1
)- Nhẫn nhục là gì?
Nhẫn
là nhịn chịu, nhục là tổn thương sỉ
nhục.
Nhẫn nhục
là chịu nhịn những điều sỉ nhục xấu hổ, nhục
nhã; chịu đựng tổn thương trước những cảnh,
sự việc không vừa lòng, nghịch ý, trái tai
gai mắt.
Nhẫn nhục là
nhận chịu những điều người khác làm cho mình
khổ não, trong tâm mình không những không
tức giận mà còn không nghĩ tưởng tới việc sẽ
báo oán trả thù.
2
)- Tại sao cần phải nhẫn nhục?
Nhiều
người vì được nuông chiều được nể nên tưởng
mình là hay là nhất, càng ngày càng tỏ ra
“khinh người”, rồi đâm ra nói năng hành động
qúa trớn. Có kẻ vì si mê có tính “cả vú lấp
miệng em” át giọng người khác, cho người
khác là ngu là dốt không bằng mình. Lại có
người ngu si điên đảo cho rằng “ta đây là
nhất” không ai bằng mình nên lấn lướt, hống
hách. Tất cả những người như thế đều là
người vô minh, dù người đó có bằng cấp này
nọ (thực ra, người có học ít khi có những
hành động lỗ mãng) đều là người vô minh cả.
Bởi vậy khi bị những người ấy sỉ nhục, mắng
nhiếc, đánh đập tàn nhẫn, chúng ta nên coi
việc đối xử như thế là do không hiểu sự thật,
cần phải kiên nhẫn giải thích sự việc
Nhưng
có người vì không dằn được cơn tức giận mà
sinh ra đỏ mặt tía tai, quát tháo ầm ĩ, đá
bàn quăng ghế, buông ra những lời cộc cằn
chửi rủa tục tằn, hành hạ đánh đập người một
cách tàn nhẫn. Có kẻ nổi cơn thịnh nộ đâm,
chém, bắn người khác gây ra án mạng mà phải
ân hận suốt đời. Lại có những việc rất nhỏ
nhặt trong gia đình hay ngoài xã hội chỉ vì
một câu nói không đáng kể hay một cử chỉ nhỏ
nhặt, mà người không kiên nhẫn đã gây ra
biết bao buồn phiền đau khổ cho người và cho
mình. Ở đây có thể nói người không kiên nhẫn
đối với các việc nhỏ nhặt là người nóng nảy,
vì nhân một việc bé xé ra to, nên là người
tạo ác.
Nhẫn
nhục được gắn liền với chữ “bình tĩnh, kiên
nhẫn, chịu đựng”, những người nóng nảy hay
mất bình tĩnh, mất kiên nhẫn. Họ không tự
chủ được những nghịch cảnh khó khăn nan giải,
nên nói năng hành động vội vàng nông nổi
thiếu suy nghĩ. Trong gia đình mà mọi người
đều không kiên nhẫn sẽ đưa đến mất hạnh phúc
và dễ tan vỡ. Đối với xã hội mọi người đều
không kiên nhẫn sẽ đưa tới xáo trộn và không
vững bền.
Người
học đạo cũng vậy, khi gặp nghịch cảnh không
nhẫn nhục sẽ làm cho tâm luôn luôn dao động,
có khi còn bị đọa vì không nhẫn nhục mà làm
các việc ác.
Do đó
tại sao chúng ta phải học và thực hành nhẫn
nhục là vậy.
3
)- Các loại nhẫn nhục:
Có ba loại:
a-
Thân nhẫn:
Là sự
chịu đựng của thân trước các nghịch cảnh
không vừa ý, như nóng lạnh, bệnh tật, đói
khát. chỗ ở nơi nằm không được tiện nghi,
hoặc bị hành hạ đánh đập thân thể. Trước
những nghịch cảnh như thế, người nhẫn nhục
không hé răng mở miệng phàn nàn hay chống cự
đánh trả, mà chỉ bình tĩnh giải thích sự
việc và chịu đựng.
