Phật Học Online

Tín, nguyện, chuyên trì danh hiệu Phật
Pháp Sư Tịnh Không

(Trích từ Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác )

Kính thưa chư vị pháp sư, chư vị đồng tu, xin mời ngồi! Mời xem Phẩm thứ hai mươi bốn: Ba Bậc Vãng Sanh, chương Thượng Phẩm Vãng Sanh.

Ở Phần trước chúng ta đã học tập qua phát tâm Bồ Đề, tiếp theo kinh văn là “nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật”. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, tại trong Chú giải Kinh Vô Lượng Thọ, trước tiên Ngài đã trích dẫn Kinh A Di Đà Yếu Giải nói cho chúng ta biết là, trong toàn bộ Phật pháp thì Trì Danh Hiệu Phật là pháp thẳng tắt nhất, viên đốn nhất. Những lời khai thị này rất là quan trọng, khiến cho chúng ta trước tiên chân thật xây dựng quan niệm chính xác. Quý vị đều biết trong Phật pháp thì Từ Bi Vi Bổn, Phương Tiện Vi Môn [từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa]. Không chỉ là Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa khi còn tại thế giảng kinh hơn 300 hội, thuyết pháp 49 năm đều là pháp phương tiện, mà thậm chí đến tám tướng thành đạo, vô số thị hiện vẫn là pháp phương tiện. Rời khỏi phương tiện thì không có Phật pháp. Phật pháp là thông qua phương tiện khiến cho chúng ta từ trong pháp phương tiện mà ngộ nhập, rồi khế nhập pháp chân thật. Pháp chân thật là đoạn dứt ngôn ngữ, diệt nơi tâm hạnh, chỉ có thể nói là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Việc này chúng ta không thể không biết. Không chỉ là Thích Ca Mâu Ni Phật như thế, mà mười phương ba đời tất cả chư Phật, Bồ Tát cũng không hề ngoại lệ. Chúng ta đã hiểu rõ đây là pháp môn thẳng tắt và viên đốn nhất, lại nói với chúng ta biết đây là pháp môn đơn giản và ổn định. Để cho chúng ta tu tập tiện lợi thì phải đơn giản, phải dễ dàng, nếu rất phức tạp, rất khó khăn thì chúng ta học không dễ dàng như vậy, mà phải đơn giản dễ dàng, hơn nữa còn phải ổn định thì quyết định được thành tựu. Đây là pháp môn gì vậy? Đại sư Ngẫu Ích nói với chúng ta là Tín-Nguyện chuyên trì Phật hiệu. Chân thật là đơn giản.

Cho nên trong Vãng sanh truyện, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục cho đến ngay chính chúng ta trong đời này thấy rất nhiều người niệm Phật có tướng lành vãng sanh. Vì sao họ được thành tựu? Vì họ có Tín Nguyện Chuyên Trì Phật Hiệu. Năm xưa tôi ở tại Singapore, lão Lâm trưởng của Cư Sĩ Lâm là cư sĩ Trần Quang Biệt, ông bị bệnh trong một thời gian dài, khi bị bệnh ông không thể làm việc nhưng tinh thần vẫn rất tốt, đầu óc rất minh mẫn và ông muốn nghe kinh. Vì ông cả đời hộ trì Phật pháp nên không có thời gian chuyên tâm nghe kinh, nhờ vào cơ duyên bị bệnh này mà mỗi ngày có thời gian để nghe kinh.

Ông đến Cư Sĩ Lâm lấy đĩa kinh mà tôi giảng, người nhà của ông nói với tôi, lão cư sĩ mỗi ngày nghe kinh 8 giờ đồng hồ, ngoài nghe kinh ra thì niệm Phật suốt hai năm không hề gián đoạn. Có một hôm, ông nói với Lý Mộc Nguyên, ông muốn vãng sanh. Cư sĩ Lý nói với ông, hiện tại ông không thể đi vì nhân sự của Cư Sĩ Lâm chưa ổn định, ông nhất định phải trụ thế thêm vài năm nữa. Ông cũng đã đồng ý. Trải qua thêm được hai năm, tức là ông đã mỗi ngày nghe kinh niệm Phật được bốn năm, thì ông xin từ chức lâm trưởng của Cư Sĩ Lâm, nhường cho Lý Mộc Nguyên. Lúc này đạo tràng Cư Sĩ Lâm cũng đã ổn định. Ông biết trước giờ vãng sanh, ông cũng không nói với mọi người, dường như là mùng 8 tháng 3, tôi không còn nhớ rõ ngày nào, ông viết ngày giờ ở trên miếng giấy, viết mười mấy lần như vậy, người trong nhà cũng không dám hỏi ông, cũng không biết đó là nói đến việc gì, vì sao ông lại viết nhiều lần như vậy?

Đến ngày hôm đó, quả nhiên ông đi vãng sanh thì người trong nhà mới biết được là ba tháng trước ông đã viết ra ngày tháng mà chính ngày hôm đó ông vãng sanh. Trong suốt thời gian bốn năm, ông mỗi ngày nghe kinh 8 giờ, ngoài thời gian nghe kinh ra thì ông tín nguyện niệm Phật, chuyên trì danh hiệu Phật nên vãng sanh được tự tại như vậy. Dường như trước mấy ngày ông vãng sanh, ông có đến  tìm tôi và tôi đã quy y cho ông, điềm lạ rất tốt. sau khi vãng sanh rồi còn có một nhóm oan gia trái chủ đến Cư Sĩ Lâm xin nghe kinh và quy y, chúng tôi đều làm cho họ. Sự cảm ứng không thể nghĩ bàn. Đây là việc gần đây mà chúng tôi chính mắt thấy được. Cho nên đây là pháp môn đơn giản ổn định, đây là việc thật không phải là giả.

Đại sư Ngẫu ích lại nói với chúng ta: công đức danh hiệu không thể nghĩ bàn. Danh hiệu này chính là đức hiệu trong tự tánh của chúng ta vốn sẳn đầy đủ. Trong phần trước đã giới thiệu với các vị là “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”,  đây là nói về lý luận. Lý luận thấu triệt rồi thì đối với phương pháp tu học pháp môn này sẽ không có hoài nghi, bạn sẽ rất hoan hỉ, rất an vui mà nổ lực tu học. Nếu bạn hỏi, chúng ta nổ lực tu học pháp môn này thì thời gian bao lâu mới có thể thành tựu? Tôi học Phật đã 55 năm, đem 55 kinh nghiệm nói với các vị, thông thường đều là 3 năm, rất ít nhiều hơn 5 năm. Hoặc có thể bạn nói bạn học Phật đã được 20 năm 30 năm rồi nhưng vì sao không có một chút thành tựu nào? đó là vì công phu của chính bạn không có lực.

Về việc này, khi tôi mới học Phật, lão sư thường hay nói với tôi là phải thông đạt lý luận thì sẽ không có hoài nghi, phương pháp chính xác thì tín tâm của bạn đầy đủ, không thể không biết lý luận và phương pháp. Lý luận phải học từ đâu? học từ kinh giáo. Cho nên ở thời đại này, chúng ta nhất định phải nghe kinh. Người thời xưa có thể không nghe kinh, vì sao vậy? vì họ thành thật. Tại vì sao ngày nay chúng ta phải nghe kinh? bởi vì chúng ta không thành thật. Không thành thật chính là nghĩ tưởng lung tung, vọng niệm quá nhiều, khiến cho công phu của chúng ta không có lực. Vì sao không có lực? vì trong lúc niệm Phật có xen tạp vọng niệm. Bạn nghĩ lại xem, niệm Phật là chuyên trì danh hiệu, cái chữ chuyên đó chúng ta chưa làm được thì nhất định phải nghe kinh. Cho nên mục đích của nghe kinh, học giáo là giúp chúng ta đoạn nghi sanh tín, dụng ý là ngay chỗ này. Nếu như chúng ta không có hoài nghi, không có vọng niệm xen tạp, thì có thể không cần nghe kinh, niệm một câu Phật hiệu thì thành công rồi.

