Phật giáo Việt nam đang chứng kiến những xáo trộn và khủng hoảng chưa
từng có trong lịch sử. Các mô hình tổ chức, những lễ tiết sinh hoạt, từ
ma chay, cưới hỏi các thứ, được cố gắng rập khuôn theo mô hình phương
Tây một cách vội vã đã làm xói mòn phần nào truyền thống tâm linh của
dân tộc. Thêm vào đó, dưới tác động của xã hội tiêu thụ, và sức ép của
quyền lực chính trị làm nảy sinh những tâm trạng bệnh hoạn do bởi quan
điểm thế quyền và giáo quyền thiếu nền tảng giáo lý. Tình trạng đó tất
nhiên đã có những tác động tiêu cực lên đường hướng giáo dục thanh niên
Phật tử Việt nam.
Ngày
nay, nói đến tuổi trẻ Việt nam, có lẽ nên tượng hình như hai đường
thẳng mà điểm hội tụ là một điểm trong xã hội tiêu thụ. Ðó là hai bộ
phận tuổi trẻ trong nước và ngoài nước. Tuy tất cả cùng được giáo dục
theo mô hình giáo dục phương Tây, nhưng do khác biệt định chế xã hội dựa
trên quyền lực chính trị chứ không phải do xu hướng phát triển tự
nhiên. Ðó là sự khác biệt giả tạo như vũng sình, không biết đâu là chỗ
chắc thật để bám vào mà thoát thân. Tuổi trẻ Việt nam đang bị bật rễ, do
đó có nguy cơ mất hướng, hay thực sự đã mất hướng. Tuổi trẻ của đạo
Phật Việt nam cũng không ngoại lệ, và không dễ dàng vượt qua tình trạng
mất hướng này.
Ở
đây tôi nói mất hướng là nhìn từ điểm đứng dân tộc. Tuổỉ trẻ ở nước
ngoài chỉ cần quên, hay tạm thời quên, nguồn gốc Việt nam của mình, thì
hướng đi cho nhân cách được xác định ngay từ khi vừa bước chân vào cổng
Ðại học. Nói cách khác, tuổi trẻ Viêt nam hải ngoại không phải hoàn toan
bị bật rễ, nhưng ở trong tinh trạng di thực. Quýt phương Nam đêm trồng
trên đất phương Bắc, có thể ngọt hơn, có thể chua hơn, va cũng có thể èo
uột vì không hợp phong thổ. Tuổi trẻ trong nước là thân cây còn dính
chặt với gốc rễ trên bản địa. Nhưng để sinh tồn, và muốn phát triển
nhanh chóng, bị sức hút của sự thăng tiến tác động từ bên ngoài, nên có
nguy cơ bật rễ. Ðại bộ phận tuổi trẻ Việt nam ngày nay biết rất ít vè
quá khứ ông cha mình, đã yêu nhau như thế nào, đã suy nghĩ như thế nào
để bắt kịp những giá trị tâm linh phổ quát của nhân loại.
Tuổi
trẻ của đạo Phật Việt nam tuy có thể được tin tưởng là còn cố bám chặt
lấy gốc rễ truyền thống để vươn lên, nhưng do sự thiếu trách nhiệm hoặc
thiếu nhận thức về hướng đi của thời đại của những người đang đứng trên
cương vị giáo dục vô tình chẳng khác nào bác sĩ không còn biết liều pháp
nào hay hơn là cho uống thuốc ngủ để người bịnh quên đi những nhức nhối
của thời đại mà tuổi trẻ cần phải biết để chọn hướng đí tương lai cho
đời mình. Mặt khác, do sức ép chính trị mà tuổi trẻ cần phải được tập
hợp thành lực lượng tiền phong và hậu bị để bảo vệ chế độ, do đó việc
giảng giải đạo Phật cho tuổi trẻ không được phép vượt qua các cổng chùa.