b-
Khẩu nhẫn:
Là sự
im lặng của miệng trước các nghịch cảnh
không vừa ý, như có người chửi mắng, nói lời
vu oan, đâm thọc, không nói có, có nói không,
nói thêm bớt, nói bóng nói gió, nói thêu dệt
v.v… Trước những lời nghịch tai như thế,
người nhẫn nhục chỉ nói lời giải thích chân
thật ôn hòa. Nếu không được nghe thì giữ yên
lặng, chứ không nổi giận dùng những lời ác
mà đối chọi lại, hoặc gây thành chuyện lớn,
sinh cãi nhau, đánh lộn, giết chóc v.v...
c-
Ý nhẫn:
Là sự
nhẫn nhục của tâm ý, trong lòng người nhẫn
nhục trước nghịch cảnh của thân không có ý
nghĩ than trời trách đất về sự nóng lạnh
bệnh tật, không than thân trách phận về sự
thiếu thốn. Người nhẫn nhục trước cảnh bị
hành hạ xác thân hay bị vu oán giá họa, nhục
mạ đủ điều, cũng đều nhẫn cả. Chỉ giải thích
một cách chân thật, không hề có ý nghĩ tức
giận, trong lòng không nổi lên oán hận căm
hờn sẽ trả thù sau này v.v…
Trong
ba loại nhẫn nhục, ý nhẫn là quan trọng nhất,
vì có khi thân chịu đựng được những bất nghi,
đau đớn, nhưng miệng còn thì thầm lẩm bẩm ca
cẩm nguyền rủa. Có khi miệng không nói năng
chi cả, nhưng vẫn tức giận trong lòng rằng
”ngày nay ta không thể ăn tươi nuốt sống
ngươi, ngày sau ta sẽ trả thù này”. Bên
trong ý thức không nhẫn nhục được thì thế
nào cũng có ngày sự giận dữ thù hằn sẽ hiện
ra, không ở hành động, cũng ở lời nói.
Khi
lòng tức giận hận thù được lắng xuống trước
mọi nghịch cảnh, sự nhẫn nhục mới thật sự là
kiên cố rộng lớn (Ba La Mật).
4
)- Nhẫn nhục như thế nào?
Có
hai thứ nhẫn nhục:
a-
Nhẫn nhục chấp tướng:
Là
nhẫn nhục vì danh lợi, vì có người khen, vì
sợ uy quyền, vì chưa đúng lúc, chưa có đủ
đều kiện trả thù, vì coi rẻ khinh bỉ đối thủ
v.v…Đó là nhẫn nhục chấp tướng, chưa phải là
nhẫn nhục thực sự, vì còn do dục vọng tham,
sân, si, mạn thúc đẩy chi phối.
b-
Nhẫn nhục vô tướng:
Là
khi nhẫn nhục không chấp vào tướng như nêu ở
trên. Người nhẫn nhục luôn luôn tự hỏi: “Ta
có làm điều gì sai quấy không? Nếu có, ta bị
sỉ nhục là phải, ta không nên tức giận mà
phải cám ơn. Nếu ta không làm điều gì sai
quấy, sau này sẽ được chứng minh, vì vàng
bao giờ cũng là vàng, không thể vàng mà là
đồng được. Hoặc ta không làm điều gì quấy,
những sự sỉ nhục ấy chẳng dính liú gì tới ta,
nên ta không cần khổ tâm suy nghĩ đến”.
Nhẫn
nhục còn là không muốn hơn thua, được mất,
vinh nhục, khen chê, đây là tám thứ gió
bão quật ngã mọi người. Không tranh đua chèn
ép người khác để đạt mục đích. Không tranh
cãi phải trái, đúng sai, hay dở,
tốt xấu, tranh chấp này nọ. Không
muốn đời là bãi chiến trường thù hận, thế
giới là một lò lửa ngụt cháy. Người nhẫn
nhục còn tiến tới có lòng từ bi hỉ xả rốt
ráo.
Người
tu hành muốn hành hạnh nhẫn nhục kiên cố (Ba
La Mật), phải quán chúng sinh và mình cùng
đồng một bản thể mới không thấy ta bị nhục
và người làm nhục mình. Thí dụ như tay phải
làm việc cầm con dao hay cái búa, cắt đồ vật
hay đóng đinh, rủi cắt hay đập phải ngón của
bàn tay trái làm chảy máu hay sưng vù lên
đau đớn. Bị thương tổn như thế, nhưng tay
trái tự nhận tay phải cùng với mình (tay
trái) đồng một thân thể, nên tay trái không
thấy tay phải làm nhục làm hại mình. Nhẫn
nhục như thế mới là nhẫn nhục rốt ráo Ba La
Mật.
