Hóa giải vì cuộc sống hạnh phúc trên bình diện toàn cầu
Đối với người tu Tịnh độ, hóa
giải xung đột vô cùng quan trọng. Trong các kinh điển, Thế Tôn đã giới
thiệu thế giới Cực lạc là thế giới hòa bình, bình đẳng, nơi các bậc
thượng thiện tụ hội. Nếu tâm không bình đẳng, giờ phút nào cũng mang nỗi
oán hận, nhất định sẽ chướng ngại việc vãng sinh. Người vãng sinh tâm
phải thanh tịnh, các tổ sư vẫn thường nói “Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh”,
hay nói cách khác, tâm không thanh tịnh, thì bất luận người đó dụng công
thế nào, có niệm hàng vạn danh hiệu đức Phật cũng không thể vãng sinh:
“Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn
Đau mồm rát họng chỉ uổng công”
Cho
nên, phải xem việc này là việc lớn để lo liệu. Không nên cho rằng việc
niệm Phật cầu vãng sinh không liên quan tới an định xã hội và hòa bình
thế giới. Trước khi vãng sinh, giải thốt trở thành người đại tự tại thì
trước tiên chúng ta phải làm cho xã hội an định. Được như vậy, mới chắc
chắn có thể vãng sinh Tịnh độ, cùng Phật đồng tâm, đồng nguyện, đồng
đức, và đồng hạnh. Chúng tôi đã hai lần tham gia hội nghị hòa bình của
Liên Hiệp Quốc, đặc biệt lần ở Cang Sơn Nhật Bản, cảm xúc rất sâu sắc về
vấn đề này.
Theo Phật pháp, mỗi người đời đời kiếp
kiếp đều có chủng tử oán hận trong A lại da thức. Người người cùng ở với
nhau, luôn cảm thấy không vừa mắt, điều này ai cũng có thể kiểm nghiệm,
bất luận thấy người nào, việc gì cũng đều không vừa lòng, đều thấy
không vui. Đó là oán hận tích lũy từ vô lượng kiếp, nếu đồng thời bộc
phát ra, thế giới này sẽ bị hủy diệt như các tôn giáo phương Tây từng dự
đoán. Ngày tàn chính là toàn thế giới bị hủy diệt, trở lại từ đầu.
Xã hội thế gian vào thời kỳ có nhiều
người tu tập, nhờ vậy mà bạo phát không xuất hiện. Nhưng tương lai khó
ai biết trước. Một số ghi chép gần đây trên internet cho biết, cậu bé
bảy tuổi đầu thai đến thế giới này sau khi mãn một kiếp ở Hỏa tinh. Tuổi
tác tuy rất nhỏ, nhưng trí tuệ, năng lực hơn hẳn các nghiên cứu sinh
đại học. Cậu cho biết, quả địa cầu này vào mấy trăm vạn năm trước đã
từng bị hủy diệt, chìm xuống đáy biển. Nơi đó hiện giờ chính là Ấn Độ
Dương. Các nhà khảo cổ học không thể kiểm chứng được vì sự việc xảy ra
qu lu trong khi năng lực nghiên cứu hiện tượng lịch sử chỉ có thể thực
hiện trong khoảng vài nghìn năm, như nổi bật nhất là sự kiện của cách
đây 5.000 năm, một mảng đại lục chìm vào đáy biển Đại Tây Dương.
Một mảng đại lục chìm xuống Ấn Độ Dương
hàng trăm vạn năm đến nay mới được tiết lộ bởi cậu bé bảy tuổi này. Có
thể hiểu oán khí nhiều đời cùng lúc bạo phát mà nhà Phật vẫn nói “Cảnh
tùy tâm chuyển”. Cũng vậy, nếu mỗi người đều có lòng oán hận, thế giới
này ắt sẽ hủy diệt. Ngược lại, mỗi người đều hoan hỷ, đều có tâm yêu
thương, thế giới trở thành Cực lạc. Ta bà và Cực lạc thực ra không hề
khác biệt. Thế giới Cực lạc không phải do Phật A Di Đà tạo, Ta bà của
chúng ta cũng không phải do Thượng đế, vua Diêm La làm chủ tể, mà kinh
Phật nói chính nơi tâm chúng ta làm chủ. Tâm khởi niệm thiện, thế giới
mọi thứ đều thiện, người người đều thiện, không có gì bất thiện, thế
giới này chính là Hoa Tạng, là Cực lạc. Đức Phật thường nói “Tất cả pháp
do tâm tưởng sinh”, người thế gian cũng thường nói “Tâm nghĩ sự thành”.
