Phàm Phu Vị”, các Ngài đã vượt qua Phàm Phu Vị.
Còn chúng ta tu đây là tu theo
Bồ-Tát-Thừa, tiến thẳng đến Phật-Thừa luôn. Pháp Niệm Phật được gọi là “Nhất-Thừa
Thật-Tướng”. Lạ lắm chư vị! Tu thì dễ mà chứng đắc thì cao!
Chứng đắc tới cảnh giới Phật luôn. Khi về Tây Phương Cực Lạc thì đầu tiên chúng
ta thành Bồ-Tát Bất-Thối trước. Bồ-Tát Bất-Thối nếu so sánh ra thì... lạ lắm!
(Những lý đạo này cao quá, mình nên hiểu sơ như vậy thôi). So sánh ra, năng lực
của họ cao tới cỡ Thất-Địa, Bát-Địa Bồ-Tát. Tức là, những vị A-La-Hán còn kém
họ rất là xa. Những vị Sơ-Trụ Bồ-Tát, tức là khởi đầu của hàng Pháp-Thân Đại-Sĩ
trên cảnh Hoa-Nghiêm rồi vẫn còn thua họ tới ba mươi sáu bậc “Sanh Tướng Vô
Minh” cơ. Thật là Bất Khả Tư Nghì! Hòa Thượng Tịnh Không giảng, từ
Sơ-Trụ mà muốn tu cho tới chỗ đó phải tu tới hai đại A-Tăng-Kỳ kiếp, trong khi
đó thì mình ở đây vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, như là hạng thấp tẹt của
mình, thì có thể nhiều lắm là mười hai kiếp, mười hai kiếp mình có thể đạt được
Tam-Bất-Thối. (Tức là ba bậc bất thối). Điều này cao quá! Chúng tôi không dám
nói sâu hơn nữa. Chỉ xin chư vị hãy phát lòng tin tưởng cho vững vàng là được
rồi.
Trong thân phàm phu tục tử bệnh hoạn như
thế này, mà mình phát khởi niềm tin vững vàng, niệm câu A-Di-Đà Phật, thì trong
kinh Phật nói rằng, trong vô lượng kiếp về trước ta có thiện căn phước đức
cúng dường tới vô biên ức đức Phật Như-Lai rồi mới có hiện tượng này, chứ không
phải dễ gì đâu! Lạ lắm! Nên nhớ, có những vị Bồ-Tát khi gặp câu A-Di-Đà
Phật cũng không tin. Thế mà nếu quý vị phát tâm tin tưởng vững vàng thì chứng
tỏ công đức thiện căn trong quá khứ của quý vị đã bất khả tư nghì rồi. Chính
nhờ cái thiện căn bất khả tư nghì đó, nên trong một đời này chỉ tu như vậy,
nhiều khi một phẩm chấp trước không phá nổi, nhưng lại vượt về được tới Tây
Phương Cực Lạc để đạt được cái năng lực như vậy.
Trở về vấn đề mười hai lạy. Phương pháp tu
niệm Phật của chư Tổ trong Tịnh-Độ-Tông để lại hay lắm, đơn giản lắm. Ví dụ như
mình dùng pháp này để tu. Chúng ta thấy có những lúc đi kinh hành, có những lúc
ngồi, có những lúc khai thị, có những lúc thư giãn để xoa bóp, rồi có những lúc
lạy Phật để cho thân thể của chúng ta được điều hòa, làm cho ba giờ cộng tu hay
cả ngày niệm Phật giống như trải qua chỉ có mấy tiếng đồng hồ. Nếu không có
phương pháp này, mình tu một ngày không nổi. Thế mà nhờ pháp tu này, làm cho
mình hình như là một ngày, hai ngày, ba ngày tu hành trôi qua một cách đơn giản
dễ dàng. Nhờ vậy mà chúng ta dễ nhiếp tâm niệm Phật... Bất khả tư nghì!...
Thì pháp lạy mười hai lạy, là khi chúng ta
lạy thì luôn luôn hướng về Tây Phương Cực Lạc. Quý vị hãy nhìn lên bàn thờ, có
ba vị là: A-Di-Đà Phật, Quán-Âm, Thế-Chí, mỗi vị ta đảnh lễ Ngài ba lạy. Như
vậy ba vị ta đảnh lễ chín lễ. Bên cạnh đó có một câu là: “Hòa-Nam Thánh-Chúng”. Chư
Thánh-Chúng trên cõi Tây Phương chúng ta sẽ hội nhập với các Ngài. Bây giờ
chúng ta đảnh lễ chung các Ngài ba lễ nữa, thành ra tất cả là mười hai lễ. Ý
nghĩa của nó là như vậy.
Còn nói về sự điều hòa, thì chúng ta ngồi
niệm Phật lâu quá, bây giờ lạy để được đứng lên, lạy xuống cho thân thể được
điều hòa. Thực ra chỉ là vậy mà thôi! Chứ không có liên can gì đến “Thập-Nhị-Nhân-Duyên”.
Nên nhớ, niệm Phật thì tất cả chúng ta đều
dồn hết vào câu A-Di-Đà Phật, dồn hết vào một đường để đi, đừng nên đi hai
đường! Hòa Thượng Tịnh-Không thường nói, tu pháp nào một pháp. Nghe pháp cũng
phải tuyển chọn để nghe. Những vị nghe nhiều pháp quá thì thường khó có chỗ
định. Ví dụ, nghe người ta giảng pháp Thập-Nhị-Nhân-Duyên thì thấy pháp
Thập-Nhị-Nhân-Duyên hay lắm! Nhưng thực ra chúng ta làm không nổi!
Tiện đây xin kể chuyện một chút xíu ra cho
vui. Ở Việt Nam có một ban hộ niệm, năm đó tôi đến đó nói chuyện, thì các vị đó
mới biếu cho một đĩa VCD, gọi là hộ niệm vãng sanh! Khi về mở ra xem mới thấy
vị Trưởng lão đó “Khai Thị” cho người bệnh mà giảng từ Tứ-Diệu-Đế, đến
Bát-Chánh-Đạo, rồi Thập-Nhị-Nhân-Duyên... Tức là nói luôn một dây như vậy. Khi
xem VCD đó rồi, tôi mới viết thư khuyên vị đó rằng, đừng “Khai Thị” như vậy
nữa. Đừng đem những lý đạo này ra “Khai Thị” cho người bệnh, vì người bệnh sắp
chết rồi, không bao giờ có thể tiếp nhận được đâu. Chỉ khuyên người ta là nhiếp
tâm niệm Phật và cầu A-Di-Đà Phật phóng quang tiếp độ, nhờ vậy thì người ta mới
được vãng sanh. Thực tế thì cái phim đó cũng không phải là phim vãng sanh, vì
họ chỉ quay trong lúc người đó còn sống chứ chưa phải là ra đi. Nghe vậy thì
các vị đó mới trả lời, hứa sẽ sửa đổi lại. Khi sửa đổi lại rồi, thì
mười ngày sau đã phát hiện ra một người vãng sanh.
Tức là từ trước các vị đó chưa biết hộ
niệm, khi biết được rồi điều chỉnh lại thì tự nhiên có người vãng sanh. Cũng
giống như hôm qua chúng ta nói, những ban hộ niệm mới, thường thường người ta
chưa có kinh nghiệm trong vấn đề khai thị, nên khi ngồi trước bệnh nhân người
ta cứ mở ra nào là Bát-Chánh-Đạo cũng giảng cho, Tứ-Diệu-Đế cũng giảng cho,
Thập-Nhị-Nhân-Duyên cũng giảng cho... Giảng những bước đi của các hàng Nhị Thừa
thì ta bị lạc đường đi về Tây Phương. Con đường về Tây Phương là nhắm thẳng tới:
Tín-Nguyện-Hạnh, cứ vậy
mà đi thì người ta được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Chuyện này mỗi ngày chúng ta mỗi nắm vững.
Nhất định ta sẽ thấy hình như đường đi về Tây Phương của chính mình, của người
thân của mình đang ở trong hào quang của A-Di-Đà Phật, và chúng ta đều được
vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc hết!...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 30)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Hộ Niệm để được vãng sanh về Tây Phương
cực Lạc là chúng ta áp dụng cái phương pháp căn bản, cụ thể và gần gũi nhất đối
với người phàm phu tục tử nghiệp chướng sâu nặng.
Nếu là người căn cơ cao thượng thì không
bao giờ dùng đến phương pháp hộ niệm làm chi!... Ngay trong mỗi chúng ta, nếu
thật sự là hàng căn cơ cao thượng cũng khỏi cần. Tuy nhiên, nếu mình muốn độ
người khác thì cũng phải nghiên cứu phương pháp hộ niệm để áp dụng. Vì ta có
thể thuộc hàng căn cơ cao?! Nhưng mà Mẹ ta, Cha ta, anh em, họ hàng... họ không
có căn cơ cao. Không có căn cơ cao thì nghiệp chướng bao phủ, trước những giây
phút ra đi thường thường bị trở ngại. Nếu không nhờ đến sự hộ niệm thì sẽ bị
rối trong khi hấp hối, không cách nào vãng sanh được!
Khi hộ niệm chúng ta cố gắng phải nghiên
cứu cho thật kỹ quy cách hộ niệm. Rất nhiều người không chịu nghiên cứu, cứ
thấy rằng ngồi bên cạnh người bệnh niệm Phật, cứ niệm “A-Di-Đà Phật... A-Di-Đà Phật”... Rồi vỗ tay mấy cái vui
vui, tưởng vậy là đơn giản! Thật ra, có khá nhiều sự sơ hở làm cho người bệnh
không thể tiếp nhận, không thực hiện được Tín-Nguyện-Hạnh. Không thực hiện được ba tư lương
này, thì người ta không được vãng sanh. Mỗi ngày chúng ta cố gắng khai thác một
chút, mong cho mọi người sau một thời gian sẽ nắm vững vấn đề.
Ngày hôm qua, trong lúc đang bàn chuyện hộ
niệm ở phòng bên kia, chúng ta có khuyến cáo rằng khi hộ niệm cần phải cố gắng
làm sao cho người bệnh vui vẻ. Mình ráng cố gắng chiều người bệnh để cho họ vui
vẻ ra đi. Nếu mình không có chiều theo ý của họ, làm cho họ phiền não thì không
thể vãng sanh. Ví dụ như Mẹ của chúng ta muốn tới cái nhà này để niệm Phật,
mình lại thấy căn nhà này không thích hợp, nên cứ bắt người Mẹ mình tới ở nhà
kia, nhưng nơi đó Mẹ mình lại không thích. Làm vậy phải chăng, khi hộ niệm mình
đã bắt người bệnh phải chiều theo ý muốn của mình? Làm vậy khiến cho người bệnh
phiền não! Một khi họ phiền não thì chắc chắn không cách nào có thể vãng sanh
được!
Do đó phải nhớ điều này, nhiều khi mình
thấy người bệnh thích một chuyện gì đó, dù không được thuận lợi lắm, nhưng
trước tiên ta cần phải cố gắng chiều người bệnh trước đã. Ví dụ, như trước
những ngày sắp chết, người bệnh lại đòi vào bệnh viện, họ muốn bác sĩ khám họ
thử như thế nào? Mình biết đây là cái tâm thoái hóa của người bệnh, nhưng một
khi người bệnh đã quyết đòi như vậy, mà mình lại ép buộc người bệnh phải ở nhà,
thì chắc chắn từ lúc đó cho đến khi chết không cách nào mà họ yên tâm niệm Phật
được!
Vì thế, khi gặp trường hợp này, việc đầu
tiên là nên đưa người bệnh vô trong bệnh viện trước đã. Đây có thể là do sau
một thời gian niệm Phật người bệnh bị thối tâm, người ta sợ chết hay sao đó?...
Tại sao mình không đưa họ vào trong bệnh viện, rồi nhờ bác sĩ khuyên người bệnh
vài câu. Ví dụ, Bác sĩ nói:
- Anh ơi!
Chư vị ơi! Cái bệnh này chúng tôi chữa không được nữa rồi. Cho nên ở lại cũng
chết, về nhà cũng chết.
Người bệnh nghe được bác sĩ nói một câu
như vậy, thì chính đây là lời khai thị rất tốt cho người bệnh, nhờ vậy mà họ an
tâm về nhà lo niệm Phật vãng sanh.
Có một lần chính đứa em của Diệu Âm muốn
Cha Mẹ của Diệu Âm vào trong Sài-Gòn để niệm Phật, vì nhà ở thành phố thì có
máy lạnh, thoải mái hơn, mà lúc đó Ông già Bà già thì thích ở tại quê. Nó
khuyên không được, nên mới lập mưu như thế này... Nó mướn một chiếc xe Taxi từ
Sài-Gòn đi về tới Bình-Định. Về tới nhà, trước tiên đem bánh trái dọn ra ăn
uống cho ngon lành, rồi sau đó mới dụ Cha Mẹ đi xuống Qui-Nhơn chơi, xuống
Qui-Nhơn để thăm biển chơi cho vui! Ông bà nghe nói đi Quy-Nhơn thì bằng lòng
đi.
Khi Ông già Bà già leo lên xe xong rồi, nó
chở tuốt vô Sài-Gòn luôn. Tức là lúc đó đã leo lên xe... Ông già Bà già đã yếu
rồi, đâu còn cách gì cưỡng lại được nữa! Khi Diệu Âm về nghe tin như vậy... Bên
cạnh thì ông bà già cứ đòi về lại quê. Diệu Âm kêu đứa em ra la rầy:
- Em làm như vậy không được! Kỳ này nếu
anh không về, mà Ông già chết thì chắc chắn không cách nào vãng sanh được!
Do vậy, sau khi tẩm bổ cho Ông già khỏe
lại một chút, lại tìm cách đưa Ông về Bình-Định. Khi về lại Bình-Định thì lúc
đó trời nóng quá chịu không nổi! Ông về đến đó thì muốn xỉu liền. Vì thấy nắng
chịu không nổi, nên Ông giật mình! Ở tại quê không có máy lạnh! Thế thì, lại
tìm cách, nhờ chị Nhung ở từ Bình-Phước đem xe ra ngoài Bình-Định đưa Ông vô lại
trong Sài-Gòn. Lúc đó Ông ta mới an tâm niệm Phật!...
Thường khi mình phải chiều người bệnh, chứ
không thể nào bắt người bệnh phải chiều chúng ta. Có nhiều người quá sơ ý trong
phương pháp hộ niệm vãng sanh, không chịu nghiên cứu kỹ, cứ nghĩ sao làm vậy, vô
ý tạo ra nhiều phiền não cho người bệnh. Một khi người bệnh phiền não rồi thì
thôi chịu thua! Cứu không được!
Ví dụ như trong bữa nói chuyện hôm qua,
sau khi nghe đến vấn đề này, bà Cụ đưa ra một cái câu giải quyết rất là hay. Bà
nói:
- Mình quyết lòng niệm
Phật đi về Tây Phương rồi, thì thôi ở nhà nào cũng được, tới chỗ nào cũng được,
không cần chấp nữa.
Chính đây là câu giải quyết rất hay. Mình
biết rõ rệt là con cái mình sau này có thể đưa mình tới chỗ này, đưa mình tới
chỗ kia. Nhiều khi con cái biết tu nó đưa mình tới chỗ rất là tốt, nhưng vì
chấp mình muốn trở lại cái chỗ của mình. Vì cái chấp của mình mà làm cho chính
mình bị trở ngại, từ đó mà mình có thể mất phần vãng sanh. Cho nên bà Cụ nói
rất là hay:
- Đừng có chấp nữa... Nhất
định bây giờ con nó muốn đi vô Sài-Gòn thì ta đi vô Sài-Gòn, con nó muốn đi về
quê ta đi về quê.
Thoải mái như vậy thì tự nhiên người hộ
niệm chúng ta cũng thoải mái, tới bất cứ chỗ nào ta cũng niệm Phật được.
Vậy thì, là một người hộ niệm, chúng ta
phải nhớ cố gắng uyển chuyển đừng nên gây phiền não cho người bệnh. Nếu ta là
người bệnh, ta cũng phải tập cái tánh gọi là không chấp. Một người tới niệm lớn
quá, điều này không đúng phương pháp hộ niệm, ta biết như vậy rồi nhưng lỡ có
một người nào tới niệm lớn quá thì ta cũng đừng có giận. Nếu mà hàng ngày thấy
người ta niệm lớn quá mà mình giận, thì lúc đó có nhiều người niệm lớn mình sẽ
nổi giận lên! Đây là do “Chấp” mà tự mình làm mất phần vãnh sanh. Tất cả
những đạo lý này không có gì là cao siêu cả, nó cụ thể vô cùng.
Ví dụ như ở nhà mình có một người bệnh.
Nên nhớ, người bệnh thường thường cảm thấy khó chịu dữ lắm, tại vì đau lưng, vì
nhức đầu, vì mệt mỏi... Điều quan trọng là ta nên cố gắng làm cho người đó vui
lên. Yểm trợ tinh thần họ, củng cố tinh thần họ. Đây là hộ niệm.
Ví dụ khác, như người bệnh niệm Phật không
nổi, mình khuyên hoài mà họ cũng không chịu niệm Phật, thì mình hãy làm gương,
mình niệm Phật trước. Mình niệm Phật ngày niệm Phật đêm, và nói:
- Má ơi! Con
còn trẻ nè mà con còn niệm Phật như thế này, Má không niệm Phật làm sao Má vượt
qua cái ách nạn đây?
Mình làm gương trước, rồi chính sự niệm
Phật của mình sẽ có công đức. Nhờ có công đức đó mới hồi hướng cho Cha Mẹ.
Nhiều khi trước đó một tuần mình nói Mẹ mình không nghe, nhưng sau một tuần
niệm Phật, nhờ có công đức nên lời nói của mình hình như có hiệu lực hơn... Lạ
lắm!...
Chính vì vậy, muốn đi hộ niệm cho người
được vãng sanh, thì người hộ niệm chúng ta cũng phải cố gắng niệm Phật để có
công đức. Luôn luôn lúc nào cũng vậy. Khi mình tới ngồi hộ niệm... “Nam Mô
A-Di-Đà Phật... A-Di-Đà Phật... A-Di-Đà Phật”. Nếu mình có công phu tu hành
thì thường thường chư Thiên-Long Hộ-Pháp gia trì cho mình, câu niệm Phật của
mình có giá trị, lời nói của mình được các Ngài gia trì luôn. Chính nhờ vậy,
khi mình khai thị cũng dễ làm cho người bệnh cảm động, làm cho người bệnh hình
như có một sự cảm ứng, và người ta dễ nghe theo.
Thông thường nhiều vị cứ để Mẹ mình nằm ở
nhà thương cho đến khi yếu thật yếu rồi mới tới kêu:
- Anh Diệu Âm ơi! Bây giờ làm sao? Mẹ
tôi ở Sài-Gòn... Mẹ tôi ở Đà-Nẵng... bây giờ làm sao giới thiệu cho tôi ban hộ
niệm....
Thật ra mình giới thiệu là vị nể mà giới
thiệu thôi, chứ cũng chưa chắc gì cứu được người đó đâu! Vì hồi giờ người đó
không có niệm Phật! Đừng nên nghĩ sai lầm rằng ban hộ niệm có thể giải quyết
được! Cho nên, gặp những trường hợp này Diệu Âm thường thường khuyên người con
đó hãy phát tâm ra trước đã.
Chứ còn như, khi hỏi tới:
- Hồi giờ Mẹ chị có niệm Phật không?...
- Có, nhưng
lười biếng lắm!
- Có ăn chay
chưa?
- Dạ chưa.
Còn vướng đủ thứ hết trơn! Vậy thì làm sao
bây giờ?...
- Chính
mình phải lo niệm Phật.
- Chính mình
phải phát tâm phóng sanh.
- Chính mình
phải in kinh ấn tống.
- Chính mình phải cầm xâu
chuỗi niệm Phật trước Mẹ mình...
- Mẹ ơi! Con
niệm Phật để hồi hướng cho Mẹ, chứ nếu không lỡ Mẹ bị chết rồi, con không có
cách nào có thể cứu Mẹ được...
Chính cái tâm thành của người con cảm
ứng đến Mẹ. Chính người con cũng nên dẫn người Mẹ tới gặp ban hộ niệm và hứa
với ban hộ niệm rằng:
-Tôi sẽ cố hết sức để khuyên Mẹ tôi
niệm Phật. Xin chư vị giúp Mẹ tôi...
Chính lòng chân thành của người con mà làm
cho ban hộ niệm mới dám nhận cái ca này để hộ niệm. Chứ nếu mình ỷ lại ban hộ
niệm, mình không chịu tham gia tích cực với họ thì nhiều khi ban hộ niệm đó họ
hộ niệm cũng không được.
Nói chung, nhất định đừng bao giờ
chờ đến phút cuối cùng rồi nhờ ban hộ niệm... Không hay! Xin thưa chư
vị, phải lo trước...
- Nhất định
phải niệm Phật trước,
- Nhất định
phải tạo công phu trước,
- Nhất định
nhớ rằng, chúng ta ở đây toàn là những người trên trên sáu mươi tuổi hết trơn.
Một sớm một chiều là xong...
Nếu không có công đức để hóa giải những
ách nạn của chính mình, thì sau cùng rồi cũng phải chịu khó khăn! Nếu từ giờ
phút này chúng ta quyết lòng niệm Phật, xin thưa rằng, trong một ngày, hai
ngày, ba ngày hay một tuần lễ, hai tuần lễ mà chúng ta quyết lòng niệm Phật đó
thì tự nhiên phước đức mình sẽ tăng lên, nghiệp chướng của mình sẽ giảm xuống
và có thể có sự cảm ứng rõ rệt. Đừng nên thấy có ban hộ niệm rồi ỷ lại, mà phải
nhớ rằng là mình phải lo công phu niệm Phật. Lòng chân thành này nhất định sẽ
cảm ứng đến A-Di-Đà Phật.
Nếu lòng chân thành thật sự có, thì tự
nhiên vấn đề được vãng sanh sẽ đơn giản lắm! Dễ dàng lắm!... Vãng sanh vi diệu
bất khả tư nghì!...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 31)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Mỗi khi mình ngồi với nhau niệm Phật,
nhiều lúc chúng ta thấy cảm động vô cùng! Khi niệm Phật như vậy, hãy cố gắng
lắng nghe tiếng niệm Phật của mình nó hòa theo tiếng địa chung. Làm sao cho
giọng niệm mình tha thiết, thì tự nhiên có nhiều lúc mình thấy cảm động! Có
nhiều người niệm Phật đã cảm động mà rơi nước mắt. Nước mắt rơi tầm tã!...
Trong ngày hôm nay, chúng ta có đi hộ
niệm. Quý vị thấy đó, muốn cứu một người vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, không
phải đơn giản đâu! Khó vô cùng!...
Tại sao mà khó dữ vậy? Là vì chúng sanh
trong đời này ít hiểu đạo. Nhiều người muốn tìm hiểu mà không có ai dẫn dắt.
Suốt cuộc đời tu hành, có người đến khi gần mãn báo thân cũng không biết đường
nào để đi! Ngày hôm nay mình đi hộ niệm, mình thấy rõ rệt chuyện này. Nhiều khi
muốn cứu người ta mà không biết làm sao để cứu. Người ta cứ xác định rằng, tu
hành tức là không ăn gian của ai, không ăn cắp của ai, tức là tu hành rồi... Người
ta không biết gì về Tây Phương Cực Lạc cả, họ không có quan niệm gì về vãng
sanh hết trơn. Phải chăng, trong suốt cuộc đời của họ không bao giờ gặp qua một
người dạy cho họ niệm một câu A-Di-Đà Phật, chỉ cho họ lời phát nguyện vãng
sanh Tây Phương!...
Cũng ngày hôm nay, bác Minh Trí nói một
câu mà tôi thấy hay vô cùng. Bác nói rằng:
- Thực sự là trong đời này mình đã gặp
chuyện này, chuyện niệm Phật này nè, để được về Tây Phương là may mắn, may mắn
không tưởng tượng được. Nếu không gặp trường hợp này, bảo đảm rằng nhiều khi
suốt cuộc đời của mình cho đến khi nằm xuống, cũng không biết đường về Tây
Phương đâu à! Mà đã không biết đường về Tây Phương, thì chắc chắn không bao giờ
mình cất một lời nguyện, “Nguyện con được vãng sanh Tây Phương”. Không bao giờ
đâu à!... Rồi chắc chắn đến giờ phút nằm ngáp ngáp để rời bỏ báo thân này,
không bao giờ cất lên được một câu danh hiệu Phật đâu à!...
Bác Minh Trí nói hay quá! Trong đời này mà
gặp được cái cơ hội này, thực sự là may mắn, may mắn không tưởng tượng được.
Chính Diệu Âm này cũng có lăn lộn trong trường đời, cũng có học hỏi, cũng có
đọc sách, đọc kinh đủ thứ hết, nhưng đến năm mươi tuổi đầu, hoàn toàn không
biết câu A-Di-Đà Phật. Cho đến một lúc tới Tịnh-Tông Học-Hội, vừa nghe người ta
niệm câu A-Di-Đà Phật, mới ngộ ra, giựt mình luôn, tỉnh ngộ luôn. Giựt mình đến
nổi mà đổ mồ hôi ra luôn! Ngỡ ngàng!...
Có cơ hội này thực sự là do thiện căn
phước đức của chính mình trong nhiều đời nhiều kiếp chắc có tu hành rồi, đến
nỗi bây giờ gặp một câu A-Di-Đà Phật giựt mình tỉnh ngộ. Còn khi trong quá khứ
mình không có thiện căn phước đức, thì quý vị thấy không?... Năn nỉ hết lời
cũng không bao giờ người ta nghe đâu.
Cho nên cứu người khó! không phải là cái
pháp Niệm Phật không vi diệu, mà tại vì chính con người không chịu tin!
Chúng sinh trong đời này rõ ràng tam ác
đạo đang chờ trước mắt họ nhưng mà…
- Họ vẫn không sợ!
- Họ vẫn không ngại!
- Họ coi chuyện đó là quá bình
thường!
Vì thực sự cũng do chính cá nhân những
người đó trong vô lượng kiếp đã quên đi con đường tu hành.
Ta biết rằng trong vô lượng kiếp chúng ta
đã tu hành, đã tu hành mà còn rớt lại đây chứng tỏ rằng, trong những lúc
tu hành đó, trong những lúc cúng dường Phật đó, trong những lúc làm thiện làm
lành đó, ta có sơ suất điều gì? Nhất định. Nếu sự sơ suất đó mà lập
lại một lần nữa trong đời này, thì nên nhớ, đời này là đời mạt pháp rồi, bắt
buộc ta phải trôi lăn trong cảnh gọi là, tử tử sanh sanh, khổ đau bất tận,
không biết bao nhiêu kiếp nữa.
Những sơ suất đó là gì? Nhiều lắm. Nhưng
trong đó chắc chắn có một điểm rất là chính yếu, là điểm này:
- Trước
những giờ phút buông xả báo thân ra đi, ta không chịu niệm Phật.
- Trước khi
xả bỏ báo thân, ta không nguyện vãng sanh.
- Trước khi
xả bỏ báo thân, tâm ta đang chú ý đến chuyện gì khác, chứ không chịu chú ý đi
về Tây Phương Cực Lạc.
Đây là cái điểm cuối cùng để mình chịu
nạn...
Chính vì vậy, xin thưa với chư vị, ở đây
chúng ta cứ nói chuyện hộ niệm, nói liên tục, thực ra tâm ý của chúng ta là
muốn cho sự hộ niệm này được loan truyền rộng rãi ra. Chính tôi cũng có viết
một lá thư, gọi là thư “Vận Động Hộ Niệm”, tôi gửi đi khắp
nơi, và người ta in luôn thành sách. Tôi muốn nhiều người biết về hộ niệm.
Nhiều người biết hộ niệm thì sẽ có nhiều người được cái duyên phần vãng sanh
Tây Phương Cực Lạc. Trong một gia đình có một người biết hộ niệm, thì hy vọng
trong gia đình đó mười người, ít ra cũng có được một người vãng sanh. Ví dụ, xã
hội này có một ngàn người mà có một trăm người biết hộ niệm, thì ít ra một trăm
người đó được vãng sanh, rồi có thể cứu thêm được một trăm người nữa. Chứ nếu
xã hội này có hàng triệu người, mà không một người nào biết hộ niệm, thì với
đời mạt pháp này, xin thưa, nhất định phải “Tùng nghiệp thọ báo”.
Tùng nghiệp thọ báo là đi trong cảnh tử tử sanh sanh. Trong kinh Phật nói rõ ràng:
“Độc sanh, độc tử, độc khứ, độc lai. Khổ lạc tự đương, vô hữu đại giã”.
“Độc Sanh” là mình sanh ra trong cái thế giới này chỉ có một mình!
Đi đầu thai một mình, lủi thủi, không ai theo mình hết. Theo nghiệp mà mình thọ
sanh...
“Độc Tử” là khi mình chết đi, cũng một mình mình đi
thôi! Không có một người nào đi theo mình để chết cả. Trong đời này, thì vợ vợ
chồng chồng, anh anh em em, cha cha mẹ mẹ... nhưng khi chết rồi thì... “Trời ơi!... Sao sợ
quá! Hãy né xa ra một chút!”. Khi chưa chết thì cha cha mẹ mẹ. Khi
chết rồi thì... “Trời ơi! Sợ quá! Hãy
đứng cách xa ra một chút!” Đây là chuyện hết
sức lạ lùng!
Chính vì vậy, khi
biết được chuyện này, xin chư vị phải trân quý giai đoạn này. Phải củng cố
phương pháp hộ niệm cho chính mình, lý hộ niệm cho chính mình. Một lần đi hộ
niệm rõ ràng đã hiểu thêm một lý đạo. Lý đạo gì? Con người tham chấp. Một khi
họ tham chấp thì không cách nào gỡ ra được! Đã tham chấp rồi thì nhất định lục
đạo luân hồi không thể nào thoát được, mà còn sợ rằng bị vướng vào tam ác đạo nữa
là khác!...
Xin kể ra đây một câu
chuyện hoàn toàn có thật, chính người con của người chết đó đã kể cho Diệu Âm
nghe. Anh ta nói rằng, khi mẹ anh chết, vì suốt cuộc đời mẹ anh cứ làm tần tảo
để xây căn nhà cho đẹp. Khi mẹ anh ta chết rồi thì không đầu thai được mà cứ
bám vào cái nhà đó, bám vào đến nỗi anh phải bán cái nhà luôn. Những người khác
không biết, họ mua căn nhà đó, mua xong rồi thì ở không được. Đổi qua đổi lại
đến năm đó đã đến bảy đời chủ rồi. Bây giờ đời chủ thứ tám thì không ai dám mua
nữa. Mỗi đời chủ như vậy, họ kêu “Thầy Pháp” đến dán bùa, dán đầy hết trước cửa để yếm cái hồn của bà
mẹ anh. Nhưng bà mẹ anh đó cũng dữ quá, vẫn không sợ. Có lần người ta nghĩ đến
câu: “Nhứt quỷ nhì
ma, thứ ba học trò”. Họ bèn kêu năm, sáu đứa học trò tới cho ở không. Học
trò nghèo mà, chúng nó kéo nhau đến ở đầy một nhà vậy và chúng quậy phá rầm
rầm... Họ nghĩ rằng, chắc chắn con quỷ cũng phải bỏ đi thôi! Nhưng chúng cũng
chỉ ở được khoảng chừng hai, ba ngày thì Bà la làng, Bà vác xoong, vác chảo
liệng rổn rảng... Tụi học trò sợ mất hồn!... Bỏ luôn!...
Anh đó đến hỏi, bây giờ làm sao? Có
cách nào giúp giải quyết được không? Thì Diệu Âm nói rằng, anh muốn thực sự
giải quyết thì anh hãy nghe lời tôi. Bây giờ căn nhà đó hình như người ta cho
không, không cần bán phải không? Bán rẻ như cho không. Anh hãy mua lại đi...
Mua xong rồi, dọn dẹp sạch sẽ đàng hoàng, gỡ hết tất cả những lá bùa liệng đi.
Lập bàn thờ Phật lên. Anh mời chư vị đồng tu tới niệm Phật với anh và anh quỳ
trước bàn thờ của mẹ anh, khai thị cho mẹ anh hằng ngày:
- Mẹ
ơi! Mẹ tham chấp làm chi cái nhà mà Mẹ bị trở ngại? Giữ cái nhà thì làm sao mà
Mẹ có thể siêu sanh! Bị đọa lạc đời đời kiếp kiếp khổ lắm Mẹ ơi! Mẹ hãy quyết
lòng niệm Phật đi...
Cứ ngày ngày khuyên Bà. Kêu đồng tu tới
niệm Phật. Nhất định niệm Phật sẽ có quang minh phóng tới gia trì, chắc chắn sẽ
có một ngày mẹ của anh ngộ ra. Nên nhớ, đã là Mẹ của anh rồi thì không bao giờ
nỡ hại anh đâu. Anh hãy làm đi.
Anh đó hứa sẽ làm. Nhưng một năm sau Diệu
Âm về Việt Nam, anh đó ở từ rất xa đi tới thăm. Tôi hỏi:
- Anh
đã mua lại căn nhà chưa? Anh nói:
- Dạ
chưa mua.
Tôi hỏi tiếp:
- Tại
sao vậy?...
- Tôi
sợ quá!...
Anh sợ bà Mẹ của mình!!!... Đây là chuyện
có thật.
Quý vị thấy không?
Khi mà tình chấp lớn quá rồi. Chịu thua! Gỡ không được. Biết được những chuyện
này, muốn vãng sanh về Tây Phương đơn giản lắm. Phương pháp hộ niệm mình nói
hàng ngày ở tại đây quý vị nắm vững được chứ gì?... Còn không thì nghe những
băng đĩa. Tôi nói 48 ngày thì làm ra băng đĩa, để quý vị lấy ra mà nghe. Những
băng nói kỳ trước người ta bắt đầu in thành sách rồi đó. Cái băng này chưa nói
xong mà người ta cũng chuẩn bị viết ra nữa rồi. Nghĩa là, nghe nói trong băng
rồi viết ra để in thành sách. Nghe tin như vậy mình có chút lòng mừng. Vì sao?
Để phổ biến cái chương trình hộ niệm ra. Cái phương pháp hộ niệm này nếu được
lan rộng ra bằng DVD, bằng MP3, bằng sách, bằng cách gì cũng được để cho nhiều
người biết...
Một gia đình mà có
một người biết hộ niệm thì họ “rủ-rỉ, rủ-rỉ” với nhau cũng thêm được hai người trong gia đình. Rồi “rủ-rỉ, rủ-rỉ” tiếp, được
ba người trong gia đình... Nhờ ba người đó mà gia đình đó có thể sẽ có một
người vãng sanh. Chứ nếu như không biết hộ niệm, không biết đường vãng sanh thì
thế gian này chúng sanh sẽ tiếp tục chìm đắm trong biển khổ, sông mê! Dù tu gì
thì tu, nói hay gì thì nói, lý luận gì thì cứ việc lý luận... nhưng chúng sanh
đọa lạc vẫn cứ tiếp tục bị đọa lạc, tại vì người ta không biết con đường vãng
sanh. Chứ nếu một người nào biết được phương pháp hộ niệm, tức là biết được con
đường vãng sanh, thì nhất định, tham chấp phải bỏ ra liền để khi mình nằm
xuống, nó rời ra... Bên cạnh đó, nhất định bắt đầu niệm Phật liền. Không bao
giờ được quyền chờ đâu à! Đừng nghĩ rằng tôi niệm như vầy là đủ! Nếu chúng ta
nói đủ, thì nhất định bị thiếu! Chắc chắn.
Trong những ngày khác
tôi sẽ kể ra những chuyện tại sao thiếu cho chúng ta nghe.
Phải lập công cứ.
Phải cố gắng tăng thêm giờ niệm Phật. Phải lấy tờ giấy ra ghi vô rõ ràng. À!
Mình niệm như vậy yếu quá rồi! Một ngày mình niệm chưa tới hai ngàn câu thì làm
sao có thể đủ? Có tờ giấy nó nhắc nhở mình, hãy ráng cố gắng niệm ba ngàn, bốn
ngàn, năm ngàn câu... Cứ vươn lên, vươn lên. Nhờ vươn lên mà mình có công phu.
Trong công phu đó mình nhiếp tâm được, mới có công đức. Còn mình cứ niệm chơi chơi,
mình nghĩ rằng đủ, khi mà tưởng đủ thì nhất định bị thiếu! Thiếu ở chỗ công đức
của mình chưa đủ để bồi đắp lại những tội ác mà mình đã gây cho chúng sanh. Cho
nên chúng sanh đang chờ từng giờ từng phút cái ngày lâm chung của mình, để họ
tới đòi cho được cái nợ sinh mạng. Ghê lắm chư vị ơi!...