5
)- Đức Phật dạy nhẫn nhục:
Chúng
ta hãy lược trích một đoạn Kinh, đức Phật
dạy người tu hành về nhẫn nhục trong Trung A
Hàm quyển 4 trang 286, 290, 291 như sau:
Khi
nghe, có năm cách nói: “Nói đúng lúc hay
không đúng lúc, nói chân thật hay giả dối,
nói dịu dàng hay hung ác, nói hòa hợp hay
đâm thọc, nói có nghĩa hay vô nghĩa”. Với
năm cách nói này nếu người tu hành khi nghe
mà tâm bị biến đổi, có thể miệng phát ra lời
ác, người tu hành bị suy thoái. Khi ấy người
tu phải khởi tâm từ mẫn đối với người kia,
tâm tương ưng với Từ trải khắp một phương,
thành tựu an trú. Cũng vậy, hai, ba, bốn
phương, phương trên phương dưới, bao trùm
tất cả, không tranh cãi, không sân không oán.
Đối với tâm Bi, Hỷ, Xả cũng vậy, không tranh,
không sân oán, biến mãn tất cả thế gian rộng
lớn trùm khắp, thành tựu an trú.
Cũng
vậy, nếu người tu bị người khác dùng tay đấm,
đá ném, gậy đánh, dao chém, mà tâm biến đổi,
hay miệng phát lời ác, hay đánh trả, người
tu tất bị suy thoái. Hãy học sao cho tâm
không biến đổi, miệng không phát ra lời ác,
không đánh trả, mà hướng đến người ấy, duyên
nơi người ấy khởi tâm từ mẫn, không tranh,
không kết, không oán, rất rộng lớn vô lượng
vô biên, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu
an trụ, khéo tu tập như thế.
Cũng
như vậy, nếu có giặc, cướp lấy lưỡi cưa bén
cắt xẻ tay chân người tu hành, nếu tâm biến
đổi, hay miệng phát ra lời ác, hay đánh giết
trả, người tu tất suy thoái. Hãy học sao cho
tâm không biến đổi, không phát ra lời thô ác,
không đánh giết trả, mà hướng đến người ấy
khởi tâm từ mẫn. Tâm tương ưng với Từ trải
khắp một phương, hai, ba, bốn năm, sáu
phương, bao trùm tất cả, không tranh, không
kết, không oán, rộng lớn bao trùm khắp thế
gian, thành tựu an trú. Hãy khéo tu tập như
thế, liền được giải thoát.
6
)- Vài trường hợp điển hình:
1)-
Một câu chuyện liên quan tới nhẫn
nhục của chính đức Phật mà Kinh sách ghi đã
xẩy ra trong mùa an cư thứ chín của đức Phật.
Khi ấy đức Phật mới 44 tuổi, trung niên,
cường tráng, với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp,
lại càng thêm uy nghi đẹp đẽ hấp dẫn. Đức
Phật an cư ba tháng tại Kosambi, Ngài quán
sát thế gian biết được một người Bà La Môn
đã đủ cơ duyên nên Ngài đến nơi ông ta đang
tế thần Lửa. Vị Bà La Môn thấy dung mạo
tuyệt vời của đức Phật, ông nghĩ ngay đến
người con gái diệu của ông, vì mấy năm liên
tiếp ông có ý tìm kiếm một chàng rể xứng
đáng nhưng chưa có người nào vừa ý cả. Bởi
vậy sau khi thăm hỏi chuyện trò thích ý, ông
yêu cầu đức Phật ở lại chờ không lâu ông trở
về nhà lấy tặng một món qùa đặc biệt. Đức
Phật biết ý ông, nên đi đến một chỗ gần đấy
nhưng cố ý để lại dấu vết chân. Ông Bà La
Môn trở lại không thấy đức Phật, nhưng nhận
ra vết dấu chân trên đất nên dẫn vợ, con gái
trẻ đẹp với quần áo lộng lẫy, trang điểm mỹ
lệ đi theo vết chân. Khi gặp mặt, ông giới
thiệu vợ con, và tỏ ý muốn gả con gái cho
đức Phật, đức Phật vừa từ chối vừa muốn độ
cho Bà La Môn nên nói: “Tôi đã thấy ái dục,
bất mãn tham vọng là con của Ma Vương, Tôi
không ham muốn thích thú trong nhục dục của
ái tình trần tục, Thể xác đầy dục lạc là gì?