Các vị thấy, kinh điển của Phật giáo có bộ Đại Tạng Kinh, bạn đến đại giảng đường chúng ta mà xem, trong đại giảng đường của chúng ta có mười loại Đại Tạng Kinh phiên bản khác nhau. Bạn xem, kinh điển mênh mông như biển, nhiều đến như vậy, nhưng những gì Phật dạy có phải nhiều đến như vậy không? Phật dạy đơn giản nhất chính là bốn chữ A Di Đà Phật, thêm vào hai chữ Nam Mô. Nam Mô cũng là tiếng Phạn, ý nghĩa là cung kính, cũng có nghĩa là quy y, trên thực tế danh hiệu chính là bốn chữ. Đại sư Liên Trì cả đời niệm Phật, chỉ niệm bốn chữ này. Có người thỉnh giáo với Ngài cách niệm Phật như thế nào? Ngài dạy người niệm sáu chữ. Người ta hỏi Ngài, còn Ngài thì niệm như thế nào? Chính ta chỉ niệm bốn chữ A Di Đà Phật. Người khác liền hỏi Ngài tại vì sao Ngài niệm chỉ có bốn chữ còn Ngài dạy người khác niệm sáu chữ. Ngài nói, vì người khác chưa chắc chân thật phát tâm cầu vãng sanh nên thêm vào hai chữ Nam Mô thì tốt. Đây chính là lễ tiết thông thường của Trung Quốc chúng ta, trên danh tự của người thêm vào hai từ tôn kính, đó là lời khách sáo, tôn kính. Nam Mô có ý nghĩa của tôn kính, lễ kính, quy y. Trên kinh điển Phật dạy chúng ta chuyên trì danh hiệu, danh hiệu chính là bốn chữ A Di Đà Phật, Nam Mô không phải là danh hiệu. Ngài nói ta ngay đời này quyết định cầu sanh Tịnh Độ nên không cần nói lời khách sáo, nên không cần niệm Nam Mô, chỉ niệm bốn chữ thì càng đơn giản hơn.

Người ta hỏi Ngài cái gì là Phật pháp? Ngài trả lời: A Di Đà Phật.  Ngài đã trả lời một cách tròn đầy cho họ rồi. Trong tất cả tôn giáo, tất cả học thuật trong thế gian thì đơn gian nhất, dễ dàng nhất, chân thật ổn định nhất chỉ có bốn chữ này. Bạn đi đâu mà tìm được chứ?! Thế nhưng đại sư Ấn Quang vẫn dạy chúng ta niệm sáu chữ là do nguyên nhân gì vậy? vì tổ sư rất tường tận các người niệm Phật có miệng mà không có tâm, chỉ là kết cái thiện duyên với Phật A Di Đà. Các vị phải nên biết, việc này Ấn tổ đã nói rất nhiều, nói được rất tường tận là kể cả pháp thế gian hay xuất thế gian, thành tựu hay không chính là ở hai chữ “Thành” và “Kính” này. Chân thành cung kính là điều quan trọng nhất trong tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Một phần thành kính thì được một phần lợi ích, hai phần thành kính thì được hai phần lợi ích, mười phần thành kính thì được mười phần lợi ích. Nếu không có tâm thành kính thì cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian đều không thể thành tựu. Thầy giáo dựa vào phương pháp gì để chọn học trò?

Từ xưa đến nay, thậm chí đến nước ngoài, chân thật thiện tri thức chọn người truyền pháp, chính là họ xem ở học trò này có tâm thành kính hay không, có mấy phần tâm thành kính? Nếu như có mười phần tâm thành kính thì khẳng định con người này là pháp khí. Các phương diện khác kém một chút cũng không quan hệ gì, có thể học, có thể bồi dưỡng. Tâm thành kính là căn bản, đây cũng chính là tâm Bồ Đề mà phía trước đã nói. Nếu không có tâm thành kính thì dù tất cả chư Phật đích thân dạy bạn cũng không thể dạy ra được. Vì sao vậy? vì bạn không thể tiếp nhận. Chỉ có thành kính mới có thể tiếp nhận lời dạy. Cái đạo lý này bạn phải hiểu, đương nhiên càng hy vọng chính chúng ta có thể làm được.

Tôn sư trọng đạo phải bồi dưỡng từ nhỏ, càng nhỏ càng tốt. Khi tôi còn nhỏ, tôi học chữ là khi 3 tuổi, phụ thân dạy cho tôi, mẹ tôi thì không biết chữ. Khi tôi 5-6 tuổi thì đến trường tư thục ở nông thôn. Hôm vào học ở tư thục, ấn tượng của tôi cả đời cũng không phai nhạt. Tôi nhớ cha tôi mang theo lễ vật để tặng cho thầy giáo. Chúng tôi đến trường tư thục. Trường tư thục ở trong một cái từ đường, một cái từ đường thờ thân bằng quyến thuộc chúng tôi, trên cùng là bài vị của Khổng Lão Phu Tử, chữ bên trên tôi đều nhận biết, đó là “Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư Khổng Tử Chi Thần Vị”. Tôi nhớ được rất rõ ràng, cha tôi dẫn tôi dâng hương lên thần vị này, đối với bài vị của Khổng Tử hành lễ tôn kính nhất là tam quy cửu khấu thủ [ba quỳ chín lạy]. Sau khi lạy Khổng Tử xong, cha tôi mời thầy ngồi trên ghế, thầy ngồi ở bên dưới phía trước của bài vị Khổng Tử, cha tôi hướng dẫn tôi hướng đến thầy cũng hành lễ tam quỳ cửu khấu thủ. Chúng tôi còn nhỏ đến như vậy, xem thấy cha mình cung kính đối với thầy giáo như vậy, còn dám không nghe lời thầy hay sao? còn dám không tiếp nhận giáo huấn hay sao? Tôi nghịch ngượm ở trường học bị thầy giáo xử phạt, đánh vào lòng bàn tay, phạt quỳ; khi về nhà đương nhiên vẻ mặt rất khó coi vì bị xử phạt rồi, cha mẹ liền hỏi bị thầy giáo trừng phạt rồi phải không? Ngày hôm sau cha mẹ tôi đưa tôi đi học, cảm tạ đối với thầy giáo, cảm tạ thầy giáo đã hết lòng giáo huấn. Thầy giáo cùng gia trưởng kết hợp mật thiết với nhau, cha mẹ dạy chúng ta tôn sư trọng đạo, thầy giáo dạy chúng ta phải hiếu thuận cha mẹ, anh em thương yêu nhau, thì sự dạy học mới thành tựu được như vậy.

Đây gọi là tiên nhập vi chủ. Tức là từ nhỏ tôi đã tiếp nhận cách giáo huấn này nên cả đời đều theo như vậy mà làm. Đây là cả đời của tôi còn hưởng được loại giáo dục như vậy. Tôi thân cận tiên sinh Phương Đông Mỹ, hy vọng đến trường để nghe ông giảng dạy. Tôi quen biết với thầy bằng cách tự giới thiệu mình, tôi viết một lá thư, tức là tôi viết một bài văn chương gởi đến thầy, xin thầy chỉ giáo và mong thầy chấp nhận cho tôi có thể đến trường để dự thính các buổi giảng dạy của thầy. Một tuần sau thì thầy trả lời thư, thầy hẹn tôi đến nhà để gặp mặt. Nhà thầy ở số 60 đường Cổ Linh là ký túc xá của đại học Đài Loan. Tôi đã đến nhà thầy để gặp thầy. Sau khi gặp mặt nói chuyện, thầy nói với tôi, chú không nên đến trường học, thầy nói trường học hiện tại tiên sinh không giống tiên sinh, học trò không giống học trò, chú đến trường học để nghe giảng thì chú sẽ tràn trề thất vọng. Tôi nghe lời nói này cảm giác giống như nước lạnh tưới lên đầu, thầy giáo đã cự tuyệt tôi rồi, không còn chút hy vọng nào, cảm thấy rất đau lòng, biểu lộ bên ngoài thầy giáo cũng nhìn thấy được. Sau cùng thầy nói với tôi, thầy nói, hay là như vầy sẽ tốt hơn, cứ mỗi chủ nhật hàng tuần, chú đến nhà của tôi, tôi sẽ dạy chú hai giờ. Cho nên tôi học triết học với thầy là ở cái bàn nhỏ tại phòng khách nhỏ trong nhà của thầy, một người dạy cho một người.