Khi đi hộ niệm nhiều
cuộc rồi mình mới thấy đến chuyện này, mà thấy chuyện này rồi nhất định mình
phải sợ! Sợ thì ngày ngày cần phải ngồi trước bàn thờ Phật mà nguyện:
- Nam Mô A-Di-Đà Phật, nguyện đem công
đức này hồi hướng cho pháp giới chúng sanh, hồi hướng cho tất cả chư vị oan gia
trái chủ trong nhiều đời nhiều kiếp. Tôi đã lỡ hại chư vị, hôm nay xin thành
tâm sám hối với chư vị, nguyện cầu chư vị buông xả oán thù, cùng với chúng tôi
niệm câu A-Di-Đà Phật để vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Tôi hứa với chư vị là
hồi hướng tất cả công đức cho chư vị và khi tôi đã về Tây Phương Cực Lạc, tôi
sẽ trở về đây tìm mọi cách độ chư vị. Chúng ta cùng nhau vãng sanh về Tây
Phương Cực Lạc.
Phải nói liên tục như
vậy. Người bệnh cũng nói, mà người khỏe cũng phải nói. Phải nói trước, đừng để
đến lúc đã tới nơi rồi, thì xin thưa thật, không còn cách nào nói gì được nữa
đâu!
Mong cho chư vị hiểu được. Vì một tâm ý
muốn chúng ta đừng bị trở ngại trong con đường vãng sanh...
Cố gắng phải tu hành. Nhất định
đi về Tây Phương thành đạo trong đời này. Đừng hy vọng đời sau. Xin nhớ cho
chuyện này!...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 32)
Nam Mô A-Di-Đà Phật
“Khế Lý - Khế
Cơ”! Chúng
ta cần phải nói rõ hơn nữa để cho đồng tu yên tâm niệm Phật và tin tưởng rằng
với cái pháp tu hành này ta được vãng sanh về Tây Phương. Không thể nào không
được vãng sanh, chỉ khi nào chúng ta sơ ý đi lạc đường hoặc là ba cái tư lương Tín-Nguyện-Hạnh
của mình đã bị giảm sút một cái nào đó. Chứ còn không thì không thể nào
mà không được vãng sanh…
Khi nói về “Khế Cơ”
nghĩa là mình tự nhận mình là hàng phàm phu thấp nhất. Nhất định! Xin chư vị tự
hứa với mình rằng, ta đã thấy rõ ràng mình là hàng hạ căn thấp nhất. Thấy cái
chỗ thấp nhất đó thì ta mới ứng dụng cái phương pháp cụ thể nhất và an toàn
nhất của người thấp nhất, thì tự nhiên ta được vãng sanh không có gì trở ngại.
Nếu sơ ý chúng ta khởi tâm cao ngạo một chút, hay là sơ ý thấy mình cao một
chút, thì ngay giờ phút đó ta sẽ có chướng ngại ngăn cản con đường vãng sanh.
Mình biết mình hạ căn thì thường thường với công phu mình tu hành như thế này
chưa đủ để xóa những nghiệp chướng đó đâu.
Những người đang còn khỏe mạnh đừng bao
giờ nghĩ rằng ta sẽ tiếp tục khỏe mạnh cho đến giây phút cuối cùng và được an
nhiên tự tại ra đi. Không phải!... Thường thường nghiệp chướng nó đổ ra rất bất
ngờ!... Khi nó đổ ra như vậy thì sẽ cản trở rất nhiều công phu tu hành của
mình. Lúc đó...
- Mình muốn
mở lời niệm Phật, niệm cũng không được... Đau quá!...
- Mình muốn mở lời nguyện vãng
sanh, nguyện không được…
- Lúc đó tự nhiên bao nhiêu mối
u sầu, sợ hãi, lo lắng tới dồn dập... làm mình quên hết, quên trụi lủi trụi
lui...
Chính vì vậy, dù sao đi nữa cũng khuyên
tất cả phải cố gắng phát tâm dũng mãnh tinh tấn hơn nữa, để cho nghiệp chướng
nhẹ đi, có vậy chúng ta mới hy vọng sẽ được tỉnh táo trong giờ phút cuối cùng
để nghe những lời của người hộ niệm đến khai thị, rồi niệm Phật theo người ta,
nhờ đó mà A-Di-Đà Phật sẽ phóng quang tiếp độ ta về Tây Phương.
Hôm trước, có một số vị tới thăm đạo tràng
và hỏi chuyện. Có một vị hỏi:
- Đạo tràng của anh có tổ chức tu tinh
tấn để đạt được “Niệm-Vô-Niệm” hay không?... Thì
Diệu Âm có trả lời:
- Ở đây
không chủ trương niệm Phật cho đến Vô-Niệm.
“Niệm-Vô-Niệm” là khởi đầu của cảnh giới
chứng đắc “Nhất tâm bất loạn”. Vị đó lại
hỏi:
- Tại sao vậy?... Nếu không được “Niệm-Vô-Niệm” thì làm sao được
vãng sanh?
(Niệm-Vô-Niệm nghĩa là tự mình niệm mà
không cần niệm nữa, tức là trong tâm mình tự niệm)... Diệu Âm mới nói
là:
- Vì hầu hết đồng tu tại đây đều là hạ
căn. Mà đã là hạ căn thì đạt đến cảnh “Vô-Niệm” không dễ đâu! Đạt không được tới cảnh giới đó, mà lại xúi giục người
ta ráng sức niệm cho đến “Vô-Niệm”, thì cái lực này nhiều khi vượt qua giới
hạn chịu đựng của họ. Lúc đó không cách nào cứu được.
Chính vị hỏi đó cũng đang tu để cầu cho
được “Vô-Niệm”, được “Nhất tâm bất loạn”. Khi nghe nói vậy, thì mấy vị kia cũng
nói:
- À!... Anh
Diệu Âm nói đúng đó...
Vị đó nghe vậy, có vẻ hơi giật mình! Tôi
nói tiếp:
- Vấn đề niệm Phật để đạt tới cảnh
giới này cảnh giới nọ!?... Chuyện này hãy để tự nhiên đi, đừng nên mong cầu.
Thay vì hồi giờ mình lấy cái công phu này, công phu rất cao này để cầu cho “Nhất Tâm Bất Loạn”, cầu cho “Vô-Niệm”,
thì tại sao mình không đơn giản lại một chút... Nghĩa là, cũng tu y
hệt như vậy, cũng tinh tấn như vậy, cũng siêng năng như vậy... nhưng mà chú tâm
vào lời nguyện vãng sanh, để cầu mong mình được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc...
Còn chuyện “Vô Niệm” hay “Nhất Tâm Bất Loạn”
nó đến cũng kệ nó, nó đi cũng kệ nó, muốn đến hay đi cũng khỏi cầu mong làm
chi. Như vậy mình thấy có vui sướng không? Chứ như trong ba tư lương Tín-Nguyện-Hạnh,
thì chữ Nguyện
này chư Tổ nói là nguyện vãng sanh, tại sao mình không nguyện vãng sanh, mà lại cầu nguyện cho được “Vô-Niệm” làm chi? Cầu nguyện cho “Nhất tâm bất loạn” làm chi? Nếu đến lúc lâm chung, mình chưa
được cái cảnh giới gọi là “Niệm Vô Niệm”, chưa được cảnh giới gọi là “Nhất Tâm Bất Loạn”, chẳng lẽ mình nằm đó chờ cho nhất tâm bất
loạn sao? Rồi lỡ giai đoạn mãn báo thân đến rồi... Mình đi đâu đây?!...
Cho nên tôi nói, đã có công phu quyết lòng
cầu cho vô niệm thì bây giờ hãy lấy công phu đó để cầu vãng sanh đi. Chư Tổ
nói: “Không cầu nhất tâm bất loạn thì mới có thể nhất tâm bất loạn”...
Chớ đã cầu nhất tâm bất loạn thì không thể nào là nhất tâm bất loạn được, mà
nhiều khi vì cái lực của mình không theo kịp cái tâm, mà mình cứ cầu cho nhất
tâm bất loạn, thì coi chừng cái “Bất Loạn giả” xảy ra, cái “Vô
Niệm giả” đưa đến, nhiều khi chính mình không kềm chế được, mà sau
cùng có thể bị trở ngại!...
Nếu thật sự có những người tu được chứng
đắc nhất tâm bất loạn, thì đây là những hạng người căn cơ rất cao. Căn cơ cao
thì họ chỉ âm thầm tìm đến những người căn cơ cao, chứ không bao giờ phổ biến
rộng rãi ra đâu, vì phổ biến vấn đề này rộng ra có thể khiến cho nhiều người
vọng tưởng! Tôi nói như vậy thì vị đó có lẽ hơi ngộ!
Trong kinh Phật có nói, chúng sanh thời
mạt pháp này căn cơ thấp lắm! Như chúng ta đây cũng vậy, rõ rệt là căn
cơ thấp lắm! Căn cơ thấp mà muốn được vãng sanh, muốn được thành tựu, thì tốt
nhất hãy nhắm đến việc tu hành cần cù, siêng năng. Thay vì về nhà buổi trưa
mình ngồi trên giường đọc báo, bây giờ mình hãy nghĩ rằng tờ báo này nó không
giúp ích gì cho đường thành đạo! Vậy thì, liệng tờ báo đi. Thay vì mình mở phim
Tàu ra coi, bây giờ mình hãy nghĩ rằng… À!... Nghiệp chướng mình sâu nặng, khi
đến giai đoạn hết báo thân mình sẽ bị đọa lạc, sự đọa lạc này dễ sợ lắm!...
Thôi mạnh dạn bỏ phim Tàu đi, lập tức cầm xâu chuỗi lên niệm Phật. Khi niệm
Phật, niệm hai ba chuỗi cảm thấy mệt, ta lại muốn đi chơi?... Ta liền tự nghĩ,
đây chính là nghiệp chướng đó!.. Mới tu như vậy đâu thể là đủ được! Cố gắng tự
quán xét lấy…
Mấy ngày nay chúng ta đưa ra chương trình
công cứ. Khi cầm công cứ lên niệm Phật, mình thấy tờ công cứ của mình sao còn
trống rỗng!? Người ta thì đầy hết trơn rồi, còn mình thì trống rỗng, chứng tỏ
công phu của mình còn quá yếu!... Đã không được nhất tâm bất loạn rồi, mà công
phu còn yếu nữa, thì khi nằm xuống mình sẽ không có đủ công đức để hóa giải
chướng nạn, mình sẽ bị trở ngại! Thấy vậy thì nên biết giật mình. Thôi! Hãy
ráng niệm thêm năm sáu ô nữa đi. Tự mình phải làm chứ không ai bắt mình hết.
Một ngày mình niệm một ngàn, tức là tô một ô cũng được. Một ngày mình niệm mười
ô, cũng do chính mình chứ không ai bắt mình hết. Nhưng mà mình làm được hai ô,
ba ô... chắc chắn mình sẽ an tâm hơn một ô. Mình thấy... À!... Còn yếu quá!
Tại sao người kia lại niệm được hai mươi lăm ô trong một ngày, tức là
25.000 câu Phật hiệu. Như vậy họ đã quyết tâm về Tây Phương. Nhìn họ mà mình
phải ráng lên, tinh tấn lên. Cứ tấn tới... Phải tấn tới... để cho giải bớt ách
nạn của mình đi...
Mình không cầu nhất tâm bất loạn vì mình
không có khả năng niệm Phật đến nhất tâm bất loạn. Mà không có khả năng niệm
Phật đến nhất tâm bất loạn, thì chướng ngại nhất định vẫn còn ê hề trước mắt,
không bao giờ mất! Mình vẫn biết có những người đồng tu tới hộ niệm cho mình,
khai thị cho mình. Nhưng phải nhớ:
- Căn bản là
mình cần phải có cái Công-Phu.
- Căn bản là
mình cần phải có cái Tín-Lực.
- Căn bản là
mình cần phải có cái Nguyện-Lực.
- Căn bản
mình cần phải có cái Hạnh-Lực.
Hạnh-Lực chính là tô màu vào những cái
“Nút” nhỏ trong bản công cứ đó. Cái nút này hay lắm, nó tăng cái phước mình
lên, nó giảm cái nghiệp mình xuống. Nhờ giảm nghiệp mình xuống, nên bệnh hoạn
cũng giảm bớt đi. Khi lâm chung mình bớt đau đầu, bớt nhức óc... Nhờ thế mới dễ
được vãng sanh.
Nói tóm lại, trong pháp tu của người hạ
căn như chúng ta là xin cố gắng hơn nữa, siêng năng thêm một chút nữa để tự
mình giải cứu cho mình. Xin đừng đợi đừng chờ...
Hôm nay, xin kể một câu chuyện khác, gọi
là “Xin đừng nên chờ!”. Câu chuyện này đã xảy ra tại một làng
cận kề với làng của Diệu Âm. Ở nơi đó cũng có ban hộ niệm, có chùa cũng biết hộ
niệm. Có một anh năm đó mới 42 tuổi thôi, anh rất có hiếu với người Mẹ. Mỗi thứ
bảy, Chúa Nhật anh dùng xe Honda chở người Mẹ lên chùa niệm Phật, tụng kinh,
nhưng còn anh thì luôn luôn ngồi ở ngoài hút thuốc lá, nói chuyện, không chịu
vào Niệm Phật Đường để niệm Phật. Người ta mời anh vào niệm Phật, Anh nói:
- Bây giờ
tôi chưa niệm Phật được đâu!... Tôi phải lo cho bà Mẹ của tôi xong đã. (Bà Mẹ lúc đó 86 tuổi, năm
2006... 86 tuổi). Khi mà Mẹ tôi xong phần rồi tôi sẽ tu sau, bây giờ tôi còn
nhiều chuyện lắm...
Thì một bữa nọ anh bị cảm. Ngày hôm trước
cảm sơ sơ, ngày hôm sau anh chết... Chết trong lúc 42 tuổi. Bà Mẹ đến nay là
hơn 90 tuổi rồi vẫn còn sống một mình, không có ai nuôi hết. Còn anh đó thì đã
chết bốn, năm năm nay rồi. Chết mới 42 tuổi, lúc còn đang khỏe mạnh, lái xe
Honda chạy ào ào.
Thật sự, “Vô-Thường tấn tốc!”...
Rõ ràng là “Triêu tồn tịch vong, sát-na dị thế!”. Ấy thế:
- Đừng bao giờ ỷ lại là ta còn
khỏe thế này, còn lâu lắm mới đi.
- Đừng bao giờ nghĩ rằng một
người đó bệnh thì người ta đi trước mình...
Không phải vậy đâu!...
Ông Già của Diệu Âm cách đây bốn, năm
năm... Khi nói chuyện về bà sui-gia của ông. Bà bác đó đã nằm một chỗ không đi
được, bị bán thân bất toại... Ông Già tôi nói:
- Chắc bà sui phải đi rồi!... Chắc
chắn trước sau cũng đi liền thôi!...
Trong khi ông Già của Diệu Âm lúc đó còn
vác cuốc ra đồng, còn cuốc cỏ được. Thì bây giờ đây, ông Già đã ra đi ba, bốn
năm rồi mà bà bác đó hiện vẫn còn sống. Lạ quá!
Chính vì vậy, nghĩ tới chuyện vô thường,
xin chư vị đừng nên bao giờ ỷ lại rằng sức khỏe của mình còn khỏe?... Không
đâu!... Một sớm một chiều, nó đến lúc nào không hay! Mà lỡ nó đến quá sớm,
trong khi công phu của mình không có, công đức mình không có... Xin thưa thật
chư vị, nghiệp chướng trùng trùng trong vô lượng kiếp, oan gia trái chủ đang
chờ từng ngày từng giờ... Nó sẽ đổ dồn tới làm cho mình hứng chịu những hậu quả
rất đau đớn đó!...
Hiểu được chỗ này, xin ráng phát tâm tu
hành. Không ai bắt phải “Nhất tâm bất loạn”, nhưng mà phải tạo công phu, phải
siêng năng, phải cần cù để tự mình giải ách nạn trước. Rồi khi lâm chung đồng
tu sẽ đến hộ niệm, nhờ thế thì phần vãng sanh Cực Lạc mới an toàn được…
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 33)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật,
Từ
khi chúng ta vận động chương trình tinh tấn công cứ, thì nhiều vị đồng tu trong
chúng ta phát tâm tham gia và bắt đầu hạ thủ công phu. Đây là một tin rất mừng
và không ngờ chuyện hô hào này nó lại loan ra ngoài, các nơi cũng có người lên
tiếng tham gia. Đây cũng là một chuyện Bất Khả Tư Nghì!...
Tri
ân báo ân! Mình biết được con đường niệm Phật một đời này vãng sanh về
Tây Phương Cực Lạc, thì xin chư vị dũng mãnh phát tâm rộng lớn, gieo duyên lành
cho chúng sanh, cố gắng cứu được người nào hay người đó, bất kể là thân hay sơ.
Có người được cứu là chúng ta mừng.
Trở
lại câu chuyện “Khế
Lý - Khế cơ”. Tiếp tục trong vấn đề hôm qua nêu ra, là một người
quyết tâm niệm Phật cho đến cảnh giới “Vô-Niệm”, mà chưa đạt được cho nên cảm
thấy khó khăn!... Người đó đến đây hỏi, thì Diệu Âm khuyên rằng, thay vì dùng
cái công phu tốt như vậy để quyết lòng đạt được cảnh giới vô niệm, thì bây giờ
hãy dùng cái công phu đó, cũng tu y hệt như vậy nhưng để nguyện vãng sanh. Tức
là tu cũng tinh tấn như vậy mà quyết lòng nguyện vãng sanh, đâu cần chi phải
nguyện cho “Nhất tâm bất loạn”? Đâu cần chi phải chờ đến cảnh giới “Niệm
Vô Niệm”, kiểu như là tự ta thiết lập thêm cái cầu khác, trong khi đó thì
A-Di-Đà Phật đã thiết lập cho chúng ta cái cầu rất là vững vàng. Chúng ta chỉ
cần bước lên cái cầu của A-Di-Đà Phật là được qua bờ Giác... Cái cầu đó chính
là sự phát nguyện vãng sanh Tây Phương.
Nếu
mình thành tâm tha thiết phát nguyện vãng sanh Tây Phương là ta được đi thẳng
lên cái cầu đó. Còn chúng ta không tha thiết nguyện vãng sanh Tây Phương, mà
chờ cho đến nhất tâm bất loạn rồi mới vãng sanh thì vô tình tự ta lại thiết lập
một cái cầu khác. Ta thiết lập xong cái cầu đó rồi mới bước lên cầu vãng sanh
Tây Phương Cực Lạc. Nếu ta thiết lập được cũng tốt đó, tại vì ta đi cái cầu mà
chính ta thiết lập thì sẽ vui hơn. Nhưng mà khó lắm! Lỡ thiết lập không được
thì sao? Đến lúc cuối cùng, với “Chiếc cầu vãng sanh” của A-Di-Đà Phật
đã thiết lập sẵn mà ta chưa muốn lên, lại cứ chờ đến sự thành công của mình rồi
mới leo lên, thì coi chừng bị luống qua một cơ hội!...
Trong
tất cả các pháp tu sau cùng rồi cũng đi đến một chỗ, có nghĩa là giống nhau.
Bên Mật-Tông gọi là “Tam Mật Tương Ưng”, thân khẩu ý thanh tịnh. Bên Thiền thì gọi là “Minh Tâm
Kiến Tánh, Kiến Tánh Thành Phật”. Bên Giáo-Hạ gọi là “Đại
Khai Viên Giải”. Còn
bên niệm Phật chúng ta gọi là “Nhất
Tâm Bất Loạn - Lý Nhất Tâm Bất Loạn”... Tất cả những danh từ khác
nhau, nhưng chủ đích là một. Chính vì vậy, muốn được nhất tâm bất loạn, muốn
được cho chơn tâm hiển lộ, thì làm sao chúng ta bước lên được cái cầu của
A-Di-Đà Phật thiết lập đó để chúng ta đi qua bờ Giác, chúng ta qua bên bờ Tây
Phương Cực Lạc.
Ngài
Vĩnh-Minh Đại Sư nói, “Nhược đắc kiến Di-Đà, hà sầu bất khai ngộ?”. Câu
này vô cùng hay. “Nhược đắc kiến
Di-Đà”, là nếu chúng ta bước lên cái cầu đó, ta đi về trên Tây
Phương Cực Lạc, thì khi về tới Tây Phương Cực Lạc nhất định chúng ta sẽ gặp
được A-Di-Đà Phật, gọi là “Nhược đắc kiến Di-Đà”. Nếu gặp được A-Di-Đà
Phật thì “Hà sầu bất khai ngộ?”... Nghĩa là:
- Lo gì mà không được
khai ngộ...
- Lo gì mà không được
chứng đắc...
- Lo gì mà không được
nhất tâm bất loạn...
- Lo gì mà không được
thành Phật...
Chính
vì vậy, chúng ta cứ “Y giáo phụng hành”. Phật dạy Tín-Nguyện-Hạnh,
ta cứ một lòng Tín-Nguyện-Hạnh mà đi. Ta về Tây Phương không phải là ta
chứng đắc mà về... Mà về Tây Phương chính vì nhờ lòng Chân Thành - Chí
Thành - Chí Kính, được cảm ứng với A-Di-Đà Phật mà ta được vãng sanh.
Ngài Ấn-Quang nói “Ta về Tây Phương là do lòng chí thành chí kính”. Ngài
không nói rằng, ta về Tây Phương vì được chứng đắc nhất tâm bất loạn, ta
về Tây Phương vì niệm được đến vô niệm rồi mới về Tây Phương... Lời nói này là
của một vị Tổ Sư dạy cho hàng phàm phu tục tử chúng ta. Ngài không thố lộ gì về
chuyện nhất tâm bất loạn, vì xét căn cơ của chúng sanh không đủ khả năng đó.
Rõ
ràng về “Lý”
thì các Ngài là chư Thượng-Thiện-Nhân ở cõi Tây Phương giáng sanh mà chúng ta
không hay. Về “Cơ”
thì các Ngài nói cho hàng phàm phu tục tử chúng ta một đời này được thiện lợi.
Cho
nên, “Khế Cơ” có
nghĩa là phàm phu chúng ta phải tu theo cách của người phàm phu, không nên tu
theo cách của chư Thượng-Thiện-Nhơn...
Quyết lòng niệm cho nhất tâm bất loạn thì không hợp với căn cơ. Đó là cách tu
của hàng thượng căn thượng cơ, chúng ta không dám mơ tới. Điều này đã quyết
định rồi...
Bây
giờ trở về vấn đề tu niệm. Chúng ta nên ngày đêm tinh tấn hơn nữa, cần cù hơn
nữa. Hôm qua chúng ta nói chuyện về cần cù, thì bây giờ chúng ta cần cù... Cần
cù, siêng năng chính là cách tu của người hạ căn. Hạ căn thì nhất tâm bất loạn
không được. Nên nhớ, khi một người đã nhất tâm bất loạn rồi, thì...
-
Nhìn thấy họ, hình như họ không tu.
-
Nhìn thấy họ, hình như họ không niệm Phật.
-
Nhìn thấy họ, hình như là họ lúc nào cũng an nhiên... không cần mở
lời gì ra nữa.
Vì
thực ra trong tâm của họ đã tự niệm rồi. Đối với họ, những người căn cơ như
vậy, chỉ nhìn nhau thì họ đã biết rồi. Hòa Thượng Tuyên-Hóa gặp ngài Quảng-Khâm,
các Ngài gặp nhau không nói một lời nào hết. Một người giơ tay lên nói: “Như
Thị”. Người nọ giơ tay lên trả lời: “Như thị”, là đủ rồi. Các Ngài
âm thầm nhìn với nhau, các Ngài không bao giờ nói rằng… “Ta đã nhất tâm bất loạn rồi”. Ngài kia cũng không bao
giờ nói: “Ta đã nhất tâm bất loạn
rồi”... Không bao giờ có chuyện đó đâu!...
Cho
nên, khi mà một người tự nói rằng mình được nhất tâm bất loạn, thì hình như họ
đã lỡ lời rồi! Khi đã lỡ lời rồi thì chỉ cần thành tâm sám hối là xong. Còn bây
giờ chúng ta không phải là hạng người đó thì nên cần cù.
“Cần
cù” là gì? Niệm Phật theo công cứ là cần cù. Ở Tịnh-Tông Học-Hội họ
cho thỉnh những cái máy bấm, bấm, bấm là cần cù. Chính chúng ta cũng tìm cách
mua một ngàn cái máy bấm vậy đó, (ai muốn phát tâm thì phát?), để phát cho
những người quyết tâm tu hành. Họ bấm bấm như vậy, rồi đếm thử coi một ngày
niệm được mấy ngàn câu A-Di-Đà Phật? Hai ngàn thì ít quá, ráng lên chị ơi! Ba
ngàn?... Ráng lên anh ơi! Năm ngàn?... Năm ngàn cũng chưa đủ đâu!... Mười ngàn?...
Ráng lên! Ráng lên! Đó gọi là cần cù. Nếu nhất tâm bất loạn không được mà không
cần cù nữa thì không phải là cách tu của người hạ căn hạ cơ. Tức là chúng ta tu
lại mất “Khế Cơ” nữa rồi...
“Khế
lý” tức là niệm Phật. “Niệm Phật là Nhân, thành Phật là Quả”.
Đừng có lo cái chuyện này, vì niệm Phật nhất định là khế lý. Nhưng niệm Phật
vẫn phải để ý vấn đề khế cơ! Ví dụ, như Hòa Thượng Huyền-Vi, Ngài thường hay
nói câu này: “Lý sự viên dung,
viên thành Phật đạo”...
“Lý” là ta niệm Phật. Niệm Phật là niệm ngay chân tâm tự tánh. Chân tâm tự tánh
hiển lộ là “Lý viên dung”. Nhưng mà “Sự” chúng ta tu giải đãi, ta
mở tâm không được, ta khai tâm không được. Nghiệp chướng bao trùm... Nhất định
ta bị nghiệp chướng lôi kéo vào lục đạo luân hồi. Ngài Ấn-Quang nói, “Đời sau
chưa chắc đã trở lại làm người”. Ngài
nói như vậy. Nếu hiểu chút đạo thì chúng ta phải tự lo cho chính ta, không có
một người nào lo cho mình được. Mấy ngày nay anh Hai thường nói câu này, thực
sự hay vô cùng... Anh nói:
- Chồng tu chồng đắc, vợ tu vợ đắc, cha tu cha
đắc, con tu con đắc... không ai có thể giúp được.
Trong
đồng tu chúng ta, người nào phát tâm dũng mãnh kịp thời, thì trong đoạn đường
còn lại đây cho đến ngày lâm chung chúng ta kịp thời gỡ nạn. Chúng ta đắc.
Chúng ta qua được cái cầu đi về Tây Phương. Còn chúng ta chờ, chần chừ... coi
chừng lỡ luống qua cơ hội này, nghĩa là khi lâm chung ta bước lên cầu không
được...
-
Tại sao vậy? Oan gia trái chủ ngăn chặn...
-
Tại sao vậy? Bệnh khổ quá nặng, chúng ta ngóc đầu không được...
-
Tại sao vậy? Cận tử nghiệp đã xoay hướng, đã che mất cái cầu rồi, ta không
cách nào có thể bước lên cầu được.
Vì
thế mà luống qua cơ hội này rồi!...
Luống
qua cơ hội này thì coi chừng ngàn vạn kiếp sau không cách nào có thể nghe lại
câu A-Di-Đà Phật để niệm, lúc đó mới thấy ân hận!... Ân hận rồi thì càng ân hận
hơn nữa! Ân hận đến nỗi nước mắt, gọi là giọt nước mắt khổ, nó tràn ngập đại
dương, tràn ngập biển khổ!
Hôm
nay Diệu Âm xin kể ra một câu chuyện, quý vị nghe thử có thấm không? Tất cả
những chuyện này xin hứa rằng hoàn toàn có thực, không bao giờ có điều gì ra
khỏi sự thật hết.
Có
một vị kia tuổi trong khoảng tám mươi. Vị đó có một người con đã xuất gia đã
hơn bốn chục năm. Vị Sư Cô đó về nhà khuyên ông Cụ niệm Phật tu hành. Ông Cụ
không chịu niệm Phật, không chịu tu hành, mà luôn luôn trả lời rằng:
- Cô
lo niệm Phật, Cô lo tu hành sao cho đắc đạo để mà cứu tôi. Có Cô rồi tôi đâu có
cần lo...
Vì
sợ thân phụ bị đọa lạc, nên người con tha thiết, năn nỉ hết ngày này qua ngày
nọ, tìm mọi cách để khuyên, mà ông Cụ nhất định cứ nói rằng:
- Tu gì mà tu? Cô tu là
được rồi, về cứu tôi là cũng an tâm rồi.
Đến
khi Ông chết, sau khi mai táng xong rồi thì phát hiện cái hình của ông Cụ trên
bàn thờ rơi ra nước mắt, cả hai con mắt đều rơi hết, rơi luôn 49 ngày! Quý vị
tưởng tượng đi!... Chuyện này xảy ra năm 2004. Rơi luôn 49 ngày.
Người
con sợ quá tiếp tục cầu siêu, tụng kinh, nhưng càng tụng kinh nước mắt càng
rơi, không cách nào có thể làm cho nước mắt hết rơi được...
Tấm
hình rơi nước mắt là một sự thật! Với những chuyện này Diệu Âm không dám dự
đoán là hiện tượng gì? Nhưng chắc chắn rằng đã rơi nước mắt thì không thể nào
gọi là sướng được! Chuyện này hơi giống như trường hợp hôm trước. Một người mẹ
vì quyến luyến một người con, không chịu buông xả. Đã nằm trên giường rồi mà cứ
nghĩ đến đứa con. Khi chết rồi vẫn còn lo cho đứa con. (Chuyện linh hồn người
mẹ chạy tìm việc làm cho người con). Lo xong rồi, thì chiều chiều trở về hiện
thân ở đầu hè ngồi khóc. Khi chết xong, trên cái tấm hình đó cũng rơi nước mắt
ba ngày. Có phải là ân hận lắm không?! Rơi gì rơi cũng không còn cứu được nữa
rồi!...
-
Con Tu con đắc. Cha không tu cha nhất định bị đọa lạc...
-
Chồng tu chồng đắc. Vợ không tu vợ nhất định bị đọa lạc…
Dù
có rơi nước mắt đi nữa, Phật cứu cũng không được, đừng nói là thân nhân, anh
em, bà con…
Mong
chư vị tự lo nghĩ tới thân phận của mình. Sợ địa ngục, sợ ngạ quỷ, sợ súc sanh
vạn vạn kiếp về sau mà phải lo... Lo liền đừng chờ đừng đợi. Nếu không, coi
chừng nước mắt sẽ rơi, rơi đầy biển đông vậy!...
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 34)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Ấn-Quang Đại Sư thường nhắc nhở chúng ta,
tâm Chí Thành Chí Kính là đạo nhiệm mầu để cho
chúng ta thành tựu.
Chư vị đồng tu ở trong Tịnh-Tông Học-Hội
đều y giáo phụng hành lời dạy này và nghe pháp của Hòa Thượng Tịnh-Không, nên ở
tại đó người ta tu rất trang nghiêm, rất cung kính. Nếu có dịp chư vị đi khắp
thế giới mới phát hiện ra điều này, là khi đến một đạo tràng thuộc Tịnh-Tông,
ta thấy rất trang nghiêm! Mình không dám đi mạnh, mình không dám tằng hắng
trong Niệm Phật Đường của họ. Ấy thế mà khi ra ngoài một chút, thì ít khi thấy
được hiện tượng đó. Ngài Ấn Quang dạy:
- Một phần
thành kính thì một phần lợi ích.
- Hai phần
thành kính thì hai phần lợi ích.
- Mười phần thành
kính thì ta được đại thiện lợi. Cái thiện lợi của người niệm Phật chúng ta là
sau cùng được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Chính vì vậy mà chúng ta nên cố gắng tu
hành, phải tỏ ra hết sức cung kính, thanh tịnh, trang nghiêm. Nếu chư vị đến
đạo tràng trang nghiêm tu một tuần, hai tuần tự nhiên mình cảm nhận hình như có
những Chư-Thiên, Thiên-Long, Hộ-Pháp tu chung với mình. Chỉ có những người rất
chân thành, rất thành kính mới cảm nhận được những điều này, còn những vị không
có lòng thành kính, không có trang nghiêm thì không bao giờ được cảm ứng này
đâu. Đây là sự thực.
Vì vậy, khi mình vào một đạo tràng, dù lúc
đó không có ai, ta cũng phải giữ cung cách trang nghiêm, nghi tiết phải đầy đủ,
để chúng ta được Thiên-Long, Hộ-Pháp bảo vệ, nâng đỡ, giúp cho chúng ta thoát
ra nhiều khó khăn để thành tựu. Nếu chúng ta sơ ý thì có thể bị chư vị la rầy.
Một khi bị chư vị la rầy thì phiền não nhiều, nghiệp chướng tăng, chúng ta tu
sẽ không đem lại được ích lợi gì hết.
Trở về vấn đề chúng ta bàn thảo trong mấy
ngày hôm nay: “Khế Lý - Khế Cơ”. Thực ra,
ở đây nhắc nhở cho chúng ta biết rằng, pháp tu trong Phật giáo có rất nhiều,
không phải là một. Nhưng ta cần phải tuyển trạch cho được một pháp tu hợp với
căn cơ hạ liệt của chính ta thì mới có khả năng thành tựu. Ngay trong pháp niệm
Phật, ta cũng phải biết, gọi là Y Giáo Phụng Hành chư Tổ, thực
hiện những phương pháp hết sức là căn bản của những người thấp kém như chúng ta
thì mới được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nếu sơ ý, cũng là pháp niệm Phật
này, nhưng chưa chắc sẽ được thiện lợi!
Một trong những cái hợp với căn cơ của
người hạ liệt chính là lời dạy của ngài Ấn-Quang: “Chí Thành, Chí Kính”. Nếu chư vị tới một đạo tràng mà
chưa có lòng chí thành, chí kính, nghĩa là tâm còn ngạo mạn, thì ngài Vĩnh-Minh
Đại Sư nói: “Tu hành mà khởi một cái tâm ngạo mạn thì nhất định không thể
nào thành tựu, mà còn bị đại họa”.
Chính vì vậy mà thường thường, ở trong Tịnh-Tông Học-Hội, quý vị coi, nếu không
phải là đang kinh hành, không bao giờ người ta đi ngang qua tượng Phật mà không
đứng lại chắp tay xá, dù là ở ngoài trời. Đó là gương mẫu tốt nên theo. Niệm
Phật Đường ở đây, chúng ta tới sớm, nếu đi ngang qua lại bàn thờ, khi mà đi qua
trước Phật chúng ta nên ngừng lại, quay về hướng Phật đứng đàng hoàng chắp tay
xá xuống, khi cái thân mình ngang với mặt đất, rồi đứng lên “Vấn Tấn” một cái
mới được đi. Tốt nhất là chúng ta nên đi sau tượng Phật, không nên đi ở phía
trước. Tượng Phật chúng ta bây giờ có vách che phía sau rồi, rất là trang
nghiêm. Có trang nghiêm, có thành kính như vậy thì chư vị sẽ được chư
Thiên-Long Hộ-Pháp chú ý gia trì, nghiệp chướng chúng ta bớt đi, tự nhiên trí
huệ càng ngày càng phát sinh ra.
Trong Tịnh-Tông Học-Hội, các vị pháp sư
không bao giờ chấp nhận cho mình đi ngang qua khu vực trước bàn thờ, tức là từ
bên này đi ngang qua bên kia. Không bao giờ chấp nhận đi như vậy. Ví dụ, như ở
bên kia có một cái bồ đoàn hay cái gì đó để bị xéo, mình không được phép đi
băng qua đó để sửa, mà phải đi vòng qua phía sau Phật. Phải có lòng cung kính
như vậy mới được. Khi vào trong Niệm
Phật Đường rồi, xin nhớ cho, vô trong chánh điện rồi thì tuyệt đối không được
cất tiếng nói chuyện. Nếu có điều gì quá khẩn cấp, vạn bất đắc dĩ mới
mở lên một lời nói nhỏ nhỏ.
Những vị hộ thất có thể được quyền làm dấu
gì đó để ổn định đạo tràng, còn riêng chúng ta thì xin chư vị nên hết sức cẩn
thận, trang nghiêm tối đa. Người nào hộ thất thì lo việc hộ thất, người nào
đứng trong hàng thì lo đứng trong hàng, nhất định không được sơ ý điều này. Đây
là những điểm Diệu Âm này học hỏi được từ Tịnh-Tông Học-Hội, người ta rất là
trang nghiêm. Mình có trang nghiêm như vậy thì mình mới thoát ra những ách nạn,
là vì nhờ Thiên-Long Hộ-Pháp gia trì cho mình, hộ niệm cho mình để cho sau cùng
mình mới dễ được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Ngày hôm qua mình đang nói tới chỗ “Niệm
Vô Niệm”, “Nhất Tâm
Bất Loạn”. Hôm nay cũng
tiếp tục vấn đề đó, nó liên quan tới đề tài “Khế Lý - Khế Cơ”.