Ta nghĩ đến thế giới Cực lạc thì thế giới Cực lạc liền hình thành; ta
nghĩ thế giới này an định, mọi người đối xử bình đẳng, hòa thuận với
nhau, không chỉ mình ta nghĩ mà mọi người cùng nghĩ, chắc chắn sẽ thành
tựu. “Tâm nghĩ sự thành” thế tại sao chúng ta lại không chịu nghĩ tốt?
Hóa giải xung đột gia đình
Hiện
tượng không hòa thuận trong gia đình rất phổ biến, vợ chồng bất hòa,
xung đột thường xảy ra. Nguyên nhân do đâu? Do quan niệm mình đúng,
người khác không đúng; cả hai đều nhìn thấy không đúng của đối phương
thì làm sao có thể hòa thuận. Trước khi kết hôn, chúng ta thường nhìn
người yêu với con mắt lý tưởng hóa, mọi thứ thuộc về người đó đều đẹp,
đều vừa mắt, nhờ vậy mới có thể đi đến kết hôn. Đó là trạng thái tâm lý
trước hôn nhân. Tuy nhiên, nếu vĩnh viễn nghĩ đối phương là đúng, là
tốt, khi có mâu thuẫn, chúng ta giành phần sai về mình, cam kết sửa đổi
thì gia hòa vạn sự hưng. Ghi nhớ cái tốt của người mới có thể hòa thuận,
có thể hóa giải xung đột, và thực sự xúc tiến an định hòa bình. Gia
đình là tế bào của xã hội, là tổ chức cơ bản nhất. Nhà nhà hòa thuận thì
xã hội hòa thuận, đất nước giàu mạnh. Mọi người đều phản tỉnh, đều biết
khuyết điểm ở chính mình. Nói người khác sai chính là sai lầm to lớn.
Ngày nay, đa số chúng ta phạm phải sai lầm này. Người khác làm gì có sai
lầm, đạo lý này hiếm người hiểu được, chỉ có Phật Bồ tát hiểu. Vì sao
nói người khác đều không có lỗi? Vì sai ở ngay chính chúng ta.
“Cảnh tùy tâm chuyển”, tâm là tâm của
chính mình, bên ngoài là cảnh giới tùy theo tâm mình mà thay đổi. Bên
ngoài bất thiện do tâm ta bất thiện, chính ta chuyển cảnh giới thành bất
thiện. Khi tâm thiện rồi, cảnh giới bên ngoài chẳng phải thiện hết rồi
sao? Cho nên hãy nghĩ lại xem sai là do đâu, sai ở chính mình do phiền
não tập khí khởi hiện hành. Giới-Định-Huệ không khởi hiện tiền, đức Phật
thường giảng trong đại kinh “Tất cả chúng sinh đều có trí tuệ đức tướng
của Như Lai”, trí tuệ đức tướng của chúng ta không thể hiện bày, do
tham sân si mạn, tự tư tự lợi,… khởi hiện hành làm cho con người xảy ra
xung đột, còn nếu là trí tuệ đức hạnh tướng hảo thì sẽ không xảy ra xung
đột lẫn nhau. Vì chính tâm chúng ta không tốt, trong tâm có tự tư tự
lợi, có danh vọng lợi dưỡng, có tham sân si mạn, có năm dục sáu trần,
nên sai lầm lớn là ở chính mình. Trong kinh giáo Đại thừa đức Phật
thường nói: “trong tự tánh thảy đều không có”. Đại sư Huệ Năng là người
khai ngộ, trong đàn kinh ngài cũng nói “vốn dĩ không một vật, chỗ nào
dính bụi trần”. Trong tâm thanh tịnh, trong chân như bổn tánh của chính
mình không hề có thứ gì, trong sạch thuần khiết, chỉ có trí tuệ, đức
tướng. Mê mất đi tự tánh của chúng ta, đem trí tuệ biến thành phiền não,
đem đức năng biến thành ác trược, việc xấu nào cũng làm, đem tướng hảo
biến thành thô xấu, biến thành đời ác năm trược, biến thành ba cõi sáu
đường, do đâu mà ra? Do chính chúng ta biến hóa ra. Tự mình biến ra, tự
mình hưởng thọ, thì còn có thể trách ai.