Bên trong cổng chùa, tuổi trẻ chỉ đựơc giảng dạy những ý nghĩa vô
thường hay vô ngã không như là quy luật vận động để tồn tại, phát triển
và huỷ diệt của thiên nhiên và xã hội, mà như là một bức tranh toàn xám
của cuộc đời được tô trét bởi những người mà tuổi đời đã mệt mỏi với
những thành công và thất bại đã làm thui chột ý chí.
Trong
một xã hội hội mà các giá trị tâm linh truyền thống đang bị băng hoại,
một số thanh niên tác quái tại các đố thị lớn dựa vào quyền lực chính
trị của cha chú, hay tiền của bất chính của bố mẹ; một số khác miệt mài
học chỉ để làm thuê, làm những người nô lệ kiểu mới trung thành với
những ông chủ giàu sụ. Một số khác, cam chịu thân phận nghèo đói, thất
học, cam chịu tất cả nhục nhã của một dân tộc nghèo nàn lạc hậu. Trong
tình trạng đó, sự hiện diện của các đoàn sinh GDPT, những đơn vị tập hợp
các thanh niên biết tìm lẽ sống cho bản thân, thật sự là một thách thức
xã hội, mà quyền lực chính trị cảm thấy như một đe doạ nếu không vận
dụng được để phục vụ cho tham vọng đen tối, mà vì thâm vọng ấy có khi
sẵn sàng mãi quốc cầu vinh. Như thế thì, tất nhiên là ảo tưởng khi nói
rằng, chúng ta chỉ tập họp tuổi trẻ để dạy đạo, không cần biết cái gì
khác nữa. Nói thế chẳng khác nào lùa những nai con vào một chỗ để cho
cọp dữ dễ dàng thao túng.
Tất
nhiên, đất nước cần tuổi trẻ để xây dựng. Ðạo pháp cũng cần tuổi trẻ để
thể hiện bản hoài tiếp vật lợi sinh của mình. Theo bản hoài đó, giáo
dục đạo Phật cho tuổi trẻ không chi có mục đích chiêu dụ họ vào trong
bốn vách tường nhà chùa để cách ly những phòng trà, hộp đêm, những môi
trường cám dỗ, sa đọa. Tuy nhiên, cơ bản giáo dục đạo Phật vẫn phải là
rèn luyện đạo đức, phát triển trình độ nhận thức tâm linh.
Rèn Luyện Đạo Đức
Trước
hết, hãy nói về rèn luyện đạo đức. Ở đây hoàn toàn không có vấn đề nhồi
nhét những tín điều đức lý. Nghĩa là, không nói với tuổi trẻ không được
làm điều nầy, không được làm điều kia. Tuổi trẻ có thể làm bất cứ điều
gì mà họ tự thấy thích ứng với thời đại. Nhưng phải làm sao không để cho
tuổi trẻ bị lôi cuốn bởi những yếu tố độc hại của thời đại, không bị
lệch hướng nhận thức bởi các phong trào thời thượng, do đó cần thiết lập
một không gian an toàn, và di động. Không gian an toàn đó là bồ đề tâm.
Tính di động, đó là vô trụ xứ của Bồ tát. Chúng ta cần nói thêm hai
điểm này.
Lớn
lên tại các đô thị phồn vinh, rồi bước vào xã hội với học vị cao, mức
sống ổn định, một bộ phận tuổi trẻ ít khi trực tiếp sống với những đau
khổ của các bạn trẻ khác ở những vùng đất tối tăm xa lạ. Thiếu đồng cảm
về những khổ đau của đồng loại, do đó cũng thiếu luôn cả nhận thức về
thực chất của sự sống, không thể hiểu hết tất cả ý nghĩa thiết cốt của
khát vọng sinh tồn. Cho nên, đưa đạo Phật đến với tuổi trẻ, phải có
nghĩa là đưa tuổi trẻ đến giáp mặt với thực tế của sinh tồn. Ðó là làm
phát khởi bồ đê tâm nơi tuổi trẻ: “Nơi nào hiểm nạn, tôi nguyện sẽ là
cây cầu ở đó. Nơi nào tối tăm, tôi nguyện sẽ là ngọn đuốc sáng.” Ðây có
thể là ước nguyện xa vời, thậm chí sáo rỗng đối với một số người. Nhưng
đó chính là mặt đất kim cang để trên đó tuổi trẻ tự vạch hướng đi cho
mình, tự quy định những giá trị sống thực cho chính đời mình.