Niệm Phật nhất tâm bất loạn là “Khế Lý”,
nhưng người phàm phu chúng ta cầu cho nhất tâm bất loạn, nói dễ hiểu, tức là
cầu chứng đắc. Nói thẳng thắn ra, là cầu chứng đắc thì không “Khế Cơ”. Đức Phật
nói rằng, thời mạt pháp vạn ức người tu khó tìm ra một người chứng đắc. Chúng
ta là người phàm phu, đã nhận rõ căn cơ của mình như vậy rồi, thì đừng nên mong
cầu chuyện chứng đắc! Ngày hôm qua mình nói, thay vì tu hành để cầu cho chứng
đắc, thì bây giờ mình niệm Phật cầu được A-Di-Đà Phật tiếp độ vãng sanh về Tây
Phương, nghiệp chướng của mình vẫn còn nguyên, nhưng do lòng chân thành, chí
thành, chí kính của mình, thực sự được A-Di-Đà Phật cho mình gói nghiệp lại,
gọi là “Đới Nghiệp” để mình vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Chính vì vậy, những vị căn cơ cao, chắc
chắn họ là những vị đại Bồ-Tát, thì...
- Họ có
chứng đắc trong đó.
- Họ có niệm
Phật “Nhất tâm bất loạn” trong đó.
- Họ có
“Minh tâm kiến tánh” rồi trong đó, tại vì là đại Bồ-Tát mà.
- Nhưng mà
các Ngài không bao giờ thổ lộ chuyện này cho chúng sanh biết đâu. Đó là sự thật.
Có nhiều người sơ ý, ví dụ như đưa ra một
chương trình giúp cho đồng tu niệm Phật được nhất tâm bất loạn. Khi mà đưa ra
như vậy thì đây thực sự là một sự sơ suất rất đáng kể! Tại vì sao? Vì chính
Phật đã nói, thời mạt pháp này căn cơ chúng sanh hạ liệt. Hạ liệt thì không thể
nào chứng đắc được! Như vậy nếu mình đưa chương trình chứng đắc ra, thì những
người hạ cơ đó có thể bị vọng tưởng! Vọng là sai! Vọng tưởng là những tư tưởng
sai! Những suy nghĩ sai! Những cảm tưởng sai!... Càng ngày càng sai!... Càng
sai!... Nó có thể thấm dần, đến một lúc nào đó nhiều khi người ta không còn
cách nào gỡ ra được!
Chính vì vậy khi chúng ta quyết lòng niệm
Phật vãng sanh, thì xin chư vị càng niệm Phật càng khiêm nhường. Nhất định phải
khiêm nhường! Đừng bao giờ tự nhận mình là có chứng đắc, dù rằng trong lúc
chúng ta niệm Phật ở đây cũng có đôi khi cái tâm chúng ta nó an khang, tĩnh
lặng, tâm chúng ta rất là thoải mái… Nhưng xin thưa thực, đó chẳng qua chỉ là
một chút ít gì “Tịnh Tịnh” đó thôi! Nhưng rồi sau đó chúng ta cũng lại
nhức đầu, cũng đau lưng, cũng mỏi mệt!... Chúng ta không phải là chứng đắc gì
đâu. Giữ tâm được như vậy, thì mới an toàn vãng sanh về Tây Phương.
Xin nhắc đi nhắc lại: Chí Thành, Chí
Kính. Chí thành, chí kính nó thể hiện ra trong tư cách của mình khi
tu hành. Nhất định phải thành tâm. Ví dụ như đối trước một vấn đề mình thấy: “À!...
mình hơn người khác”... Khi
thấy mình hơn người khác tức là cái tâm ngạo mạn đã nổi lên rồi! Mà một khi tâm
ngạo mạn nổi lên nó sẽ phá mất hết cả những đức tu của chúng ta.
Ví dụ như ở đây mỗi tối chúng ta tu hành,
khi chư vị hộ thất mở cái đèn lên, đó là dấu hiệu cho khóa lễ chuẩn bị bắt đầu
thì xin mời chư vị đồng tu mau mau sắp vào hàng liền, trang nghiêm, đứng im
lặng. Thực ra, đó chính là trang nghiêm cho chính mình. Trang nghiêm cho đạo
tràng là trang nghiêm cho chính mình. Có Trang nghiêm thì chư Thiên-Long
Hộ-Pháp sẽ hỗ trợ cho mình. Chứ không phải lúc đó mà còn có người đứng, có
người ngồi, có người đi!... Thời gian đó là thời gian chúng ta bắt đầu đứng vào
hàng để Niệm Phật Đường được thanh tịnh trang nghiêm.
Xin thưa với chư vị, pháp tu chúng ta không
đòi hỏi làm điều gì khó khăn hết, chỉ đòi hỏi làm sao càng ngày càng trang
nghiêm, càng ngày càng thanh tịnh. Chỉ cần được vậy, nhất định chúng ta sẽ được
chư đồng tu kính nể, được chư Thiên-Long Hộ-Pháp kính trọng, gia trì. Xin nhớ
cho, người chí thành niệm Phật thì chư Thiên-Nhân kính trọng. Người
niệm Phật mà không có tự trọng, người niệm Phật mà không có giới luật, thì
thường thường, như ngài Quán-Đảnh Đại Sư nói, cái tội này nặng vô cùng nặng!
Trong những lần trước Diệu Âm đã nói qua rồi, phá mất hình tướng của người niệm
Phật, cái tội này rất là kinh khủng! Mong chư vị cố gắng gìn giữ. Đây toàn là
những điều hết sức căn bản để cho chúng ta, là người...
- Tội lỗi quá nặng.
- Nghiệp
chướng quá lớn.
- Oan gia
trái chủ quá nhiều.
- Căn cơ quá
thấp.
- Trí huệ
chưa phát sinh, ấy thế mà được vãng sanh về Tây Phương.
Khi về Tây Phương rồi thì Thiên-Nhãn
Thông, Thiên-Nhĩ Thông, Thần-Túc Thông, Tha-Tâm Thông, Túc-Mạng Thông… tất cả
những thần thông đạo lực chúng ta có đầy đủ. Đây là do công đức gia trì của
A-Di-Đà Phật.
Xin chư vị quyết lòng thành
kính tu hành để hưởng trọn sự gia trì của Ngài để một đời này ta được vãng sanh
về Tây Phương Cực Lạc.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 35)
Nam Mô A-Di-Đà Phật
Khi nói về “Khế Cơ” là để chúng ta tự tìm lấy, moi ra cho hết
những gì còn sơ suất trong lúc niệm Phật để cuối đời ta vững tâm đi về Tây
Phương.
Những sơ suất này có thể ở những chỗ cao
kỳ như hổm nay chúng ta cũng có nói qua, là những mộng ý chứng đắc để thành
tựu. Những điều này quá cao so với chúng ta! Nếu chúng ta với không tới mà ráng
với thì đây là do vọng tưởng làm cho mình thất bại.
Trở về với hạng hạ căn hạ cơ của chúng ta,
thì trong những pháp tu hành, trong những tình ý hàng ngày nhiều lúc cũng có những
sự vướng bận... Chương trình nói về “Khế
Cơ - Khế Lý” cũng
sắp xong rồi, xin chư vị cố gắng là còn những gì thắc mắc nên viết ra. Tại vì
khi nói về Hộ Niệm - Vãng Sanh thì có những lời
khai thị trước người bệnh, mà lời khai thị đó thường không phải là nói những
đạo lý cao siêu, mà chỉ làm sao gỡ cho được những mối hồ nghi, những thắc mắc
còn vướng lại trong người bệnh.
Ví dụ như hôm trước mình đi tới thăm bác
Năm, thì bác có nói một vài câu. Bác nói:
- Không biết
mình niệm như vậy, Phật có nghe hay không?
Đây là những điều mình phải chú ý. Đây là
những thắc mắc mà mình phải gỡ ra cho người bệnh. Thường thường khi đặt câu hỏi
thì đừng hỏi chi những câu cao, hãy hỏi ngay những câu thấp như thế này. Tại vì
thấp như vậy thì mới hợp với chúng ta, mà hợp với chúng ta thì chúng ta mới gỡ
được, mà gỡ được tức là vãng sanh về Tây Phương. Rồi bác nói nữa:
- Không biết là mình niệm Phật này,
mình không niệm Phật kia, thì thấy tội nghiệp cho Phật kia quá!...
Quý vị có thấy không nè!... Đây là những
cái thắc mắc mà chính ra là mình phải khui ra. Để chi? Mẹ mình có thể bị trở
ngại như vậy, chị mình có thể trở ngại như vậy và khi mình đi hộ niệm cho người
ta cũng có thể trở ngại như vậy. Những thắc mắc này nếu mình không giải ra thì
người ta vãng sanh không được.
Cho nên, vấn đề vãng sanh không phải là ở
những đạo lý cao siêu, mà ở chỗ tâm được An tịnh.
Làm sao “An”?
- Làm cho
người đó không còn sợ sệt nữa.
- Không còn
phân vân nữa.
- Không còn
hồ nghi nữa... thì tự nhiên người ta “An”.
Tâm “An” thì tự nhiên “Lý” đắc.
Đắc ở chỗ khi người ta không sợ nữa, người ta quyết lòng đi về Tây Phương. Lý
đắc ngay tại chỗ này, chứ không phải là Lý ở trên trời mây đâu!
Người ta quyết lòng đi về Tây Phương vững
vàng rồi. Vững lòng thì niềm tin vững vàng. Niềm tin vững vàng, thì khi họ chắp
tay niệm: “Nam Mô A-Di-Đà Phật cho con về Tây Phương”. Lời nguyện này là lời nguyện thực,
lời nguyện tha thiết. Trong ba phần Tín-Nguyện-Hạnh, rõ ràng họ được hai phần
ba con đường rồi. Đơn giản như vậy....
Rồi sao nữa? Họ chắp tay lại, khi họ chắp
tay lại niệm: “Nam Mô A-Di-Đà Phật… Nam Mô A-Di-Đà Phật”... Lời niệm này hoàn toàn là chân
thành, hoàn toàn là thành kính. Một câu niệm Phật thành kính như vậy, Hòa
Thượng Tịnh-Không nói, trước giờ phút ra đi chỉ cần niệm một câu thôi, không
cần nhiều, người ta cũng được vãng sanh.
Còn những người cứ tìm những lý đạo thiệt
là cao!... Nhất định lời niệm của họ không bao giờ chân thành đâu! Quý vị để ý
coi, những người hiểu được chút ít lý này lý nọ, đưa họ vô trong Niệm Phật
Đường, họ thường đứng chắp tay sau lưng nhìn Phật, ít khi họ chịu niệm Phật đâu
à!... “Lý” thì họ nói cao trên mây, nhưng “Sự”
thì hoàn toàn trống rỗng!... Vô tình, họ không được phần vãng sanh.
Chính vì vậy, hôm nay bắt đầu mình phải
khui những điều nhỏ nhỏ này ra. Để những người nào nghe được tới những đoạn
này, nhất là những bà Cụ không biết tụng kinh, hồi giờ không có ai giảng giải
đạo lý gì hết trơn, khi nghe những lời nói này thì vững vàng tin tưởng. Chắc
chắn bà Cụ hiền lành này, bà Cụ không biết gì lý đạo này, chỉ cần “An” là được...
Hỏi rằng:
- Chú ơi! Hồi giờ tôi làm hại, làm hư
nhiều quá rồi, bây giờ có được vãng sanh không?
Đây là những câu hỏi thường xuyên mình
gặp. Vì trong đời, một người nếu không bắt cá thì cũng bắn chim, không bắn chim
thì cũng làm gà, làm heo... Trước khi họ biết câu A-Di-Đà Phật, họ đã làm hại
chúng sanh quá nhiều rồi. Họ sợ lắm!... Xin thưa thực, đây là một cái mối nghi
có thể làm cho người ta mất vãng sanh. Nếu mà phá được mối nghi này, họ có thể
vãng sanh. Vì sao? Vì A-Di-Đà Phật đã phát đại thệ: Dẫu cho một chúng sanh
làm những tội đại nghịch, đại hại, gọi là ngũ nghịch thập ác, là những tội mà
thế gian nghe đến phải rợn tóc gáy ra!... Những tội lớn như vậy, nhưng trước
những giờ phút lâm chung được cơ may gặp các vị thiện tri thức khai thị...
Mình là thiện tri thức nè! Mình là người
hộ niệm nè! Mình tới giảng giải cho họ, rồi nếu người đó phát tâm sám hối liền
lập tức, chắp tay lại:
- Nam Mô A-Di-Đà Phật con biết lỗi của
con rồi, hồi giờ con không biết tu, con sát hại sinh vật quá nhiều rồi, con ăn
cắp nè, con ăn trộm nè, con
ăn cướp nè... Đủ thứ! Bây giờ
con thành tâm sám hối, xin cúi đầu sám hối.
Nói những câu đơn giản, như nói gọn: “Con
thành tâm sám hối” cũng được. “Con lạy Phật xin sám hối” cũng
được... Nghĩa là, có tâm thành là được.
Rồi sao nữa? Ta hãy an ủi, giải thích cho
người ta:
- Phật đã cho chị sám hối để vãng sanh.
Phật cho bác thành tâm sám hối để vãng sanh. Bây giờ bác hãy nguyện vãng sanh
đi...
- Nam Mô
A-Di-Đà Phật, con quyết lòng xin vãng sanh, con tha thiết được vãng sanh.
A-Di-Đà Phật... xin Phật cho con về Tây Phương càng sớm càng tốt...
Chỉ cần như vậy thôi, họ đã có được hai
phần ba con đường để vãng sanh rồi.
- Thôi! Bác ơi! Bây giờ đau quá phải
không? Kệ nó, đừng lo nữa. Quyết lòng lên để niệm A-Di-Đà Phật. Niệm đi bác...
- Nam Mô...A...Di...Đà... Phật...
Họ niệm những câu Phật hiệu hụt hụt như
vậy! Họ nói không nổi nữa! Nhưng tâm họ thành vô cùng. Lúc đó mình mới bắt đầu
tiếp sức theo niệm:
- Nam
Mô A-Di-Đà Phật... Nam Mô A-Di-Đà Phật...
Khuyên người đó quyết lòng niệm theo, tự
nhiên khoảng chừng năm phút sau, mười phút sau... người ta bắt theo cái trớn đó
mà niệm Phật leo lẻo: “Nam Mô A-Di-Đà
Phật”... Tâm chân thành, thanh tịnh... cái lòng chí thành này tự nhiên
cảm ứng đến A-Di-Đà Phật liền. Những người đó... quý vị đi hộ niệm rồi mới
thấy, họ vãng sanh bất khả tư nghì! Đây là lời nói thực. Họ vãng sanh ngon hơn
những người tu hành ba, bốn chục năm mà có tâm cống cao ngã mạn.
Đây là những lời mà hầu hết những đoạn
trước Diệu Âm cũng có nói qua. Bây giờ nhắc lại chuyện này: Vãng sanh hay
không, không phải là ở chỗ “Tu
giỏi” hay “Tu dở”, mà chính
ở chỗ “Chí thành, Chí kính”.
Ngày nào quý vị chí thành thì ngày đó quý vị vãng sanh. Ngày nào quý vị
chưa chí thành, bây giờ có tu đến năm chục năm đi nữa... Không cần biết! Không
vãng sanh là không vãng sanh! Vì thực sự có những người tu bốn, năm chục năm,
từ bốn chục tuổi đã bắt đầu tu rồi, tu thẳng cho đến năm, bảy mươi mấy tuổi mà
không được vãng sanh. Vậy mà, lại có những người chưa có pháp danh, tức là chưa
tu, ấy thế mà người ta vãng sanh. Tại sao vậy? Tại vì những mối hồ nghi trong
đầu của họ mình đã giải ra hết trơn rồi.
Trong những ngày tới, nếu quý vị có câu
hỏi thì xin viết ra tờ giấy để ở ngoài hộp góp ý, rồi chúng ta giải ra, giải
từng điểm nhỏ nhỏ như thế này. Những người nào trước đây làm những điều sai
lầm, nhưng bây giờ đã đến đạo tràng này niệm Phật rồi thì đều có khả năng được
vãng sanh Tịnh-Độ. Đã đến đây niệm Phật thì đã có tâm sám hối. Nếu ngày hôm qua
cái tâm sám hối chỉ có một thôi, thì hôm nay xin tăng tới mười đi.
Làm sao sám hối?... Một câu A-Di-Đà Phật
mà sám hối, chứ không phải như bác Năm nói: “Tôi muốn tụng kinh gì đó... để
sám hối”. Một câu A-Di-Đà
Phật mà sám hối là hay nhất.
Sám hối bằng cách nào?... Có người niệm
Phật ở tại Niệm Phật Đường từ sáu giờ tới tám giờ rưỡi, về nhà thì đi chơi mất!
Rồi tới chiều, lại đứng trước bàn thờ Phật, nói... “Nam Mô A-Di-Đà Phật, con
xin sám hối!”....
Đây là sám hối giả! Bảo đảm. Thấy rõ ràng!
Nếu biết sám hối thì phải lo niệm Phật chứ? Tại sao ở nhà lại đi chơi? Có lẽ vì
nghĩ rằng tu như vậy là đủ rồi phải không? Một khi đã nghĩ là đủ rồi, tức là
mình cho rằng nghiệp chướng của mình đã hết rồi phải không?
- Con cá nó
vẫn còn nằm đó.
- Con gà nó
vẫn còn nằm đó.
- Con heo nó
vẫn còn nằm đó.
- Hàng vạn
chúng sanh đã bị chúng ta giết, chúng vẫn còn nằm đó chờ... Tại sao chúng ta
nói đủ rồi?...
Sám hối có nghĩa là phải tinh tấn tu hành,
Phải thành tâm niệm câu A-Di-Đà Phật. Rõ rệt!...
Những người hồi trước tới giờ họ không
biết tu, nên mới làm những điều sai lầm! Nhưng cuối cùng mình giảng giải cho họ
nghe được câu danh hiệu A-Di-Đà Phật. Họ phát lòng tin tưởng, họ “Kiệt thành sám hối, tự khả chuyển phàm tâm”.
Họ chuyển tâm phàm này thành tâm Phật... Còn người tà tà sám hối, đó
là gì? Hòa Thượng Tịnh-Không nói, “Buổi sáng chư vị gạt Phật một lần! Buổi
chiều chư vị gạt Phật một lần! Mỗi ngày gạt Phật hai lần. Cái tội của quý vị
còn lớn hơn gì nữa! Làm sao mà có thể vãng sanh?”.
Xin thưa chư vị, càng ngày càng tu, mình
càng phải nắm vững được yếu tố nào để vãng sanh Tây Phương Cực lạc. Tổ Ấn-Quang
đã nói, “Chí thành chí kính là cái
đạo nhiệm mầu” giúp cho ta vượt qua cái ách nạn của hạng phàm phu tục tử
này, thành bậc Chánh-Giác trên cảnh Tây Phương Cực Lạc.
Biết được như vậy, mau mau quay đầu làm
cuộc cách mạng rất mạnh để cho chúng ta vượt qua được cái ách nạn này. Nếu
chúng ta không chịu làm cuộc cách mạng tự thân, thì coi chừng nhiều đời nhiều
kiếp qua ta đã bị đọa lạc rồi, bây giờ vẫn tiếp tục đọa lạc nữa. Oan uổng vô
cùng!...
Một câu A-Di-Đà Phật.
“Lục tự Di-Đà vô biệt niệm”. Sáu chữ A-Di-Đà Phật vô biệt niệm
là một câu A-Di-Đà Phật mà niệm. Đừng niệm cái gì khác. Bây giờ chư Tổ còn cắt
cho ta hai chữ, còn lại “A-Di-Đà Phật”. “Tứ tự Di-Đà vô biệt niệm”. “Vô biệt niệm” là không có
niệm gì khác cả. Tức là niệm một cái thôi, gọi là vô biệt niệm. “Bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương”. “Bất
lao” là không mệt mỏi gì hết, không làm cái gì cho cực thân. “Đàn chỉ” là khảy móng tay một cái như thế này thì tới Tây
Phương liền.
Cho nên, khi một người ngộ ra chỗ này,
khảy móng tay một cái tới Tây Phương liền. Mà không ngộ? Tức là ở đây niệm Phật
một vài tiếng, về nhà bỏ đi chơi, cạnh tranh, ganh tỵ... thì bây giờ có khảy
cho đến quẹo cái tay này đi nữa cũng không vãng sanh là không vãng sanh!...
Mong quí vị hiểu cho, con đường
vãng sanh nhất định ở trước mũi bàn chân của những người Chí Thành - Chí Kính -
Niệm Phật.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 36)
Nam Mô A-Di-Đà Phật
Mỗi ngày chúng ta đều nhắc nhở với nhau là
nhằm giúp cho chúng ta càng ngày càng vững vàng, tin tưởng vào pháp môn niệm
Phật. Đây là cơ hội cuối cùng để
trong thời mạt pháp này ta được giải thoát.
Chương trình nói về “Hộ Niệm: Khế Lý - Khế Cơ”
cũng gần xong rồi. Trong những thời gian cuối cùng là dành để giải quyết những
vấn đề cụ thể, những thắc mắc còn vướng lại, cho đồng tu chúng ta vững tâm, yên
chí niệm Phật. Ví dụ như hôm trước bác Tiên có nhắc đến câu: “Thiền-Tịnh song tu”. Có tu
Thiền, có tu Tịnh thì mạnh như con cọp thêm sừng. Nhiều người nghe như vậy mới
cho rằng phải tu Thiền, phải tu Tịnh. Trong khi đó thì ngài Đại-Thế-Chí Bồ-Tát
trong kinh Lăng-Nghiêm có nói: “Đóng
hết sáu căn lại, thanh tịnh niệm Phật liên tục, không nhờ một phương tiện nào
khác, tâm ta sẽ tự khai mở”. Ta thấy hình như giữa ngài
Đại-Thế-Chí và ngài Vĩnh-Minh nói hơi ngược ngược với nhau! Một người thì nói
không cần phương tiện nào hết, còn ngài Vĩnh-Minh thì hình như khuyên ta nên tu
cả hai, vừa Thiền vừa Tịnh, tu như vậy thì giống như con cọp mà thêm cái sừng,
tức là không có gì có thể địch lại!...
Vấn đề này, khi chúng ta đọc “Đại
Sư Ấn Quang Văn Sao” thì Ngài giải thích rất rõ. Đến khi nghe Hòa
Thượng Tịnh-Không giải thích nữa thì mình thấy lại càng rõ hơn. Thật sự thì hai
vị này giải thích rất thấm thía! Ngài Ấn-Quang Đại Sư nói rằng, lời của ngài
Vĩnh-Minh Đại Sư: Hữu Thiền, hữu Tịnh-độ, du như đới giác
hổ, có ý nghĩa rằng, người tu Thiền là người có ý chí rất
mạnh, có một trí huệ rất sắc bén mới tu được. Họ quyết lòng tự lực để thành
đạo. Đây là những người thượng căn thượng cơ, chí khí rất lớn. Chí khí lớn thì
ví như con cọp, nghĩa là rất mạnh! Đã mạnh như vậy mà niệm thêm một câu A-Di-Đà
Phật nữa, thì đường tu của họ càng vững hơn, càng mạnh hơn nữa, giống như con
cọp có thêm cái sừng. Con cọp đã mạnh mà thêm cái sừng nữa thì ai có thể chống
lại nổi!
Ngài mới nói là, được như vậy thì đời này sẽ là Nhân Sư và
đời sau sẽ làm Phật Tổ. Tương lai sẽ là Phật là Tổ. Ấn-Quang Đại Sư giải thích
như vậy. Đến khi Hòa Thượng Tịnh-Không thì Ngài giải còn rõ hơn nữa. Ngài nói, Đại Sư Vĩnh-Minh nói như vậy là tại vì
Ngài đang bị khó khăn! Trong thời nhà Tống, nhà Đường, pháp môn Thiền Định đang
rất thịnh hành. Lúc đó người ta chê pháp
môn niệm Phật là của bà già. Ngài Vĩnh-Minh thực sự là A-Di-Đà Phật tái lai,
Ngài thị hiện trong thời đại đó. Ngài đóng một vai trò đi ăn cắp, ăn cắp kho
của nhà vua để mua cá trạch phóng sanh. Sau cùng thì Ngài bị án tử hình. Nhưng
trước bản án tử hình thì Ngài chỉ cười hè hè! Không sợ!.. Nhà vua mới hỏi tại
sao nhà ngươi không sợ? Ngài nói:
- Ta chỉ có
một cái mạng này mà cứu không biết bao nhiêu mạng chúng sanh, thì đâu có gì mà
sợ. Cứ giết ta đi, ta về Tây Phương.
Thấy vậy nhà vua mới khoan hồng cho Ngài.
Ngài xin xuất gia, sau đó trở thành Quốc Sư.
Hòa Thượng Tịnh-Không nói, A-Di-Đà Phật
sao lại không chịu tu pháp môn niệm Phật mà tu pháp môn Thiền, rồi sau cùng mới
khuyên ta chuyển qua Tịnh-Độ? Là tại vì Ngài muốn làm gương cho tất cả mọi
người…
- Ta là một
vị Thầy của Hoàng Đế đây.
- Ta là
người tu Thiền Định đây... Chứng đắc đây!... Nhưng ta vẫn khuyên các con phải
niệm Phật.
Khi Ngài chuyển qua niệm Phật, thường
thường các hàng đệ tử cứ theo hỏi:
- Sao Hòa Thượng tu thiền mà bây giờ
Hòa Thượng lại niệm Phật?...
Bây giờ biết làm sao? Ngài mới nói:
- “Hữu Thiền” là ta đang
tu thiền, mà còn “Hữu Tịnh-Độ”, tức là có niệm Phật nữa, thì ta giống
như con cọp mà thêm cái sừng. Đời này ta làm Thầy, là thầy của Quốc Vương, đến
đời sau ta làm Phật.
Đây là ngài Tịnh-Không giảng đại ý như
vậy. Rất hay!
Có nhiều người trong thời này, căn cơ quá
yếu mà vội vã chụp lấy những lý đạo cao siêu, rồi bám theo hành trì, thì sẽ đưa
đến tình trạng không có “Khế cơ”. Những chuyện hổm nay chúng ta
nói rất nhiều. Căn cơ chúng ta thực sự không đủ khả năng tự mình vượt qua ách
nạn sanh tử luân hồi. Ngài Ấn-Quang Đại Sư nói: “Giả sử như Bồ-Đề-Đạt-Ma
Sư-Tổ mà có tái sinh trong thời này thì Ngài cũng phải dạy chúng sanh niệm Phật
mà thôi. Tại vì căn cơ thời này không thể nào tự lực chứng đắc được”. Chính vì vậy mà các vị Tổ Sư luôn
luôn nhắc nhở chúng ta phải vững vàng tin tưởng vào câu A-Di-Đà Phật.
A-Di-Đà Phật phát một đại thệ “Mười niệm tất sanh”, nhất định đại thệ này Ngài giữ cho
đến vô lượng vô biên kiếp về sau. Có nhiều người nói rằng, ba nghìn năm trước
Phật dạy như vậy, nhưng bây giờ thời gian đã chuyển biến, thì mình cũng phải
chuyển biến chớ? Đâu có thể nào giữ mãi một chỗ được? Nhiều người nghĩ như vậy,
nên chủ trương rằng, trong thời này đã văn minh rồi, ta hãy tự lập ra những gì
mới mẻ một chút để tu hành!...
Xin thưa rằng, thọ mạng của A-Di-Đà Phật
đến vô lượng vô biên kiếp, và thọ mạng của mình khi về Tây Phương cũng vô lượng
vô biên kiếp. Thời gian từ lúc đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật thị hiện xuống thế gian
này, rồi tịch diệt cho tới ngày nay chưa tới ba ngàn năm. Chưa tới ba ngàn năm.
Với thời gian này nếu một người xuống địa ngục mới thọ hình có một ngày
rưỡi!... Lên trên các cảnh giới trời, ví dụ cảnh trời Hóa-Tự-Tại chẳng hạn, thì
mới có đâu khoảng hai ngày rưỡi à!... Còn lời thề của đức A-Di-Đà Phật cứu độ
tất cả chúng sanh nó lưu truyền từ bây giờ cho đến mãi mãi mãi về sau...
Hòa-Thượng Tịnh-Không nói, cho đến khi nào
mà những người có duyên với Ngài niệm được câu A-Di-Đà Phật, về cho được tới
Tây Phương rồi, không còn một người nào lọt lại trong cảnh lục đạo luân hồi,
thì lúc đó Ngài mới thị tịch. Mình hãy thử tưởng tượng đi, làm gì mà có chuyện
hết được? Nhất định! Mình đem một con cá đi phóng sanh, mình niệm cho nó ít ra
cũng hai ba chục tiếng A-Di-Đà Phật. Chủng tử A-Di-Đà Phật đã nhập vào A-Lại-Da
Thức của nó rồi. Bây giờ thì nó không biết gì hết, nhưng vô lượng kiếp về sau
nhất định cái chủng tử này sẽ hiện ra, và khi nào con cá đó đi về Tây Phương
thành đạo rồi Ngài mới tịch. Vậy thì chúng ta yên chí đi, đừng bao giờ lo ngại
nữa.
Ngài Ấn-Quang Đại Sư nói:
- Nếu chư Phật trên mười phương bỏ câu
A-Di-Đà Phật, thì chư Phật không cách nào cứu độ hết được tất cả chúng sanh.
- Nếu trong cửu pháp giới bỏ câu A-Di-Đà
Phật, thì cũng không có cách nào vẹn toàn thành đạo Vô-Thượng được.
Cửu pháp giới chúng sanh là gì? Là lục đạo
cộng thêm Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát nữa. Chúng ta chỉ mới là Nhân, là con
người thôi. Xin quý vị phải tin tưởng vững vàng. Có vững vàng như vậy thì tự
nhiên trong một đời này nhất định chúng ta được vãng sanh.
Ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục mổ xẻ những
vấn đề liên quan tới những điều cụ thể của người khi bịnh, để chúng ta vững
tâm. Vì xin thưa thực, tất cả chúng ta ai cũng có nghiệp chướng rất nặng!...
- Chúng ta bệnh là do nghiệp.
- Chúng ta
bị vào trong bệnh viện, bị mổ xẻ là do nghiệp.
- Chúng ta
bị ung thư, tất cả đều là do nghiệp hết.
- Làm ăn
thất bại, tất cả đều có nhân quả hết...
Khi biết được Nhân-Quả rồi, chúng ta phải
vững vàng, yên chí đi. Vì Nhân-Quả nó trói buộc phải khổ như vậy, nên chúng ta
phải tiếp tục trong cảnh sanh tử luân hồi không bao giờ thoát nạn được!
Ấy thế, từ trong cảnh vô cùng tăm tối như
vậy, nay gặp được câu “A-Di-Đà Phật”
cũng giống như ta gặp được ngọn đuốc. Nghiệp chướng là cảnh tối tăm từ vô lượng
vô biên kiếp, giờ đây gặp một ngọn đuốc, đuốc “A-Di-Đà Phật”. Câu A-Di-Đà Phật
là ngọn đuốc, khi thắp lên thì sáng trưng, tự nhiên bao nhiêu cái nghiệp của
chúng ta tan biến hết trơn rồi. Nếu thực sự chúng ta muốn bỏ cái nghiệp đi,
chúng ta muốn liệng cái nghiệp đi, thì nhất định từ đây chúng ta sẽ hết rồi,
không còn nữa đâu. Ta chỉ xả bỏ báo thân một lần chót nữa, tức là cái nghiệp
chúng ta nó làm cho chúng ta bị một đại nạn nữa, đó là đại nạn “Tử”, đại nạn bỏ báo thân này một lần nữa là xong...
Niềm tin vững vàng, niệm một câu A-Di-Đà
Phật, tức là “Tịnh niệm tương kế”. đừng nên xen tạp… Được như vậy thì nhất định A-Di-Đà Phật sẽ
đưa ta về Tây Phương. Về được Tây Phương thì lúc đó:
- Ta không
còn là phàm phu vị nữa.
- Ta không
còn là những người bình thường nữa.
- Ta là
những vị đại Bồ-Tát trên cõi Tây Phương.
- Ta sẽ dùng
tất cả những thần thông đạo lực của chân tâm tự tánh này mà đi cứu độ vô lượng vô biên chúng sanh, giúp
cho họ thoát khỏi ách nạn của nghiệp chướng giống như ta đã từng thọ qua trong
vô lượng kiếp.
Xin chư vị vững vàng tin tưởng như vậy để cho trong
một đời này tất cả chúng ta đều được vãng
sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 37)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Ngày hôm nay chúng ta đi hộ niệm, tất cả
mọi người đều ngỡ ngàng! Thứ bảy tuần trước là lần đầu tiên chúng ta đi gặp
người bệnh, mình tha thiết khuyên Cụ đó hãy ráng cố gắng niệm sáng năm chuỗi,
trưa năm chuỗi, chiều năm chuỗi, là chỉ có mười lăm chuỗi trong một ngày. Đây
chẳng qua là để khởi đầu cho chương trình hộ niệm của mình, nhưng mà Cụ không
chịu niệm, lại còn lý luận rằng:
- Tu là tôi không có ăn gian trái
cà, trái ớt là được.
Ngày hôm nay khi mình đến thì ngỡ ngàng là
vị đó đã nằm trong nhà quàn hai ngày rồi. Thực sự đời quá vô thường! A-Di-Đà
Phật Ngài phát đại thệ cứu độ tất cả chúng sanh không bỏ một người nào hết,
nhưng có nhiều người đành phải chịu số phận hẩm hiu! Tức là bị đọa lạc! Tất cả
đều do “Duyên bất đồng”.
Nói những lời này, nếu hương linh người đó nghe được thì coi đây là những lời
nói cho hương linh đó luôn. Trong vòng 49 ngày cũng có khả năng vãng sanh Tây
Phương Cực Lạc, nhưng mà phải...
- Tự mình
giác ngộ.
- Tự mình
phát khởi niềm tin.
- Tự mình
niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thì A-Di-Đà Phật mới cứu độ được!...
Còn nếu...
- Tự mình
không chịu niệm câu A-Di-Đà Phật.
- Tự mình không tin.
- Tự mình đi con đường nào
khác, thì thôi!... Ngài cũng không có cách nào tiếp độ mình.
Chính vì vậy, khi tu hành xin chư vị hãy
nhớ phải tu có đường, đi có hướng đàng hoàng. Không nên đi lập lững, đi lờ mờ.
Chúng ta đã tới đây niệm Phật hàng ngày, ngày ngày chúng ta được giảng về con
đường vãng sanh Tây Phương Cực Lạc là ta phải có cái đường đi, ta phải có nước
bước đàng hoàng, cụ thể. Không thể nào định nghĩa, tu hành là không ăn gian
trái ớt, không ăn gian trái cà là tu. Tu như vậy, dù có tu tới vô lượng
kiếp cũng không được vãng sanh.
Ôi!... Đây cũng là cái duyên của từng cá
nhân chứ không biết làm sao!...
Nói tới đây thì tôi trực nhớ tới một
chuyện vãng sanh ở Việt Nam. Vào năm 2005 khi tôi về thì gặp một người bị bệnh
gan cũng giống như vị này. Nhưng vị đó thì nằm trên giường không cất tay lên
nổi, đã biết chắc rằng mình sẽ chết. Còn vị ở tại đây thì còn đi nhổ cỏ được,
còn làm vườn được, còn nói chuyện leo lẻo. Không ai nghĩ rằng trong vòng ba bốn
tháng hay là một năm lại có thể ra đi. Ấy thế mà chỉ khoảng ba ngày sau!... Còn
vị ở Việt Nam thì mắc bệnh lúc chưa biết tu, chưa có pháp danh, cả gia đình
cũng chưa có ai có pháp danh hết. Ấy thế mà khi gặp trong tình trạng như vậy,
chúng tôi mới khuyên vị đó phát tâm niệm Phật. Vị đó hỏi:
- Tôi được vãng sanh không?
Chính tôi đứng bên cạnh nói…
- Chắc chắc được, quyết tâm đi.
Vị đó phát khởi tâm liền, lập tức niệm
Phật. Tôi chỉ hộ niệm cho vị đó ba ngày rồi đi về Úc, chứ tôi không có tiếp tục
hộ niệm. Nhưng về Úc rồi thì ngày ngày vẫn liên lạc về để hướng dẫn cho những
người bên cạnh vị đó hộ niệm. Đúng mười một ngày sau, vị đó ra đi với thân
tướng bất khả tư nghì. Chính cái hình tướng của vị đó đã khởi lên một phong
trào hộ niệm rầm rộ ở Sài-Gòn vào năm 2005. Thực ra trong lúc hộ niệm ở đó có
một vị Thầy tới hộ niệm. Nhờ Thầy đó quảng bá ra cho nên việc hộ niệm từ đó
được phát triển mạnh mẽ và ào ào lên.