Cho nên nói sai là hoàn toàn sai ở chính
mình. Thực tế hiện tại mọi người đều sai, cả thế gian đều sai. Do đó
người giác ngộ rất khổ, người giác ngộ không thể cứu nổi thế gian. Tuy
nhiên người giác ngộ có thể cứu chính mình, chúng sinh mê hoặc cùng với
người giác ngộ bất hòa, người giác ngộ có thể hòa thuận với chúng sinh
mê hoặc, vì người giác ngộ không tranh với họ. Họ muốn tiền, chúng ta
đưa tiền, muốn danh đưa danh, muốn thứ gì, ta cho thứ đó. Chúng ta không
mong cầu thì không xảy ra xung đột. Vì cả hai cùng tham cầu nên mới xảy
ra xung đột. Người mê cho rằng nếu không tranh thì không được, người
trí hiểu rõ nhường nơi này, thì lại được ở nơi kia, có khi còn được
nhiều hơn cái đã cho. Càng xả càng được nhiều, không cần phải cầu. Đó là
đạo lý đức Phật đã dạy nhưng đáng tiếc, chúng sinh lại không tin.
Cầu vãng sinh Tịnh độ, thực hành xả bỏ
Chúng
tôi đã giảng điều này hàng trăm lần ngàn lần, nhưng không có người nghe
thấu, không có người chịu làm theo. Chúng tôi vẫn phải giảng hàng vạn
lần, ai nhập tâm, y giáo phụng hành thì sẽ được lợi ích. Nhiều năm giảng
như vậy, chỉ được số ít, khoảng ba hoặc bốn người làm theo. Họ không
tranh tài mà có thể xả tài. Không luận làm sự nghiệp gì, họ đều kiếm
được tiền, trong khi người khác lỗ vốn. Ở đây cư sĩ Phó là một trong số
ít những người đó, họ cứ xả ra, làm tài thí, pháp thí, vô úy thí, liều
mạng mà làm. Ở Đài Loan cũng có một hai người, ứng dụng trong suốt mười
mấy năm, nói với chúng tôi rằng thật hiệu nghiệm, Phật không gạt chúng
ta. Bản thân chúng tôi cũng đã ứng dụng qua 50 năm, thực chứng hiệu
nghiệm.
Người thế gian hy vọng được nhiều tiền
của, hy vọng được thông minh trí tuệ, được khỏe mạnh sống lâu, mà không
nghe lời đức Phật thì làm sao đạt được sở nguyện. Mỗi ngày tâm không
bình, tâm oán hận, thì chẳng những không đạt được, mà mạng càng ngày
càng bị tổn hại. Sau khi chúng tôi từ Nhật Bản trở về, nghĩ đến câu nói
của Lão Tử: “Hòa đại oán, tất hữu dư oán, an khả dĩ vi thiện”, có nghĩa
“Hóa giải xung đột sâu nặng”, là yếu tố mỗi người chúng ta đều phải có.
Gia đình xung đột, vợ chồng xung đột, rộng hơn nữa là xã hội, quốc gia,
chủng tộc, tôn giáo xung đột, nên hóa giải xung đột là vô cùng cần
thiết. Không hóa giải thì phiền phức, đời đời kiếp kiếp oan gia đối đầu,
không hề ngừng dứt, đôi bên đều thống khổ. Trong tâm thanh tịnh của
chúng ta không có xung đột, nên chỉ cần xuất hiện xung đột nhỏ thì liền
chướng ngại việc vãng sinh. Khi sắp vãng sinh, oan gia trái chủ tìm đến
bên thân chúng ta để báo thù, không để chúng ta vãng sinh, đó cũng chính
là ma chướng mà chúng ta thường nói đến.