Nếu các vị muốn hỏi là do nguyên nhân gì mà vốn không hề quen biết, chưa hề qua lại, tại vì sao người lại dạy cho tôi như vậy? Các vị phải nên biết, không gì khác hơn là thành kính, tôi có mười phần thành kính và thầy đã nhìn thấy được. Nếu như tôi làm thầy giáo thì tôi cũng sẽ nghĩ rằng, có được một học trò muốn học chân thành đến như vậy, nếu tôi không dạy họ thì tôi có lỗi với họ. Chính là dựa vào tâm tôn sư trọng đạo nên thầy đã đặc biệt dạy cho tôi. Vào lúc đó, tôi hoàn toàn không hề biết gì về thầy Phương, tôi chỉ biết thầy là một vị giáo thọ của Trường đại học Đài Bắc, là vị giáo thọ giỏi nên từ trong nội tâm sanh ra tâm ngưỡng mộ, không hề biết thầy là thầy giáo của tổng thống Tưởng Giới Thạch. Tôi theo thầy hai mươi mấy năm thầy cũng không hề nói, nếu như tôi biết thầy là thầy giáo của tổng thống Tưởng thì ngay đến đứng gần cũng không dám, làm sao mà dám đi tìm thầy. Đến khi thầy viên tịch, khi Ngài qua đời, ở trong buổi lễ truy điệu, ông Thái Hiếu Nghĩa đọc về cuộc đời của ông thì tôi mới biết được lão tổng thống cùng Tưởng Kinh Quốc đều là học trò của ông. Đây là một vị thầy thứ nhất.

Vị thầy thứ hai, người giúp tôi tiếp xúc được với Phật pháp là đại sư Chương Gia. Đại sư Chương Gia cũng từ bi giống như lão sư Phương, chủ nhật mỗi tuần đều dạy cho tôi hai giờ đồng hồ. Tôi liền học với Ngài ba năm như một ngày mãi cho đến khi Ngài vãng sanh. Vị thầy sau cùng dạy cho tôi là Cư Sĩ Lý Bĩnh Nam, tôi theo thầy mười năm, thầy đối với tôi cũng rất xem trọng  cũng không vì nguyên nhân gì khác. Tôi lúc đó không có một xu tiền nào cúng dường đối với ba vị thầy này, lúc đó nghèo khổ đến cùng cực, chính mình ăn cơm mà còn khó khăn, thầy giáo nhiệt tâm như vậy dạy tôi, không gì khác hơn chính là hai chữ Thành Kính này. Người mà các thầy tiếp xúc rất nhiều, tại vì sao đặc biệt đãi ngộ đối với tôi như vậy còn người khác thì không được như vậy? Bạn phải nên biết, chân thật là không duyên không cớ, không có bất kỳ một quan hệ nào, mà chính là tâm thành kính. Điều thứ nhất trong Phổ Hiền Hạnh Nguyện là Lễ Kính Chư Phật, chúng ta mới có thể học Phật được. Thông thường người học Phật ngày nay, cho đến học trò đến trường để cầu học, tôi thấy họ hoàn toàn không có tâm thành kính, đồng tu học Phật hoặc là tín đồ tôn giáo khác còn có một số người có tâm thành kính, nhưng so với thời đại ngày trước thì xuống cấp đến mức trầm trọng. Vậy thì làm sao có thể thành tựu? Tổ chức dạy học là một việc tốt, nhưng có thể thành tựu được nhân tài hay không thì rất là khó nói.

Cho nên tiền đồ của thế giới này, đích thực khiến cho người bi quan. Tuy vậy, trong tình huống này chúng ta chỉ có thể nói là “tận nhân lực mới tri thiên mạng”, mọi việc đều mong cầu Tam Bảo gia trì, cầu tổ tông gia trì; ngoài điều này ra, tuyệt đối không phải là sức người chúng ta có thể làm được. Cho nên chúng ta nhờ vào giáo huấn của Phật, Bồ Tát, Thánh hiền dạy “tri kỳ bất khả vi nhi vi chi”, có thời gian của một ngày thì chúng ta cố gắng làm một ngày, có được một cơ hội thì quyết không bỏ qua, “tận nhân lực mới tri thiên mạng”. Chính mình không hề nghĩ được hay mất, đây chính là trong Phật pháp đã nói: làm mà không làm, không làm mà làm, nên không hề cảm thấy khổ cực, không hề hối hận, không hề thoái chuyển. Mỗi ngày công việc của chính mình là đọc kinh, thâm nhập giáo huấn của thánh hiền. Chúng ta nhất định phải tuân theo lời Phật dạy cho chúng ta là vì người diễn nói, còn đối với chính mình thì mỗi ngày thọ trì đọc tụng, an vui không biết mệt mõi.

Đối với người không luận là ở giảng đường hoặc là đang khi nói chuyện riêng, hai người ba người, đều là luôn ở nơi đạo, không có lời thừa. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh thuyết pháp 49 năm, chúng tôi thể hội được, không luận là vào lúc nào, không luận là ở trường hợp nào, không luận gặp bất cứ người nào, Phật giảng nói cho họ nghe đều là kinh điển, ghi chép lại lời nói của Phật chính là kinh điển. Phật không có hý luận, Phật không có lời thừa. Đây là Phật biểu diễn để cho người đời sau xem. Chúng ta xem hiểu rồi thì phải chăm chỉ học tập, không luận là vào lúc nào, luôn lấy chánh pháp dạy người, dùng pháp chân thật lìa khổ để giúp đỡ người khác, thì đó gọi là Phật pháp.

Cho nên tất cả chư Phật, Như Lai đã nói ra pháp môn vô lượng vô biên đều là từ A Di Đà Phật, đều từ cái khởi điểm này mà dẫn khởi ra. Tất cả pháp quy kết đến sau cùng chính là A Di Đà Phật, bạn nghĩ xem, A Di Đà Phật tôn quý đến chừng nào. Đáng tiếc là người nhận biết điều này rất ít, người niệm danh hiệu này thì rất nhiều nhưng họ không biết được sự tôn quý đến chỗ cùng tột của danh hiệu này. Câu danh hiệu này bao gồm hết tất cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian, dịch thành ý nghĩa của Trung Hoa là vô lượng giác, vô lượng trí. Vô lượng chính là tất cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Đây là danh hiệu tánh đức của tự tánh. Thế giới Cực Lạc có một vị tánh đức hiển hiện viên mãn, hay nói cách khác trong tự tánh trí tuệ viên mãn, đức năng viên mãn, tướng hảo viên mãn, Ngài thảy đều hiển hiện ra hết. Vị này được gọi là A Di Đà Phật. Thành thật mà nói, các chư Phật Như Lai ở trên lý luận thì Phật Phật đạo đồng, không hai không khác, thế nhưng trên mặt sự thì tất cả chư Phật vẫn là có khác biệt.