Rõ ràng tất cả đều do duyên mà thôi. Cũng
là một người như vậy mình tới khuyên một câu người ta quyết tâm liền. Ban đầu
câu “Nam Mô A-Di-Đà Phật” mà nói không nổi. Một câu Phật hiệu
mà niệm thành ba lần:
- Nam-Mô...
hề... hề... hề... A-Di... hề... hề... hề... Đà
Phật.
Sáu chữ mà niệm tới ba lần, vậy mà cũng
ráng niệm. Nhưng nhờ mình động viên tinh thần lên, sau đó còn niệm nhanh hơn
mình nữa, ấy thế mà người ta vãng sanh. Trong khi ở đây thì bà Cụ có thể nói
chuyện còn nhanh hơn mình, còn cãi lý được với mình nữa. Nghĩa là nói leo lẻo,
không ngờ ba ngày sau đã trở nên người thiên cổ. Cho nên, vô thường thực ra nó
đến bất cứ lúc nào. Mình đã đến đạo tràng này, cái duyên vãng sanh Tây Phương
thực ra nó nằm trước mũi bàn chân của mình đó. Chỉ có chính mình đánh mất tất
cả cái cơ hội vãng sanh của chính mình mà thôi.
- Trong pháp
hộ niệm nó chỉ có ba điểm: Tín-Nguyện-Hạnh.
- Trong pháp
niệm Phật, Phật chỉ yêu cầu chúng ta: Tín-Nguyện-Hạnh.
Chữ “Tín” này nó khởi đầu tất cả.
Tương lai giải thoát hay đọa lạc đều do chữ “Tín” này. Tín tâm vững
mình nhất định giải thoát. Tín tâm không vững nhất định mình bị đọa lạc!
Tất cả đều do tín tâm có hay không.
Tôi biết chắc chắn có nhiều người khi gặp
pháp môn niệm Phật vẫn nói câu này:
- Khó lắm chị ơi! Khó lắm bác ơi! Làm
gì mà dễ dàng như vậy?
Khi nói lên một câu này, chứng tỏ niềm tin
quá ư bạc nhược! Tại sao vậy? Tại vì nghiệp chướng còn quá nặng! Đã quá nặng
như vậy mà không chịu phát khởi niềm tin nữa, thì đành phải chịu nạn thôi!...
- Tín năng trưởng dưỡng chư thiện
căn. Vì
không có Tín nên không có khả
năng trưởng dưỡng Thiện
căn.
- Tín vi đạo nguyên công đức mẫu.
Tín là mẹ đẻ ra công đức, đẻ ra phước đức. Vì không tin cho nên tu gì tu vẫn bị
nghiệp chướng bao phủ cho đến lúc nằm xuống bị đọa lạc mà không hay!
Khi gặp được những trường hợp như thế này
là thêm một kinh nghiệm. Mình đi hộ niệm, một lần hộ niệm như vậy tự nhiên nó
có một bài pháp cho mình. Quý vị đã thấy rõ bà Cụ mình hộ niệm hôm nay chưa?
Mình tới năn nỉ, đưa giấy tờ về hộ niệm đàng hoàng, rồi nói:
- Bây giờ cố
gắng một tuần đầu nghe Cụ, niệm cho con một ngày mười lăm chuỗi thôi.
Mười lăm chuỗi có gì đâu mà niệm không
được? Thế mà không chịu niệm. Mình định đến tuần thứ hai thì khuyên tăng lên ba
chục chuỗi mỗi ngày. Tức là mình mớm lần, mớm lần. Nhưng mà không chịu niệm. Cứ
lý luận:
- Trái cà tôi không lượm, trái ớt tôi
không ăn gian là đủ rồi.
Cứ nói lòng vòng những chuyện như vậy. Đây
là gì? Rõ ràng đường tu không vững! Quá mê mờ trong đường tu hành để cuối cùng
ba ngày sau bị đọa lạc!...
Rõ rệt, đọa lạc hay cực lạc nằm ngay trong
cái tâm này chứ không phải ở ngoài. Cũng là một người nghiệp chướng sâu nặng
như vậy, vừa nghe được câu A-Di-Đà Phật, trực ngộ liền, giác ngộ liền.
- Bây
giờ tôi quyết lòng niệm câu A-Di-Đà Phật.
Phát khởi tín tâm. Tín tâm nằm ở trong tâm
này ra chứ đâu phải ở ngoài vào? Vậy mà không chịu niệm để sau cùng đành chịu
ách nạn!!!...
Phật dạy “Nhân thân nan đắc”! Đừng
nghĩ rằng khi xả báo thân này thì lượm lại được thân người. Không phải dễ đâu
à! Trong những lần trước chắc chắn quý vị đã nghe qua, Hòa Thượng Tịnh-Không
nói, khi một người xả báo thân mà lượm lại được thân người, thì cái thân người
chết đó cũng phải mềm mại, phải tươi vui. Tức là được trở về trong tam thiện
đạo cũng được như vậy. Mình cứ đi tìm hiểu sẽ rõ, một ngàn người chết, người
nào được tình trạng này? Không dễ gì có đâu à. Ấy thế, một câu A-Di-Đà Phật đưa
ta về tới Tây Phương Cực Lạc mà nhiều người gặp được cơ hội này lại không chịu
tin...
- Chần chờ
không chịu hạ thủ công phu.
- Chần chờ
không chịu quyết tâm niệm Phật.
- Đã không
chịu niệm Phật rồi, mà còn gieo nghi ngờ cho những người khác nữa. Đây là một
điều sai lầm, tội lỗi!...
Diệu Âm thường nói rằng, khi đến một đạo
tràng trang nghiêm thanh tịnh tu hành, nhất định chúng ta phải có từng phút
giật mình! Một lần đi hộ niệm là một lần giật mình! Điều chứng minh rằng, cả
ngày hôm nay ai ai cũng giật mình hết. Một bà Cụ còn nói chuyện leo lẻo, đi còn
nhanh hơn mình nữa, làm vườn còn ngon hơn mình nữa. Đang nhổ cỏ thì thấy mệt
mệt, đưa vô bệnh viện, các con chưa kịp nói: Má sao rồi má? Cụ ra sao
rồi cụ?... thì đã chết rồi...
Cái chết này có đưa tới chỗ giải thoát
không?... Chắc chắn không! Nói những lời này, nếu mà vị hương linh đó có ở đây,
nghe những lời này thì hãy giật mình đi. Chỉ cần một niệm “Hồi Đầu” thì “Thị
Ngạn”. Hồi đầu ngay lúc nào? Lúc nào cũng được. Trong vòng 49 ngày còn có khả
năng hồi đầu mà. Niệm câu A-Di-Đà Phật quyết lòng cầu về Tây Phương. A-Di-Đà
Phật quyết thệ, người nào niệm danh hiệu Ngài mười câu cầu vãng sanh mà Ngài
không cứu độ về Tây Phương để một đời giải thoát, Ngài không thành Phật. Ấy thế
mà chúng sanh không chịu nghe. Vị đó cũng muốn niệm mà chần chừ. Nghe nói đến
mười lăm chuỗi một ngày thì cò kè bớt một thêm hai. Bớt năm chuỗi được không?
Ba chuỗi được không? Hai chuỗi được không?... Bớt bớt làm chi vậy? Đã niệm thì
niệm một mạch mười lăm chuỗi luôn đi. Mười lăm chuỗi này là chỉ để mớm cho
những người không biết niệm, chứ thực ra nếu quyết lòng đi về Tây Phương thì
đâu thể ngừng ở đó được.
Bây giờ quý vị về Việt Nam đi hỏi những
ban hộ niệm rồi mới thấy. Người ta quy định mức khởi đầu phải là năm ngàn câu
A-Di-Đà Phật mới được tham gia những ban hộ niệm đó. Rồi trong vòng khoảng một
tháng sau phải tăng lên mười ngàn. Tự mình tăng. Vì vấn đề huệ mạng của mình
chứ không phải là vì cái ban hộ niệm đó mà tăng. Chính vì người ta ra những
điều luật rất là gắt gao như vậy, cho nên những người tham gia vào, trong một
thời gian rất ngắn tự nhiên có mức công phu liền.
Cũng giống như hổm nay ở đây chúng ta đưa
ra công cứ. Công cứ mà chúng ta làm, quý vị sẽ thấy một năm sau công phu chúng
ta nó sẽ lên tới mây xanh vậy đó, mà quý vị không làm thì một năm sau nó vẫn
còn đi tà tà dưới đất! Vì không có công cứ thì không có bài thi, không có bài
thi thì không bao giờ biết được là mình đạt được tới mức nào rồi.
Cho nên, không thể nào chần chờ. Hôm trước
có một vị nói, “Để tôi chờ”... Tôi nói, đã tu mà chờ thì coi chừng “Oan gia trái chủ” dạy cho mình
chờ như vậy đó! Giống như bà Cụ, năn nỉ “Cụ ơi! Niệm cho con một ngày mười
lăm chuỗi”. Bà kì kèo bớt một
thêm hai, mười lăm chuỗi nhiều quá!... Cầm xâu chuỗi thì khó, mà đi ra nhổ cỏ
thì nhanh như chớp. Câu A-Di-Đà Phật niệm chỉ có mười lăm chuỗi trong một ngày
mà không chịu niệm... Để rồi sau cùng thì sao? Thấy không?... Chư vị hiểu rằng
cái thọ mạng này nó vô thường dữ lắm!
- Sau cái
thọ mạng này, nhất định chúng ta không hết.
- Sau cái
thọ mạng này, cái xác bỏ vô trong quan tài chôn đi hay thiêu đi rồi, nhất định
không phải như vậy là xong đâu. Mà sau đó hàng vạn, hàng ngàn kiếp chịu đọa lạc
đau đớn!
Hôm trước chúng ta đã nói, chính những
người khi mà thọ những ách nạn đó, chiều chiều họ còn trở về nhà được, ngồi tại
đầu hè mà khóc! Khóc gì khóc, chứ đâu biết cách nào gỡ được! Ván đã đóng thuyền
rồi còn cách nào mà gỡ được nữa?!!!...
Xin thưa với chư vị, mình biết được phương
pháp hộ niệm là biết được tường tận từng chút từng chút con đường giải thoát
được an toàn vững vàng mà không chịu làm. Niềm tin không vững, cách đi mập
mờ... nhất định đạo tràng này không còn cách nào cứu chúng ta được.
Chúng ta phải đi cho vững. Nghe lời Phật
dạy phải nghe cho đúng. Phật dạy:
- Tín: Là phải tin cho chắc chắn,
không được nghi ngờ. Đem cái nghi ngờ này nói cho thiên hạ thì mình bị tiêu hết
phước đức rồi. Tại vì gieo niềm tin cho người ta thì mình được đức, gieo niềm
nghi ngờ cho người ta thì mình bị mất đức, mình bị tội.
- Nguyện: Nguyện vãng sanh Tây Phương
Cực Lạc, không nguyện gì khác cả. Nếu nguyện gì khác thì lạc đường! Lạc đường
thì ráng chịu.
- Hạnh: Hạnh là niệm câu A-Di-Đà Phật.
Một người sắp sửa bỏ báo thân niệm câu A-Di-Đà Phật được vãng sanh Tây Phương
Cực Lạc.
Hướng dẫn cho người hạnh này, hạnh nọ, nào
là đừng có lấy ớt, đừng có lấy cà... Nguyện những cái đó, làm những cái đó có
gì hay lắm đâu mà khoe? Lạc đường rồi! Thời gian không còn kịp nữa rồi! Thời
gian không còn kịp nữa rồi!...
Tín-Hạnh-Nguyện: Mau mau gói lại. “Tín”
cho vững, “Nguyện” vãng sanh và “Niệm” câu A-Di-Đà Phật
liền đi, nhất định tất cả chúng ta đều về Tây Phương Cực Lạc được cả.
Nếu không, xin thưa thực, cơ hội vãng
sanh đã có. Đừng nên bỏ rơi. Vô cùng đáng tiếc!
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa đàm 38)
Nam Mô A-Di-Đà Phật
Ngày hôm nay chúng ta tịnh khẩu 24 tiếng
đồng hồ để niệm Phật. Thành tâm cảm niệm công đức chư vị đến đây tham gia, vừa
trang nghiêm đạo tràng, vừa chuẩn bị hành trang cho mình để một đời này ta về
Tây Phương Cực Lạc.
Mỗi một ngày ta tinh tấn niệm Phật là để
nhắc nhở cho chính chúng ta biết đường tu của chúng ta thẳng tắp, không phải mơ
màng, không phải phân vân, vì rõ rệt ta đã quyết lòng đi về Tây Phương. Trong
thời mạt pháp này nghiệp chướng của chúng ta lớn, chỉ cần một chút phân vân
trong tâm là có thể bị lạc đường ngay lập tức. Trong kinh Phật nói, đến giai
đoạn này rồi, tu hành muốn được thành tựu khó vô cùng khó! Chúng ta chỉ cần sơ
ý một chút, thì nhất định trong vô lượng kiếp nữa chưa chắc gì gặp lại câu
A-Di-Đà Phật. Chính vì vậy càng tu, càng niệm Phật chúng ta càng quyết tâm. Ở
tại đây chỉ có một đường đi duy nhất là niệm Phật cầu cho hết báo thân này được
vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Ta thì nỗ lực tinh tấn tu hành. Đồng tu, đạo
tràng thì nỗ lực giúp đỡ cho chúng ta để cho tất cả những ách nạn gì còn rơi
rớt lại, còn bám víu theo ta, chúng ta cùng nhau gỡ cho nhau, giải nạn cho nhau
trong giờ phút cuối cùng. Nói thẳng ra, chính là “Hộ Niệm”.
Ngày hôm qua, chúng ta nhắc đến chỗ một
người tu trong đời này, tu từ nhỏ đến lúc gần lìa bỏ báo thân mà cũng không
biết: Thế nào là tu đúng? Thế nào là tu sai? Những quan
niệm sai lầm đã gắn vào cái tâm của họ. Xin thưa thực, người tu học Phật ngày
hôm nay hình như lơ mơ, lờ mờ chuyện này nhiều lắm. Trách nhiệm này quy cho ai
đây? Chính Diệu Âm này hồi trước cũng đi nhiều nơi lắm, gặp chỗ nào có người
tu, gặp chỗ nào có mái chùa, ngay cả nhà thờ Thiên Chúa cũng tới luôn, ấy thế
mà năm mươi tuổi đầu, năm mươi năm trường tìm tòi, mà tìm không ra chỗ tu. Tình
thực, cứ thấy người ta tu thì mình cũng tu, nhưng sau cùng rồi cũng không biết
là tu như vậy để làm gì? Cũng có nghe pháp, nhưng mà nghe pháp rồi vẫn thấy
lung tung, không biết đường nào để đi đây? Tình thực, xin nói thẳng thắn như
vậy. Đến một lúc tự nhiên gặp câu A-Di-Đà Phật mới thấy ngỡ ngàng! Mới giật
mình đứng sững sờ, đến nỗi người ta xô tới mình đi tới, người ta kéo lui mình
đi lui, người ta tách ngang mình tách ngang... vì lúc đó cái cảm giác ngỡ ngàng
giống như ở trên trời vừa rơi xuống dưới đất vậy. Nhờ cái cơ may đó mà mới có
ngày hôm nay quyết lòng quyết dạ niệm câu A-Di-Đà Phật để đi về Tây Phương.
Khi chúng ta đã quyết chí tu hành, thì
nhất định phải “Trạch Pháp”
một cách rất mạnh mẽ. “Trạch” là gì? Là tuyển chọn. Phải tuyển
chọn rất kỹ. Ngài Ấn-Quang Đại Sư nói rằng, Pháp của Phật không có cao, không có thấp. Không có pháp nào là cao,
không có pháp nào là thấp cả, nhưng hợp với căn cơ thì mới sinh diệu dụng.
Hợp với căn cơ có nghĩa là phải tuyển chọn. Tuyển chọn cho thật kỹ. Pháp nào
Phật dạy ngay cho căn cơ của mình, phải chộp lấy đúng cái đó để đi thì nhất
định một đời này được thành tựu, vì thực sự, pháp Phật là để cứu tất cả chúng
sanh vượt qua sanh tử luân hồi, không còn tử, không còn sanh nữa.
Ấy thế mà có rất nhiều, rất nhiều, vô cùng
nhiều người nói về pháp Phật, nhưng lại không hướng dẫn cho người ta vượt qua
cái cảnh sanh tử luân hồi, mà thường lại:
- Dùng thế
gian pháp để nói.
- Dùng tâm
lý ra nói.
- Dùng hội
đoàn ra nói.
- Dùng những
thiện lành thế gian ra nói... Đến nỗi nhiều người cứ lấy cái mẫu đó tu hành,
tưởng vậy là tu học Phật rồi!
Cho nên, trách người học Phật không biết
đường đi cũng tội nghiệp cho họ. Mà thực sự trách người nào khác cũng không
trách được nữa, vì thực ra, đời này mà tìm ra một con đường đi thẳng về Tây
Phương nhất định là do thiện căn phước đức của người đó đã có rồi mới gặp được
trường hợp này. Như vậy, ta đã ngồi được ở đây, ta phải biết rằng là do thiện
căn phước đức trong nhiều đời nhiều kiếp ta đã có rồi mới tới đây được.
Thế nhưng coi chừng...
- Nghiệp
chướng vẫn theo sát bên ta.
- Oan gia
trái chủ vẫn theo sát bên ta.
- Nợ sanh tử
vẫn theo sát bên ta.
Chỉ cần ta lơ là một chút thì tất cả những
cái đó nó sẽ vươn lên, nó bao lại, nó kéo chúng ta về trong môi trường sanh tử
luân hồi. Có nghĩa là ta tu rồi cũng tiếp tục con đường tử tử sanh sanh, sanh
sanh tử tử, và xin thưa thực, tam ác đạo không phải là khó vào lắm đâu! Đây là
sự thực.
Bữa nay chúng ta tiến lên một chút nữa, là
niệm Phật nó có ba điểm cần phải thực hiện: Tín-Nguyện-Hạnh, và có ba
điểm quyết không được dính vào, nhớ cho kỹ...
- Một là nghi ngờ, hồ nghi.
- Hai là xen tạp.
- Ba là gián đoạn.
Hôm nay chúng ta nói chuyện “Hồ
Nghi”, nó liên kết với câu chuyện tối hôm qua.
Có rất nhiều người khi đã gặp pháp môn niệm Phật, chính đức Thích-Ca-Mâu-Ni
Phật nói: “Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Chính đức A-Di-Đà nó: “Người nào niệm danh hiệu A-Di-Đà Phật, dù
cho nghiệp chướng trong quá khứ có sâu nặng như thế nào đi nữa, trong đời này
trước khi niệm câu A-Di-Đà Phật mà lỡ lầm, sai lầm như thế nào đi nữa, bây giờ
quyết tâm niệm danh hiệu Ta, nguyện vãng sanh về nước Ta, đem tất cả những căn
lành hồi hướng về nước Ta, dẫu cho mười niệm mà không được vãng sanh, Ta thề
không thành Phật. Chỉ ngoại trừ những người đã tạo ra ngũ nghịch, thập ác và
phỉ báng chánh pháp”. Đây là lời Phật nói.
Ấy thế mà có những người cứ nghĩ rằng:
- Ta nghiệp chướng sâu nặng quá, nói
thì nói vậy chứ không có cách nào có thể vãng sanh Tây Phương Cực Lạc đâu.
Cũng có những người nói:
- Người kia
tu suốt cả đời vẫn không được vãng sanh, làm gì ta lại niệm Phật được vãng
sanh?
Có nhiều người nói:
- Sao
mà cống cao ngã mạn như vậy? Tại sao không tu để kiếm chút thiện, chút lành...
để đời đời kiếp kiếp tiếp tục tu? Lại đi về Tây Phương Cực Lạc để thành Phật.
Thật là cống cao ngã mạn!
Toàn bộ những lời nói này không phải là
kinh Phật nói. Người học Phật mà không theo kinh Phật, lại nói ngược lời Phật
dạy trong kinh. Đi vào trong Niệm Phật Đường, bao nhiêu người nhiếp tâm quyết
lòng đi về Tây Phương Cực Lạc, mình lại nêu vấn đề hồ nghi ra làm cho niềm tin
của người khác bị phá tan, làm cho người khác sợ, khiến cho người ta nghĩ là
không thể đi về Tây Phương được! Lời nói này đoạn mất đường thành đạo của người
khác. Tội này lớn vô cùng lớn!
Chính vì vậy, mở một lời nói ra chúng ta
phải cẩn thận vô cùng. Một lời nói tích cực, một lời nói khuyến tấn làm cho
người ta tin tưởng đi về Tây Phương, dù người ta chưa được đi, dù ta không bỏ
ra một đồng nhưng ta tạo ra không biết bao nhiêu công đức. Một lời nói ra, ta
cũng không bỏ ra một đồng, người ta cũng không lợi một đồng, nhưng mà đoạn mất
đường thành đạo của người khác. Một lời vô ý nói ra, coi chừng ta bị đọa lạc mà
không hay! Đoạn cái thân mạng này không nặng bằng đoạn huệ mạng của người khác.
Khi tu hành chúng ta phải cẩn thận, hết
sức cẩn thận. Trong kinh Phật nói, “Ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết”,
là trường hợp này. Phật nói, niệm Phật một đời này vãng sanh về Tây Phương Cực
Lạc, ta lại nói dễ gì mà đi về Tây Phương Cực Lạc. Rõ ràng nói ngược!
Ngài Ấn-Quang Đại Sư nói: “Dẫu cho chư Phật trên mười phương bây giờ
mà tái sinh xuống dưới cõi trần, trong thời mạt pháp này, cũng phải dạy cho
chúng sanh niệm Phật vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc”.
Đức A-Di-Đà Phật nói: “Người nào dẫu cho tội như thế nào đi nữa,
quyết lòng tin tưởng niệm danh hiệu ta, nguyện sanh về nước ta, dẫu mười niệm
mà không được vãng sanh ta thề không thành Phật”.
Ngài nói như vậy mà có nhiều người không
tin, lại nói những lời ngược. Ly kinh nhất tự!... Một chữ thôi!!!...
- Ngài
nói được vãng sanh, mình nói không được vãng sanh!
- Ngài
nói quyết lòng đi về Tây Phương, thì nhất định Ngài cứu, mình nói làm gì mà có
chuyện cứu.
- Ngài
nói bây giờ tội chướng nặng như thế nào nữa, bỏ đi. Quyết định buông xả những
tình chấp thế gian ra. Những tập khí đó, bỏ đi. Quyết cầu về Tây Phương, nhất
định Ta sẽ cứu về Tây Phương... Mình nói chị có nghiệp như vậy làm sao đi về
Tây Phương? Anh có nghiệp như vậy thì làm sao đi về Tây Phương? Trời ơi!.. Ông
kia niệm cả một đời không vãng sanh được, làm gì mà bây giờ anh niệm Phật được
vãng sanh?!!!...
Nói toàn những chuyện để ngăn cản con
đường vãng sanh của người ta. Rõ rệt nói sai kinh Phật.
Xin thưa với chư vị, đã quyết lòng tới đây
tu, nhất định đạo tràng này đã ra cái phương châm “Tu thực”. Hãy quyết lòng quyết dạ mà đi, tuyển chọn
một cách hết sức là cẩn thận. Người nào quyết lòng đi về Tây Phương, thì xin
chư vị tới đây cộng tác với nhau, hỗ trợ cho nhau, cương quyết bảo vệ cho nhau
đi về Tây Phương.
- Nhất định
phải đóng lỗ tai lại, không được nghe bàn ra tán vô.
- Phải đóng
con mắt lại, không được nhìn cái này cái khác làm cho tâm chúng ta loạn đi.
- Đóng miệng
lại, nhất định ai nói gì nói, ta không bàn tới.
Nếu ta cứ bàn luận, bàn một cái thì bị
vướng vào cái bẫy: “Đấu Tranh Kiên Cố”, ta bị nạn liền lập tức. Khi đã gặp được câu A-Di-Đà Phật là do
thiện căn phước đức chúng ta đã có, mau mau làm cho thiện căn phước đức nó bùng
lên, nó nổi lên, càng vững lên. Làm sao để cho thiện căn phước đức vững? Chính
là niềm tin càng ngày càng vững. Và xin thưa thực, vì một người đầy rẫy nghiệp
chướng thế này mà được về Tây Phương thành đạo mới chứng minh rằng câu A-Di-Đà
Phật bất khả tư nghì!...
Ngài Pháp-Nhiên Thượng-Nhân nói: “Vì
câu A-Di-Đà Phật đưa một người tội chướng sâu nặng mà về được Tây Phương thành
Phật mới chứng tỏ rằng đạo pháp của Phật vi diệu”. Chứ bây giờ một pháp mà chỉ dành cho hạng đại Bồ-Tát đi về Tây
Phương thì đâu có gì đâu vi diệu. Chính lời thề của đức Phật là để đưa chúng
ta, chính chúng ta đây vãng sanh về Tây Phương.
Muốn về Tây Phương không? Chắp tay lại
thành khẩn niệm Phật. Chắp tay lại sám hối tất cả những lời nói nào sơ ý đã làm
cho người ta mất tín tâm. Phải quyết lòng mà đi, tự nhiên trong một đời này
chúng ta vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Tích Cực - Vững Vàng - Tin Tưởng. Nếu
chúng ta rời những điều này ra, nhất định chúng ta đi ngược với lời Phật. Đi
ngược với lời Phật tức là tự mình đi theo con đường gọi là “Ma Nghiệp”. Ma nghiệp
chính trong tâm này ứng hiện ra.
Như vậy, Phật cũng Tâm; Ma
cũng Tâm, không ở đâu hết. Hãy bỏ cái “Tâm Ma” đi, quyết lòng niệm câu
A-Di-Đà Phật. Niệm Phật - Thành Phật. Nhất định tất cả chư vị đều
đi về Tây Phương Cực Lạc trong một báo thân này.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 39)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Tu hành cần phải rõ “Lý” rõ “Cơ” mới thành tựu. Ta chuyên tâm
niệm Phật là hợp Lý, hợp Cơ!
Ngày hôm qua chúng ta nêu ra một chứng
minh cụ thể từ người tu hành không có đường đi, đến trước những giờ phút lâm
chung không biết đường nào đi! Họ đã định nghĩa sự tu hành một cách sai lầm,
giống như là một hành động làm thiện, làm lành nho nhỏ nào đó của thế gian. Đây
là một điều sơ suất! Một đời này dù có làm thiện lành tới đâu đi nữa thì chẳng
qua cũng là điều tốt căn bản của người thế gian, chứ không phải là đạo
“Xuất thế gian”.
Ngài Tĩnh-Am nói rằng, làm thiện làm
lành, dù cho sự thiện lành đó lớn tới đâu đi nữa, càng lớn thì nợ sanh tử càng
nặng, đến lúc chết, vì nghiệp thiện này nó lôi họ vào trong lục đạo luân hồi,
không có thể nào thoát được!...
Nghe cho kỹ lời các vị Đại Sư dạy.
Tu pháp xuất thế gian để thành tựu thì
ngoài việc làm thiện ta cần phải biết con đường giải thoát, vãng sanh về Tây
Phương. Khi hiểu được những chuyện này, xin chư vị hãy cố gắng tự mình kiểm lại
xem mình tu hành có bị xen tạp hay không? Nếu mình xen tạp quá thì sửa lại đi.
Càng xen tạp càng trở ngại con đường vãng sanh. Tu đường vãng sanh Tây Phương
Cực Lạc có thể nói là cách tu duy nhất trong thời mạt pháp này để mà thành tựu
đó!...
Như vậy, bây giờ nếu mình thấy một câu
A-Di-Đà Phật mà sợ rằng không đủ, thì nhất định mình không bao giờ được
vãng sanh! Còn mình thấy một câu A-Di-Đà
Phật đã đủ, quyết lòng một đường như vậy mà đi, thì trong một báo thân này khi
mãn ta có thể dễ dàng vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Đây là lời Phật dạy
trong kinh điển. Xin chư vị chú ý tự mình kiểm soát lấy, về nhà mình có tu xen
tạp hay không?
Xen tạp nghĩa là sao? Nghĩa là niệm một
câu A-Di-Đà Phật mà sợ rằng:
- À! Câu chú này hồi giờ mình
niệm, bây giờ không niệm nữa, như vậy chẳng lẽ mình bỏ câu chú này sao?...
Khi khởi một cái vọng tâm như vậy đã bị xen tạp rồi!...
Như hôm trước đi tới thăm bác Năm, Bác nói
rằng:
- Niệm ông Phật này mình bỏ ông
Phật kia, thấy tội nghiệp cho ông Phật kia quá!
Khởi lên một vọng niệm như vậy là bị xen tạp rồi!
Ta đâu có biết rằng:
- Câu danh
hiệu A-Di-Đà Phật tức là mười phương ba đời chư Phật đã gói ghém trong cái danh
hiệu A-Di-Đà Phật.
- Một câu
danh hiệu A-Di-Đà Phật gọi là Pháp-Giới-Tạng-Thân... Giới là thế giới, vũ trụ.
Pháp là tất cả vạn pháp. Vạn pháp trên thế giới vũ trụ này nó gói ở trong. Thân
là cái chỗ. Tạng là kho tàng... cái kho tàng gói ghém hết tất cả ở trong đó.
Cho nên người nào quyết lòng tin một câu
A-Di-Đà Phật, thì...
- Niệm một câu A-Di-Đà Phật tức là tu
vạn pháp trên pháp giới rồi.
- Niệm một danh hiệu A-Di-Đà
Phật là niệm toàn bộ ba đời mười phương chư Phật trên pháp giới rồi.
Ngài Thiên-Như dạy đại ý như thế này:
- Thờ thì thờ A-Di-Đà Phật.
- Nhớ thì nhớ A-Di-Đà Phật.
- Niệm thì niệm A-Di-Đà Phật.
- Nghĩ thì nghĩ A-Di-Đà Phật...
Tức là cái gì cũng A-Di-Đà Phật hết. Cứ
lấy một Phật đại diện cho mười phương chư Phật thì người này sẽ là người thành
tựu. Nhất định không thể nào không thành tựu được.
Hồi sáng này chúng ta nói về “Nghiệp”. Mình sợ rằng nghiệp chướng của mình
nặng quá làm sao có thể về Tây Phương, thoát vòng sanh tử, thành đạo được? Thì
bây giờ mình phải bỏ cái mối nghi đó đi. Phật không bao giờ nói lời vọng ngữ
đâu. Trong ngũ giới có giới vọng ngữ, trong thập thiện giới cũng có giới không
được nói dối. Phật không bao giờ nói dối. Phật không bao giờ nói điều sai. Chỉ
vì chúng ta nghĩ sai, hiểu sai nên chúng ta không nghe lời Phật! Không nghe lời
Phật thì với cái dạng người nghiệp chướng sâu nặng như chúng ta nhất định một
đời này không cách nào thành tựu được! Mà không thành tựu thì đời sau nhất định
không thể nào sướng bằng đời này! Nên nhớ rằng mạt pháp thì một ngày sẽ mạt hơn
một ngày, một đời sẽ mạt hơn một đời, tệ hơn một đời! Nhất định ta không thể
nào sướng hơn được đâu, mà coi chừng lỡ rơi vào trong tam ác đạo rồi thì “Lũy
kiếp nan xuất, thống bất khả ngôn” đó!
Đau khổ không cách nào có thể nói nên lời được đó!...
Như vậy, bây giờ người học Phật như chúng
ta hãy khôn ngoan nghe lời Phật dạy. Phật dạy niệm Phật thì nhất định ta niệm
Phật. Phật dạy nghiệp chướng sâu nặng niệm Phật vẫn được thành tựu, vì pháp môn
niệm Phật là pháp mà đức Phật nói: “Phàm Thánh Tề Thâu”. Nghe cho kỹ lời này đi. “Phàm” là phàm phu tục tử tội chướng sâu nặng; “Thánh” là thánh nhân, các vị
đại Bồ-Tát. “Tề thâu” là bình đẳng thâu nhiếp. “Tề” là bằng, bình đẳng; “Thâu”
là được thâu nhiếp về Tây Phương để thành đạo Vô-Thượng...
Không có một pháp nào lạ lùng như pháp
Niệm Phật! Cho nên pháp Niệm Phật gọi là “Môn Dư Đại Đạo”. Môn là gì? Là phương pháp. Dư là gì? Là
ngoài tất cả các pháp của Phật đưa ra. Nó bao trùm hết. Tất cả đều nằm trong
câu A-Di-Đà Phật hết. Lạ lắm! Gọi là “Nhất
Thừa Thật Tướng”. Không có một pháp nào có thể đối đãi được
với câu A-Di-Đà Phật hết.
Người nào được hưởng pháp này?...
- Người nào chân thành nghe lời
Phật dạy.
- Người nào không tin
câu A-Di-Đà Phật thì không được hưởng.
- Người nào còn nghi
ngờ pháp môn niệm Phật thì không được hưởng.
- Người nào tin tưởng
vững vàng câu A-Di-Đà Phật thì được hưởng.
Nên nhớ rằng, A-Xà-Vương-Thế là một người
đại tội. Với cái tội đó, ông ta phải đi xuống địa ngục A-Tỳ. Nhưng trước những
giờ phút nằm ngáp ngáp trên giường bệnh, có người tới nói, Ngài đã làm sai rồi!
Ngài hư quá rồi! Thôi bây giờ thành tâm sám hối đi, giật mình tỉnh ngộ sám hối
cho nhiều lên. Ngài quyết lòng niệm Phật, buông hết tất cả... Ngài niệm Phật để
cầu vãng sanh. Ngài vãng sanh về Tây Phương đến Thượng Phẩm Trung Sanh. Những
người nào làm công cứ, khi mà làm công cứ đến chỗ thượng phẩm trung sanh tôi sẽ
nói đến điều này cho quý vị nghe.
Chính vì thế, chúng ta nghiệp nặng như thế
này, nhưng xin quý vị đừng lo nữa. Phật nói, đã sinh lại làm người thì quý vị
đã miễn được cái tội gọi là ngũ nghịch của A-Xà-Vương-Thế rồi đó. Đã sinh lại
làm người thì trong quá khứ quý vị đã miễn được cái tội phỉ báng Phật pháp rồi
đó. Thật vậy! Vì đã phạm đến hai tội này, thì phải xuống tới địa ngục A-Tỳ lận!
Nhưng đã trở lại làm người thì dù có tội nghiệp như thế nào đi nữa... chắc chắn
lớn, nhưng mà tránh được cái tội đó rồi. Như vậy thì chúng ta cũng nên hoan hô
cho chính chúng ta là có phước phần vãng sanh về Tây Phương, là dư sức chứ
không phải chỉ là đủ. Bây giờ còn thiếu là thiếu cái niềm tin của chúng ta. Đã
mê mờ, đã hạ căn... mà Phật dạy lại không nghe, còn cứ chạy nghe theo người thế
gian nữa, thì nhất định chịu thua rồi, không ai cứu được nữa!
Như vậy, hãy bỏ chuyện thế gian ra đi.
Đừng nên nghe người này nghe người nọ nữa. Đừng nghe ông này nói, nghe bà kia
nói nữa. Nhất định “Y Pháp bất Y
Nhân” nhé. Kinh Phật
dạy như vậy, ta đi như vậy. Ông này nói hay? Kệ ổng! Bà kia nói giỏi?
Kệ bả! Mình nhất định không nghe. Hãy đóng lỗ tai lại. Quyết định phải đóng lỗ
tai lại. Nếu quý vị muốn về Tây Phương mà cứ mở lỗ tai ra nghe khắp nơi thì...
- Nhất định
bị loạn tâm liền.
- Nhất định
bị hồ nghi liền.
- Nhất định
bị phân vân liền.
- Phân vân
thì hồ nghi. Đem cái hồ nghi đó mà nói cho thiên hạ thì mình bị đại tội!
Tại sao vậy?... Mình đem sự hồ nghi ra nói
cho người khác, tức là truyền sự hồ nghi cho người khác. Truyền hồ nghi cho
người khác, làm cho người khác đang tin câu A-Di-Đà Phật đành phải bỏ câu
A-Di-Đà Phật, vậy thì mình mang luôn cái tội của người ta. Tội này dễ sợ
lắm!... Không phải là chuyện nhỏ! Xin chư vị hãy nhớ cho.