Hôm qua, chúng tôi gặp một người đến từ
Malaysia, người này bị ma dựa. Đây là trường hợp nghiêm trọng nhất trong
rất nhiều người bị ma dựa, chúng tôi liền khuyên họ nên hóa giải, không
hóa giải đời đời kiếp kiếp đôi bên đều chịu khổ, giày vò lẫn nhau. Thế
gian này bao gồm cõi trời và nhân gian đều loạn. Nhân gian không dễ ở,
cõi trời không dễ đi, tốt nhất vẫn là thế giới Cực lạc. Thế giới Cực lạc
có thể đến được, vạn người tu vạn người được. Không chỉ Thích Ca Mâu Ni
Phật mà mười phương ba đời chư Phật thảy đều khuyên bảo chúng ta cầu
sinh Tịnh độ, nếu không tin tưởng, còn hoài nghi, thì đó là ngu si tột
đỉnh, là Nhất Xiển Đề, người không có thiện căn mà kinh đã nói. Do đó
chúng ta tiếp nhận lời khuyên bảo của tất cả chư Phật, ngay trong đời
này nhất định phải sinh Tịnh độ. Đã quyết tâm sinh Tịnh độ thì còn có
thứ gì không thể xả bỏ. Mọi thứ đều xả bỏ, không còn so đo với người,
sống được một ngày trên thế gian thì cứ hoan hỷ với mọi người.
“Hang thuận chúng sinh tùy hỷ công đức”,
chúng sinh muốn thứ gì, tất cả đều tùy thuận, thì khi lâm chung chúng
ta mới đi được. Nhất là những người trung niên trở lên, phải xem việc
này là việc lớn trong đời. Khi đến bảy mươi tuổi thảy đều buông bỏ hết.
Bản thân chúng tôi, một đời này cũng chỉ hướng đến hai từ “buông xả”,
lời khuyên này hoàn toàn không dư thừa, vì lời thừa là tạo khẩu nghiệp,
gây ra chướng ngại. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, 79 tuổi nhập Niết bàn,
tính theo tuổi mụ là 80 tuổi. Thực tế thế gian này còn rất dài, nhưng
bản thân chúng tôi đang đứng trước ngưỡng tuổi này nên cũng đã nghĩ đến
lúc sắp ra đi. Khi chúng ta có quan niệm chuẩn bị này thì mới có thể
buông bỏ, mới có thể không tranh với người. Ai cần danh, ta cho danh,
cần lợi ta đưa lợi, muốn cả địa cầu này, chúng ta đều nhường tất. Sau đó
hân hoan vui vẻ ra đi, chúc phúc cho người ở lại sống tốt và hòa thuận.
Đại sư Ấn Quang dạy người cầu sinh Tịnh
độ bằng cách dán chữ “Chết” lên trán để hàng giờ hàng phút tâm niệm mình
sắp phải ra đi, đừng nên tranh giành, đấu đá. Cuộc đời như giấc mộng,
rỗng không. Sáu trăm quyển kinh Đại Bát Nhã mà đức Phật giảng trong suốt
hai mươi hai năm luôn lặp đi lặp lại câu “Tất cả pháp không, sở hữu hết
thảy đều không”. Khi thật sự thơng hiểu, minh tường, tâm sẽ định, không
còn tranh đua. Tâm định khai trí tuệ, việc xuất thế gian sẽ dễ dàng
tường tận, đọc kinh cũng dễ dàng liễu ngộ.
Chúng ta không những phải xả cả địa cầu
này, xả cả cõi dục, cõi vô sắc, mà còn phải xả luôn mười pháp giới.
Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Phật tất cả đều phải xả. Rời mười pháp
giới mới có thể đến được Nhất chân pháp giới, đây chính là sự buông bỏ
mà Đại sư Chương Gia đã dạy chúng tôi. Vì sao chúng ta không ra khỏi
được mười pháp giới? Vì chúng sinh sáu cõi không thể thoát khỏi luân
hồi, họ không chịu xả luân hồi, đó là sai lầm. Trong pháp giới vốn dĩ
không có những thứ này. Những thứ này là từ vọng tưởng, phân biệt chấp
trước biến hiện ra, nên chúng uyển tưởng, không có gì là chân thật.