Sự khác biệt của các Ngài là ở chỗ cái nguyện phát ra từ nơi nhân địa là khác nhau, cho nên trên quả đức liền có khác biệt; trên đoạn chứng thì hoàn toàn như nhau, không hề có chút khác biệt, nhưng nguyện lực thì không như nhau. Những sự và lý này chúng ta tỉ mỉ mà tư duy thì không khó hiểu. Ngày nay đồng tu chúng ta rất nhiều, người học Phật rất nhiều, người tu Tịnh Độ rất nhiều, nhưng nguyện lực của mỗi người không như nhau, có người có nguyện lực là vì tự lợi, vì lợi ích một đoàn thể nhỏ, vì lợi ích một phương, vì lợi ích một chủng tộc, thậm chí vì lợi ích của địa cầu chúng ta. Còn A Di Đà Phật khởi tâm động niệm là vì tận hư không khắp pháp giới. Tâm nguyện này rất là rộng lớn. Cho nên Thế Tôn dạy chúng ta niệm Phật, mười phương chư Phật cũng dạy chúng ta niệm Phật, khuyên chúng ta cầu sanh Tịnh Độ. Cõi Tịnh độ này là Tịnh Độ của tự tánh, là pháp tánh độ, chúng ta trở về với pháp tánh độ, một chút mê tín cũng không có. Mười pháp giới Y Chánh Trang Nghiêm là pháp tướng độ. Đồng tu đã học qua duy thức thì liền biết, mười pháp giới y chánh trang nghiêm là duy thức sở biến, thế giới Tây Phương Cực Lạc cùng  thế giới Hoa Tạng là duy tâm sở hiện, không hề biến tướng.

Mười pháp giới chính là pháp giới nhất chân, chính là Cực Lạc và Hoa Tạng, nhưng nay đã biến tướng, hình tướng bị biến đổi thành mười pháp giới. Mười pháp giới càng hướng xuống thì biến đổi càng xấu đi so với chân tướng, càng hướng lên trên thì càng gần với Cực Lạc và Hoa Tạng, tuy là biến đổi nhưng mức độ biến đổi không lớn; xuống đến thiên đạo, nhân đạo, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục thì sự biến đổi càng lớn. Sự việc chính là như vậy. Cho nên đại đức xưa mới nói, Tịnh Độ chính là cõi này, cõi này chính là Tịnh Độ, Di Đà chính là tâm ta, tâm ta chính là Di ĐÀ, chân tâm chính là Di Đà. Chân tâm vốn dĩ đầy đủ vô lượng trí, vô lượng giác. Đức Phật dạy chúng sanh vì sao không tính công? vì không có công gì để tính, vì bạn thành Phật tức là quay về lại với tự tánh, tất cả đều là vốn có, ngoài trí tuệ đức tướng trong tự tánh vốn có ra thì không có một thêm thứ nào. Khi bạn đang mê hoặc điên đảo, lưu lạc ở sáu cõi ba đường, thì trí tuệ đức tướng trong tự tánh của bạn cũng không hề giảm đi chút nào. Đây là lý, là chân tướng sự thật.

Trên Kinh Bát Nhã nói, phải luôn luôn rõ ràng, luôn phải tường tận thực tướng các pháp, thì sau đó mới biết tự tôn trọng mình. Ta phải tôn trọng chính mình, tôn trọng tánh đức của chính mình, phải tôn trọng người khác, tôn trọng tánh đức của người khác, vì tánh đức của người khác cùng tánh đức của ta là như nhau, tánh đức của chúng ta cùng tánh đức của Như Lai cũng là như nhau. Con người hiểu được tự tôn trọng mình, tự yêu thương chính mình, thì sau đó mới có thể yêu thương, kính trọng người khác. Đó gọi là đại từ đại bi. Cho nên đại sư Ngẫu Ích vừa mở đầu Kinh A Di Đà Yếu Giải, đã đem những thứ này nói được rõ ràng tường tận, nói thông suốt thấu đáo. Chúng ta nghe rồi nếu chân thật là đã nắm được cương lĩnh Phật pháp, thì đời này có lý nào mà không thành tựu! Tôi ngay đời này được pháp hỷ sung mãn là tôi rất cảm kích lão sư Phương, thầy đã đem Phật pháp giới thiệu cho tôi, thầy nói: “Học Phật là hưởng thụ cao nhất của nhân sanh”. Nay tôi đạt được rồi. Trong giảng đường của chúng ta, di ảnh của lão sư thảy đều đặt trước mặt tôi, khi tôi đọc sách đối diện với thầy, khi tôi giảng kinh dạy học cũng đối diện với thầy, mỗi niệm đều không quên ân đức của thầy.

Nếu không có chỉ dẫn của thầy, không có giáo huấn của thầy thì cả đời này của tôi sẽ khổ không nói ra lời, làm gì được an vui như thế này, làm gì có thể có pháp hỉ xung mãn, thường sanh tâm hoan hỉ. Nhờ thầy dạy bảo, cho nên tôi sâu sắc thể hội được hai câu danh ngôn của cổ thánh tiên hiền Trung Quốc: “tu thân vi bổn, giáo học vi tiên”. Tức là, đối với chính mình tu thân làm gốc, đối với bên ngoài thì trước tiên là dạy học. Dạy học chính là bố thí, là pháp bố thí thù thắng nhất. Chỗ này mọi người đều xem thấy ở trong kinh giáo, Phật tán thán đối với pháp bố thí là “bố thí bảy báu bằng đại thiên thế giới đều không thể sánh được công đức đem bốn câu kệ trên kinh Phật nói cho người khác nghe”. Lời nói này là thật, không hề hư dối. Dù bạn có được bảy báu trong đại thiên  thế giới, nhưng chưa chắc gì thật an vui. Thế nhưng trong bốn câu kệ này mà khai ngộ thì cái an vui đó, bảy báu đại thiên thế giới quyết không thể so sánh được. Bởi vì sau khi bạn có được bảy báu trong đại thiên  thế giới rồi, bạn vẫn không thể thoát khỏi sáu cõi luân hồi, thời gian bạn hưởng thụ có hạn, sau khi hưởng thụ xong, bạn vẫn phải chịu khổ chịu nạn; còn nếu đã ngộ bốn câu kệ của Phật pháp rồi thì một ngộ tất cả ngộ, sẽ triệt ngộ cứu cánh viên mãn, vậy bảy báu làm sao có thể so sánh, không chỉ sáu cõi ba đường không có mà mười pháp giới cũng không có, chân thật là được đại tự tại.

Cho nên đại sư Ngẫu Ích dạy chúng ta, dạy người tu pháp môn Tịnh Độ phải nên chấp trì danh hiệu làm chánh hạnh, không cần tu thêm quán tưởng và tham cứu. Quán tưởng và tham cứu đều thuộc về Tánh tông và Thiền tông, nên không cần phải học những thứ này. Đẳng hạnh, đẳng là đẳng giáo. Quán tưởng, tham cứu, v.v… rất nhiều phương pháp tu hành khác không cần đến, vì trong câu Phật hiệu này đã bao hàm hết tám vạn bốn ngàn pháp môn. Có cần phải học thêm những thứ khác hay không, có cần phải xem thêm hay không? Không cần thiết. Cho nên nói, pháp môn niệm Phật là đơn giản nhất, thẳng tắt nhất, đơn giản dễ dàng đến tột điểm, thẳng tắt nhanh gọn đến tột cùng.

Niệm Phật thì trong tâm phải có Phật (tâm này chính là tâm Bồ Đề, là chân tâm), trong nguyện phải có Phật, trong giải phải có Phật, trong hành phải có Phật. Một tiếng A Di Đà Phật này đã đầy đủ cả Tâm-Nguyện-Giải-Hành. Nghe như vậy thì chúng ta liền hiểu rõ tại vì sao rất nhiều người niệm Phật không có lực, vì họ miệng niệm A Di Đà Phật nhưng trong tâm-nguyện-giải-hành đều không có Phật, tức là không có tâm Bồ Đề, không có 48 nguyện, không hiểu rõ đối với chân tướng sự thật, không có hành trì như Phật, Bồ Tát đã hành trì. Miệng tuy là niệm Phật nhưng thiếu đi thực chất, không có tín tâm. Phải có tâm, tức Tâm-Nguyện-Giải-Hành, tâm miệng phải tương ưng. Cho nên nói: một niệm tương ưng một niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật, thì đó thật là biết niệm, cảm ứng sẽ không thể nghĩ bàn. Miệng niệm ra tiếng là tự lợi lợi tha. Tự lợi thì không cần phải nói nhưng lợi tha ở chỗ nào? Là khi người khác nghe được, lợi ích thấp nhất là trong A Lại Da Thức của họ đã gieo được giống Phật. Chúng ta đã đem hạt giống A Di Đà Phật trồng xuống trong A Lai Da Thức của họ là nhờ miệng niệm. Nếu trong đời quá khứ của họ có thiện căn phước đức, thì khi gặp được cái nhân duyên này liền làm cho thiện căn phước đức của họ sống dậy. Cho nên niệm ra tiếng, niệm lớn tiếng là tự lợi lợi tha. Đạo lý này phải hiểu thì sau đó mới biết tu học như thế nào, niệm Phật như thế nào, sẽ niệm được đến pháp hỉ sung mãn. Trong thời đại hiện nay, muốn giáo hoá chúng sanh thì không thể không nghiên cứu giáo lý. Vì sao vậy? vì căn tánh chúng sanh khác biệt không đồng, muốn giáo hóa họ thì phải nói lý luận với họ, cho nên phải xem kinh giáo.