Về
tính di động, đó là tính mở rộng, không tự câu thúc vào trong một không
gian xã hội chật hẹp, để có thể có tầm nhìn xa hơn, vượt ngoài thành
kiến và truyền thống khép kín của xã hội mình đang sống. Nói cụ thể hơn,
tuổi trẻ được giáo dục để luôn luôn ở trong tư thế sẵn sàng lên đường.
Ðến bất cứ nơi nào trên trái đất này, nơi mà đau khổ được sống thực hơn,
hạnh phúc được trắc nghiệm chân thực hơn. Trong một ý nghĩa khác, tính
di động như vậy đồng nghĩa với tính phiêu lưu. Từ khi sống tại những đo
thị được xem là ổn định, nhân loại đã dập tắt đi tính phiêu lưu nơi tuổi
trẻ, nhưng khơi dạy tính du lịch nơi người lớn đi tìm lạc thú mới để
thay đổi khẩu vị thường nhật.
Tinh
thần vô trụ xứ tất nhiên có nhiều điểm khác biệt. Vô trụ xứ nói: “Không
trụ sinh tử, không trụ Niết bàn”.Ðó là tinh thần khai phóng, không bị
buộc chặt vào bất cứ giá trị truyền thống nào. Tuổi trẻ cần được học hỏi
để sống với tinh thần khai phóng và bao dung, để tự minh định giá chuẩn
xác giá trị các nền văn minh nhân loại, tự mình chọn hướng đi thích hợp
trong dòng phát triển hài hoà của tất cả các nên văn minh nhân loại,
tuy khác biệt tín ngưỡng, khác biệt tập quán tư duy, khác biệt cả phong
thái sinh hoạt thường nhật.
Phát Triển Trình Độ Nhận Thức Tâm Linh
Về
sự phát triển trình độ nhận thức tâm linh nơi tuổi trẻ, ở đây chúng ta
nói đến sự học tập thông qua Kinh điển truyền thống. Tam tạng Thánh điển
là kho tàng kiến thức bao la. Dựa trên những lời dạy căn bản của đức
Phật về giá trị của sự sống, bản chất của đau khổ và hạnh phúc, trên đó
nhiều quy luật về thiên nhiên, về xã hội, về tâm lý, ngôn ngữ, của con
người lần lượt được phát hiện qua nhiều thời đại trong nhiều khu vực địa
lý có truyền thống lịch sử khác nhau.
Tuy
nhiên, chúng ta cũng biết rằng, trong toàn bộ lịch sử các nền văn minh
nhân loại, đang tồn tại hay đã biến mất, không một học thuyết nào mà
không từng bị nhận thức của người đời sau vượt qua. Có học thuyết bị
vượt qua và bị đào thải luôn. Có học thuyết bị vượt qua, rồi được phục
hoạt. Nhưng có rất ít học thuyết được phục hoạt mà bản chất không bị
biến dạng. Biến dạng cho đến mức nếu so sánh với quá khứ, nó như là quái
thai. Giáo lý của Phật khẳng định quy luật vô thường, nên vấn đề là khế
lý và khế cơ, chứ không phải là vấn đề bị hay không bị vượt và đào
thải.
Tuổi
trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà
học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể
nhìn thẳng vào vào bản chất sự sống. Cho nên, sư học Phật pháp không hề
cản trở sự học thế gian pháp; kiến thức Phật học không xung dột với kiến
thức thế tục. Duy chỉ có điều khác biệt, là học Phật khởi đi từ thực
trạng dâu khổ của nhân sinh để nhận thức đâu là hạnh phục chân thật. Bi
và trí là đôi cánh chắc thật sẽ nâng đỡ tuổi trẻ bay lượng vào suốt
không gian vô tận của đời sống.