Chúng ta lấy giả cho là thật, cái thật thì lại hoàn toàn không biết. Rất
đáng thương. Hiện tại chúng ta tuy ở trong vòng lẩn quẩn của sáu cõi,
nhưng nếu muốn giúp chúng sinh cũng trong vòng lẩn quẩn, thì chúng ta
phải thật sự hy sinh cống hiến bằng cách y giáo phụng hành. Hãy là tấm
gương cho người noi theo.
Đời sống của bản thân chúng tôi rất
thoải mái, nhiều hạnh phúc, bởi vì chúng tôi buông bỏ được. Trước lời
hủy báng, chúng tôi cảm kích và thật tâm tán thán. Vì sao tán thán? Vì
người hủy báng chính là ân nhân giúp ta tiêu nghiệp chướng. Nghiệp
chướng nếu không thể tiêu, về sau cũng phải tiêu ở ba đường ác. Ba đường
ác từ nghiệp chướng của chúng ta mà biến hiện ra. Ac nghiệp ác chướng
nhất định phải tiêu, không tiêu không thể kiến tánh. Ba đường thiện cho
chúng ta tiêu phước. Phước cũng phải tiêu, ác cũng phải tiêu. Sáu cõi
không gì khác đó là tiêu nghiệp. Đến ba đường thiện để tiêu nghiệp
thiện, ba đường ác để tiêu ác nghiệp. Tâm thanh tịnh không có ác cũng
không có thiện, gọi là “chân thiện”. Trong kinh, đức Phật gọi “thiện nam
tử, thiện nữ nhân”, ám chỉ người thiện ác đều không có, đó là chân
thiện. Vì vậy không nên nhầm lẫn, thiện ác chỉ là tương đối trong sáu
cõi luân hồi. Khi trở thành Phật Bồ tát thì thiện đó là “thuần thiện”.
Truy nguồn gốc của xung đột để tìm cơ sở hóa giải
Sau
khi từ Nhật Bản trở về, chúng tôi đã viết ra bức hoành gồm hai câu của
người xưa: “Đồ tri hòa kỳ đại oán, nhi bất tỉnh kỳ đại oán chi sở do
hưng”, có nghĩa là chúng ta chỉ biết hóa giải tranh chấp, xung đột nặng
nề mà không biết được cội gốc của tranh chấp xung đột ở nơi đâu. Câu thứ
hai là “Tuy hòa chi dĩ chí công, nhi bất miễn hữu dư oán”, có nghĩa là
dùng công bình, công chánh để hòa giải. Bức này in xong sẽ tặng đến mọi
người.
Tình huống “bằng mặt nhưng không bằng
lòng”, ngoài mặt đã hóa giải nhưng trong lòng vẫn còn oán hận, vịêc này
sẽ khó. Oán hận của chúng ta sinh ra từ tình chấp, cảm tình chấp trước.
Tình chấp do mê mất đi bổn tánh. Trong bổn tánh không có tình chấp, mê
mất đi bổn tánh mới sinh tình chấp. Cái tình này chính là phân biệt,
chấp này chính là chấp trước mà kinh giáo Đại thừa gọi là tám thức, 51
tâm sở. Trong tám thức, A lại da là khởi tâm động niệm, Mạt na là chấp
trước, thức thứ sáu là phân biệt, cũng là tình chấp. Sau khi mê mất đi
tự tánh, đem tự tánh biến thành tám thức, gọi là tình chấp. Trong A lại
da gom chứa từ vô lượng kiếp đến nay kết thành chủng tử. Vì vậy cái dư
oán này không thể hóa giải. Tự tánh vốn không mê vọng, làm gì có oan
kết. Cho nên muốn hóa giải oán kết, mỗi người đều phải tu phá phẩm vô
minh, chứng một phần pháp thân, đến cảnh giới báo độ của chư Phật, “thật
báo trang nghiêm độ của chư Phật”. Đây gọi là giải quyết triệt để cứu
cánh viên mãn, việc này tương đối khó.