Hiện tại thời gian đã hết rồi, chúng ta nghỉ ngơi vài phút. A Di Đà Phật!

Kính thưa chư vị pháp sư, chư vị đồng tu. Xin mời ngồi! Mời tiếp tục xem.

Hoàng Lão cư sĩ đã dẫn dụng mấy câu của đại sư U Khê trong Viên Trung Sớ, trong Viên Trung Sớ ghi: “ Kim kinh sở thị, sơ tâm phàm phu, đản thị hữu khẩu năng xưng, hữu tâm năng niệm, giai thị tu chi, cố tri thử kinh sở thị, nãi chí giản chí dị, chi pháp môn dã”. Đại sư U Khê cùng đại sư Ngẫu Ích đã nói hoàn toàn giống nhau, đã đặc biệt vì hạng phàm phu sơ phát tâm như chúng ta. Đây là từ trên tướng mà thấy. Chúng ta biết được trên Kinh A Di Đà nói rất rõ ràng là, không thể nào dùng chút ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sanh về nước kia. Do đây có thể biết, đây là từ trên sự mà nói là phàm phu sơ phát tâm, nếu như từ trên lý mà nói thì con người này thiện căn phước đức trong đời quá khứ rất là sâu dày, tuy là người sơ học thế nhưng ngay đời này vừa gặp duyên thì họ liền có Tín-Nguyện-Hạnh đầy đủ.

Sự việc này ở ngay trong đời này của chính chúng tôi cũng thấy được rất nhiều. Thí dụ như người cả đời chưa từng học Phật, không tin tưởng Phật pháp, trước khi lâm chung mấy ngày, có người đem Tịnh Tông,  thế giới Cực Lạc giới thiệu cho họ thì họ liền tin tưởng, họ liền thật làm, hơn nữa họ thật được vãng sanh. Đây là nói rõ nguyện thứ 18 trong Kinh Vô Lượng Thọ: “lâm mạng chung thời nhất niệm thập niệm giai đắc vãng sanh”, và trong Kinh A Di Đà nói với chúng ta là “nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược thất nhật, nhất tâm bất loạn”, trên sự thật đều có chứng minh. Điều này quyết không phải là ngẫu nhiên, mà chắc chắn là trong quá khứ đời đời kiếp kiếp đã học cái pháp môn này rồi, ngay đời này duyên đã chín muồi. Vậy thì chúng ta có thể tự mình biết được là chúng ta ngay đời này duyên của Tịnh Độ có chín muồi hay chưa? Từ chỗ nào mà biết được trong đời này duyên đã chín muồi hay chưa?

Từ trên Tín-Nguyện-hạnh mà biết được. Nếu tín tâm không có hoài nghi, trong tâm nguyện không có xen tạp, có thể thành kính, chuyên nhất niệm Phật, thì con người này thiện căn chín muồi, con người này ngay trong đời này quyết định đến Thế Giới Cực Lạc để làm Phật.

Sanh đến  thế giới Cực Lạc, cho dù là cõi Phàm Thánh Đồng Cư hạ hạ phẩm vãng sanh, cũng là ngay đời này thành Phật. Điều này thật không thể nghĩ bàn. Đại sư U Khê nói ngay chỗ này “có miệng xưng niệm, có tâm năng niệm”. Quan trọng là ở câu sau “có tâm năng niệm”, trong lòng thật phải có A Di Đà Phật, trong lòng thật phải có Tịnh Độ. Ngài nói pháp môn này rất là dễ dàng, rất đơn giản, là pháp môn thù thắng không gì bằng. Tiếp theo Đại sư lại nói: “nhược chấp trì danh hiệu, bất vấn nhàn mảng, bất câu động tịnh, hành trụ toạ ngoạ, giai khả tu chi, cố tri thử kinh sở thị, nãi chí thiệp chí kinh chi pháp môn dã”. Có rất nhiều đồng tu làm việc bận rộn, không có thời gian tu hành, thì pháp môn này chính là thích hợp nhất, nhàn cũng có thể tu, bận cũng có thể tu, động tức là khi bạn làm việc cũng có thể tu, tịnh tức là nói lúc bạn có thể an tịnh lại, ngồi ở tại một nơi cũng có thể tu, đứng cũng có thể tu, Phật hiệu không hề gián đoạn. Tất cả công tác, chỉ cần công việc không cần đến tư duy, thông thường chúng ta gọi là công việc lao lực mà không phải công việc dùng đến tâm trí, công việc phải dùng đến tâm trí thì đương nhiên không thể niệm Phật, công việc tay chân thì không chút chướng ngại. Trong lòng phải có Phật.

Vào thời nhà Đường có một vị tên là Vương Đã Thiết, người thợ thiết, một nhà bốn người, nhờ làm thiết mà sống qua ngày, một ngày không làm việc thì một ngày không có cơm ăn, cho nên công việc rất là khổ cực. Một hôm có một người xuất gia đi ngang qua cửa tiệm nhà ông, ông liền tiếp đãi người xuất gia, cúng dường một ly nước, ông nói với người xuất gia là công việc của tôi rất là khổ cực, có phương pháp gì có thể giải thoát không? Người xuất gia này liền dạy cho ông niệm A Di Đà Phật, khi dập thiết một búa đánh xuống thì niệm A Di Đà Phật, cất búa lên thì niệm A Di Đà Phật, thời trước thì kéo quạt gió, khi đẩy vào thì niệm A Di Đà Phật, khi kéo ra thì niệm A Di Đà Phật. Vợ của ông xem thấy hỏi ông, ông một mặt làm việc một mặt niệm Phật không mệt hay sao? Ông nói không hề mệt, lúc trước khi tôi không niệm thì cảm thấy rất mệt, hiện tại niệm Phật thì không hề thấy mệt. Niệm được ba năm, ông liền thành công, vãng sanh chính ngay lúc đang làm việc, ông không hề bị bệnh, trước khi vãnh sanh còn nói ra một câu kệ, ông nói “đinh đinh đang đang, luyện lâu thành thép, thái bình sắp đến, tôi vãng Tây Phương”, lúc đó dập cái búa xuống thì ông đứng mà vãng sanh.

Đó chính là đại sư U Khê ngay chỗ này đã nói “sơ tâm phàm phu”. Thế nhưng phải nên biết, ông ấy có thiện căn rất sâu dày, pháp sư dạy ông niệm Phật, ông không hoài nghi, ông không xen tạp, ông có thể phối hợp câu Phật hiệu với công việc của ông, không cảm thấy khổ cực, ông chân thật làm đến được Tín-Nguyện-Chuyên Trì Danh Hiệu, ông đã làm được, cho nên ba năm liền đứng mà vãng sanh. Tự hành chính là hoá tha, những người trong địa phương này xem thấy có một người như vậy, một người niệm Phật đứng mà vãng sanh, thì mọi người đều tin tưởng, rất nhiều người bắt chước theo ông, đó là hoá độ người. Cho nên ông không cần giảng kinh nói pháp, ông dùng thân biểu diễn, hiện thân nói pháp. Trong Vãng sanh truyện và Tịnh Độ Thánh Hiền Lục đều có ghi chép truyện ký của ông. Đây là nói rõ, pháp môn này là đường tắt, pháp môn này thành tựu rất nhanh.