Phật đã dạy, “Phàm Thánh Tề Thâu”. Tề là bằng nhau. Nghĩa là, Ngài nói
chân tâm tự tánh của mỗi người chúng ta đều là Phật hết. Đã là Phật
rồi thì biết khôn ngoan nghe lời Phật, niệm thẳng câu A-Di-Đà Phật, niệm thẳng
chơn tâm tự tánh của chúng ta, thì A-Di-Đà Phật gia trì vào đó liền, chân tâm tự tánh chúng ta hiển
lộ liền. Về Tây Phương Cực Lạc rồi mới thấy. À!... Thì ra vạn pháp nó nằm trong
tâm chúng ta. “Hà kỳ Tự Tánh năng
sanh vạn pháp. Hà kỳ Tự Tánh bổn lai cụ túc”. Trong tâm chúng ta đã có đầy đủ hết
trơn rồi.
- Dù là một
kẻ ăn cướp.
- Dù là một
người đại tội.
- Dù là một
tên tử hình đi nữa cũng có Phật tánh, cũng có đầy đủ Phật tánh
trong đó.
Chỉ cần làm sao trước giây phút bị người
ta thắt cổ hãy niệm câu A-Di-Đà Phật đi, thành tâm đi, tự nhiên chân tâm tự tánh
hiển lộ. Vì sao vậy? Vì chút nữa đây người ta đã treo cổ mình rồi. Trong cơn
ngặt nghèo đó, chính là lúc dễ kiệt thành sám hối. Thành tâm sám hối tự nhiên
chuyển tất cả những cái phàm phu này thành Thánh-Nhân liền. Nghiệp có còn đó
hay không? Còn đó! Còn đó nhưng chúng ta đã rời ra rồi, vì chúng ta đã trở về chân
tâm tự tánh chúng ta rồi, tại vì là “Lý Tức Phật”,
nghĩa là trong lý
đạo tự nhiên thì chân tâm chúng ta là Phật. Là Phật thì quý vị phải nhớ là một người
ngu si không biết một chữ nghĩa nào cũng có tâm Phật. Ngài Lục-Tổ Huệ-Năng có
biết chữ “Nhất” là mấy nét đâu? Không biết chữ “Ngu” viết như thế nào? Như vậy
mà Ngài còn thành tựu được. Còn ta may ra còn đọc được chữ “A” chữ “B”, đọc
được lá thư... làm sao chúng ta lại không được? Tại vì mình không hiểu chỗ này,
cứ chìm vào những cái mê mờ để chịu nạn!...
Chiều nay ta tiến thêm một chút xíu nữa,
là có nhiều người nói:
- Tin
thì tôi tin đó, niệm thì tôi niệm đó, niệm Phật tôi niệm dữ lắm, mà không biết
rồi cuối cùng khi tôi lâm chung, A-Di-Đà Phật có tới rước không?...
Lại nghi nữa! Quý vị cứ đi hộ niệm cho
người ta thử coi:
- Không biết
tôi niệm Phật như vậy, Phật có tới rước tôi hay không hé?
Cũng lại nghi nữa! Nếu gặp trường hợp như
vậy, hãy khuyến tấn người đó hãy yên chí đi. Nhớ trong kinh Phật nói là, quang
minh của Phật phổ chiếu khắp tất cả mọi nơi. Hang cùng ngõ hẻm nào cũng có
quang minh của Phật. Vô chướng ngại mà! Ví dụ mình có con mắt, cũng có “Quang
Minh” nè! Nhưng nhìn qua bức tường không được! Chứ quang minh của Phật, thì
tường này không ăn nhằm gì đâu à! Núi không ăn nhằm gì đâu à! Quả đất này không
cản ngăn được ánh sáng của Phật đâu à! Lạ lắm chư vị ơi!
Giả sử, quý vị cứ đào một lỗ cho thiệt sâu
đi, xuống ở dưới đó, đóng một cái nắp bê tông cốt sắt đi, tối thui dưới đó để
niệm Phật... Quang minh của Phật vẫn phóng tới đó như thường. Những thứ vật
chất này không ngăn cản được quang minh của Phật, gọi là “Sự Vô Ngại”. Những sự vật không bao giờ mà ngăn
ngại được ánh sáng quang minh của Phật chiếu tới đâu à! Cho nên xin đừng sợ.
Ngồi tại đây nghiêm trang niệm Phật, về nhà chúng ta không nghiêm trang niệm
Phật. Chúng ta đã sai rồi! Tâm của chúng ta đã bị hư rồi! Chúng ta đã lừa dối
Phật rồi! Ngài Tịnh-Không đã nói hay vô cùng, ta đi ngang Phật mà không lạy.
Thấy có người thì ta lạy, không có người thì ta đi luôn... Ta đã dối Phật
rồi!... Nhất định cái tâm này là tâm ngăn ngại. Đây gọi là Lý ngăn ngại. Lý ở
đâu? Lý là trong tâm chúng ta không chân thành, trong tâm chúng ta không thành
kính đã hiện ra hành động không thành kính. Không thành kính thì không tương
ưng!
Khi niệm Phật, tu hành nhất định phải lấy
cái lòng chí thành chí kính, tự nhiên chính lòng chí thành chí kính này nó sẽ
mở toang hết tất cả chướng ngại ra và làm cho chân tâm hiển lộ. A-Di-Đà
Phật ứng theo sự mở toang đó mà Ngài phóng quang tới gia trì, tiếp độ chúng ta
đi về Tây Phương.
Như vậy chúng ta đi về Tây Phương...
- Không phải
là chúng ta tu giỏi.
- Không phải
là chúng ta tu đắc.
- Không phải
chúng ta khoe sách này sách nọ, chúng ta khoe kinh này kinh nọ, khoe pháp này
pháp nọ...
- Mà chúng
ta khoe cái lòng chân thành. Phải chân thành. Nơi vắng, chỉ một mình cũng
phải chân thành.
Thường thường chư Tổ nói, khi vào một đạo
tràng trang nghiêm. Nhất định từ lời ăn, tiếng nói, bước đi... phải cung kính,
phải cẩn thận. Trong Niệm Phật Đường không được khạc nhổ. Khạc nhổ thì liền bị
Thiên-Long Hộ-Pháp la rầy. Xin quý vị đừng nên khinh thường.
Cần tảo già lam địa,
Thời thời phước huệ sanh.
Tuy vô Tân Khách chí,
Diệc hữu Thánh Nhân hành.
“Cần
Tảo” là làm sạch sẽ; “Già Lam Địa”
là Niệm Phật Đường. Mình không chịu làm sạch sẽ Niệm Phật Đường, mà lại tới
khạc nhổ làm cho dơ bẩn, thì...
Khạc nhổ Già Lam địa,
Thời thời chướng ngại sanh!...
Nhất định nghiệp chướng sanh ra liền. Như
vậy ta biết tu rồi chúng ta phải sửa đổi lại. Hồi giờ tại sao gia đình chúng ta
bị trở ngại? Tại sao con cái chúng ta bị trở ngại? Tại sao thân thể chúng ta bị
trở ngại?... Vì ta sơ ý trong đó!
Đi kinh hành trong Niệm Phật Đường đều có
nguyên tắc, khi nào trang nghiêm ta phải trang nghiêm, khi nào chắp tay ta phải
chắp tay. Nếu mọi người chắp tay, ta không chịu chắp tay thì Thiên-Long trừng
mắt nhìn ta mà ta không hay! Ở Tịnh-Tông-Học-Hội người ta để một vị Thần, mắt
Ngài trợn ngược như vầy! Phải không? Nói chuyện đi? Nói chuyện một lần, Ngài
trợn con mắt lên! Nói chuyện lần thứ hai Ngài chỉ cái tay vầy nè! Chỉ tay ra
cửa! Ngài đuổi mình rồi đó. Nếu còn phạm đến lần thứ ba, Ngài giơ cái chùy lên.
Có thấy cái chùy không? Gai gai gai như thế này!... Nếu không chịu giữ giới
luật, Ngài nện cho một gậy thì tiêu rồi!.... Ý nghĩa là như vậy.
Hiểu được chỗ này, thì mình biết cách tu
liền. Tất cả đều có biểu pháp hết. Mình chuyển đổi thì tự nhiên họa tiêu đi,
họa tiêu đi thì phước tăng. Nhờ vậy mà chúng ta thành đạo dễ dàng.
Xin nhắc lại... Chí Thành Chí Kính
nhất định chúng ta được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc!...
Nam Mô A-Di-Đà Phật
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 40)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Niềm Tin vô cùng quan trọng! Thế gian pháp làm một việc gì
muốn thành công phải có lòng tin vững vàng. Phật pháp lại càng chú trọng về
niềm tin. Pháp môn Niệm Phật lấy chữ “Tín Tâm” làm khởi đầu cho tất
cả.
Hồi sáng này mình nói lòng tin tạo ra công
đức, nhờ công đức tăng thêm thiện căn, rồi thiện căn nó làm cho niềm tin vững
hơn, vì niềm tin vững hơn nên công đức của mình lại tăng lên nữa, từng nấc từng
nấc đưa đến chỗ thành tựu. Những lời này là để củng cố niềm tin cho nhau. Xin
chư vị vững lòng tin tưởng. Những người nào niệm Phật mà chưa phát khởi niềm
tin, mau mau phát khởi niềm tin, nếu không thì công cuộc tu hành của chúng ta
coi chừng trở thành như: “Dã tràng se cát
biển đông!”.
Hôm nay chúng ta tiếp tục nói về “Niềm Tin”. Niềm tin
có sự đối trị của nó. Trong kinh Phật nói:
- Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn.
- Tín năng siêu xuất chúng ma lộ.
- Tín năng thành tựu Bồ-Đề đạo.
Ba điểm này quan trọng vô cùng.
- Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn. Người không có thiện căn phước
đức thì nhờ tín tâm mà được trưởng dưỡng lên. Khi phước đức của mình được
trưởng dưỡng lên, thì vô tình nghiệp chướng của mình nó lại lu mờ xuống. Như
vậy trưởng dưỡng thiện căn đối trị với nghiệp chướng.
- Tín năng siêu xuất chúng ma lộ. Cái niềm tin vững vàng nó giúp
mình vượt qua tất cả những “Nghiệp Ma”. Nhờ sự đối trị này mà nghiệp chướng bị
kiềm chế, ma nghiệp cũng bị kiềm chế, khiến ta “Thành tựu Bồ-Đề
đạo”. Hay lắm! Điều này hay lắm quý vị ơi!
Chướng ngại chúng ta có ba dạng:
- Một là Nghiệp Chướng.
- Hai là Phiền Não Chướng.
- Ba là Báo Chướng.
“Nghiệp Chướng” được câu “Tín năng
trưởng dưỡng chư thiện căn” đối trị. Nghiệp chướng chúng ta có kèm
theo cái gọi là “Oán Thân Trái Chủ Chướng”, là những thứ
oán thù và nợ nần chúng ta đã tạo ra trong quá khứ, nó đã thành hình rồi.
Còn “Ma Chướng”?
Ma chướng chính là “Phiền Não Chướng”, chứ
không phải là “Ma này” “Ma nọ”, thè lưỡi, nhe nanh! Không phải. Ma
chướng chính là phiền não chướng. “Phiền não chướng” là Tham-Sân-Si-Mạn-Nghi-Ác Kiến.
Sáu thứ này là ma chướng. Tu hành:
- Khởi
một niệm nghi là Ma chướng.
- Khởi
một tâm sân giận lên, địa ngục nhập vào: Ma chướng!
- Khởi
lên một tâm tham lam, ngạ quỷ nhập vào: Ma chướng!
Dễ sợ!... Khi phân tích cho rõ ra mới thấy
tại sao có nhiều người tu hành rất lâu mà sau cùng không được thành tựu? Là vì
không biết rõ chỗ này. Bây giờ mình đi từng bước từng bước thì sẽ thấy rõ hơn.
- Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn. Cái
nghiệp của mình trong quá khứ đã làm rồi, xin thưa không cách nào có thể làm
cho nó tiêu được. Cũng giống như chúng ta thường hay nói, ví dụ trong một cái
hũ này có chứa hạt đậu đen và hạt đậu trắng. Nghiệp chướng ví như hạt đậu đen,
phước báu ví như hạt đậu trắng. Tức là trong cuộc đời chúng ta từ vô lượng kiếp
tới bây giờ, cũng có lúc làm thiện, cũng có lúc làm ác. Làm ác tạo ra nghiệp
ác: Hạt đậu đen. Làm thiện tạo ra nghiệp thiện: Hạt đậu trắng. Trắng - Đen trộn
lẫn với nhau. Giả sử như ban đầu Đen - Trắng bằng nhau: Màu xám xám. Bây giờ
chúng ta biết trưởng dưỡng những thiện căn phước đức của mình lên, làm lành cho
nhiều đi. Ngày nào cũng bỏ hạt đậu trắng vào, thì đến một lúc nào đó mình nhìn
cái hũ, hũ lớn lắm nghen, chứ không nhỏ đâu, mình thấy hình như nó trắng non à.
Mình hốt lên một nắm thấy toàn là hạt đậu trắng không. Đây chính là điều mà
chúng ta nói đó!...
Đừng bao giờ duyên tới những nghiệp ác.
Đừng bao giờ khởi lên những chuyện ác. Để cho cái nghiệp ác của mình nó nằm im
đó. Nghiệp ác mới thì mình không tạo ra, và cái tâm thiện lành của mình cứ bỏ
mãi những hạt đậu trắng vào, thì đến một lúc nào đó lượm lên ta thấy toàn hạt
đậu trắng không thôi. Hạt đậu đen còn hay mất?... Còn nguyên vẹn trong đó,
không mất.
Trong lúc mình bỏ hạt đậu trắng nhiều như
vậy, nhưng đến cuối cùng mình lại không lượm hạt đậu trắng, mà cứ muốn
moi dưới đáy tìm cho được hạt đậu đen, thì mình hưởng cái quả của hạt đậu đen
đó, nghĩa là bị đọa lạc! Trong khi đó, hạt đậu trắng còn không? Còn nguyên vẹn.
Chừng nào mới hưởng hạt đậu trắng? Khi nào
mình hưởng hết cái quả của hạt đậu đen, nghĩa là trả hết tất cả những nghiệp ác
rồi mới hưởng được hạt đậu trắng đó. Nguy hiểm là chỗ này!
Tại sao lại phải bị hạt đậu đen? Tại vì
phiền não chướng. Như chúng ta niệm Phật mà lòng tin không khởi được, không
phát được. Niềm tin không khởi phát thì thường thường là phiền não chướng đang
nổi lên. Ví dụ vô trong đạo tràng, tất cả mọi người đều trang nghiêm. Họ trang
nghiêm vì họ tin tưởng, họ thành kính. Mình không trang nghiêm chứng tỏ là mình
không tin tưởng, không thành kính! Thành kính thì trong lúc tu người ta tạo
phước đức. Không thành kính thì cũng gọi là tu hành nhưng mình tạo nghiệp. Rõ
rệt!...
Chính vì vậy, xin nhắc đi nhắc lại rất
nhiều về chuyện này, ta thường đưa ra nhiều dạng người tu hành bốn, năm chục
năm mà sau cùng thất bại. Một trong những lý do, là vì sơ ý chỗ này.
Hôm trước ta có đưa ra một ví dụ, như một
người giàu có mà thích đi casino, (tức là cờ bạc). Biết tu tức là biết tạo
phước, mà thích đi casino nên làm có tiền xong thì đi casino liền. Đốt hết!
Mình tu thì tạo ra phước. Tạo ra phước mà không kiềm chế được phiền não của
mình, nổi lên cơn sân giận thì tiêu hết! Tiêu hết rồi thì tu nữa, (tại vì biết
tu mà). Tu thì có phước nữa, có phước nữa nhưng giận một cơn nữa thì đốt hết nữa! Nhiều
người tu bảy, tám chục năm mà còn giận hờn, đố kỵ, ganh tỵ... thì phước tiêu
hết, đức tiêu hết, có thể thua một người mới tu được có một tuần hai tuần mà
cuộc đời của họ hiền lành. Cho nên “Tín năng siêu xuất chúng ma lộ” là ở chỗ này.
Ví dụ cụ thể hơn, như hôm thứ bảy vừa rồi mình
đi hộ niệm, một Cụ già trên 80 tuổi, mình tới khuyên niệm Phật, nếu mà vị đó
phát khởi tín tâm liền, không chần chừ nữa... Không cần biết là vị đó hồi trước
có tu không? Không cần biết. Nhưng một ngày trước khi ra đi mà phát khởi niềm
tin vững vàng...
- Bác ơi! Chắp tay lại niệm Phật nhé.
Bác chắp tay liền lập tức.
- Niệm A-Di-Đà Phật cầu về Tây Phương,
quyết định nghe bác.
- Dạ, tôi quyết định. Cậu ơi! Hồi giờ
tôi làm sai quá, thì bây giờ làm sao?
- Không sao đâu. Vững vàng đi. Phật
cho phép đới nghiệp.
Tin liền lập tức, không chần chờ nữa. Nếu
hai, ba ngày sau cụ chết. Trong hai ba ngày đó cụ đã niệm câu A-Di-Đà Phật rồi.
Khi thấy mệt mệt, kêu chúng tôi tới hộ niệm... thì có thể cũng có hy vọng... Có
nhiều người được hộ niệm từ sáng cho đến chiều mà được vãng sanh. Quý vị thấy
rõ ràng không? Còn chần chừ? Còn cứ muốn hẹn nay, hẹn mai? Hậu quả sẽ khác hẳn
liền! Tại sao vậy? Niềm tin không có. Còn như người đó tự nhiên phát khởi niềm
tin liền lập tức thì khác. Hồi giờ không tin tại vì không ai hướng dẫn, chưa có
duyên. Nay gặp duyên có người hướng dẫn thì tin liền...
“Tin liền” và “Chần
chừ”, hai cái giá trị này hoàn toàn khác nhau! Khác một trời một vực.
Tin liền, tức là niềm tin khởi lên mạnh mẽ: “Tín năng siêu xuất chúng ma
lộ”. Tất cả những giận hờn, những ganh tỵ,
những câu mâu, những luyến ái, tham, sân, si, mạn, nghi... tự nhiên buông hết.
Ngay từ đó niệm câu A-Di-Đà Phật mà siêu xuất chúng ma lộ!...
“Ma” nó dẫn mình duyên tới những cái “Nghiệp
Chướng” trong quá khứ, nó dẫn mình duyên tới những cái “Oán
Thân Trái Chủ Chướng”. Chính nghiệp chướng và oán thân trái chủ chướng
này tạo cho mình cái “Báo Chướng”. Báo chướng này đưa mình đi
xuống ba đường ác. Nếu cái “Ma Chướng” này bị ngăn đi, cắt đi,
tức là tất cả những cái duyên của nghiệp chướng, oan gia trái chủ chướng bị
cắt, thì những nghiệp chướng này không trở thành quả báo. Oan gia trái chủ
thông cảm không hãm hại mình. Mình niệm Phật hưởng cái quả báo vãng sanh Tây
Phương Cực Lạc. Đơn giản như vậy.
Chính vì vậy mà có những người hồi giờ không
biết tu gì cả, nghe nói hộ niệm vãng sanh, mừng quá, chạy tới kêu. Dù người ta
chưa bao giờ bước tới đạo tràng này, nhưng chỉ cần mình tới nói chuyện, họ phát
khởi niềm tin, nhiều khi họ đi ngon lành hơn mình, đừng nên khinh thường. Còn
như chúng ta ở đây tu, ngày ngày chúng ta cũng nói hộ niệm, ngày ngày chúng ta
nói về Tây Phương, củng cố niềm tin cho nhau để đi về Tây Phương, nhưng chúng
ta lại tu tà tà! Vì sao lại tu tà tà? Hổm nay tôi nói rất nhiều rồi, có thể vì
oan gia trái chủ đã xúi để hại ta! Tu tà tà thì thiện căn phước đức của chúng
ta trong quá khứ không khởi lên được. Tại sao vậy? Tại vì niềm tin của chúng ta
tà tà. Niềm tin tà tà thì “Tín Năng” không có thể nào “Siêu sxuất chúng ma lộ”
được. Tín
này không thể nào trưởng dưỡng chư thiện căn được. Không có niềm tin nhất định
không thể thành tựu đạo Bồ-Đề.
Bồ-Đề đạo đối trị với Báo
Chướng.
Thành Bồ-Đề đạo tức là thành Phật. Lên Tây Phương thì báo chướng cũng chịu
thua, không cách nào báo hại mình được nữa, mà lúc đó là mình đi trên cái báo
chướng đó, mình đi trên cái nghiệp chướng đó, mình dùng thần thông đạo lực đi
cứu độ chúng sanh, vì chúng sanh mà chịu khổ. Chư Phật hạ sanh xuống cõi trần
là thị hiện vì chúng sanh các Ngài chịu khổ, chứ không phải xuống đây các Ngài
chịu nhân quả đâu à! Các Ngài đi trên nhân quả rồi, đã trở về chơn tâm tự tánh
không còn cái đó nữa, thì ta cũng tập theo các Ngài về Tây Phương để thành đạo
Vô-Thượng, chúng ta đi trên cái mức đó, đi cứu độ chúng sanh. Ở từ đâu? Bắt
nguồn từ niềm tin này.
Cho nên “Ngũ Căn, Ngũ Lực” bắt đầu từ chữ “Tín” mà đi hết. Đi về Tây Phương
cũng bắt đầu chữ “Tín”. Nếu không tin,
ví dụ như bà Cụ nói chuyện leo lẻo đó, mình nghĩ rằng ít ra cũng một năm nữa
chưa chắc gì đã đi. Thế mà mình chưa kịp tới lần thứ hai thì bà Cụ đã đi rồi.
Quý vị thấy không? Đây là nghiệp chướng đã tràn lên rồi, bao phủ rồi, oan gia
trái chủ đã tràn lên rồi. Tại sao như vậy? Tại vì không có tín tâm, không có
tín tâm nên không khởi phát được thiện căn phước đức, nên không vượt qua được
ma chướng. Xin nhắc lại, Ma Chướng chính là Phiền-Não Chướng!
Như vậy thì, nếu còn giận, xin chư vị đừng
giận nữa, tức là chúng ta bỏ được ma giận: “Ma Địa Ngục”. Chúng ta tham lam,
tham tiền, tham bạc, tham vàng... tham đồ gì đó, tham luyến gì đó, toàn bộ là
ngạ quỷ chướng hết trơn. Một niệm tham nổi lên, ngạ quỷ nhập vào. Quỷ nhập thân
này, không phải là do quỷ nào cả, mà chính là tâm tham chúng ta khởi ra. Thực
sự là như vậy!
Ta hiểu được như vậy rồi, thì tất cả đều
do chính cái tâm ta tạo ra hết. Hôm trước tôi gặp ở trên Internet có một người
Email hỏi tôi:
- Bây
giờ từ sáng tôi tu năm tiếng đồng hồ, chiều tôi tu hai tiếng đồng hồ, một ngày
tôi tu bảy tiếng đồng hồ như vậy, tôi quyết tâm cho được thành tựu. Nhưng tại
sao bây giờ tôi bị trở ngại như vầy... như vầy... nhiều quá! Vậy thì làm sao
đây?
Tôi trả lời liền lập tức:
- Tại
vì chị tu không có người hướng dẫn. Chị thấy rằng mình ngon quá nên muốn đóng
cửa tự tu một mình, không chịu kết hợp với đồng tu. Khi tới một đạo tràng, chị
thấy người ta tu dở hơn chị, nên chị về nhà tự tu một mình. Chị tu một mình nên
bây giờ mới bị như vậy. Phải không?
Tôi nói tiếp:
- Mau
mau ngưng ngay lập tức, mỗi lần gặp như vậy thì ra rửa mặt đi, rồi kêu năm, bảy
người tới tu chung với nhau. Nếu không có người thì tới một đạo tràng nào đó mà
tu với người ta. Kêu nhiều người tới kể hết tất cả những chuyện này cho họ
nghe, kể hai, ba người nghe thì tự nhiên chị hết chướng nạn...
Thực sự tại vì người ta không hiểu được
đạo lý duy tâm, nên mới bị ma chướng! Ma chướng chính là cái tâm phiền
não của mình. Biết được vậy rồi, thì người nào có nghi phải buông mối
nghi liền lập tức. Người nào thấy chưa tin, phải tin liền lập tức.
- Ma chướng chính là giải đãi.
- Ma
chướng chính là lười biếng,
- Ma
chướng chính là cạnh tranh ganh tỵ,
- Ma
chướng chính là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến...
- Ma
chướng chính là những thứ đó.
Tất cả những thứ đó là ma chướng, nó mở
cửa ra cho “Ngoại Ma” nhập vào khiến mình bị nạn.
Chính vì vậy, họa cũng do mình, phước cũng
do mình, gọi là: “Họa phước vô môn, duy nhân tự triệu”.
Họa phước không có một hình tướng nhất định, không có một thực
thể nào hết. Chính mình chiêu cảm nó đến, chính mình mời nó đến.
Có người đi tu được pháp hỷ sung mãn,
đó
là điều thành tựu. Từ từ tiến lên. Có những người đi tu, thì càng tu
càng bị
phiền não, tại vì không chịu buông ma chướng ra. Tham, sân, si, mạn,
nghi, ác
kiến bỏ chưa được! Bỏ được thì chúng ta thành tựu. Nhớ những điểm căn
bản này
để chúng ta niệm một câu A-Di-Đà Phật với lòng tin tưởng sắt son, vững
vàng
chúng ta đi về Tây Phương thành đạo Vô-Thượng. Hay hơn là xuống dưới tam
ác đạo
để chịu khổ vạn kiếp, rồi chờ đức Di-Lặc Tôn Phật xuống cứu. Làm sao
Ngài cứu
được? Ngài Di-Lặc Bồ-Tát gần 600 triệu năm nữa mới xuống đây thị hiện
thành Phật nghen chư vị, không phải dễ đâu. Trong khoảng thời gian đó
chưa
chắc gì ta được làm người để có dịp nghe pháp âm của Di-Lặc Tôn Phật đâu
à!...
Khổ như vậy nên ráng mà lo lấy để đi về
Tây Phương, trong một đời này gặp A-Di-Đà Phật thành tựu đạo quả. Ta sẽ theo
ngài Di-Lặc Tôn Phật xuống đây cứu độ chúng sanh, hay hơn là nằm chỗ nào đó để
chờ Ngài cứu độ!...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 41)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Chương trình 48 ngày nói về “Hộ Niệm: Khế
Lý - Khế Cơ”, chúng ta còn một tuần lễ nữa là viên mãn. Bắt đầu từ
ngày mai sẽ trả lời những câu hỏi. Chư vị nào có câu hỏi nên viết để trong cái
hộp giấy ở ngoài, chúng tôi có để sẵn giấy ở đó. Hỏi cho rõ để rồi chúng ta bắt
đầu hành trình đi về Tây Phương Cực Lạc.
Ngài Vĩnh-Minh Đại Sư đời nhà Tống nói là:
“Vô Thiền hữu Tịnh-Độ, vạn nhân
tu vạn nhân khứ. Nhược đắc kiến Di-Đà, hà sầu bất khai ngộ”. Tu niệm Phật, một ngàn người
niệm Phật, một ngàn người được vãng sanh về Tây Phương, một vạn người niệm
Phật, một vạn người được vãng sanh, khi vãng sanh xong thì sẽ gặp được A-Di-Đà,
lúc đó không khai ngộ cũng khai ngộ, không thành đạo cũng thành đạo. Tất cả chư
Tổ đều nói rằng, người niệm Phật đều được vãng sanh. Đây là pháp môn mà một
trăm người tu, một trăm người vãng sanh. Lạ không? Một ngàn người tu, một ngàn
người vãng sanh. Một vạn người tu, một vạn người vãng sanh. Nói chung lại là: Muôn
người tu muôn người đắc. Chúng ta đang hưởng một cái gia tài rất là vĩ
đại của đức Thế-Tôn trao truyền cho chúng ta. Chúng ta đang ở dưới quang minh
của đức A-Di-Đà Phật tiếp độ đi về Tây Phương. Như vậy thì chúng ta không thể
nào nghĩ rằng mình bị lọt lại!...
- Chỉ
trừ trường hợp ta không chịu y giáo phụng hành.
- Chỉ
trừ trường hợp ta không chịu tin tưởng.
- Chỉ
trừ trường hợp ta không chịu cố gắng Tín-Hạnh-Nguyện đầy đủ.
Vì những điểm này mà ta ở trên con đường
thật sự chứng đắc. Ấy thế mà lại có người lại nỡ bỏ đi để tìm con đường đọa
lạc?
Có những người tu hành mà không chịu giảng
giải đúng như kinh Phật dạy. Ví dụ như:
- Phật nói niệm Phật để vãng
sanh. Ta lại nói, dễ gì mà vãng sanh?
(Ta nói ngược lại lời Phật!)...
- Phật dạy vãng sanh về Tây
Phương để thành Phật. Ta nói ở Ta-Bà này là thực sự, cõi Tây Phương Cực Lạc đâu
có mà cầu vãng sanh? (Nói sai lời Phật!)...
- Phật dạy vãng sanh về Tây Phương để
thành đạo Vô-Thượng, để cứu độ vô lượng vô biên chúng sanh. Ta lại nói,
ở tại cái cõi này động đất, lũ lụt... dân chúng khổ sở quá, mình không ở đây lo
độ chúng sanh, lại lên Tây Phương để làm gì trên đó? (Rõ ràng nói toàn là
những lời ngược lại với kinh Phật!)...
Chính vì thế, mình cần phải chú ý rất kỹ
mới được. Có nhiều người họ nói sai kinh Phật! Nếu mình không có một sức “Định”
đàng hoàng, thì sẽ bị chao đảo tinh thần liền. Phật nói: “Ly kinh
nhất tự, tức đồng ma thuyết”. Phải
chú ý rất kỹ điều này, nếu không chúng ta lạc vào ma chướng mà không hay.
Hai vấn đề Phật đưa ra: Một là nói không
đúng kinh Phật, gọi là “Ly Kinh”. Nói ngược lại lời Phật, thì
đó là Ma thuyết. Ma thuyết tức là Ma nói. Mình sơ ý chạy theo mình bị đọa lạc
ráng chịu!...
Phật lại nói một câu nữa: “Y kinh giảng nghĩa, tam thế Phật oan”.
Cái phần “Ly kinh nhất tự”
chúng ta đã bàn qua hôm trước rồi. Hôm nay chúng ta bàn thêm về lời Phật dạy, “Y
kinh giảng nghĩa”.
Tại sao lại y theo kinh giáo của Phật giảng nghĩa ra, mà bị gọi là “Tam thế Phật
oan”?
Cụ thể, ví dụ như một người tám mươi mấy
tuổi, sắp chết... Mình tới khuyên niệm Phật. Bà Cụ đó nói...
- Tôi ngày nào cũng làm thiện làm lành,
tôi không bao giờ làm điều gì sai. Đó là tu rồi, chứ còn tu gì nữa?!...
Rõ ràng, đây cũng là một pháp tu đó, nhưng
mà pháp tu không bao giờ đưa đến kết quả giải thoát. Có nhiều người tu bốn, năm
chục năm nhưng cuối cùng người ta không biết để làm gì? Đi về đâu?...
Như vậy rõ ràng:
- Thứ nhất, người đó không biết đường nào
đi, là vì không nghe được Chánh Pháp, không ai giảng Chánh Pháp cho họ nghe.
- Thứ hai, ngược lại, có những người nghe
Chánh Pháp, mà nghe rồi cũng không biết đường nào đi luôn. Tại sao vậy? Tại vì
người ta đã “Y kinh giảng nghĩa”, mà
không chịu “Y theo căn cơ để giảng
nghĩa”. Sai chính là ở chỗ này.
Ví dụ, như nói, bây giờ tu là phải phá tứ
tướng. “Ngã tướng, Nhân tướng, Chúng-sanh tướng, Thọ-giả tướng”, phải
phá hết. Tức là ngã tướng phải bỏ... Giảng những chuyện này cho người ta... Rõ
ràng đúng kinh. Nhưng thực ra, ngay chính người giảng đó làm không được, thì
làm sao bắt người nghe làm được? Cho nên, giảng riết rồi, người đó nghe thì
thấy hay quá, nhưng suốt cả cuộc đời họ làm không được! Đến lúc nằm xuống, họ
không biết đường nào là con đường giải thoát, con đường nào là con đường bị
kẹt!...
Ngay trong pháp niệm Phật của chúng ta, “Nhất
tâm bất loạn” là cái lý tưởng cao tột của người niệm Phật. Nhưng thực
sự trong thời mạt pháp này tìm ra một người nhất tâm bất loạn thì tìm không ra!
Vì sao? Vì căn cơ quá hạ liệt! Nếu ta đem những lý đạo nhiệm mầu của “Lý nhất
tâm bất loạn” ra mà nói với chúng sanh, nhiều khi nói thì hay mà chính ta không
“Nhất tâm bất loạn” được, thì làm sao người nghe đó có thể niệm Phật cho “Nhất
tâm bất loạn”? Mà một khi đưa ra một chương trình về “Nhất tâm bất loạn”, thì
có thể dẫn tới trở ngại là hàng chúng sanh nghiệp chướng quá nặng, nhưng vọng
tưởng của họ lại quá mạnh. Kỳ lạ như vậy! Những người nghiệp chướng nặng thì
thường thường có vọng tưởng rất mạnh! Họ mơ mộng rất nhiều! Khi họ thấy điều gì
lạ lạ một chút thì vội vã chụp vào. Đưa đến trạng huống là tâm thì thành mà lực
thì không có, gọi là “Lực bất
tòng tâm”. Đến một lúc nào đó vì sự vọng tưởng lên cao quá, không tự kềm
chế được, những sự chứng đắc giả liền nổi lên làm cho họ bị
trở ngại!
Như vậy, tại sao người đó bị trở
ngại? Tại vì có người đã “Y kinh giảng nghĩa”, không
chịu xét căn cơ. Vô tình làm cho Phật cũng phải chịu oan!...
Chính vì vậy, vấn đề “khế Lý - Khế
Cơ”, chúng ta phải nắm cho vững. Phương pháp chúng ta tu hành ở đây là
tập buông xả. Hãy nghe thật kỹ những lời giảng của ngài Tịnh-Không, Ngài không
bắt chúng ta phải “Nhất tâm bất loạn”, mà Ngài khuyên chúng ta
“Buông xả”.
Chúng ta tu mà buồn quá? Buông xả cái buồn
đi, đừng để cái buồn nó nhập trong tâm nữa. Tại vì buồn nó nhập trong tâm thì
ta không thể nào đi về cảnh vui được. Ngày ngày ta buồn thì làm sao sau cùng ta
được vui? Đúng không? Rõ ràng!
Nếu mà ta còn giận, phải bỏ cái giận đi.
Tại vì bỏ cái giận đi thì tập khí địa ngục, nhân chủng địa ngục nó không vướng
vào trong tâm ta nữa, thì tự nhiên ta rời cảnh địa ngục ra.
Ta không còn quyến luyến gì nữa, để chi?
Để cho những cảnh thế gian này nó không bám vào trong tâm của ta nữa... Ngài
giảng rất là hay, tuyệt vời!...
Ngài không nói là ta đưa ra chương trình
này đại chúng phải tu tập
trong ba năm, hai năm phải nhất tâm bất loạn, mà Ngài
nói hãy cố gắng niệm Phật, nếu nhất tâm bất loạn được thì tốt, nhưng chủ yếu
Ngài dạy phải BUÔNG XẢ - BUÔNG XẢ, càng BUÔNG XẢ
chừng nào thì mình càng tiến gần tới chỗ “Nhất tâm bất loạn”
đó. Cho nên lời giảng của ngài Tịnh-Không, vô cùng tuyệt vời mà nhiều người
không hay.
Nếu sơ ý, ví dụ như tại đây ta đưa ra một
chương trình lập công cứ. Nếu bảo rằng, sau khi xong công cứ này quý vị sẽ
“Nhất tâm bất loạn”. Khi thực hiện công cứ xong, thì chính mình không nhất tâm
bất loạn, thì làm sao một người nào đó nhận cái công cứ làm mà có thể nhất tâm
bất loạn được? Nhưng nêu lên chiêu bài này, vô tình ngày nào họ cũng cứ nghĩ:
Nhất tâm! Nhất tâm! Nhất tâm!... Đến một lúc nào đó cái “Nhất tâm giả”
nó hiện ra! Khi mà nhất tâm giả hiện ra, thì xin thưa thực, đã không còn cứu
vãn được nữa rồi!
Trong Email của chúng tôi bây giờ có cũng
gần 600 cái thơ, tôi không dám mở. Tại vì trong 600 cái thơ đó, ít ra cũng có bốn, năm chục hay nhiều hơn nữa,
những người bị nạn. Tại vì sao? Tại vì tu hành không lựa căn cơ. Cứ nghĩ mình
là căn cơ cao không hà! Cứ tìm những cảnh chứng đắc này, chứng đắc nọ không hà!