Ngoài ra còn phương pháp khác, đó chính
là mang nghiệp vãng sinh, sinh đến thế giới Tây phương Cực lạc, thì vấn
đề này cũng được giải quyết cứu cánh viên mãn. Cho nên câu nói của Lão
Tử, chúng ta biết, ngay trong một đời này, nếu không sinh đến thế giới
Tây Phương Cực Lạc thì rất khó hóa giải. Vì cái tình kết trong A lại da
thức không thể khai mở. Chúng ta xung đột với tất cả chúng sinh trên thế
gian, phiền phức rất lớn, đời đời kiếp kiếp khổ không nói ra lời. Chúng
ta có thể đi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, sau khi đi sẽ trở lại,
thừa nguyện tái lai, giúp đỡ những chúng sinh khổ nạn. Tình kết mê đã
quá nặng, là gốc của khổ nạn, chúng ta đến giúp đỡ, làm người hòa giải.
Chư Phật Bồ tát ứng hóa ở mười pháp giới không gì khác hơn là làm người
hòa giải.
Cho nên câu thứ nhất này, “Đồ tri hòa kỳ
đại oán, nhi bất tỉnh kỳ đại oán chi sở do hưng”, ý tứ sâu sắc vô cùng,
cho thấy việc học Phật nếu không thành tựu thì không thể giải quyết
được vấn đề của chính mình.
Vua Thương Thang, một bậc thánh nhân đã
từng nói “Vạn phương hữu tội, tội tại trẫm cung”, người trong thiên hạ
có tội, tội đó do ta. Bởi vì ông là quốc vương, nhân dân có tội, cũng vì
quốc vương không dạy tốt. Chúng ta thể hội ý này, quay đầu nhìn lại gia
đình mình. Một người trong gia đình không tốt, thì chính ta có tội,
không thể trách cha mẹ, anh chị em. Giác ngộ mà không thể cảm hóa được
người nhà thì có tội, lỗi ở chính mình. Thánh nhân không giống người
thường. Người thường quy đúng về ta, quy lỗi cho đối phương, như vậy là
đại tội, không tội nào nặng hơn. Người lãnh đạo bất cứ đoàn thể nào,
đoàn thể không tốt thì người lãnh đạo có tội. Trách nhiệm của người lãnh
đạo gói gọn trong ba chữ: “Quân, Thân, Sư” Chỉ cần làm tròn ba chữ này,
công đức vô lượng.
Quân là lãnh đạo, kế hoạch chiến lược,
dẫn dắt. Thân là chăm lo, nuôi dưỡng. Sư là giáo dục, nếu giáo dục không
tốt, chúng ta không thể giải quyết vấn đề đời sống của nhân dân, không
thể lãnh đạo, tội lỗi sẽ rất nặng. Lời nói của vua Thang rất có đạo lý,
người lãnh đạo các cấp trong xã hội nên hiểu ý này. Ngoài ra Trang Tử,
là một dân thường cũng nói “dĩ đắc vi tại nhân, dĩ thất vi tại kỷ.”
Trong hội nghị ở Cang Sơn chúng tôi đã
dẫn hai câu nói trên, nếu chúng ta làm công tác hòa bình thì phải chuyển
đổi quan niệm, người khác đều đúng, lỗi lầm là chính mình. Nói người
khác sai là ta sai, người khác đúng là ta đúng. Những người tham dự sau
khi nghe rất cảm khái và cho rằng quá khó. Khó cũng phải làm. Đây chính
vì thế giới an định hòa bình mà cống hiến. Chỉ nói trên miệng, kêu gọi
hòa bình, kêu gọi an định, thì hòa bình an định không thể được thực
hiện. Người làm công tác hòa bình cần ưu tư điều này. Trung Quốc có một
thánh nhân là vua Thuấn, vua Thuấn nhìn thấy mọi người đều đúng, chỉ có
mình sai, cho nên mỗi ngày phản tỉnh, mỗi ngày thay đổi, tự làm mới, trở
thành đại thánh nhân.
Cuối cùng, tất cả chúng ta hãy đồng
khích lệ lẫn nhau. Người xưa nói “Nhiên tắc thánh nhân, thường thọ thiên
hạ chi trách” là người tốt, học thánh hiền, đi con đường chánh pháp, ắt
sẽ có nhiều người đố kỵ, hủy báng, nhục mạ, chúng ta phải chịu trách cứ
của thiên hạ, không nên phát khởi oán hận trách cứ người khác thì oán
hận từ vô lượng kiếp mới có thể hóa giải được.