Đoạn phía sau Đại sư lại nói: “xưng danh chi pháp”, tức là pháp môn trì danh niệm Phật này “bất trạch hiền ngu”, tức là người hiền cũng niệm A Di Đà Phật được, người ngu cũng có thể niệm A Di Đà Phật được; “bất giản nam nữ, nhược bần nhược phú, nhước quý nhược tiện, giai khả tu chi, cố tri thử kinh sở thị, nãi nhiếp cơ chí quảng”. Pháp môn này đích thực là không giống như các pháp môn khác, các pháp môn khác phải có điều kiện, điều kiện nếu như không đầy đủ thì bạn không cách gì học được. Pháp môn này bất cứ người nào cũng đều có thể học, nghèo giàu sang hèn, người trí kẻ ngu thảy đều có thể tu học. Chỉ cần tin sâu nguyện thiết, thành thực chuyên niệm thì không có người nào mà không thành tựu. Đại sư Thiện Đạo nói rất hay, đây là pháp môn “vạn người tu vạn người vãng sanh”. Nhưng tại sao ngày nay người niệm Phật nhiều như vậy nhưng người vãng sanh thì quá ít? điều này có hoàn toàn trái ngược với lời nói này của đại sư Thiện Đạo hay không? chúng ta nghĩ xem, không có trái ngược.

Đại sư Thiện Đạo nói vạn người tu vạn người vãng sanh, nhưng bạn không có tu mà, bạn chỉ có niệm không có tu nên không thể vãng sanh. Cái gì gọi là tu? Tu là đem tập khí xấu của chính mình thay đổi lại, đó gọi là tu. Nếu bạn niệm Phật tín tâm không đủ, tức là bạn không có tu, bạn phải đem nó thay đổi lại. Bạn tâm nguyện không thiết, xen tạp quá nhiều, Tín-Nguyện-hạnh đều không đạt đến tiêu chuẩn. Không phải kinh này không linh, không phải lời tổ sư nói không đáng tin cậy, mà chính mình phải nghĩ lại xem, là ta có đem những tập khí tâm bệnh này thay đổi hay không. Tu chính là sửa đổi lại. Nói tóm lại, thân tâm  thế giới bạn có phải thật đã buông bỏ rồi không? buông bỏ thì mới có thể đi, buông bỏ mới có thể chuyên tâm, chuyên tâm chính là buông bỏ vọng tưởng, buông bỏ xen tạp, buông bỏ nghi lo, là chuyên tín. Những thứ này bạn chưa buông bỏ, thì nó sẽ chướng ngại bạn, kinh điển không hề chướng ngại bạn, giáo huấn của tổ sư đại đức không hề chướng ngại bạn, bạn phải biết chướng ngại bạn là ở chỗ nào, bạn phải tìm cho ra chỗ chướng ngại, phải trừ bỏ đi chướng ngại thì trên đạo Tịnh Độ mới thuận buồm xuôi gió.

Phía sau Đại sư nói: “hựu, du tâm an lạc đạo vân”. Trong đây đã nói: “chư Phật danh hiệu, tổng vạn đức thành, đản năng nhất niệm, niệm Phật danh giả, tức nhất niệm trung, tổng niệm vạn đức”. Cho nên đại đức xưa thường hay dạy chúng ta, danh hiệu A Di Đà Phật gọi là vạn đức hồng danh. Nếu bạn muốn hỏi tại vì sao, thì phía trước đều nói qua. Câu danh hiệu này bao hàm luôn tận hư không khắp pháp giới, tất cả tánh tướng lý sự nhân quả, không có kém khuyết thứ nào, cho nên gọi là vạn đức hồng danh. Niệm một danh hiệu này tức là thảy đều niệm hết tất cả chư Phật, niệm hết tất cả Bồ Tát, niệm hết tất cả Bích Chi Phật, niệm hết tất cả Thanh văn, niệm hết tất cả chúng sanh sáu cõi. Tất cả đều ở ngay trong câu Phật hiệu này. Câu Phật hiệu này thực tế mà nói là không thể nghĩ bàn. Bạn một lòng xưng niệm thì quả báo của bạn trong tương lai chính là tổng thành vạn đức.

Trong Duy Tâm An Lạc Đạo lại nói: “vô thỉ ác nghiệp, tùng vọng tâm sanh, niệm Phật công đức, tùng chân tâm khởi, chân tâm như nhật, vọng tâm như ám, chân tâm trạm khởi, vọng niệm tức trừ, như nhật thỉ sanh, chúng ám tất trừ”. Mấy câu nói này nói được rất hay, trong mấy câu này nói về vấn đề gì? Là nói giác và mê. Chúng ta tuy là mê đã quá lâu, mê từ vô lượng kiếp đến ngày hôm nay không giác ngộ, người xưa có một thí dụ rất hay là “nhà tối ngàn năm”. Hiện tại trên núi có một số thạch động, những cái động đó rất lớn, có thể dung chứa đến mấy trăm người, mấy ngàn người, thạch động lớn đến như vậy nhưng từ trước đến giờ chưa có người phát hiện ra, phần nhiều cửa động đều rất nhỏ, nhìn chung thì chỉ một người đi lọt vào, nhưng bên trong rất lớn. Một mảng tối tăm nhưng đưa một ngọn đèn vào thì liền được chiếu sáng, tối tăm liền bị đẩy lùi. Thí dụ này nói lên rằng, ngu si không phải là thật, trí tuệ mới là chân thật, trí tuệ sanh khởi thì si mê lập tức liền không còn, si mê từ vô lượng kiếp đến nay, chỉ cần bạn vừa giác, thì thảy đều không còn.

Trong Khởi Tín Luận nói rất hay: “bổn giác vốn có, bất giác vốn không”. Si mê là bất giác, vốn dĩ là không có, nên dù có trải qua thời gian lâu đi chăng nữa thì vừa giác là si mê đã không còn. Chúng ta học Phật phải hiểu rõ cái đạo lý này, phải hiểu rõ cái sự thật này, thì tín tâm của chúng ta liền sanh khởi lên, tín tâm liền có thể thêm lớn. Tín tâm thanh tịnh liền sanh trí tuệ. Trên Kinh Kim Cang nói: “tín tâm thanh tịnh, tất sanh thật tướng”. Thật tướng Bát Nhã là tự tánh vốn có, tâm thanh tịnh đến trình độ nhất định thì trí tuệ liền hiện tiền. Đây là sự thật. Ngày nay trí tuệ chúng ta không sanh khởi, tín tâm hoàn toàn không có, một cái khó trước nhất là không tin chính mình có thể thành tựu.

Tôi cũng gặp rất nhiều đồng tu đến hỏi tôi, họ nói: Pháp sư à! Ngài xem tôi thế này có thể có được thành tựu hay không? Tôi trả lời họ, tôi khẳng định họ không thể có được thành tựu. Họ hỏi tại sao vậy? tôi trả lời vì họ không có lòng tin thì làm sao họ có thể có thành tựu. Ở trong thế pháp cho dù việc nhỏ, nếu muốn thành tựu vẫn phải có lòng tin, bạn không có lòng tin thì làm không thành công. Xào rau nấu cơm mà bạn không có lòng tin thì cũng không thể làm xong được dù đây là việc nhỏ. Bạn có lòng tin thì bạn nhất định làm được tốt. Ngày hôm nay rau xào không được ngon, ngày mai ta lại cải tiến, ngày ngày cải tiến thì sau một tuần lễ, khi bày ra thì sẽ rất là vừa ý, mọi người nhất định sẽ rất hoan hỉ. Cho nên thế xuất thế gian pháp, tất cả mọi việc có thành tựu đều phải nhờ vào lòng tin. Những khai thị của tổ sư đại đức đều là giúp cho chúng ta tăng trưởng tín tâm, thành tựu lòng tin.