Khuyên hoài mà không chịu nghe. Đến lúc bị nạn rồi, bị dội vào tường rồi mới
chịu nghe. Một khi bị dội vào tường thì bể đầu rồi, làm sao mà có thể còn tỉnh
táo được nữa để nghe? Khổ là khổ chỗ này!
Cho nên, vấn đề “Y kinh giảng nghĩa”,
thì “Y kinh” nhưng mà cũng phải biết “Y theo căn
cơ” nữa mới được.
Ngài Ấn-Quang nói, kinh điển của Phật,
giáo pháp của Phật, pháp môn nào cũng vi diệu cả, nhưng phải biết ứng
hợp với căn cơ thì mới sinh diệu dụng. Chính vì vậy, mà chúng ta
tu ở đây phải lựa căn cơ thấp nhất để đi cho được vững vàng. Bằng cách gì? Xin
chư vị cố gắng chuyên cần, tinh tấn. Công cứ là cách cho chúng ta chuyên cần.
Thay vì chúng ta đi chơi một ngày hai buổi, thôi thì bỏ đi chơi một buổi, còn
một buổi niệm Phật, niệm được câu nào ráng niệm, gọi là “Năng nhặt
chặt bị”. Mót lần mót lần công đức để gom lại cho lúc chúng ta lâm chung,
gỡ được ách nạn nào hay ách nạn đó. Ách nạn còn lại ít một chút, phước báo tăng
một chút, thì những người đồng tu sẽ giúp cho chúng ta vãng sanh Tây Phương,
giúp cho chúng ta niệm Phật, họ hộ niệm cho chúng ta dễ hơn. Còn nếu chúng ta ỷ
y vào người hộ niệm, không chịu lo niệm Phật, thì cái nghiệp chúng ta quá nặng,
mà công đức của chúng ta quá ít, nhiều khi ban hộ niệm tới giúp chúng ta không
nổi, và chúng ta vượt ra ách nghiệp không được!...
Xin phải lo trước. Đây là phương pháp tu
hành của hàng hạ căn hạ cơ. Hãy quyết lòng tinh tấn, mà cũng quyết lòng tìm
người hỗ trợ nữa. Chúng ta đang đi con đường gọi là “Chắc trong chắc!”.
Mong cho chư vị chú ý. Nhất định: Niệm
Phật: Khế Lý. Hộ Niệm: Khế Cơ. Chúng ta quyết lòng cùng nhau vãng
sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 42)
Nam Mô A-Di-Đà Phật
Chương trình nói về Khế Lý - Khế Cơ đã đến
tuần cuối cùng. Hôm nay có câu hỏi như thế này:
- Niệm Phật nhất tâm bất loạn
thì tốt chứ có gì đâu mà lo sợ!....
Câu hỏi này rất là hay và cũng khá cao!
- Thật ra thì chúng ta không có lo sợ
“Nhất tâm bất loạn”, mà chúng ta lo sợ “Người tham nhất tâm bất loạn!”.
- Trí huệ khai mở thì ta không
sợ, nhưng mà sợ “Người tưởng rằng mình đã khai mở trí huệ!”.
- Phật ta không sợ nhưng mà sợ
“Người cho ta đã thành Phật rồi!”. Mấy vấn đề này khác nhau.
Khi đưa ra một chương trình tu tập để “Nhất
tâm bất loạn” thì đối với những người căn cơ cao, chư đại Bồ-Tát là chuyện
bình thường không có gì lo sợ, nhưng mà lo sợ cho những người căn tánh hạ liệt,
nghiệp chướng sâu nặng. Người căn cơ cao, tâm đã định, thì “Nhất tâm bất
loạn” đối với họ là chuyện đương nhiên. Còn những người căn tánh hạ liệt mà
nói về “Nhất tâm bất loạn” thì gọi là không “Khế cơ”, có thể đưa
đến chỗ chướng ngại! Chính vì vậy, những chương trình “Nhất tâm bất loạn”,
ít khi người ta phổ biến rộng rãi, mà thường thường chỉ phổ biến nội bộ, nội bộ
trong những người căn cơ cao, vì khi đã “Nhất tâm bất loạn” thì chỉ nhìn
là họ đã biết rồi.
“Nhất tâm bất
loạn” là “Chứng
đắc”. Khi đã chứng đắc rồi thì không còn gì có thể ngăn ngại đối với họ
nữa. Cho nên chỉ nhìn nhau là người ta biết, chứ không phải cần khoe ra, nói
ra, hay là mình diễn tả những cái đó mới chứng tỏ mình đã “Nhất tâm bất loạn”
hay “Chứng đắc” đâu.
Hôm trước, có người đã báo cho tôi biết
rằng, có một người viết một bài báo đăng lên với bút hiệu là Diệu Âm, diễn tả
cảnh giới “Nhất tâm bất loạn”. Năm ngoái tôi cũng có nghe một lần,
năm ngoái hay năm kia gì đó(?), rồi năm nay lại nghe một lần nữa. Tôi mới vội
vã viết lên một thông báo là: “Chớ nên hiểu lầm!”. Trong đó tôi
xác định rõ rệt là người viết đó không phải là tôi. Có thể là một người trùng
bút hiệu hay trùng pháp danh gì đó viết lên như vậy, chứ còn chính tôi là Diệu
Âm đây không có được cái cảnh giới nhất tâm bất loạn.
Ta thực sự lo sợ cho những người không có
khả năng nhất tâm bất loạn mà tham vào cái danh nhất tâm bất loạn, nó dễ đi
vượt qua cái đà của họ mà thường thường sau cùng bị trở ngại! Ta tu hành ở đây
ráng cố gắng chuyên cần tinh tấn, khi ta được nhất tâm bất loạn thì mừng, người
nào được thì mừng cho người đó. Nhưng mà đưa ra một chương trình, hay một thời
hạn, hay là một cái quy tắc nào đó để cho nhất tâm bất loạn thì nhất định sẽ bị
trở ngại! Tại vì nhất tâm bất loạn là cảnh chứng đắc, nó không có một cái quy
tắc nào giống như hai với hai là bốn, theo đó ta cứ cộng lại nó thành bốn.
Không phải!
Trong kinh A-Di-Đà, Phật có nói là từ một
ngày cho đến bảy ngày nhất tâm bất loạn, thì người căn cơ cao người ta niệm
Phật một ngày có thể nhất tâm bất loạn, người căn cơ thấp thấp một chút niệm
bảy ngày có thể nhất tâm bất loạn. Nhưng thực ra cái “Nhất tâm bất loạn”
này, theo như Hòa Thượng nói, là A-Di-Đà Phật gia trì trong lúc chúng ta xả bỏ
báo thân. Đây là sau khi Phật gia trì rồi.
Chứ đúng ra trong kinh A-Di-Đà của ngài
Huyền-Trang dùng pháp trực dịch, nghĩa là dịch sát nghĩa từng chữ từng chữ là “Nhất tâm hệ niệm”, tức là
chúng ta cứ chuyên lòng một câu A-Di-Đà Phật, niệm cho tới cùng, giống như
trong kinh Vô-Lượng-Thọ là “Nhất
hướng chuyên niệm”, hai danh từ giống nhau. Còn nhất tâm bất
loạn chính là cái lòng chân thành, chí thành chí kính của mình niệm Phật, thì
được Phật phóng quang gia trì nâng đỡ cho chúng ta, lúc đó chúng ta chỉ còn một
câu A-Di-Đà Phật, nhờ đó mà ta được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Cho nên câu hỏi này rất là hay. Khi chúng
ta tu hành như thế này phải có sự khiêm nhường tối đa, để tránh tình trạng vượt
qua khả năng của chính mình thì mới an toàn được. Nếu chúng ta sơ ý, nhất là
những người ưa nghiên cứu, khi nghiên cứu thì thường thường gặp những kiểu nói
ở những cảnh giới cao quá. Họ quên rằng, khi đưa rộng ra thì trong xã hội có
rất nhiều hạng người, có những người căn cơ cao thì hiểu được(?). Có những
người căn cơ không cao, nghe những lời đó sẽ dễ sinh ra vọng tưởng. Cái vọng
tưởng này sẽ thâm nhập vô trong tâm của họ, đến một lúc nào đó, người ta không
biết đó là vọng tưởng! Chuyện này là sự thật!...
Ngài Hạ-Liên-Cư nói: “Niệm Phật không được cầu nhất tâm bất loạn”. Có nhiều người than phiền rằng, tôi
niệm Phật mà sao cứ vọng tưởng hoài, không bao giờ hết vọng tưởng. Thì Ngài lại
nói: “Niệm Phật không được cầu cho
hết vọng tưởng”. Lạ lắm! Rồi Ngài nói: “Niệm Phật để cầu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc”. Đem ý này
so sánh với lời giải của ngài Tịnh-Không, Ngài nói rằng, niệm Phật, một lòng
niệm Phật đến lúc lâm chung A-Di-Đà Phật gia trì chúng ta được “Nhất tâm
bất loạn”. Thì lời nói của ngài Hạ-Liên-Cư cũng giống như vậy... “Niệm Phật không được cầu nhất tâm bất loạn,
niệm Phật không được cầu hết vọng tưởng”. Vọng tưởng sao cũng kệ nó, cứ cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc
đi, khi vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thì không nhất tâm bất loạn cũng được nhất
tâm bất loạn. Hai câu nói có ý nghĩa tương đồng với nhau.
Cho nên khi có những người đưa ra cái
chương trình này, chương trình nọ để đại chúng làm theo cho “Nhất tâm bất
loạn”. Nếu suy nghĩ cho
thật kỹ thì đây đúng là một sự sơ suất! Tại sao? Ví dụ như, ngài Tuyên-Hóa,
Ngài gặp Hòa Thượng Quảng-Khâm là hai vị đại Tôn-Sư thời đại, hai người gặp
nhau, ngài Quảng-Khâm giơ tay lên: “Như
Thị”, Ngài nói như thị thôi. Ngài Tuyên-Hóa cũng giơ tay lên: “Như Thị”. Các Ngài lặng lẽ không nói gì nữa
cả. Các Ngài đã biết hết trơn rồi, chứ đâu có nói là tôi thì chứng như thế này,
chứng như thế nọ, thì tôi mới nhất tâm bất loạn đâu? Tôi mới minh tâm kiến tánh
đâu? Các Ngài thấy hết trơn rồi...
Đại Sư Vĩnh-Minh đời nhà Tống, Ngài gặp
một vị Hòa Thượng tai dài, ăn mặc xốc xếch, thật ra vị Hòa Thượng đó là
Định-Quang Cổ Phật tái lai trong thời đó. Hai Ngài gặp nhau làm thinh không nói
gì hết. Một ông thì xồng xộc lên ngồi hàng ghế trên. Khi mãn tiệc về rồi, nhà
vua hỏi, hôm nay ta cúng dường trai tăng có vị Thánh Nhân nào đến không? Thì
ngài Vĩnh-Minh mới thố lộ:
- Thưa có.
- Ai
vậy?
- Cái
ông già lếch xếch đó, ngồi ở trước đó. Đó là Định-Quang Cổ Phật tái lai.
Các Ngài biết hết trơn rồi. Không bao giờ
nói ra hết. Chính vì vậy mà ta muốn cho “Nhất tâm bất loạn”, không có
cái gì khác hết hơn là chư vị “Thành
Tâm - Chí Thành - Chí Kính”, những gì mà trước nay chúng ta đã
nói ra chính là để cho chúng ta được vãng sanh về Tây Phương. Khi vãng sanh về
Tây Phương thì…
- Không nhất
tâm cũng nhất tâm.
- Không
chứng đắc cũng chứng đắc.
- Không khai
ngộ cũng khai ngộ.
Đâu cần lo gì đến chuyện như bây giờ chúng
ta phải bàn luận là nhất tâm hay nhị tâm...
Cứ một lòng niệm Phật Tín-Hạnh-Nguyện nhất
định như ba cái chân vạc vững vàng. Tín thì quyết lòng không nghi.
Những người nào mà nghi, thì cái Tín đó nó đã quẹo lại rồi! Cũng giống như chân
vạc, ba cái chân vạc, một cái chân Tín bị quẹo, thì cái vạc nó sẽ ngã ầm xuống
liền. Không được! Không nghi là không nghi! Nhiều người cứ ưa nghi lắm... Nghi
là chết! Nghi là tiêu! Nghi thì tu năm chục năm coi chừng không được vãng sanh!
Mà không nghi thì tu ba ngày thôi, vãng sanh...
Có những người tu rất lâu mà vì mối
nghi
này không phá được. Không phá được nên sau cùng mất vãng sanh. Từ mối
nghi này
nó phá hết tất cả những cái khác. Vì nghi nên tu hoài tu hoài mà thiện
căn
không lên. Thiện căn không lên thì phước đức không có. Phước đức không
có thì
trong lúc đó nghiệp chướng cứ tràn... tràn... tràn lên. Một năm có 365
ngày, ta có hết 300 ngày
giúp cho nghiệp chướng tăng trưởng rồi. Còn lại 65 ngày tu, thì một ngày
tu chỉ có một giờ. Nghĩa là 65 ngày tu hành, thì có tới hơn 60 ngày để
tăng trưởng cái nghiệp nữa rồi, còn cái phước chỉ
có chưa tới năm ngày. Năm ngày làm sao địch
được với 360 ngày? Chính vì vậy mà sau cùng ta
bị trở ngại! Cho nên phải tin cho vững.
Phật nói: “Một câu A-Di-Đà Phật niệm, dẫu cho mười niệm mà không được vãng sanh ta
thề không thành Phật”. Cứ quyết tâm niệm Phật để lúc nằm xuống nhất
định ta niệm cho được mười câu A-Di-Đà Phật. Phải quyết lòng niệm cho được. Nếu
không quyết tâm bây giờ, nhất định lúc đó một niệm ta niệm cũng không vô. Chắc
chắn! Tại vì bây giờ còn tỉnh táo như thế này mà không tin, thì lúc đó làm sao
mà mình tin? Mà không tin thì phước đức không có. Phước đức không có thì nghiệp
chướng tăng. Về nghiệp chướng, hôm trước mình nói rồi, trong nghiệp chướng nó
có oan gia trái chủ chướng, hai cái đó nó sẽ tấn công mình đến nỗi không còn
một niềm tin nào có thể khởi lên, thì bây giờ có một ngàn người tới hộ niệm cho
chúng ta, chúng ta cũng chìm trong cảnh giới đó mà đi đọa lạc. Cho nên quyết
lòng không được “Nghi”.
“Nguyện vãng
sanh”. Nguyện vãng sanh thì phải tập buông xả
thế gian ra, đây là lời Hòa Thượng Tịnh-Không nói. Ngài không dạy chúng ta là
phải quyết lòng nhất tâm bất loạn, mà phải quyết lòng buông xả. Tại vì buông xả
thế gian ra thì chúng ta bám chặt vào Tây Phương Cực Lạc, về Tây Phương Cực Lạc
thì không nhất tâm cũng nhất tâm. Nói đi nói lại, thực ra các Ngài giảng giống
hệt với nhau, mà chỉ là cách nói khác thôi, chứ không có gì hết.
“Hạnh”. Hạnh là niệm câu A-Di-Đà Phật.
Tranh thủ niệm câu A-Di-Đà Phật. Mình thấy một sự chứng minh cụ thể là hôm
trước, một bà Cụ tuần trước đó thì con cái dẫn bà tới đây để nhờ mình hộ niệm.
Mình dặn rõ ràng, mình năn nỉ bà Cụ:
- Bác ơi! Bác về cố gắng niệm mỗi ngày:
sáng năm chuỗi, trưa năm chuỗi, chiều năm chuỗi...
Mười lăm chuỗi thì mới có một ngàn rưỡi
chứ mấy đâu à. Ấy thế mà suốt trong mười ngày sau không niệm một chữ. Rõ ràng
không niệm một chữ!...
Bây giờ không niệm, lúc đó làm sao niệm?
Bây giờ mình khỏe ru thế này mà không tập niệm, làm sao lúc mình nằm xuống mà
niệm được? Lúc mình nằm xuống thì cái lưỡi mình đã đớ rồi, hay gọi là cấm khẩu
đó. Niệm Phật mà những người bị trúng gió, á khẩu không được vãng sanh. Trúng
gió tức là các cơ của mình đã bị đớ rồi niệm Phật không được. Có nhiều người
còn cẩu thả như thế này nữa chứ!...
- Cái miệng tôi niệm không được mà cái
tâm tôi niệm được.
Đâu có được! Những sợi dây thần kinh nó đã
liệt rồi, đến nỗi nó điều khiển cái lưỡi không được làm sao nó điều khiển cái
tâm? Thì tất cả những cái đó nó chìm trong sự mê man bất tỉnh không biết gì nữa
cả. Còn tâm nào đâu nữa mà niệm?
Xin đừng có cẩu thả chuyện này. Phải tập
niệm ngay từ bây giờ. Cho nên tôi thấy công cứ nó hay vô cùng. Quý vị niệm mà
không lập công cứ... mình thì cứ tưởng niệm giỏi, nhưng hãy mở cái công cứ ra
mà ghi thử coi? Trời ơi!... Sao mà trống rỗng thế này nè! Một ngày mình niệm
chưa đến một ngàn câu Phật hiệu. Một ngàn câu Phật hiệu thì làm sao điền xong
được một tờ công cứ đó? Thấy thế mới giựt mình! Thôi thôi! Ngày mai tôi sẽ ráng
niệm hai ngàn, ba ngàn. Công phu tự nhiên tăng lên. Tăng lên như vậy thì tự
nhiên một tháng sau ta tô tràm tờ công cứ đó. Điều này chứng tỏ là công phu niệm Phật của
mình đã tăng lên.
Có bắt đầu đi thì tự nhiên thành công đến.
Không chịu bắt đầu đi, thì cứ đứng yên tại chỗ. Dòng đời lúc nào cũng tiến,
mình đứng lại tức là lùi. Đạo pháp cũng vậy, lúc nào cũng phải tiến, nếu không
tiến thì lùi. Nhất định đây là cái quy luật của pháp giới.
Chính vì vậy, muốn cuối cùng mình niệm
được câu A-Di-Đà Phật, thì phải tập sự ngay từ bây giờ. Đừng nghĩ tới chuyện
“Nhất tâm bất loạn” làm chi. Hãy nghĩ tới chuyện vãng sanh về Tây Phương Cực
Lạc. Nhất định nếu chúng ta hạ quyết tâm từ bây giờ thì chắc chắn con đường
vãng sanh không thể nào A-Di-Đà Phật bỏ rơi ta được...
Tại vì ta lơ là, bỏ rơi con
đường vãng sanh, nên dù Ngài thương chúng sanh tới đâu mà cũng không cứu được
là như vậy đó!...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa đàm 43)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Được vãng sanh về Tây Phương chủ lực là do
Công Phu tu hành của mình và điều cần thiết là được “Hộ Niệm” trong những giờ phút cuối cùng để chúng
ta vượt qua tất cả ách nạn mà vãng sanh về Tây Phương. Muốn vượt qua khỏi ách
nạn thì trong lúc tu hành này cố gắng tinh tấn, chuyên cần, phát tâm dũng mãnh.
Một lần phát tâm như vậy thì tai ách sẽ biến đi, mất đi.
Cho nên...
- Một cái phiền não xảy ra thì
có nhiều cái phiền não khác tiếp theo đó mà xảy ra.
- Một sự
phát tâm tinh tấn thì tự nhiên quang minh của Phật gia trì làm cho chúng ta
vượt qua nhiều ách nạn để thành tựu.
Hôm nay chúng ta bắt đầu trả lời những câu
hỏi. Những câu hỏi này thấy đơn giản nhưng thực sự hay, có thể có nhiều người
muốn hỏi tới. Câu hỏi như thế này:
- Tôi tu
hành thì Tín-Nguyện-Hạnh đầy đủ, quyết lòng vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc,
nhưng mà tôi ăn chay trường chưa được, tiếc là tôi chỉ ăn có mười ngày thôi.
Kẹt dữ quá! Như vậy có được vãng sanh hay không?
Không biết ở trong cái kẹt này có cái kẹt
“Thèm” không hé?... Câu hỏi này làm cho tôi nhớ, có một lần tôi
đi về Việt-Nam, khi đi đến một vùng nọ, thì có một chị đó hỏi:
- Anh Năm ơi! Bây giờ nhờ anh giúp giùm
tôi, tôi ăn chay trường nhưng tôi không dám nói người ta biết. Tôi mắc cỡ!...
Rồi hôm đó người ta mời tôi đi ăn giỗ. Trời ơi! Cái bà chủ nhà cứ gắp thịt bỏ
đầy chén của tôi... Tôi ăn chay trường mà bà đó không biết, cứ gắp thịt bỏ đầy
chén của tôi. Bây giờ làm sao đây?
Tôi trả lời:
- Thì ăn
ngon chứ sao?...
Tại vì trước đó mình ăn thịt thấy ngon, bây giờ mình mới phát tâm chay mà
còn mắc cỡ, tức là giả đò phát tâm chứ có phát tâm thiệt đâu? Vậy khi họ mời
thịt thì mình cứ ăn cho ngon, chứ mắc mớ gì đâu mà sợ!...
Trở lại câu hỏi này. Hòa Thượng Tịnh-Không
đã có trả lời chuyện này, Ngài nói trong ba bộ kinh, gọi là Tịnh-Độ Tam Kinh,
Phật nói: “Tín-Nguyện-Hạnh”
vãng sanh, chứ Phật không nói ăn chay trường để vãng sanh. Cho nên quý
vị mà còn thèm thịt thì không sao hết, yên chí đi! Ngài dặn là tuyệt đối đừng
có sát hại sinh vật. Như vậy bây giờ mình thèm thịt quá thì mình hãy ra ngoài
shop, ngoài chợ... mua đem về ăn, để tránh đi cái tình trạng trực tiếp sát
sanh. Mình dùng “Tam tịnh nhục” để ăn.
Trong pháp gọi là “Trai Chay”, có ba phẩm.
Phẩm Hạ gọi là ăn tam tịnh nhục; phẩm Trung là ăn chay trường; còn phẩm Thượng
là thêm phần phóng sanh nữa, nó có ba đợt như vậy. Nếu ta ăn chay trường không
được thì có thể ăn tam tịnh nhục. Nhưng nếu có nhiều người ăn chay không được
thì mình khuyên nên ăn hai ngày một tháng... Hai ngày một tháng được, thì thôi
bốn ngày có hơn là bao nhiêu đâu? Thêm hai ngày nữa đi. Tiến lần, tiến lần
lên...
Phát một cái tâm ra thì 84.000 chướng nạn
mất đi. Mình phát một cái tâm “Ăn chay trường” ra thì có thể giảm được cho mình
84.000 chướng nạn. Hay vô cùng! Rồi khi ăn
chay như vậy, tự nhiên cái tâm từ bi của mình mở ra. Tâm từ bi mở ra, thì khi
gắp miếng thịt lên, nhìn miếng thịt hình như mình thấy có một bài pháp. Bài
pháp gì? “Ai xẻ thịt mình ăn mà mình lại xẻ thịt con vật ra ăn?”. Tự dưng cái “Tâm bất nhẫn”
mình phát lên một lần nữa. Phát một cái tâm từ bi thương chúng sanh,
84.000 chướng nạn theo đó lại mất nữa. Cũng như, một cái phiền
não khởi ra nó duyên tới 84.000 phiền não khác
tiếp tục nổi ra làm cho mình tai họa, thì phát một cái tâm thiện lành
ra, có 84.000 phước đức đến với mình. Cứ vậy mà nó tăng lên. Cho nên khi
đến một thời điểm nào đó, chúng ta sẽ thấy, khi cầm miếng thịt của con
vật lên
ăn, mình sẽ rơi nước mắt liền! Đó là lúc mà tâm từ bi của mình đã mở ra
rồi đó.
“Tâm bao thái hư, lượng châu sa
giới”, là chỗ này.
Trở lại vấn đề ăn chay. Thực tế ăn chay là
tu bố thí “Vô Úy”. Vô úy là
không có não hại chúng sanh, không làm cho chúng sanh đau khổ. Khi mình cầm
miếng thịt lên, mình nghĩ con vật này bị một người nào đó đã đâm cổ nó, rồi rót
máu của nó ra, rồi xẻ thịt của nó, cắt từng mảnh từng mảnh cho mình ăn!... Mình
không trực tiếp làm điều này. Nhưng mà khi nghĩ tới chuyện đó, tự nhiên lòng
mình đau đớn! Lòng từ bi của mình làm cho mình cảm thấy bất nhẫn! Khi mình thấy
bất nhẫn như vậy thì tự nhiên cái tâm của mình nó sẽ tự khuyên mình: “Đừng
nên ăn thịt chúng sanh nữa”, để cho lòng từ bi của mình
càng mở rộng ra, mà tâm càng mở rộng chừng nào thì chúng ta lại tương ưng với
tính đại thiện đại lành của cõi Tây Phương chừng đó. Nói rõ
hơn, mình ăn chay được thì tự nhiên phước phần của mình lớn để được gần gũi với
con đường vãng sanh. Mình ăn chay không được thì mình có thể chịu nhiều ách
nạn. Nhiều ách nạn thì nếu mình cố gắng vượt qua ách nạn thì cũng vẫn có thể đi
về Tây Phương được. Nhưng thực ra, càng nhiều ách nạn là càng có dấu trừ (-)
trong con đường vãng sanh về Tây Phương! Càng nhiều phước đức là thêm dấu cộng
(+) trên con đường về Tây Phương vậy.
Ngài Tịnh-Không không khuyên ăn chay,
nhưng Ngài dạy cứ khuyên người ta niệm Phật đi. Trong gia đình của Diệu Âm có
tất cả là mười một người anh em, chết hai người từ lúc nhỏ còn lại chín người.
Chín người, Diệu Âm không bao giờ khuyên họ ăn chay hết, mà chỉ một lòng một dạ
khuyên niệm Phật, quyết lòng vãng sanh, và đi hộ niệm cho người ta. Ấy thế mà
hầu hết bây giờ chín người hình như ăn chay trường hết. Lạ lùng không? Chỉ có
một ông anh không chịu tu... không chịu niệm Phật. Ổng không chịu niệm Phật thì
Diệu Âm cũng lặng lờ. Không khuyên nữa! Không thèm nói nữa! Tại vì nếu trong
suốt cuộc đời này mà ông anh đó không niệm Phật thì đến lúc chết xuống, Diệu Âm
này cũng chỉ về thăm một người bị đọa lạc, chớ không có cách nào cứu được! Có
một người em, em gái làm việc... đen thui à, mà cũng không chịu niệm Phật.
Không chịu niệm Phật thì dù thương gì thương cũng đành chờ chết rồi mình về
thăm, thăm một người bị đọa lạc, chứ không cứu được! Thật sự là đời này ai tu
nấy chứng, ai làm lành được hưởng phước, ai làm ác phải chịu nạn. Không ai cứu
ai được cả. Chính Phật cũng chỉ dẫn giải chúng ta con đường đi. Chúng ta theo
được, theo càng sát thì chúng ta càng dễ được giải thoát. Thế thôi!...
Cho nên, những người nào thực sự không ăn
chay được, thì biết rằng đây là một cái yếu của mình. Vậy thì có thể tăng những
cái ưu điểm khác lên. Tăng cái gì? “Tín
tâm cho vững, quyết lòng tin tưởng Phật pháp, nguyện vãng sanh tha thiết”. Tại vì một lần ăn một miếng thịt
thì mình vướng cái nợ của chúng sanh. Vậy ta phải làm sao về cho được tới Tây
Phương để tìm cách cứu họ, chứ còn không thì, như ở trong kinh Phật có nói một
câu, dù không liên quan gì đến chuyện ăn mặn nhưng cũng gợi cho chúng ta một
suy nghĩ, khi có người cúng dường cho ta... Hòa Thượng thường hay nói:
- Một hạt gạo của thí chủ nặng như núi
Tu-Di, đời này không liễu đạo thì đời sau mang lông đội sừng mà trả.
Thì bây giờ đây ta ăn miếng thịt của chúng
sanh cũng vậy. Nếu chúng sanh tự nguyện cúng dường cho chúng ta, chúng ta ăn mà
còn có thể bị nợ như thế, thì huống chi nó không đành lòng cúng dường? Mà ngược
lại, chúng ta còn ép buộc nó, đập nó, giết nó để xẻ miếng thịt của nó ra ăn,
thì coi chừng món nợ này nó sẽ tìm cách đòi... Cho nên, ta phải tìm mọi cách để
về Tây Phương cho được. Chính vì vậy Hòa Thượng mới nói “NÊN ĂN CHAY” để giảm
bớt cái nghiệp của chúng ta...
Còn vấn đề “Tam tịnh nhục” là như thế này:
- Con vật đó không vì ta mà chết.
- Ta
không nghe tiếng nó kêu.
- Ta
không thấy nó chết.
Tức là khi người ta giết, ta không thấy;
nó đau đớn khi bị người ta giết, ta không nghe và không phải vì mình mà nó chết.
Thì những món ăn ở đó có thể là tam tịnh nhục. Nhưng cũng coi chừng, khi mình
khởi cái tâm thèm miếng thịt, thì mình đã vướng tới cái nạn: “Giống
như mình lập lờ để nó bị giết đi, để có miếng thịt cho mình ăn”, thì
cũng có thể vướng!... Nhưng so ra cũng nhẹ đi phần nào!
Chính vì vậy, mà quý vị cứ yên chí. Hãy
quyết lòng thành tâm niệm Phật cho nhiều. Đừng bao giờ cho rằng đủ. Khi niệm
Phật thật là chí tâm, thật là thành kính, đến một lúc tự dưng chúng ta ngộ
ra... Lúc đó chúng ta sẽ ĂN CHAY TRƯỜNG thôi.
Sẵn đây xin kể một câu chuyện hết sức là
thực tế, của chính Diệu Âm. Có một năm đi về Việt Nam. Thường thường thì cô Kim
Ngọc mua vé. Bữa đó Diệu Âm đi ra mua vé. Thày lay đi mua vé mà quên dặn người
ta làm món chay. Chừng lên máy bay rồi mới trực nhớ. Ôi chao! Bây giờ làm sao
đây hén? Đến buổi ăn sáng, mới nói với ông cho ăn:
- Ông giúp tôi miếng ăn chay được
không?
Ông nói,
- Để
coi thử coi?...
Tức là ông đi tìm cho mình mấy miếng bánh
mì, rồi mấy cái gì đó, rau cỏ gì cũng được. Tới bữa trưa, thì hỏi tiếp:
- Ông có thể giúp tôi miếng rau
gì đó được không?
- Không! Không được!... Bây giờ, một là
thịt gà, hai là thịt bò, ba là cá. Ông muốn cái nào?
Thì ba món, mình phải chọn một món, chứ
làm sao bây giờ? Tôi nói:
- Thôi thì cho tôi cá...
Tức là, một đĩa đồ ăn, nửa miếng cá, rồi
nửa miếng cơm. Không có rau! Ban đầu tôi vẹt miếng cá ra để ăn cơm. Ăn cơm xong
thì thấy miếng cá trắng phau! Đẹp quá... Tôi mới nghĩ:
- Ủa! Hồi trước mình cũng ăn cá, tại
sao hôm nay thấy món cá lại ngại? Ồ! Sao miếng cá này nó... nó trắng phau, đẹp
quá!... Thôi làm một miếng thử coi?...
Tôi lấy tiêu rắc rắc lên cho nhiều. Mà nên
nhớ, lúc đó tôi đã ăn chay trường rồi đó nghe... Tôi lấy cái muỗng múc một
miếng cá (rất nhỏ) để ăn thử coi?... Quý vị biết không? Một miếng cá tí tẹo như
thế này thôi, một miếng bằng đầu ngón tay út thôi... bỏ vào miệng... Trời ơi!
Một chút xíu nữa là tôi làm ra đầy hết cả cái… cái... cái sàn máy bay của người
ta rồi! Ói mửa đó. Muốn ói liền lập tức! Không chịu nổi!... Trời ơi!... Tôi
chụp nhanh cái... cái túi, tôi ói vô trong đó liền!...
Thực sự, khi mình biết ăn chay rồi, ngửi
tới miếng thịt chịu không nổi! Ngửi tới miếng cá chịu không nổi! Mà nhiều khi,
vừa nhìn thấy miếng cá thì mình muốn rơi nước mắt rồi!... Thì làm sao mà ăn
được? Lúc đó cái tâm từ bi của mình nó đã phát ra rồi...
Vậy thì, những điều này xin quý vị cứ để
tùy tâm, đừng nên ép. Nhắc như vậy cũng có nghĩa là, những người nào mà ăn chay
trường rồi, đừng nên tự vỗ ngực xưng tên rằng mình sẽ được vãng sanh. Không
phải đâu! Đây chẳng qua là cái phước của mình. Có phước thì phải tận hưởng cái
phước đó khi lâm chung. Chứ không thôi, một khi mình vỗ ngực ỷ lại, thì sự ngã
mạn này nó tàn phá hết tất cả cái phước mình rồi đó.
Nói như vậy để cho chúng ta biết mà điều
chỉnh đường đi. Nhất định, “Cứ
một câu A-Di-Đà Phật mà niệm đi, chân thành đi... Tất cả sẽ được ánh sáng của
Phật soi rọi cho cái tâm của chúng ta, ta đi sẽ đúng đường thôi”...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 44)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Trước khi trả lời câu hỏi của ngày hôm
nay, Diệu Âm xin đọc một cái tin mới, tin này vui chứ không có buồn, tin viết
như thế này:
A-Di-Đà Phật, xin hoan hỷ báo
tin cùng chư vị liên hữu, cư sĩ Diệu Âm Úc Châu, các vị Phật tử. Cụ Bùi Văn
Truyện, ở xóm 3, Kim-Chính, Kim-Sơn, Ninh-Bình, Việt Nam, đã được đức A-Di-Đà
Phật cùng Bồ-Tát Thánh-Chúng gia trì và đã được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc
ngày 7/3/2011 với tướng hảo tuyệt vời, da dẻ hồng hào, toàn thân chân tay mềm
mại, lạnh toát và hơi nóng phát ra ở đỉnh đầu dưới sự chứng kiến của Sư Cô, ban
hộ niệm Hà-Nội, chị Nguyệt đội trưởng. Thay mặt gia đình kính gởi cư sĩ, các
ban hộ niệm, chư vị liên hữu đồng tu lời tri ân.
A-Di-Đà Phật,
Minh Đạt.
Anh Minh Đạt là người ở bên cộng hòa Séc,
anh đang định tổ chức phái đoàn của Âu Châu qua đây, không biết chừng nào qua?
Khi nào qua thì quý vị có thể hỏi anh ta rõ hơn. Anh Đạt này là một trưởng lão
của hội Phật giáo ở cộng hòa Séc. Bây giờ anh ta dùng cái nhà của anh để làm
Niệm Phật Đường và anh cố gắng cộng tu giống như đạo tràng A-Di-Đà ở đây. Tất
cả những bài cộng tu đều gửi qua cho anh hết. Khi gặp anh vào năm ngoái... hay
năm kia gì đó. Mới đây mà hai năm rồi. Anh quyết lòng buông hết để niệm Phật.
Bây giờ các vị trong hội Phật giáo bên đó cũng áp dụng theo phương thức niệm
Phật này. Từ khi bắt đầu áp dụng phương thức hộ niệm, thì đây là người đầu tiên
của anh.
Cụ Bùi Văn Truyện là người trong gia đình
của anh, hổm nay mình có hồi hướng cầu an. Khi biết được hộ niệm vãng sanh thì
Cụ tin tưởng vững vàng và quyết lòng về Tây Phương, không ý kiến gì hết. Bây
giờ kết quả là vậy đó. Vì đây là tin vui đầu tiên của anh Đạt, nên cũng hoan hỷ
thông báo lên đây, chứ sau đó thì thôi, đâu thông báo nữa làm chi… Nhiều quá!
Có nhiều người tu suốt cả một cuộc đời,
đến sau cùng chưa chắc đã hưởng được cái phước phần ra đi mà thân tướng mềm
mại, tươi hồng, toàn thân thì lạnh toát, tay chân thì mềm mại mà đỉnh đầu thì
ấm. Không dễ gì đâu à! Nói thực với quý vị… Không dễ gì đâu! Ấy thế mà có nhiều
người không tin, cứ lo tìm những phương pháp gì thiệt là hay(?), còn con đường
mà đức A-Di-Đà Phật tiếp độ vãng sanh về Tây Phương nằm sát bên mình mà không
chịu chộp lấy, để sau cùng lại bám lấy lý luận mịt mờ, để đi đến chỗ mờ mờ mịt
mịt nào đó, để lại tướng xấu vô cùng! Hễ tướng xấu là cái tiên triệu báo tin
cho tương lai vô cùng mờ mịt!
Biết được chuyện này rồi, xin hãy cố gắng
tin tưởng cho vững. Chính niềm tin của mình nó hướng dẫn mình đi đúng. Nếu mình
tin mập mờ, mình lý luận này, lý luận nọ, những cái lý luận này nó che mất
tương lai giải thoát của chính mình vậy!
Mong chư vị gặp được cơ duyên này phải
quyết lòng. Nên nhớ rằng, khi mình đã loan báo, phổ biến chương trình hộ niệm
ra rộng rãi chính là để mình cứu người, mà cũng chính là để người cứu lại mình.
Thực sự, nếu mình không biết phương pháp hộ niệm thì mình không biết làm sao và
làm những gì trong lúc mình xả bỏ báo thân? Mình không biết hộ niệm thì những
người chung quanh của mình cũng không biết hộ niệm. Do đó, cứu người thì không
biết cách cứu, mà người cứu ta thì cũng không có ai biết làm sao cứu luôn! Cho
nên, sau cùng mỗi người tự lực mà đi. Tự lực để chứng đắc, thì xin thưa thực,
một vạn người tự lực tìm chưa ra một người chứng đắc, khó lắm!...
Ấy thế mà nương vào đại nguyện của đức
A-Di-Đà để hộ niệm cho nhau, dẫn dắt cho nhau, chúng ta từng người từng người
vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Đây là một cơ hội ngàn vàng đổi không được! Ngàn
kiếp tìm không ra! Xin đừng khinh thường chuyện hộ niệm.
Trở lại vấn đề trả lời câu hỏi. Một câu
hỏi khác của một vị đồng tu hỏi là:
- Tôi bận bịu quá, nên không dám nhận
công cứ có được không?
Câu này nói là bận bịu quá nên không nhận
công cứ!... Bây giờ mình có rảnh gì rảnh mà không nhận công cứ thì cũng không
ai nói gì mình. Tự nguyện thôi. Ngược lại, mình bận gì bận, nhưng nhận
công cứ vẫn được như thường. Vì dù bận gì bận, một ngày mình bận tới hai mươi
tiếng đồng hồ, thì ít ra cũng còn được một tiếng để thở, trong lúc một tiếng để
thở đó mình cũng có thể cầm cái máy bấm lên bấm… bấm… bấm... mình kiếm được vài
trăm câu. Có vài trăm câu để mình ghi vào cái tờ giấy đó. Khi mình treo tờ giấy
đó lên tường, mới thấy… À! Tờ giấy này sao mình ghi được mới hai ô à!... Có một ô à!... Vậy thì biết chừng
nào mới xong đây? Chưa biết chừng nào xong cái công cứ, thì con đường vãng sanh
của mình về Tây Phương nó còn bấp bênh quá!...
Thấy vậy, thì chính mình phải tự lo cho
mình. Cũng giống như đưa ra mấy trường hợp hổm nay mình gặp khi hộ niệm đó. Một
người mình nói muốn dẻo nước miếng, năn nỉ mỗi sáng niệm năm chuỗi thôi, trưa
năm chuỗi, chiều năm chuỗi thôi. Thế nhưng một tuần sau quay lại, hỏi ra thì
biết đã không niệm một câu. Mình năn nỉ niệm Phật là để cứu người đó, chứ đâu
phải để cho mình có lợi? Ấy thế mà cứ kèo kè bớt một, thêm hai không chịu niệm.
Không chịu niệm thì thôi đành chịu thua! Điều đó thật ra mình chỉ mớm mồi để
cho người ta phát cái tâm ra, khi phát tâm ra rồi, mình mới nương theo cái tâm
đó mà cứu họ. Vậy mà không chịu niệm, lại còn tuyên bố là tôi đã đau bịnh này
mấy chục năm nay rồi, nhưng tôi đâu có chết?!... Đùng một cái, mới có ba ngày,
chưa kịp tới lần thứ hai để coi thử như thế nào? Mình còn dự định hù dọa thêm
một phen nữa để cho người ta niệm Phật. Nhưng chưa kịp hù dọa lần thứ hai thì
đã chết rồi. Đau khổ! Bất ngờ! Đúng là: Dép dưới giường lên giường vội biệt,
sống ngày nay há biết ngày mai!...
Vậy thì, chúng ta bây giờ chờ cái gì đây?
Không bao giờ có thể chờ được đâu!...
Công cứ này là cho ích lợi của chính chúng
ta. Tại sao với một người bịnh như vậy mà tôi vẫn cứ đưa cái công cứ cho người
ta? Tại vì nhờ công cứ này mà bà Cụ đó niệm Phật, chớ đâu phải đưa cái công cứ
đó mà làm tội cho bà ta đâu! Khuyên cho bà ta niệm một ngày niệm năm ngàn nghe.
Nếu bà mệt quá, bà niệm chỉ có hai ngàn, hai ngàn thì bà cũng có hai điểm, bà
niệm có một ngàn rưỡi thì ít ra bà cũng có được một điểm. Còn không có cái công
cứ đó thì cũng niệm, cứ niệm tới... Tưởng là ngon lắm, nhưng thực ra niệm có
mấy trăm câu là thấy mệt rồi, là tưởng nhiều lắm rồi! Nó không có cái mức thang
để đi. Mà có đi được rồi, thì giống như chiếc xe đã lăn bánh, lăn được rồi thì
có trớn để tiếp tục lăn... Lăn đến bờ Giác. Còn không lăn được, thì nó cứ chùi,
chùi lần... chùi lần xuống! Giống như trên dòng sông nước chảy, mình phải bơi,
mình đi lên thì tự nhiên sẽ lên, còn đứng lại thì sẽ bị lùi xuống. Lùi lại tới
chỗ khổ nạn!
Chính vì thế, làm công cứ được thì tốt cho
chính mình. Không làm công cứ được thì chính mình có thể dùng phương thức nào
khác cũng được. Nhưng thực ra, niệm Phật theo công cứ là vững chắc nhất, an
toàn nhất. Khi về nhà, thấy mình cứ niệm niệm niệm, tưởng mình niệm đủ. Nhưng
khi dùng đến công cứ, thì mới thấy mình niệm yếu vô cùng yếu! Yếu đến nỗi không
thể tưởng tượng được!...
Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư nói: Niệm Phật cần sâu, cần thành tâm, chứ
không cần nhiều. Nhưng
cái tiêu chuẩn của Ngài đưa ra là một ngày niệm ba chục ngàn câu A-Di-Đà Phật.
Đây là ít của Ngài đó.
Ấn-Quang Đại Sư nói: Niệm Phật cần phải chí thành chí kính.
Buông xả, chí thành, chí kính niệm Phật. Mình tưởng niệm như vậy là đã chí
thành chí kính rồi đó!... Chúng ta có biết chăng, tiêu chuẩn của Ngài đưa ra là
một ngày niệm năm chục ngàn câu A-Di-Đà Phật đó quý vị ạ! Ngài là một vị đại
Tôn-Sư rồi đó! Là vị Bồ-Tát tái lai mà Ngài niệm như vậy đó.
Hòa Thượng Thiện-Đạo đời nhà Đường, Ngài
niệm Phật, quý vị biết không? Niệm Phật mà Ngài không dám ngủ, đến nỗi Ngài
thức niệm vì sợ không kịp!... Ngài là một vị đại Tổ Sư nghe, Ngài cứ ráng niệm
Phật, không ngủ... lâu dần thành quen luôn, suốt 25 năm trường không ngủ đến
lúc vãng sanh luôn. Mình làm đâu có được như Ngài! Thực ra mình ngủ mà còn ngáp
lên ngáp xuống nữa, chứng tỏ rằng công phu của mình dù có gì đi nữa vẫn còn
yếu! Vẫn còn yếu như vậy thì sợ rằng khi lâm chung xuống, nghiệp khổ hiện hành,
oán thân trái chủ hiện hành, làm cho chúng ta vượt qua cái ách nạn đó không
được. Ta tu như thế này công phu của ta cũng chưa đáp ứng được những lúc mà ta
hành hình, sát hại mạng chúng sanh! Cái nợ này chắc chắn chúng ta phải trả và
mối thù này họ không đội trời chung, không dễ gì mà họ buông ra. Nếu mình không
có thành tâm, nếu mình không quyết lòng đem công đức càng nhiều càng tốt để hồi
hướng cho họ, sợ rằng là họ không đoạn đành tha cho mình, thì lúc đó ban hộ
niệm tới, chưa chắc sẽ giúp gì được!...
Cho nên quý vị thấy ông Bùi Văn Truyện
này, Ông ngộ ra bao lâu? Khi biết được phương pháp hộ niệm của người cháu đem
về, chính tôi đã gặp và hướng dẫn cho người cháu này mà. Ở từ bên Âu Châu ông
đi về khuyên một lần thì ông Cụ đã quyết đi liền lập tức. “Quyết đi
liền lập tức” và “Đi tà tà” hoàn toàn có
giá trị khác nhau. Chúng ta mỗi ngày tới đây tu. Tu mà đi tà tà hoàn toàn khác
nhau! Một người nào đó vừa nghe câu A-Di-Đà Phật, vừa nghe pháp môn niệm Phật,
quyết lòng đi liền lập tức không chần không chờ nữa, mạnh dạn mà đi, hoàn toàn
khác nhau.
- Đây là do
“Tín năng siêu xuất chúng ma lộ”.
- Đây là do “Tín năng
trưởng dưỡng chư thiện căn”.
- Đây là “Tín tâm thanh
tịnh tức sanh thực tướng”.
Mình quyết lòng đi tức là tín tâm mình
thanh tịnh. Mình không quyết lòng đi tức là tín tâm tà tà, tín tâm ngờ ngờ vực
vực, nên không tạo được công đức. Không tạo được công đức, thì hỏi rằng chính
mình có bị đọa lạc hay không? Người hộ niệm chẳng qua là thương một chút xíu,
than một chút xíu, hay là an ủi gia đình một chút xíu, chứ không cách nào người
hộ niệm có thể cứu mình được. Mà chính mình phải mở cái tâm lực mạnh mẽ ra,
phát tâm mà đi, đi bằng tất cả mọi cách, thì lúc đó ban hộ niệm sẽ hướng dẫn
tích cực. Mình có sót chỗ nào người ta hướng dẫn tích cực, người ta hỗ trợ mình
tích cực và A-Di-Đà Phật phóng quang gia trì, chư Thiên-Long Hộ-Pháp phóng
quang gia trì, chư vị Oan-Gia Trái-Chủ cảm thông mà để cho ông này đi vãng
sanh, để cho mình được lợi...
Tất cả đều do chính mình hết chứ không
phải là do một người nào khác. Cho nên công cứ niệm Phật ở đây có phát hành,
nhưng mà người nào tham gia thì cứ tự quyền tham gia, không tham gia cũng được,
không ai bắt buộc cả. Hoàn toàn chỉ có lợi cho mình chứ không có hại. Nhất
định. Cũng giống như khi đi học ở trường, không có bài thi thì mình không bao
giờ biết được mình học tới đâu hết, mà có bài thi là tự nhiên mình lo học liền.
Lo học nên mình mới đậu, còn một ông thầy không cho bài thi, không cho bài làm
thử, cứ để học trò học tà tà... tà tà. Đến lúc học xong rồi, như Hòa Thượng
Tịnh-Không nói, học thì thấy ngon lắm, nhưng chừng đi thi thì rớt. Rớt vì không
có bài test, không có bài thi thử, không có kinh nghiệm thi. Thì công cứ này
cũng giống như bài thi thử cái năng lực của mình. Hãy treo cái công cứ lên
bảng, nhìn vô mình biết liền.
Do đó, khi gặp những bà Cụ cầm tờ công cứ
tới đây nộp lại, tôi cảm động vô cùng! Thực sự đó chư vị... Cảm động vô cùng!
Là tại vì biết bà này quyết lòng đi, còn một bà Cụ mà đưa tờ giấy hộ niệm, hai
tháng cũng chưa nộp lại, ba tháng cũng chưa nộp lại, cứ tà tà, tà tà... Viện lý
do mệt quá để hẹn nay hẹn mai! Hẹn nay hẹn mai thì công cuộc vãng sanh về Tây
Phương nó cũng hẹn lại một kiếp nào đó trong tương lai, chứ nó không đến với
mình trong kiếp này đâu. Đây là tại vì mình quá lơ là! Nếu lỡ sơ suất, cơ hội
này luống qua thì uổng lắm!... Đây là cơ hội, xin thưa thực, vạn kiếp rồi chúng
ta mới gặp đó.
Mong cho chư vị cố gắng quyết lòng mà đi
để chúng ta cùng nhau về Tây Phương, chắc chắn, đơn giản, dễ dàng. Chỉ cần đi
là tới.
Còn không đi thì vô lượng kiếp
về sau, không biết ngày nào mới tới được Tây Phương Cực Lạc…
A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 45)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Mỗi lần chúng ta đi hộ niệm là một lần
chúng ta làm giàu kinh nghiệm tu hành để vãng sanh. Khi tham gia một số ca hộ
niệm rồi, quý vị mới thấy phương pháp hộ niệm phải cần được mở rộng, phải giao
lưu cho rộng rãi, vận động cho đa số quần chúng biết được, có như vậy mới hy
vọng cứu được chúng sanh. Nhiều người biết được phương pháp hộ niệm làm cho
chính ta cũng an tâm trên con đường vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
Trong mấy tuần qua trên bảng cầu siêu của
chúng ta có thêm một số người, trong đó có những người có liên quan tới chúng
ta. Tôi xin nêu ra những trường hợp đặc biệt cụ thể để chúng ta rút kinh nghiệm
trong con đường cứu người.
Có bốn trường hợp ra đi trong mấy tuần
qua, trong đó thì có ba trường hợp ở trong nước, một trường hợp thì ở đây.
Trong bốn trường hợp đó, mỗi trường hợp mỗi khác nhau.
- Trường hợp thứ nhất:
Là một vị cũng có duyên với đạo tràng, đã
đến đây xin hộ niệm. Ngay lần đầu tiên gặp gỡ, chúng tôi dặn dò rất kỹ, đưa cái
bản nội quy, khuyên phát tâm niệm Phật liền, không được chờ và đưa ra tiêu
chuẩn rất thấp là cố gắng niệm một ngày mười lăm chuỗi đủ rồi, sáng năm chuỗi,
trưa năm chuỗi, chiều năm chuỗi. Đó là cái tiêu chuẩn thấp nhất, vì biết rằng
người này không chịu niệm Phật, nhờ cái đà đó mà mình sẽ giải quyết trong những
lần sau. Thế mà người đó không chịu niệm, để rồi chúng ta chưa kịp làm gì hết
thì vị đó đã ra đi.
Đây là trường hợp người không chịu niệm
Phật! Thôi! Đành phải chấp nhận thương đau trong vô lượng kiếp, không cách nào
có thể cứu được!
Khi chúng ta tới đây niệm Phật, không phải
là thấy ở tại đây có ban hộ niệm thì ỷ lại. Nhiều người có cái vọng tưởng như
thế này:
- Ông Diệu Âm hộ niệm hay lắm. Hễ có
ổng là vãng sanh!
Điều này hoàn toàn sai lầm! Vì khi gặp
tôi, tôi cũng đặt điều kiện rất cứng rắn, là chư vị phải niệm Phật, phải lo
niệm Phật ngày đêm thì may ra mới có thể cứu được. Chứ còn không, nên nhớ chính
tôi cũng là một phàm phu tục tử, chưa chắc gì giúp ích cho chư vị nếu tự cá
nhân chư vị không chịu hạ thủ công phu niệm Phật. Đây là trường hợp thứ nhất đã
quá rõ ràng, chúng ta không cần giải thích thêm nữa.
- Trường hợp thứ hai:
Một người đã qua cái tuổi bát tuần, gặp
một cơ duyên đọc một quyển sách tự nhiên “Ngộ Đạo!” và lo niệm Phật. Nhưng vừa
mới niệm Phật, thì người con mừng quá tới nói với tôi mà rơi nước mắt:
- Trời ơi!... Anh biết không? Cha tôi
76-77 tuổi rồi, từ nhỏ đến lớn chưa biết niệm Phật, mà vừa đọc cuốn sách đó thì
phát tâm niệm Phật.
Vui mừng đến nỗi nói mà rơi nước mắt. Thế
thì anh đó tìm gửi không biết bao nhiêu là Pháp về cho ông Cụ.
Gặp như vậy tôi chận lại và nói, nếu anh
muốn ông Già anh niệm Phật vãng sanh thì anh đừng có gửi Pháp tới nữa, mà hãy
lợi dụng ngay cái bộ sách đó, ngay cuốn sách đó, tại có duyên mà. Hãy cứ nương
theo đó để củng cố con đường niệm Phật cho ông Cụ, thì dễ cứu ông Cụ vãng sanh.
Người đó không chịu nghe, cứ nói rằng,
Pháp này quá hay, tuyệt vời... Nếu không nghe kịp thì làm sao mà vãng sanh? Thế
là anh cứ gửi về, gửi về... Tôi nói, nếu anh không nghe lời tôi, coi chừng vài
tháng sau ông Cụ không niệm Phật nữa đó. Thật đúng như vậy, khoảng sáu tháng
sau, ông Cụ nói:
- Sao mà cái này nói như thế
này, cái kia nói như thế kia? Mệt quá! Thôi! Ta không niệm nữa.
Ông Cụ đã nói thẳng thắn rằng không niệm
nữa, sau đó trở lại tiếp tục nhậu nhẹt, để cuối cùng thì ra đi trong mê mê mờ
mờ. Thật là tăm tối!... Đây là trường hợp thứ hai. Một chuyện cụ thể có tính
điển hình để chúng ta rút kinh nghiệm về con đường hướng dẫn hộ niệm vãng sanh.
Đi đường nào phải đi một con đường. Phải
chuyên, nhất định không được đa tạp. Mỗi người có một cái “Duyên”. Một
cuộc đời của một ông Cụ chưa biết tu, nhưng nhờ thiện căn phước đức hay sao đó
không biết, có duyên gặp một bộ sách, đọc được mấy câu rồi phát tâm niệm Phật.
Như vậy, chính cái duyên của ông Cụ là tập sách này. Đúng ra thì cứ từ từ để
cho ông Cụ niệm Phật đi, mình củng cố con đường niệm Phật cho ông Cụ. Ông phát
tâm niệm Phật, niệm Phật thì có thể được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, chứ
đâu phải nghe Pháp là vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc? Vì quá vội vã nên hướng
dẫn sai! Quyết định sai! Sai rõ rệt! Mình ở đây ngày nào cũng tu, 365 ngày đều
niệm Phật, chưa chắc gì mình nghe được cái núi Pháp đó. Giờ đâu mà nghe? Thế
thì làm sao có thể bắt một ông Cụ phải nghe? Mà nghe rồi thì sao? Mình tưởng
rằng những bài Pháp này đơn giản lắm à? Thực ra, đối với những người mới biết
đạo, không thể nào họ tiếp thu dễ dàng được!
Đây là trường hợp không chịu chuyên, không
chịu bắt lấy một cái cơ hội. Chỉ có một cái cơ hội đó thôi được vãng sanh. Nếu
tạo ra quá nhiều cơ hội khác thì loạn cái tâm đi. Chính vì vậy mà không được
thành tựu. Đây thực là một kinh nghiệm đáng giá cho chúng ta suy nghiệm.
- Trường hợp thứ ba:
Cũng rất đáng chú ý để chúng ta rút kinh
nghiệm. Cũng là một người biết tu, người con đã biết hộ niệm nhưng lại không
chịu nghiên cứu kỹ phương pháp hộ niệm. Khi hộ niệm cho người thân của mình,
lại áp dụng phương thức hoàn toàn sai!... Sai ở chỗ nào? Cứ bắt buộc, ép buộc
người bịnh phải làm theo ý mình mới được. Đây là cách hướng dẫn hoàn toàn đi
ngược với phương pháp hộ niệm cho người vãng sanh.
Sau này chúng ta đi hộ niệm cho một người
cũng phải chiều cho được người đó, hãy nương theo ý muốn của người đó để tìm
cách chuyển lần, chuyển lần. Phải vận dụng phương tiện, nương theo sở thích của
người đó mà giúp cho họ. Giả sử như sau cùng giúp không được, thì cũng tại vì
duyên phần của người ta, chứ không cách nào khác hơn.
Ta không thể nào nói rằng, Ba phải nghe
như thế này, Mẹ phải nghe như thế kia để được vãng sanh. Hoàn toàn sai lầm! Vì
không hiểu, đã áp dụng quá nguyên tắc, đem tới cho người bệnh nhiều phiền não!
Mình thì niệm Phật, người bệnh thì phiền não. Chính người bệnh phiền não thì họ
bị đọa lạc! Đây cũng là trường hợp cần phải nhớ khi đi hộ niệm.
Nên nhớ, mình thấy điều này hay, mình
khuyên bà Cụ, khuyên ông Cụ, khuyên người bịnh nhưng phải biết áp dụng phương
tiện thiện xảo, không thể nào quá cứng ngắc.
- Người
bệnh nói, tôi niệm “A-Mi-Đà Phật”. Mình nói, “A-Di-Đà Phật” mới được! Mình niệm trái ý
người bệnh thì nhất định họ mất phần vãng sanh!
- Một
người bệnh nói, tôi niệm “Nam Mô A-Di-Đà Phật”. Mình nói “A-Di-Đà Phật” đủ rồi, bỏ chữ “Nam Mô” đi.
Mình bắt người ta phải bỏ chữ “Nam Mô”, người ta mất vãng sanh!
- Một người nào đó họ nhất tâm
niệm “A-Di-Đà Phật”. Bây giờ mình thấy âm “A-Mi-Đà Phật”
hay quá, mình nói “A-Mi-Đà Phật” mới đúng, không được niệm “A-Di-Đà
Phật”. Cưỡng bức người bịnh thì làm cho họ mất phần vãng sanh!
Làm như vậy là ứng dụng sai nguyên tắc hộ
niệm!
Nghiên cứu về hộ niệm, chúng ta cần phải
đi sâu vào mới thấy. Rõ ràng nó bao trùm cả pháp giới chứ không phải đơn giản.
Chính vì không biết uyển chuyển, không chịu để cho người bịnh thoải mái, thành
ra sau cùng cũng đành khóc ròng để tiễn đưa người thân của mình đi vào những
chốn khổ nạn trong tương lai! Đành chịu thôi, chứ biết cách nào khác hơn?
- Một
trường hợp thứ tư:
Xảy ra cũng mới vừa đây, người đó được
vãng sanh, mà như hôm qua tôi báo cáo cho chư vị. Thật bất khả tư nghì!
Trường hợp này tôi cũng biết, người này có
một người cháu ở bên Tiệp, trong năm ngoái có gặp tôi, học cách hộ niệm rồi về
ứng dụng liền. Ông Cụ này không phải là không tu, cũng có tu, nhưng mà tu cũng
giống như những người khác. Khi biết được phương pháp hộ niệm, tự nhiên Ông ta
phát tâm niệm Phật liền. Nương thẳng vào cơ hội này, Ông ta niệm Phật ngày đêm
quyết lòng về Tây Phương, rồi người cháu đó về quê thành lập một ban hộ niệm
tại chỗ để hộ niệm cho ông Cụ. Trước đây cỡ chừng ba, bốn tuần, chúng ta có để
tên của ông Cụ để cầu an, tiêu tai giải nạn. Bây giờ người cháu đã thông báo
rằng ông Cụ ra đi để lại một thoại tướng bất khả tư nghì.
Đây là một trường hợp tích cực để chúng ta
rút thêm kinh nghiệm! Tại sao ông Cụ này lại được vãng sanh? Chính là do “Duyên
Phần”. Khi gặp được phương pháp hộ niệm nói về vãng sanh, ông Cụ hạ quyết tâm
ngay lập tức, buông xả hết tất cả, không sợ gì nữa, quyết lòng niệm Phật. Ông
Cụ niệm Phật ngày, niệm Phật đêm quyết định đây là con đường phải đi. Quý vị
thấy đó, ban hộ niệm đã hộ niệm được mấy tháng thì vãng sanh. Trước khi vãng
sanh ông Cụ vẫn bị đau đớn, vẫn bị khổ sở bởi nghiệp chướng báo hại ông ta cả mấy
tháng trường chứ không phải tầm thường. Thế nhưng ông Cụ quyết lòng niệm Phật,
kiên trì, không sợ gì hết. Quý vị thấy, một lần phát tâm tự nhiên có sự gia
trì.
Chúng ta tới đây hàng ngày niệm Phật với
nhau, chúng ta hạ quyết tâm nhưng tu theo kiểu tà tà thì coi chừng thua ông Cụ.
Ông Cụ mới phát tâm, hình như là chưa tới hai năm, hơn một năm thôi. Hạ quyết
tâm ông Cụ thành tựu. Không hạ quyết tâm, nếu ông Cụ cứ chờ... chờ... chờ!...
Chờ thì nhất định bị hại! Chính vì vậy, đây chính là một kinh
nghiệm có giá trị đối với con đường giải thoát.
Bây giờ xin hỏi, ta đã hạ quyết tâm chưa?
Nếu ta đã hạ quyết tâm, thì chứng tỏ có niềm tin vững. Niềm tin này nó sẽ soi
sáng con đường vãng sanh, chứ không phải cứ nói rằng tới đây có ban hộ niệm,
ban hộ niệm này sẽ giúp mình... Hoàn toàn không phải. Ban hộ niệm chỉ có hướng
dẫn cho mình từng chút từng chút để mình đi. Mình hạ quyết tâm thì:
- Mình tiếp
xúc được với quang minh của Phật.
- Mình tiếp
nhận được lời khai thị của ban hộ niệm. và...
- Mình theo
như vậy, mình đi đúng đường, mình được vãng sanh.
Mình tới đây với lòng hồ nghi!... Hồ nghi!
Sự hồ nghi biến thành một cái tấm màn chắn, giống như tấm bảng, tấm chắn đó
ngăn cản đường vãng sanh. Quang minh của Phật luôn luôn phổ chiếu tới mình,
nhưng quang minh của Ma Vương cũng luôn luôn phổ chiếu tới, tranh giành một cái
thân khổ nạn này. Nếu mình không tin tưởng thì giống như có một cái tấm chắn,
chận ngang quang minh của Phật lại. Quang minh của Phật vì cái tấm chắn này
chiếu qua không được. Khi quang minh của Phật bị chận, thì những quang minh
khác tự do tràn ngập. Quý vị có thể tưởng tượng như vầy, ví dụ, có một ánh đèn
xanh bên này, một ánh đèn đỏ bên kia, mình lấy một cái màn chận ánh sáng đỏ
lại, thì tự nhiên cả cái thân người của mình toàn màu xanh hết, tại vì cái
quang minh màu đỏ không chiếu tới được. Mình tin tưởng cho vững vàng lời
A-Di-Đà Phật thì tự nhiên có một cái tấm chắn… chắn tất cả những quang minh
khác, những sức tiếp độ khác, quang minh của Phật hoàn toàn tiếp xúc với mình,
mình đi về với Phật. Mình không chịu tin, mình đi mập mờ, thì tự nhiên quang
minh của Phật vì lòng tin mập mờ của mình mà bị ngăn chặn, đây gọi là ngăn
ngại, ái ngại, chướng ngại... Do đó tất cả những luồng quang minh của lục đạo
luân hồi sẽ phổ quát ra, sẽ tự do bao trùm mình lại, lôi mình đi vào con đường
đọa lạc...
Bốn trường hợp này đều là kinh nghiệm quý
báu cho chúng ta suy nghiệm. Xin nhắc lại thật kỹ những điểm quan trọng:
- Niềm tin
vững chưa? Niềm tin vững thì...
- Phát
nguyện vững chưa? Tha thiết chưa?... Nguyện vãng sanh về Tây Phương.
- Đường đi
vững chưa? Niệm câu A-Di-Đà Phật có chuyên nhất hay không?
Ba điểm này giúp cho chúng ta vãng sanh về
Tây Phương, nhất định không thể nào bị trở ngại!
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 46)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Mấy ngày hôm nay chúng ta nghe những tin
động đất ở bên Nhật, nhìn thấy những cảnh nước tràn tàn phá đất nước của Nhật,
mà chúng ta rợn người! Hòa Thượng Tịnh-Không liên tục trong mấy năm nay kêu gọi
tất cả đồng tu ráng cố gắng tu hành, làm “Tam
Thời Hệ Niệm” hết năm này qua năm nọ và Ngài đang cổ động liên tục 100 thất
là 700 ngày, làm “Tam Thời Hệ Niệm”
để hồi hướng cho chúng sanh hóa giải cái ách nạn này.
Ta ở đây 365 ngày tụng kinh niệm Phật,
cách niệm Phật của chúng ta là một phần của “Tam Thời Hệ Niệm”, chỉ có khác một
chút là chúng ta tăng thời gian niệm Phật lên và không có những lời khai thị.
Chúng ta cũng có niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát để cầu tiêu tai giải nạn. Nếu chúng ta
cứ tiếp tục như vậy thì công đức này cũng đóng góp một phần rất khá để giảm bớt
nạn tai của thế giới. Kính mong chư vị cố gắng vì thương chúng sanh, ráng tinh
tấn hơn nữa, hãy tới đây cộng tu tạo thêm công đức để hồi hướng.
Tại sao lại bị động đất? Về khoa học thì
chúng ta không nói, nhưng mà về Phật pháp thì Hòa Thượng Tịnh-Không thường
giảng rằng sự địa chấn nó liên quan tới cái lòng sân giận. Vì khổ quá, vì bị
bức bách quá nên chúng sanh uất hận, mà trong sự uất hận của chúng sanh nó liên
quan đến nghiệp ác của con người, thường thường là tội sát sanh. Khi đã bị nạn
rồi thì cái oán hận càng ngày càng chồng chất, nhất là những vị gọi là chúng
đẳng vong linh ở trong những cảnh khổ. Họ đã chịu đựng quá nhiều cho nên lòng
uất hận của họ càng ngày càng nhiều. Nên nhớ rằng các vị vô hình, các vị bị nạn
trong tam ác đạo họ nhiều hơn loài người chúng ta tới hàng ngàn hàng triệu lần
chứ không phải là ít.
Mình hiểu được như vậy, nên xin chư vị cố
gắng phát tâm dũng mãnh hơn nữa, tu hành niệm Phật cho nhiều để hồi hướng công
đức, mong cho những oán hận này giảm xuống để tai nạn thế giới bớt đi.
Trong kinh Phật có dạy rằng, người học
Phật thì đức hạnh đầu tiên là “Hiếu
dưỡng phụ mẫu”. Tại sao chúng ta lại nhắc tới sự hạnh hiếu dưỡng phụ mẫu? Vì
xin thưa thật, là chính ông bà, cha mẹ, những người thân kính quyến thuộc của
chúng ta trong nhiều đời nhiều kiếp vụng tu nên bị đọa lạc nhiều lắm. Ta thường
gọi là hồi hướng công đức cho các chư vị vong linh, chứ thật ra thì ông bà, cha
mẹ chúng ta nhiều lắm trong đó. Khi ta biết đường tu như thế này, thường thường
là ông bà, cha mẹ chúng ta nghe được thì họ mừng lắm, đang hằng giờ mong cầu
đứa con, đứa cháu, tức là chúng ta, hồi hướng công đức cho họ. Nếu chúng ta
không có công phu tu hành, không có công đức, hoặc có mà nhiều khi quên hồi
hướng công đức cho họ, thì chính những người thân của mình lại nổi cơn sân giận
nhiều hơn là người thường đó.
Nếu sau này có cơ duyên đi hộ niệm cho
người ta, quý vị mới thấy được những điều này, là hầu hết những hiện tượng gọi
là nhập thân báo đời, thì có thể nói hơn 90% là dòng họ của người đó. Không cha
thì mẹ, không mẹ thì ông nội, ông ngoại, ông chú, ông bác gì đó... Thường
thường là như vậy. Có những người rất là hung hãn. Tôi đã gặp nhiều trường hợp
mà chính người thân nhập vào người thân, mà mỗi lần nhập vào như vậy thì họ cầm
dao cầm búa đâm vào người. Dễ sợ lắm! Họ đánh người thân, họ tìm cách giết
người thân đó, và mỗi lần như vậy, họ nói:
- Tại sao mày giết tao? Tại sao mày hãm
hại tao? Tại sao tao có làm gì tội lỗi với mày mà mày đối xử tệ như vậy?...
Quý vị không tưởng tượng được đâu! Họ căm
hờn như vậy. Đó là những trường hợp mình biết, còn những chuyện căm hờn khác
xảy ra khắp nơi mà mình không hay.
Ví dụ như trong vô lượng kiếp của chúng
ta, thì chúng ta có vô lượng vô biên ông bà, cha mẹ đã bị đại nạn. Khi chúng ta
tu hành như thế này thì thường thường những ông bà cha mẹ đó có thể cảm ứng
được, cứ mong sao cho một đứa con, một đứa cháu hồi hướng công đức. Bây giờ thứ
nhất là thấy một đứa con, một đứa cháu đang biết tu hành mà không chịu hồi
hướng. Thứ hai là tu hành tà tà, tu hành giỡn giỡn, tu hành không vững, hồi
hướng không có một chút xíu nào hết, làm cho họ càng ngày càng đau khổ hơn. Góp
phần làm cho niềm sân hận nảy sinh ra.
Phật dạy, người Phật tử đầu tiên là phải “Hiếu
dưỡng phụ mẫu”. Nếu chúng
ta biết niệm Phật, biết con đường về Tây Phương, thì sự hiếu dưỡng này phải cụ
thể một chút, không phải cứ đợi tới tháng bảy mùa Vu Lan báo hiếu, tới làm một
cái lễ gì đó gọi là báo hiếu! Không có bao nhiêu hết trơn! Mà hằng ngày chúng
ta niệm Phật hồi hướng công đức, thành tâm hồi hướng thì tự nhiên công đức này
biến Pháp giới.
Trong công cứ của chúng ta gọi là Cửu
Phẩm Liên Đài, thì tờ đầu tiên chính là tờ “Báo Ân Niệm Phật”, trong
đó có bốn câu:
Phật ân, Thân ân.
Hạo thiên võng cực.
Dục báo chi đức.
Niệm Phật đệ nhất.
Có nghĩa là ân Phật, ân Cha Mẹ, “Hạo
thiên võng cực” là lớn bao trùm cả pháp giới, lớn lắm, không có cách nào
mình có thể diễn tả nổi. “Dục báo chi đức” là muốn báo đền cái công đức
này, “Niệm Phật đệ nhất” là không có gì bằng niệm Phật hết.
Chúng ta niệm Phật ở đây không phải là chỉ
tu riêng cho chúng ta đâu mà tu luôn cho ông bà, cha mẹ, cửu huyền thất tổ
nhiều đời nhiều kiếp của chúng ta nữa. Hằng ngày ráng cố gắng tinh tấn hơn,
thay vì chúng ta dành thời gian đi chơi uổng lắm! Hãy dành thêm thời gian niệm
Phật, thay vì chúng ta cứ nghĩ này nghĩ nọ, buồn khổ để làm gì?...
- Một cơn
buồn xảy ra phá tan biết bao nhiêu công đức.
- Một sự lo
âu nổi lên phá tan biết bao nhiêu công đức.
- Một sự khổ
sở nổi lên nó nhập vào trong tâm chúng ta: Nếu không súc sanh thì cũng là ngạ
quỷ, không ngạ quỷ cũng là địa ngục.
Cảnh khổ là cảnh tam ác đạo. Rơi vào đó
thì làm sao có cơ hội “Ly khổ đắc lạc”
để đi về Tây Phương được?... Chính vì vậy, vì không biết tu nên nỗi khổ nó cứ
đến, càng ngày càng thâm nhập vào chúng ta. Trong lúc ngồi trong Niệm Phật
Đường thay vì ta nhiếp tâm niệm Phật quyết lòng về Tây Phương, thì những cái
cảnh khổ đó cứ hiện ra trong lúc chúng ta đang niệm Phật, vô tình câu niệm Phật
chúng ta không mang lại một công đức nào hết trơn. Chính vì không nhiếp tâm nên
không có công đức. Không có công đức thì không hồi hướng được cho pháp giới
chúng sanh, không có hồi hướng được cho ông bà cha mẹ...
Xin thưa thật, báo hiếu cha mẹ không phải
cha mẹ còn sống mới báo hiếu, mà phải cần hồi hướng luôn cho cả ông bà, cha mẹ
đã qua đời rồi, tại vì ông bà, cha mẹ của chúng ta nhiều khi không được sự
hướng dẫn tu hành, nên thường bị đọa lạc, họ chờ từng ngày từng giờ... Đừng nên
báo hiếu bằng cách chờ tới ngày giỗ kỵ làm vài con gà để cúng mà báo hiếu cha
mẹ... Sai lầm vô cùng! Làm vậy cha mẹ mình càng ngày càng bị đọa lạc...