Trong An Lạc Tập dẫn chứng Quán Phật Tam Muội Kinh, trong đó có đoạn này rất quan trọng: “Phật khuyên phụ vương hành niệm Phật Tam Muội, Phụ vương bách Phật, Phật điạ quả đức, chân như thật tướng, đệ nhất nghĩa không, hà nhân bất di đệ tử hành chi. Phật cáo phụ vương, chư Phật quả đức, hữu vô lượng thâm diệu cảnh giới, thần thông giải thoát, phi thị phàm phu, sở hành cảnh giới, cố khuyên phụ vương, hành niệm Phật Tam Muội”. Ở nhân gian, người thân nhất không ai hơn cha với con, Thích Ca Mâu Ni Phật dùng pháp môn gì để khuyên phụ thân của Ngài? Ngài dùng pháp môn niệm Phật, không hề dùng các pháp môn khác để khuyên phụ thân của Ngài, không hề dạy phụ thân Ngài Tham thiền, cũng không hề dạy phụ thân Ngài niệm chú, cũng không dạy phụ thân Ngài học giáo, chỉ dạy ông niệm Phật.

Các vị từ ngay nơi đây mà nghĩ xem, tóm lại một câu mà nói, thì vô số thị hiện Phật làm ra cho phàm phu chúng ta xem đều hiển thị pháp môn này là không thể nghĩ bàn, pháp môn này thù thắng không gì bằng, để sau đó bạn mới hết lòng hết dạ một môn thâm nhập, không còn khởi lên các vọng niệm khác, bạn cũng có thể buông bỏ các pháp môn. Pháp môn này thành tựu rồi thì tất cả pháp môn đều thành tựu, cho nên gọi là “một kinh thông, tất cả kinh thông”. Ở trong hành môn, một pháp môn khế nhập thì tất cả các môn đều khế nhập, nếu còn có một môn không thông, chưa khế nhập, chính pháp môn bạn đã tu cũng không viên mãn, vẫn còn kém khuyết. Cái đạo lý này phải hiểu, nếu như bạn không hiểu, bạn tu học sẽ tăng thêm rất nhiều khó khăn. Khó ở chỗ nào vậy? Bạn thấy trong Đại Tạng Kinh có kinh luận nhiều đến như vậy, bạn đọc xem thảy đều rất hoan hỉ, vậy thì hỏng rồi, vì đến sau cùng thì bạn cũng không học tốt được thứ nào. Đây là do nguyên nhân gì vậy? Do tâm của bạn tán loạn, tinh thần ý chí đều không thể tập trung, huống chi tuổi thọ con người ở thế gian này có hạn, bạn có bao nhiêu thời gian để học tập, bạn có thể học được bao nhiêu? Những vấn đề này chúng ta có xét nghĩ đến hay không? Cho nên tu học thế xuất thế gian pháp đều có bí quyết, bạn cần phải nắm chắc bí quyết này. Bí quyết này là gì? Là một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu.

Cần phải thông đạt một môn này. Làm thế nào mới có thể thông đạt một môn? Trong Thiền tông nói “minh tâm kiến tánh” thì thông rồi, trong giáo hạ nói “Đại khai viên giải” thì thông rồi, trong pháp môn niệm Phật nói “nhất tâm bất loạn” là thông đạt rồi. Trong nhất tâm bất loạn có lý nhất tâm và sự nhất tâm. Sự nhất tâm dù đã thông nhưng vẫn chưa thấu triệt, lý nhất tâm thì thấu triệt. Lý nhất tâm cùng minh tâm kiến tánh của thiền tông là như nhau, cùng Đại khai viên giải là như nhau. Sự nhất tâm vẫn còn chưa đạt đến điều này, sự nhất tâm là bạn được định rồi, định trong Giới-Định-Huệ, bạn được định nhưng chưa khai ngộ, lý nhất tâm là khai ngộ. Đạt được sự nhất tâm cũng không dễ dàng, cũng rất là đáng quý, tuy là chưa thể thông hết nhưng có thể thông một bộ phận.

Ngày trước lão sư dạy chúng tôi, giáo lý và giáo nghĩa. Trong pháp môn Tịnh Độ, lý nhất tâm là thông giáo lý, đó là thông đạt tất cả, không có thứ nào không thông, sự việc này rất khó, người thượng thượng căn mới làm được, không phải người trung hạ căn có thể làm được. Mục tiêu của người trung hạ căn tánh là phải định ở giáo nghĩa. Giáo nghĩa có thể thông cục bộ, thông bổn tông thì thông Tịnh Độ tông, các tông phái có quan hệ với Tịnh Độ cũng rất dễ dàng thông đạt. Đó gọi là khéo học, bạn biết học. Người không biết học thì ghi nhớ câu kinh văn, câu nói này thầy giáo nói thế nào họ đem nó ghi chép lại, họ cũng có thể giảng lại, đó là phương pháp dạy sơ học, vậy thì không phải là khéo học. Bạn học một bộ kinh chỉ biết một bộ kinh, còn người ta học một bộ kinh có thể biết được mười bộ, giáo nghĩa thông đạt, họ học thông một bộ thì tất cả kinh giáo họ đều thông. Đây là giáo lý. Thầy giáo dạy học trò, phải đem những đạo lý này, những sự thật này và áo mật đều phải nói cho học trò biết. Trong lòng học trò hiểu rõ rồi thì mới chịu y giáo phụng hành, lão sư không lừa gạt ta.

Tôi ở trong hội của lão sư Lý mười năm, chỉ học 5 bộ kinh, không nhiều. Tôi học bộ thứ nhất đó là nền tảng kinh Tiểu Thừa, chân thật là vào cửa từ Tiểu Thừa, đó là bộ A Nan Vấn Phật Sư Kiết Hung Kinh. Trước tiên học Tiểu Thừa, sau đó mới học Đại thừa. Tôi học bộ thứ hai là Phật Thuyết A Di Đà Kinh, bộ thứ ba là Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm, bộ thứ tư là Kinh Kim Cang, bộ kinh thứ năm là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh. Đây là mười năm tôi ở dưới hội của lão sư Lý. Tiêu chuẩn của lão sư ngài là chỉ học một bộ, một bộ đó nếu có thể lên đài giảng mà thầy ngồi phía nghe thấy hài lòng thì mới được, mới cho phép bạn học bộ thứ hai. Nếu như ông không đồng ý, tức là bạn giảng mà ông cho rằng vẫn chưa đủ tốt, thì bạn chỉ có thể giảng bộ này thôi, phải giảng qua rất nhiều lần cho đến khi ông vừa lòng, bạn yêu cầu học bộ thứ hai thì thầy mới đồng ý. Những học trò của thầy ở Đài Trung, bạn học của tôi có hơn 20 người, người học 5 bộ kinh đại khái chỉ có một mình tôi, các sư huynh đệ của tôi thông thường đều là học hai bộ hoặc ba bộ.

Đây là thầy chân thật dạy cho bạn một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu. Khi bạn tu học công phu có lực thì trí tuệ liền khai mở, công phu có lực thì phiền não nhẹ, trí tuệ tăng trưởng; bạn xem kinh văn thì bạn liền có thể biết được đại ý, bạn lại xem chú giải của tổ sư thì bạn liền biết được, ở thời đại hiện nay, cách giảng kinh này phải như thế nào? cách học phải ra sao? Bạn liền thông đạt điều này. Việc này chúng ta không thể không biết, Lão sư thương yêu học trò như cha mẹ thương yêu con cái, thì làm gì có chuyện lừa gạt chúng, làm gì có chuyện hạn chế chúng. Nếu như thầy giáo hạn chế học trò, cha mẹ hạn chế con cái, là không có từ bi, không có lòng yêu thương. Cho nên giáo đạo của thầy quyết định là có đạo lý, bạn không cần phải hỏi, bạn chỉ cần y giáo phụng hành, khẳng định tương lai có lợi ích, trước mắt nhất định phải tuân thủ những quy cũ ràng buộc đó. Đây là yêu cầu của thầy giáo đối với học sinh. Nếu như học trò vâng lời trước mặt làm trái sau lưng, thầy giáo có biết hay không? Biết được! Thầy giáo không một chút hồ đồ, thầy giáo sẽ rất khách sáo đối với bạn, thầy sẽ không đối đầu với bạn. Hay nói cách khác, bạn có thể tiếp nhận bao nhiêu thì tiếp nhận bấy nhiêu, hay nói cách khác đối với việc hy vọng bạn kế tục huệ mạng của Phật, gánh vác gia nghiệp Như Lai đã không còn nữa, vì Thầy biết được bạn không làm được. Tại vì sao không làm được? vì bạn không nghe lời thầy thì làm thế nào thành tựu. Tuân theo giáo huấn của thầy giáo thì thành tựu, phàm hễ trái với lời giáo huấn của thầy giáo thì quyết định không thể thành tựu. Xưa nay trong ngoài đều không có ngoại lệ.