Khi chúng ta biết được báo hiếu không có
gì khác hơn là quyết lòng quyết dạ vãng sanh về Tây Phương. Xin thưa thật công
đức vãng sanh về Tây Phương chính là cái công đức báo hiếu triệt để. Tại sao
vậy? Vì Hòa Thượng thường hay nói rằng, khi chúng ta vãng sanh về Tây Phương thì ngày đó là ngày ông bà, cha
mẹ, cửu huyền thất tổ của chúng ta thoát được cảnh tam ác đạo. Người
ta đang chờ từng giây từng phút cái ngày chúng ta vãng sanh để cho họ thoát
khổ. Tôi không nói là họ đi về Tây Phương, mà họ thoát được ba cảnh khổ. Mình
biết rằng không phải ta chỉ có một ông cha, hai ông cha, ba ông cha, mà có tới
vô lượng vô biên ông cha, vô lượng vô biên đứa con, vô lượng vô biên ông nội,
bà nội... họ thoát được. Cái công đức này lớn vô cùng lớn.
Chính vì vậy mà sắp tới đây chúng ta sẽ cố
gắng tìm cách tăng thêm chương trình Tinh Tấn Niệm Phật. Thay vì
một ngày, ta tiến lên hai ngày, tiến lên ba ngày, được bao nhiêu người tu bao
nhiêu người. Để chi? Để góp phần với chư vị trên thế giới cùng nhau hồi hướng
cho pháp giới chúng sanh, giải bớt tai nạn và quyết lòng vững vàng đi về Tây
Phương.
Một là giải cái ách nạn cho chính mình.
Mỗi người chúng ta ai ai cũng đầy hết cả nghiệp ác trong này nè. Người ta chuẩn
bị, người ta chờ từng giây từng phút mà khởi lên đó. Oan gia trái chủ của mỗi
người nhiều lắm ở trong đó. Nếu chúng ta không thành tâm niệm Phật, không quyết
lòng niệm Phật thì các vị đó không bao giờ đoạn đành bỏ quên cái mối thù sát
sanh hại mạng của họ đâu. Chính vì họ không biết về nhân quả, nên họ không bỏ,
họ không xả. Nghiệp ác này nó cộng vào cộng nghiệp của chúng sanh mà sanh ra
tai nạn. Hòa Thượng Tịnh-Không nói, cái nạn tai trên thế giới của chúng sanh
bây giờ lớn lắm rồi, tại vì trong vô lượng kiếp tới giờ ta đã làm nghiệp ác lớn
quá rồi chứ không có gì cả.
Quý vị nghĩ thử coi, lập một cái Niệm Phật
Đường lên tốn tiền, tốn bạc, tốn công, tốn sức, tốn đủ thứ... nhưng nhiều lắm
cũng chỉ có năm người, mười người, hai chục người... tới niệm Phật mà thôi. Còn
hàng vạn người khác không bao giờ niệm Phật đâu à!... Hàng triệu người khác
người ta vẫn tiếp tục sát sanh hàng ngày. Nạn sát sanh giải không được.
Hiểu được điều này rồi, khi đến Niệm Phật
Đường niệm Phật chúng ta phải trực nhớ là mình đang ở trong cái cơ hội vãng
sanh thành đạo, thoát tất cả những ách nạn mà trong vô lượng kiếp chúng ta bị
đọa đày. Khi mà thoát rồi, chúng ta sẽ có năng lực đi cứu độ chúng sanh, đi cứu
cái ách nạn này. Cho nên muốn hết những nạn sóng thần, thì nhiều người vãng
sanh về Tây Phương thì cái nạn này mới hết. Thực sự như vậy.
Một người mà vãng sanh thì người ta có
thần thông đạo lực, họ đi giải cứu những ách nạn này. Chư Phật mười phương thay
phiên nhau cứu độ chúng sanh, nhưng mà cứu không hết. Nạn tai nhiều quá! Chúng
ta phải hiểu được như vậy thì ráng cố gắng mà tu để về cho tới Tây Phương Cực
Lạc, hợp tác với chư Phật mười phương. Rồi khi ngài Di-Lặc hạ sanh xuống, mình
cũng theo Ngài xuống đây hoằng dương Phật pháp cứu độ chúng sanh. Đây là sự
thực!... Xin chư vị vững lòng tin tưởng. Tín-Hạnh-Nguyện, Tín-Hạnh-Nguyện mà
đi.
- Nếu Lòng
Tin chưa vững, nay tin cho vững đi.
- Nếu Sức
Nguyện của mình sai lầm, nay nguyện lại đi. Càng vãng sanh sớm chừng
nào càng hay chừng đó. Chính sức nguyện này là cái duyên rất đậm để chúng ta về
Tây Phương.
- Còn Hạnh
là gì? Làm lành lánh dữ là trợ hạnh. Niệm câu A-Di-Đà Phật thiết tha về Tây
Phương chính là Chánh Hạnh.
Cho nên Chánh Hạnh, Trợ Hạnh phải
phân minh. Một lòng một dạ ngày ngày trì giữ câu A-Di-Đà Phật. Quyết lòng!
Người nào niệm năm ngàn thì ráng cố gắng lên bảy ngàn, tám ngàn câu A-Di-Đà
Phật một ngày. Đã được tám ngàn rồi thì tại sao không tăng lên chín ngàn?...
Tăng lên mười ngàn? Ngài Ấn-Quang Đại Sư đưa ra cái mẫu mực năm chục ngàn là tại
vì Ngài thấy cái ách nạn của thế giới lớn quá đi! Ngài đã quỳ xuống lạy chúng
sanh niệm Phật để mà tiêu tai giải nạn, để mà chính mình được thoát nạn.
Xin chư vị quyết lòng niệm Phật
nhất định đi về Tây Phương thành đạo Vô Thượng cứu độ chúng sanh…
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 47)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Tu hành trong thời đại này nhất định chúng ta phải cẩn thận, phải hợp
căn hợp cơ, không được sơ ý!...
Trong ngày hôm nay chúng tôi
lại nghe một tin, có một người tu hành vì sơ ý không xét rõ căn cơ của mình mà
bị trở ngại, và sự trở ngại cũng rất là bi ai!...
Cho nên chúng ta nói đề tài “Khế Lý - Khế Cơ” thật sự
là quan trọng. Xin tất cả chư vị chú ý.
Trong tất cả các pháp môn, pháp
môn niệm Phật là dễ nhất. Ta chọn pháp môn dễ nhất là tại vì căn cơ của chúng
ta thấp, những pháp môn khó chúng ta không đủ khả năng. Giữa cái khó và cái dễ,
ta chọn cái dễ, đó là hợp căn cơ. Dễ mà hợp căn cơ thì cũng được thành tựu mỹ
mãn. Cũng giống như trong trường đời, người tiến sĩ thì người ta có thể đọc
nhiều, nghiên cứu bất cứ một tài liệu nào cũng không trở ngại, còn người bình
dân như chúng ta không thể nào vào trong viện nghiên cứu để nghiên cứu được…
Nên nhớ rằng hợp với căn cơ thì
dễ thành công. Thế gian không thiếu gì người học lớp một, lớp hai, nhưng khi
làm một việc gì hợp với sức, hợp với khả năng, người ta cũng có thể trở nên tỷ
phú.
Tu hành cũng giống như vậy.
Trong pháp môn niệm Phật, khi thực hành ta cũng phải biết chọn cái phương thức
nào dễ, mà hợp với chính ta nữa thì mới thật sự là đúng.
Ví dụ:
- Nhất tâm bất loạn? Khó
quá! Chí thành chí kính? Dễ! Ta chọn
phương pháp “Chí Thành Chí Kính”. Niệm A-Di-Đà Phật, cứ chí thành chí kính như
vậy mà niệm Phật, thì với lòng thành kính này nhất định chư vị được vãng sanh.
Vãng sanh tức là thành đạo.
- Tu
cho chứng đắc? Khó quá! Khiêm nhường, tập khiêm cung? Dễ! Xin chư vị hãy lấy cái “Khiêm
Cung” này làm kim chỉ nam. Càng tu càng khiêm nhường, càng khiêm nhường ta càng
dễ thành tựu. Khi thành tựu rồi thì cao hay thấp cũng như nhau.
Chúng ta mới thấy rằng, phải
cần tuyển trạch, chọn lựa kỹ càng mới có thể thành công được. Nếu sơ ý, khi đã
bị vướng nạn rồi thì chịu thua!... Một người bạn sát bên cạnh cũng không cứu
được! Cha không cứu con, con không cứu cha, vợ không cứu chồng, chồng không cứu
vợ được. Thành ra trước khi chúng ta hạ thủ công phu làm cái gì, nhất định phải
cân nhắc cho thật kỹ, tức là phải quán xét coi căn cơ của mình ở chỗ nào. Đó
gọi là hợp cơ.
Ví dụ, như ta tu để cho nhất
tâm bất loạn không được, nên ở ngay tại đây chúng ta dùng phương pháp công cứ.
Công cứ có nghĩa là cần cù siêng năng niệm Phật. Về chứng đắc? Chúng ta chứng
không được! chơn tâm tự tánh hiển lộ? Chúng ta làm không được. Nhưng mà…
- Cần
cù niệm câu A-Di-Đà Phật, chúng ta niệm được.
- Người
cần cù niệm Phật là người khiêm nhường.
- Người
cần cù niệm Phật là người thành tâm thành kính.
Rõ ràng chúng ta đi con đường
căn bản để sau này được dễ dàng thành đạo, chắc chắn như vậy. Tại vì A-Di-Đà
Phật đã phát đại thệ:
- Những người nào nghe danh
hiệu của Ngài thành tâm chí thành chí kính mà niệm, tâm tâm hồi hướng về Tây
Phương Cực Lạc...
Ngài không có nói…
- Người nào nghe danh hiệu
của Ta phải niệm Phật cho nhất tâm bất loạn, phải niệm Phật cho chơn tâm
tự tánh hiển lộ rồi Ta mới rước về Tây Phương.
Ngài không có phát tâm nguyện
này. Chúng ta tu ở đây là tu thật sự, là theo đúng kinh Phật, chắc chắn ta sẽ
thành tựu, đơn giản như vậy.
Chính vì vậy, mà có nhiều người
than rằng:
- Sao tôi vẫn còn vọng
tưởng nhiều quá!...
Không sao đâu! Vọng tưởng cứ để
nó vọng tưởng đi, đừng lo ngại tới làm chi cho cực, mắc công lắm!...
- Sao
tôi niệm không nhất tâm bất loạn...
Không có sao đâu! Nhất tâm bất
loạn có hay không cũng kệ nó, đừng sợ. Cứ một lòng thành tâm niệm Phật là được.
Như hôm trước ta nói, đi ngang
Phật mình phải cung kính chấp tay xá Phật đàng hoàng. Vô trong đạo tràng thành
tâm niệm Phật cung kính với người ta... Cứ vậy mà đi, nhất định chư Thiên-Long
Hộ-Pháp sẽ gia trì cho chúng ta, sẽ bảo vệ cho chúng ta và chư đại Bồ-Tát bảo
vệ cho chúng ta tới ngày chúng ta vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc luôn.
Trong cách tu hành, lớn nhỏ nó
đều tùy vào tâm của mình, chứ không phải tùy theo số lượng đâu! Ví dụ như bố
thí, có nhiều người than với Diệu Âm!...
- Tôi
bây giờ nghèo quá, không biết làm sao cúng dường bố thí?
Tôi nói, không cần. Tới Niệm
Phật Đường người ta có tiền cúng dường bố thí năm chục ngàn, sáu chục ngàn, bảy
chục ngàn... gì cũng kệ họ. Mình không có tiền thì ra phía sau nhổ cỏ. Người
thành tâm nhổ cỏ, thời thời phước huệ tăng. Người ta bố thí nhiều thì thích
khoe ra, nhưng ra ngoài shop khi cầm bó rau muống lên thì lựa lên lựa xuống...
Mất hết tất cả công đức rồi! Rõ ràng, một cộng rau muống hư mà không xả được,
thì làm sao dám cầm đồng tiền ra mà “Chân
thành bố thí”?...
Chính vì vậy, phương pháp tu
chúng ta phải biết cho rõ. Một người lên xe bus chọn ghế cao ghế tốt mới ngồi,
ghế thấp không chịu ngồi, thì tâm bố thí không có!
- Nếu chỗ nào ngồi cũng được: “Dễ!”. Chọn cái ghế cao quá, chọn ghế tốt quá: “Khó!”. Chọn như vậy
thì chúng ta
đã đi con đường khó rồi!
Người có tâm tu hành thì phải
biết nhường những chỗ tốt cho người khác ngồi. Ta ngồi mà thấy một cô phụ nữ
này chưa có chỗ ngồi, tại sao mình không nhường? Nhường đó chính là tâm bố thí.
Mua một vé máy bay, ghế ngồi thì chọn lựa lên, chọn lựa xuống, trên máy bay ghế nào
cũng bọc nệm hết trơn, tại sao mình không lựa chỗ nào eo eo để ngồi, nhường cái
chỗ tốt tốt một chút cho người ta ngồi? Đây là tâm bố thí. Chúng ta cần biết hy
sinh một chút xíu. Ghế nào cũng là ghế, mình chọn ghế tốt ư? Chọn ghế tốt thì có
một bà già phải ngồi ghế dở. Đây là tâm phân biệt! Tâm eo hẹp! Cái chỗ ngồi,
cái ghế... nó không có gì hơn cho mấy, mà mình cũng tranh cũng giành, thì làm
sao mà có tâm bố thí lớn được?...
- Như vậy thì ngồi chỗ nào
cũng được: “Dễ!... Chỗ nào mình cũng
cười hè hè. Chọn cho được cái ghế tốt: “Khó!”... Vì lỡ không còn ghế tốt, mình ngồi cái ghế
không vừa ý, cái tâm của mình sẽ phiền não! Phiền não nó nổi ra ngay trong lúc
này.
Cho nên buông xả là ngay trong
lúc này, chứ không phải buông xả là cái gì khác đâu! Ngài Tịnh-Không luôn luôn
nhắc nhở, tập buông xả, buông xả tối đa. Mỗi lần khi tôi đi tới chỗ nào, người
cứ chọn cho tôi cái ghế tốt một chút. Nhưng tôi không có thích cái ghế tốt đó
một chút nào hết. Tôi bảo là cứ chọn đại đi. Tôi đi mua vé máy bay, họ hỏi chọn
chỗ nào? Tôi nói chỗ nào cũng được. Như vậy thì tự nhiên dễ dàng. Ngồi bên cửa
sổ thì mình nhìn mây, ngồi phía trong thì mình niệm Phật. Có gì đâu mà phải
chọn?
Xin chư vị phải tập buông xả
từng chút, từng chút như thế này, đó gọi là hợp với căn cơ của chúng ta. Chứ
nếu chúng ta cứ nói buông xả... buông xả... Nhưng thật ra thì từng chút, từng
chút mình phân đo, kèn cựa. Đi ra ngoài shop cầm bó rau muống lựa lên, lựa
xuống, cầm bó rau lang lựa lên, lựa xuống! Lựa như vậy thì bao nhiêu phước của
mình mất hết. Uổng vô cùng! Tại sao mình không có cái tâm... tôi lấy bó rau
muống này thì bị thua thiệt hai cộng rau, nhưng thua thiệt hai cộng rau muống
mà ông chủ bán được, ông chủ bán được thì ông chủ lời, ông chủ lời thì mình
mừng cho ông chủ... Hòa Thượng Tịnh-không nói, vì chúng sanh mà làm đạo thì tự
nhiên phước mình tăng lên. Nếu vì mình làm đạo, vì mình cho tiện nghi một chút,
thì bao nhiêu cái nghiệp sẽ đổ dồn vô mình mà không hay.
Vậy thì, tu hành không có gì là
cao siêu hết!
- Chính
là làm những gì bình thường nhất…
- Chính
là làm những gì đơn giản nhất…
- Chính
là làm những gì dễ dàng nhất…
Mình dễ dàng từng chút từng chút như vậy
thì tự nhiên tâm mình buông xả, chứ đừng nghĩ rằng bỏ đồng tiền ra cúng dường
này, cúng dường nọ mới là bố thí… Không phải!
Buông xả! Cái tâm bố thí là chỗ này. Buông
xả vạn duyên là chỗ này. Thành tâm niệm Phật là chỗ này. Tự nhiên chúng ta sẽ
thành đạo.
Hôm trước có một vị tới đây khoe với tôi:
- Tôi đang niệm Phật để cho chứng tới
cảnh Niệm Vô Niệm.
Tôi nói thẳng liền:
- Chị về lo khiêm nhường mà niệm Phật
đi, đừng có nghĩ tới chuyện “Niệm Vô Niệm” nữa. Nếu mà chị còn mơ tới chuyện
đó, coi chừng khi đã bị trở ngại rồi thì không còn ai cứu được nữa đâu.
Ngày hôm nay tôi nghe một cái tin cũng là
một người ham chứng đắc “Nhất tâm bất loạn” đã đưa đến kết quả rất là
phũ phàng, rất là bi ai!... Đây là sự thật làm cho tôi ngỡ ngàng và câu chuyện này
nó củng cố, nó chứng minh cho đề tài chúng ta đang nói, tu hành cần phải “Khế Cơ”.
Khế cơ là gì? Nói thẳng thắn là chúng ta hãy...
- Dùng
cái “Thành Tâm” mà niệm Phật.
- Dùng cái “Khiêm Nhường” mà niệm Phật.
- Dùng cái “Cần Cù” mà niệm Phật.
Còn tất cả những cái chứng đắc cao kỳ,
những cái lý luận cao siêu xin tạm thời để khi về trên Tây Phương xong rồi mới
làm chuyện đó... Đó mới là đúng. Chư vị hãy giữ vững như vậy, kết hợp với nhau
tu hành thì nhất định chúng ta sẽ được chư Bồ-Tát gia trì, chư Thiên-Long gia
trì cho chư vị và A-Di-Đà Phật hằng phóng quang minh bao phủ chúng ta, tiếp độ
chúng ta vãng sanh về Tây Phương, nhất định một đời này thành tựu đạo quả...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
(Tọa Đàm 48)
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Trong 48 đêm nói về hộ niệm vừa
“Khế Lý” vừa “Khế Cơ” là để hợp
với căn cơ của chúng ta mới thành tựu đạo quả... Thì hôm nay là đêm cuối cùng,
Diệu Âm xin tổng kết lại nội dung của đề tài này.
- Chúng ta hãy nên tự xác nhận
mình là hàng hạ căn phàm phu. Đã là hàng phàm phu thì chúng ta phải cố gắng
thực hiện cho được những điều cần thiết đối với mình, để trong một đời này vượt
qua cái thân phận phàm phu, trở về Tây Phương thành bậc Thánh Nhân. Ngài
Ấn-Quang Đại sư nói “Khuyên người
niệm Phật cầu về Tây Phương là giúp cho một chúng sanh phàm phu thành bậc Chánh
Giác”. Câu nói này là để khai thị cho chính chúng ta.
- Đã là phàm phu thì phải Khiêm
Nhường, quyết định phải Khiêm Nhường, dù chúng ta có
công phu như thế nào đi nữa, thì xin chư vị cũng phải nhớ điểm này: Đừng
bao giờ móng khởi một cái tâm là mình đã được chứng đắc, là mình tu khá!
Điều này sẽ không hợp với hàng phàm phu của chúng ta đâu!
- Đã là phàm phu thì nghiệp
chướng sâu nặng, mà nghiệp chướng sâu nặng thì ta có thể bị nghiệp khổ hành hạ,
oán thân trái chủ nhiều. Có thể chúng ta sẽ bị tấn công trong những lúc sắp sửa
rời bỏ báo thân. Cho nên phải chuẩn bị trước. Chuẩn bị có nghĩa là đừng
bao giờ nghĩ rằng công phu mình đã đủ. Chư Tổ đều nói rằng, một khi mà
mình nói công phu mình đủ, thì nhất định bắt đầu từ đó cái tâm bị “Thoái
hóa”, tức là mình bị khó khăn, tức là cống
cao ngã mạn nổi lên hồi nào không hay và chính cái điểm yếu này sẽ phá mất
đường vãng sanh của chúng ta.
- Trong tất cả các pháp tu, ta
hãy chọn những phương pháp nào dễ nhất và lại được chư Tổ khuyến khích mà áp
dụng. Nhờ như vậy mới khế hợp với căn cơ của chúng ta.
- Thay vì mình cầu mong chứng
đắc, thì bây giờ mình hãy lo Thành Tâm, Chí Thành, Chí Kính Niệm
Phật. Mình
muốn cho được chứng đắc không tốt bằng giữ tâm khiêm cung lại. Nhất định là
mình không thể nào tự chứng đắc được đâu. Cho nên càng tu càng nương vào đại
lực của đức Phật A-Di-Đà, cầu Ngài tiếp độ về Tây Phương. Khi tâm mình cung
kính như vậy, tâm thành khẩn như vậy thì được chư Thiên-Long Hộ-Pháp gia trì,
chư Bồ-Tát gia trì. Cụ thể là khi tu hành chúng ta cố gắng giữ giới giữ luật
nghiêm minh, để cho đạo tràng của chúng ta càng ngày càng trang nghiêm, được
chư Thiên-Long Hộ-Pháp bảo vệ. Nhờ vậy mà chúng ta mới được an toàn. Nếu sơ ý,
chúng ta có thể bị các Ngài la rầy.
- Về phương pháp tu, thì mình
không nên tìm hiểu về những phương pháp cao kỳ quá, đừng nên lý luận nhiều quá,
mà chúng ta nên chọn những cách gọi là “Cần-cù, Nhẫn-nại, Khiêm-tốn...”.
Cố gắng tạo thêm thời gian niệm câu A-Di-Đà Phật.
- Khi niệm câu A-Di-Đà Phật
chúng ta cứ nhiếp tâm vào câu A-Di-Đà Phật, lắng nghe những tiếng niệm A-Di-Đà
Phật của chính mình.
- Trong lúc niệm Phật nếu có
vọng tưởng nổi lên thì cũng đừng nên khó chịu vì vọng tưởng đó. Cứ để vọng
tưởng sao thì vọng tưởng, kệ nó!... Trong lúc nghĩ này nghĩ nọ như vậy mình cứ
ráng cố gắng niệm câu A-Di-Đà Phật lên. Người nào có xâu chuỗi thì cầm xâu
chuỗi. Người nào có cái máy bấm số thì nên bấm số. Cứ niệm như vậy thì một lúc
nào đó tự nhiên câu A-Di-Đà Phật sẽ thay thế cho những cái nghĩ này nghĩ nọ.
Đây là những cách công phu hết
sức là cụ thể, đơn giản mà giúp cho chúng ta vượt qua cái ách nạn sanh tử luân
hồi, vãng sanh về Tây Phương. Đơn giản!
Như vậy, có những điều chúng ta
không nên mơ tới. Mơ cho mình được chứng đắc! Nhất định đừng nên mơ tới. Muốn
chứng hồi nào thì cứ để nó chứng đi, tự động nó tới. Đừng bao giờ nghĩ mình là
nhất tâm bất loạn. Danh từ này tạm quên đi. Nhất tâm bất loạn tự nó là do công
phu thành tựu. Khi công phu chúng ta thành tựu thì tự nhiên chúng ta sẽ tới chỗ
đó, đến chỗ đó thì tự nhiên chúng ta sẽ biết, chứ không nên khởi tâm móng cầu.
Tu như vậy thì chúng ta đang đi theo con đường an toàn vậy.
Trong ngày hôm nay có một số vị
ở bên Âu Châu, bên Đức gọi qua, người ta nói những lời rất là tha thiết, mà rất
là dễ thương, cảm động! Những đạo tràng ở bên Đức, Thụy-Sỹ, Tiệp-Khắc... người
ta cũng phát tâm công phu theo như Niệm Phật Đường của chúng ta. Người ta đã tự
nhận làm công cứ. Đây cũng là một cái duyên rất hay.
Trở về cách công phu, chúng ta
đang hô hào ở tại đây là vận động công cứ. Thì công cứ này hoàn toàn là tự
nguyện, không phải bắt buộc. Có thể quý vị lập công cứ ghi điểm cũng được, tức
là cầm cái tờ công cứ để ghi số. Hoặc là tự mình lập ra công cứ riêng, ví dụ
như một ngày tôi sẽ dành ra ba tiếng đồng hồ để niệm Phật, thì chúng ta cố gắng
làm sao dành ra ba tiếng đồng hồ để niệm. Hoặc là, có người nói một ngày tôi
niệm ba chục chuỗi... thì đó là công cứ của mình. Cũng giống như có người nói,
bây giờ tôi không tính chuỗi, mà tôi tính hơi thở. Cứ nằm xuống thở ra: “A-Di-Đà Phật”, thở vô: “A-Di-Đà Phật”... thì đó cũng
công cứ.
Có rất nhiều cách công cứ, mà
cái công cứ hay nhất, cụ thể nhất, thường thường bây giờ ở những đạo tràng
người ta đang thực hiện, đó chính là làm những cái bảng để ghi nút nút nút vào
đó. Khi nhìn vào đó mình biết mức công phu của mình đang đi tới đâu...
Bây giờ ở Việt Nam cũng có rất
nhiều đạo tràng cũng đã xin nhận công cứ rồi. Bên Âu Châu, bên các nước khác
nữa... Hiện nay chúng tôi đang soạn chương trình để gởi cho họ. Phải viết giấy
đàng hoàng, cần dặn dò cẩn thận chứ nhiều khi có nhiều người thường vọng tưởng,
tức là khi người ta lập công cứ như vậy thì cứ tưởng rằng mình chứng đắc?! Đây
là điều không được đúng!
Xin nhắc nhở lại, công cứ này
chỉ giúp cho ta có cái nấc thang để đi, đi cho vững vàng. Chúng ta nên nhớ, là
sau cùng ít ra chúng ta cũng niệm cho được mười niệm để vãng sanh.
Đây là mức thấp nhất, tệ nhất chứ không phải là cao nhất đâu.
Nếu chúng ta nghĩ rằng, mười
niệm dễ quá thì coi chừng bị rớt đài! Chính vì vậy mà Hòa Thượng Tịnh-Không
khuyên chúng ta cố gắng công phu để đạt đến Thượng-Phẩm, nếu có trở ngại gì thì
cũng rớt xuống Trung-Phẩm. Nếu mà chúng ta cố gắng đạt đến công phu Trung-Phẩm,
thì có rớt cũng rớt xuống Hạ-Phẩm, chúng ta cũng được về Tây Phương. Nếu mà
chúng ta chỉ đạt cái tiêu chuẩn Hạ-Phẩm thì thường thường là thi rớt. Ví dụ như
đi thi, người nào mà chuyên cần học, quyết học cho được đậu cao, thì có thể còn
xuống hàng trung trung. Nếu người nào học mà nghĩ rằng đủ rồi, thì nhiều khi vô
trong trường thi sẽ quên hết! Trường thi của chúng ta là thi vượt qua sanh tử
luân hồi. Lúc lâm chung không phải dễ đâu!...
Để cụ thể hơn, Diệu Âm đưa ra
cái công cứ đã soạn ra để phổ biến cho đồng tu tại đây. Chương trình tại đây là
như thế này...
Ngoài công phu sáng, tức là ở
đây sáng thì từ 5 giờ đến 7 giờ. Quý vị ở nhà có thể thức từ 4 giờ đến 6 giờ,
hoặc từ 9 giờ đến 10 giờ, hoặc là tu thêm cũng được... không sao hết. Riêng
cách công phu sáng của Niệm Phật Đường chúng ta ở đây đã loan ra nhiều chỗ rồi,
vì tu hay mà lại dễ. Vừa niệm Phật, vừa tụng kinh, vừa lạy Phật, lại vừa sám
hối, (lạy Phật là sám hối), mà lại được có 30 phút để “Tập thể dục” nữa... Trong khóa công phu có cả thế gian
pháp và Phật pháp được lồng vào trong đó, có vẻ hay, nên có nhiều người tham
gia vào.
Công phu tối như chúng ta đang
tu đây và những ngày tu tinh tấn thì không được tính vào công cứ. Mỗi ngày xin
quý vị cần thêm công phu niệm Phật. Chúng tôi xin chia ra như thế này...
Nên nhớ rằng, chương trình này
đưa ra chỉ để thẩm định công phu thôi, còn quý vị có theo thì theo, không theo
thì thôi chứ không ai bắt buộc đâu. Chúng ta có thể tự do quyết định. Tự mỗi
chúng ta phải lo lấy huệ mạng của chính mình, không ai có thể lo cho mình được.
Công cứ chúng tôi đưa ra đây
như thế này, mỗi ngày:
- Một người niệm từ không niệm câu nào hết
cho đến dưới 1.000 câu. Nói về công phu thì thiếu công
phu! Không có công phu! Tức là... Sáng có thể tu, chiều có thể tu, mà sau đó
thì không chịu niệm Phật. Thì ở đây đánh giá rằng... là người không có công
phu, và bản “Thẩm Định” thì cho rằng những người này chưa thật sự muốn vãng
sanh. Tại vì nếu là người muốn vãng sanh thì không bao giờ có thời gian rảnh mà
lại không chịu niệm Phật!?...
- Cái mức thứ hai là những người
niệm từ 1.000 câu Phật hiệu cho đến 4.000 ngàn câu Phật hiệu một ngày. Họ tranh thủ để niệm được như
vậy. Thì đây đã có công phu, nhưng mà “Công phu quá yếu”! Phải
mau mau tăng thêm công phu. Đây là chiếc xe mới tập lăn, nhưng bị thiếu xăng
rồi!... Xe lăn như vậy, sợ rằng đến lúc lâm chung chúng ta sẽ niệm không nổi
mười niệm đâu. Đừng nghĩ niệm mười niệm là dễ dàng! Phải tập niệm cho nhập tâm.
Nếu niệm không nhập tâm, thì niệm không nổi đâu. Chắc chắn! Vì công phu yếu
quá, nên thường thường những thứ thế gian pháp, những chấp trước của thế gian
thâm nhập vào tâm mình nhiều quá, đến lúc đó mình chịu không nổi! Xin chư vị có
thể chiếu theo cái bản này mà tự nghiên cứu lấy nếu quyết lòng muốn đi về Tây
Phương.
- Cái mức thứ ba là người niệm từ
mức 5.000 câu cho đến 9.000 câu, dưới 10.000 câu. Thì mức này không gọi là quá yếu, mà gọi
là “Yếu!”. Tức là dưới 10.000 câu vẫn là yếu, chưa đủ bảo đảm
vãng sanh. Cần nên thêm công phu, không nên nghĩ vậy là đủ. Còn thiếu nhiều
lắm!...
- Cái mức thứ tư là người nào
niệm được từ 10.000 câu cho đến 14.000 câu, tức là chưa tới 15.000, thì công
phu đã có.
Công phu này “Được”, không đến nỗi quá yếu. Đây gọi là
cái căn bản của người niệm Phật. Những người ví dụ như già quá rồi niệm không
nổi nữa, thì cái mức 10.000 câu đến 14.000 câu nên cố gắng trì giữ để cho
kịp... vì đã bịnh xuống rồi thì thời gian ra đi cũng không còn lâu nữa đâu, sợ
rằng nếu sơ ý thì sau cùng chịu không nổi với nghiệp chướng. Thì ở đây chúng
tôi thẩm định về căn bản là “Được”, và có thể tiếp tục giữ cái
mức này dài lâu, không sao hết. Quan trọng là lòng chân thành của mình và cần
nhờ ban hộ niệm tới giúp đỡ thì mình cũng có khả năng vãng sanh, nhưng mà cũng
không chắc chắn lắm.
- Cái mức thứ năm là từ 15.000
câu cho đến 19.000 câu, tức là dưới 20.000 câu. Thì ở đây chúng tôi đánh giá là “Khá”.
Những người nào mà niệm trên 15.000 câu, chưa tới 20.000 câu thì cũng được đánh
giá là khá và có thể tiếp tục giữ cái mức này càng lâu càng tốt. Có thể giữ cho
đến lúc lâm chung cũng được, và đây là điều đáng khuyến khích.
- Một cái mức nữa là những người
niệm từ 20.000 câu cho đến 24.000 câu. Mức này được đánh giá là “Giỏi”. Xin chư vị khi niệm như vậy đừng nên quá
trọng về số lượng, coi chừng khi mình coi trọng về số lượng thì niệm không rõ,
niệm không vững, thì chủng tử A-Di-Đà Phật đi vào tâm của mình rất là yếu. Niệm
như vậy cũng không có thể gọi là tốt được.
Mình phải thành thực với chính
mình. Niệm phải niệm cho thật rõ ràng, dù nhanh cũng phải rõ ràng, dù lúc niệm
thầm cũng phải rõ ràng từng câu từng câu. Chứ đừng nên ham số lượng nhiều quá!
Về số lượng giấy tờ thì giỏi đó, nhưng về công lực thì yếu, cũng không nên. Hy
vọng là những mức này có thể giúp cho chư vị tỉnh táo được cho đến lúc lâm
chung. Nhất là khi được hộ niệm nữa thì đường vãng sanh không đến nỗi nào mà bi
ai lắm.
- Còn những người niệm từ 25.000
câu trở lên. Là những người “Đặc biệt”, “Giỏi”, rất là “Đáng khen”.
Nhưng xin thưa với chư vị là phải tập tùy sức mà niệm. Nếu mà mình niệm thấy từ
25.000 câu đến 30.000 câu mà thoải mái, pháp hỷ sung mãn thì chúng ta nên tiếp
tục. Còn nếu mà mình cố gắng quá sức, làm cho mình bỏ ăn bỏ uống, làm cho mình
xuống sức khỏe... thì chúng ta có thể chậm chậm lại một chút để giữ cho được
cái mức quân bình vừa cả tâm lẫn thân mới tốt…
Những người niệm từ 25.000 câu
trở lên được gọi là “Đặc biệt, quá
đặc biệt”, thuộc vào hàng “Giỏi”, “Tinh tấn”.
Xin nhắc nhở lại, là cần phải tùy sức đừng nên quá sức. Tại vì cố gắng quá sức
cũng có thể dễ bị trở ngại!...
Đây là những cái mức chúng tôi
đưa ra, xin quý vị có thể nhìn vào cái bản “Thẩm Định” này mà tự xét lấy mình.
Nếu chúng ta quyết lòng nhất định đi về Tây Phương thì phải cố gắng, tự mình cố
gắng, đừng có ỷ lại vào một cái gì hết. Thấy một người đó mê man bất tỉnh trong
bệnh viện, đừng bao giờ nghĩ rằng mình không đến nỗi như vậy. Hòa Thượng
Tịnh-Không nói, nghiệp chướng thì ai cũng có, bây giờ nó chưa có cái duyên, nó
chưa có cái dịp trổ ra đó thôi, khi mà nó trổ ra rồi thì coi chừng nghiệp của
mình còn nặng hơn người khác nữa mà không hay đó!...
Mong chư vị nghĩ đến huệ mạng
ngàn đời ngàn kiếp, cố gắng tinh tấn tu hành. Mong cho tất cả chúng ta đều được
thành tựu viên mãn...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
Nguyện đem công đức này:
Hồi hướng cho thập phương pháp giới chúng
sanh, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ tam đồ, cầu nguyện thế giới hoà bình,
tiêu tai giải nạn.
Hồi hướng cho lịch đại kiếp số oán thân
trái chủ, tất cả chúng sanh đã bị con não loạn hoặc giết hại vì bất cứ lý do
gì. Hôm nay con xin thành tâm sám hối. Nguyện cầu chư vị xoá bỏ hận thù, hộ
pháp cho nhau, đồng lòng niệm Phật, đồng nguyện vãng sanh, đồng sanh Cực Lạc.
Hồi hướng cho tất cả thân bằng quyến thuộc
trong vô lượng kiếp, dù đang ở trong bất cứ cảnh giới nào, đều được cảm ứng,
phát lòng Tín-Nguyện-Hạnh Niệm Phật, siêu sanh Tịnh-Độ.
Hồi hướng cho tất cả thân bằng quyến thuộc
đang hiện tiền, nghiệp chướng tiêu trừ, phước lành tăng trưởng, phát khởi tín
tâm, niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ, và đều được thành tựu.
Hồi hướng cho tất cả chúng sanh có duyên
hay không có duyên với con, sau cùng đều được vãng sanh Cực Lạc Quốc.
Hồi hướng về Tây Phương trang nghiêm
Tịnh-Độ. Nguyện khi con lâm chung, không còn chướng ngại, biết trước ngày giờ,
tâm hồn tỉnh táo, thấy A-Di-Đà Phật, Quán-Âm, Thế-Chí,
Thanh-Tịnh-Đại-Hải-Chúng, tướng hảo quang minh, hiện thân tiếp dẫn vãng sanh
Cực Lạc.
Nguyện hoa nở thấy Phật ngộ Vô-Sanh,
nguyện chứng đắc Vô-Thượng Bồ-Đề, nguyện độ vô biên chúng sanh trong mười
phương pháp giới vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, viên thành Phật đạo.
NAM
MÔ A DI ĐÀ PHẬT