Tóm lại mà nói, cái gốc của gốc của pháp thế gian và xuất thế gian chính là “hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng”. Phụng sự sư trưởng quan trọng nhất chính là y giáo phụng hành. Bạn chân thật có thành kính đối với thầy giáo, thì thầy giáo nhất định có trách nhiệm đối với bạn, thầy phải chăm sóc bạn, phải dẫn bạn vào chánh đạo. Vị thầy giáo như vậy mới khiến cho người cung kính, mới làm cho đại chúng xã hội tôn kính, thầy giáo quyết định sẽ không để bạn đi vào con đường khó khăn, sẽ không để bạn tạo tác lỗi lầm. Đây là vị thầy rất tốt. Cho nên kinh nghiệm cả đời này của tôi, khẳng định hai câu phía trước của Tịnh Nghiệp Tam Phước là đại căn đại bản. Con người bất hiếu cha mẹ, không kính sư trưởng thì sẽ không có bất cứ thành tựu gì, chư Phật, Bồ Tát cũng không thể giúp được. Bạn không thể nào không biết nến tảng của nền tảng chính là ngay chỗ này.

Trong phần kinh văn trích dẫn nêu trên còn có một số câu văn, tuyệt nhiên không khó hiểu, đồng tu xem qua thì có thể hiểu được rồi. Sau cùng có mấy câu rất quan trọng, chúng ta đem nó đọc qua: “Phật cáo phụ vương, tất cả chúng sanh, tại sanh tử trung, niệm Phật chi tâm, diệc phục như thị. Đản năng hệ niệm bất chỉ, định sanh Phật tiền, nhất đắc vãng sanh, tức năng cải biến, nhất thiết chư ác, thành đại từ bi, như bỉ hương thọ, cải Y Lan Lâm”. Câu nói này vô cùng quan trọng, Y Lan là tiếng Phạn, là tiếng Ấn Độ, là tên một loại cây cỏ không tốt, Phật dùng nó để thí dụ ba độc mười ác của chúng sanh, trong lòng chúng ta có ba độc mười ác thì giống như rừng y lan vậy. Phật nói với phụ thân của Ngài, tất cả chúng sanh ở trong sanh tử, tức là ở ngay trong sáu cõi, cái tâm niệm Phật cũng là như vậy. Đó là Ngài vì phụ thân của ngài nêu ra một thí dụ, dùng loại thực vật này để làm thí dụ, loại thực vật không tốt, diện tích rất là rộng lớn, thế nhưng ở trong đó có một cây Ngưu Đầu Chiên Đàn, đó là một loại cây Chiên Đàn rất là quý giá; tuy là cây này có gốc có rễ, nhưng nó vẫn chưa lớn lên, nó bị một mãng rừng thực vật không tốt quấy nhiễu nó. Nếu như cây Chiên Đàn này mọc lên, dần dần lớn lên, thì loại cây này có mùi hương, có thể cải thiện cả một mãng thực vật không tốt này.

Người thông thường xem thấy tình hình này cảm thấy rất là hy hữu. Một cây chiên đàn mà có thể cải thiện cả một mãng rừng Y Lan to lớn, điều này cảm thấy rất là hy hữu. Phật dùng cái thí dụ một người niệm Phật có thể cải thiện con người của một khu vực tạo ra ác nghiệp này, người xưa Trung Quốc cũng thường hay có cách nói này. Bạn xem thấy trong Ung Chánh Thượng Vụ, đối thoại của Tống Văn Đế và Hà Thượng Chi thì rất rõ ràng, ngay trong mười người có một người thiện, con người thiện này liền có thể giúp được chín người ác kia cải đổi hướng thiện; ngay trong một trăm nhà có một nhà làm thiện, tu năm giới mười thiện, thì nhất định có thể thay đổi được 99 nhà kia. Cho nên chúng ta không sợ chúng sanh tạo tác trọng tội, mà chỉ sợ chính mình không thật tu, không có thật đức. Nếu chân thật tu hành, chân thật có đức thì quyết định có thể cảm hoá họ.

Gần đây, chúng ta ở Lô Giang thành lập trung tâm giáo dục văn hoá, đó là một trấn nhỏ, cư dân trong đó có 48 ngàn người, đồng tu trong trung tâm chúng ta, bao gồm tất cả nhân công thì có khoảng 100 người. Một trăm người này thực hành Đệ Tử Quy, đem mỗi câu mỗi chữ Đệ Tử Quy đều làm cho được, liền có thể ảnh hưởng được 48 ngàn cư dân ở cái trấn nhỏ này. Các vị xem họ nói trong đĩa VCD, họ vừa mới làm được 3 tháng. Chúng tôi nghĩ, nếu công việc của chúng tôi làm 3 năm không gián đoạn, không giải đãi, chúng tôi sâu sắc tin tưởng rằng, sau 3 năm thì cái trấn nhỏ này, như trong sách cổ Trung Quốc có ghi chép là “Lễ nghĩa chi bang”. Chủ tịch Hồ đã đề xướng xã hội hài hoà, thì phải có người dẫn đầu, thiểu số người có thể dẫn đầu số đông người. Cho nên ngay chỗ này Phật đã nói, tất cả chúng sanh ở ngay trong sanh tử, cái tâm niệm Phật cũng là như vậy, cái tâm niệm Phật thì rất ít, không nhiều, thế nhưng nếu có thể niệm liên tục không ngừng, chăm chỉ nổ lực, không nên giải đãi, thì công phu của bạn dần dần sẽ lớn mạnh. Đến khi công phu thuần thục rồi, liền sanh ra sức ảnh hưởng.

Cho nên nói, nếu có thể niệm liên tục không ngừng nghỉ, chắc chắn thấy Phật, chắc chắn được vãng sanh; ác nghiệp, phiền não, tập khí từ vô lượng kiếp đến nay, thảy đều thay đổi hết; phiền não biến thành trí tuệ, ác nghiệp biến thành thiện nghiệp, thành đại từ bi, thì giống như một cây Chiên Đàn có thể cải thiện được một rừng cây nghi lan vậy. Phía sau Hoàng Lão cư Sĩ có chú giải, đem cái thí dụ này vì chúng ta giải thích, rừng Y lan thí dụ cho ba độc trong tâm của chúng sanh, cây Chiên Đàn đó là thí dụ cho cái tâm niệm Phật của chúng sanh, “tài dục thành thọ giả, vị nhất thiết chúng sanh, đản năng tích niệm bất đoạn, nghiệp đạo thành biện dã”. Chỗ này chúng ta phải tin tưởng, đối với xã hội hiện tại của chúng ta mà nói, có thể tiêu trừ được kiếp nạn, có thể cứu xã hội, giúp cho xã hội này khôi phục lại an định hoà bình. Niệm Phật công đức không thể nghĩ bàn.

Hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ giảng đến đây thôi. A Di Đà Phật!

Người giảng:      Lão Hoà Thượng Tịnh Không

Địa điểm:            Học Viện Tịnh Tông Úc Châu

Thời gian:           Ngày 03 tháng 03 năm 2006

Cẩn Dịch: Cư Sĩ Vọng Tây

Biên tập: Cư sĩ Diệu Hiền


© 2008 -2024  Phật Học Online | Homepage