Nó là khổ, là ràng buộc của sinh tử luân hồi.
Tôi không bao giờ muốn rờ đến nó, dù chỉ sờ
bằng chân”.
Nghe
những lời ấy, cả hai ông bà Bà La Môn đều
chứng ngộ A Na Hàm là bậc chứng thứ ba trong
Tứ Thiền, nhưng cô con gái Magandhiya thì
trái lại, cô tức giận trong lòng. Cô cho
rằng “Như thế là nhục mạ cô, chửi mắng cô”.
Lòng tự ái của người con gái trong một gia
đình giàu có quyền thế địa vị, trẻ đẹp. Chỉ
mấy năm sau, cô trở thành thứ hậu của vua
Udena, dựa trên thế lực đã có. Cô sai thuộc
cấp mua chuộc, sai bảo người chửi mắng, nhục
ma đủ điều, xua đuổi đức Phật ra khỏi thành
ấy. Mỗi ngày đi khất thực đều bị hết toán
người này đến toán người khác rỉa rói chửi
rủa, họ nói: “Ông là tên ăn trộm, Ông là tên
khờ dại, Ông là người ngu si, Ông là tên
điên cuồng, Ông là con bò, là con lừa, là
con lạc đà, Ông là con thú vật khờ dại v.v…
Khi chết ông sẽ đọa Địa ngục, khi chết ông
sẽ đọa chỗ nghèo khổ v.v…Ông hãy cút đi khỏi
nơi đây, ở đây mọi người không muốn nhìn mặt
ông , mọi người đều ghét ông không ưa ông
v.v….”
Các
Tỳ Kheo (Tăng) đệ tử của đức Phật thấy nhiều
người dữ dằn dùng lời thô tục chửi rủa Ngài
như vậy chịu đựng không nổi nên thưa:
- Người ta
chửi rủa và nhục mạ chúng ta qúa thậm tệ,
xin Thế Tôn dời đi nơi khác”.
Đức Phật
nói:
- Bây giờ
chúng ta đi đâu?
- Thưa Thế
Tôn, nên đi đến thành khác.
- Nếu ở thành
đó người ta cũng chửi mắng và nhục mạ thì ta
đi đâu?
- Thưa Thế
Tôn, lại đi đến thành khác.
- Các Thầy
không nên nói vậy, nơi nào gặp chuyện khó
khăn chính nơi ấy ta phải giải quyết cho ổn
thỏa. Chỉ khi nào giàn xếp xong xuôi ta mới
có quyền đi nơi khác, nhưng ai chửi rủa nhục
mạ ta?
- Thưa Thế
Tôn, rất nhiều người chửi mắng nhục mạ.
Đức
Phật giảng giải: “Như voi ra trận phải bị
làn tên từ bốn phiá bắn tới, cũng như thế,
ta phải chịu đựng những lời nguyền rủa chửi
mắng từ mọi phiá, vì phần đông sống không có
đạo đức, sống không giới đức. Nhiều voi ngựa
được dẫn tới chỗ vua để lựa con thuần thục
tốt nhất để cưỡi. Giữa đám đông đảo người tụ
hội, người xứng đáng nhất là người chịu đựng
được những lời chửi mắng nguyền rủa. Dù
những con ngựa con voi trang trọng quý báu,
nhưng người thuần thục giới đức trang nghiêm
là hơn hết tất cả”.
Và
đức Phật bảo:
- Các Thầy
không nên lo ngại, vì họ chỉ chửi mắng trong
bảy ngày, ngày thứ tám họ sẽ ngừng, vì mọi
chuyện khó khăn đến với Như Lai không bao
giờ quá bảy ngày.
Đúng
như lời đức Phật đã nói, đến ngày thứ tám,
khi đức Phật đi khất thực, không còn thấy
một người nào có hành động lỗ mãng với Ngài
nữa.
Chúng
ta thấy sự nhẫn nhục chịu đựng của đức Phật
thật là có một không hai, đây mới thật là
nhẫn nhục kiên cố. Bảy ngày vào thành khất
thực, bảy ngày đều bị hết toán người này đến
toán người khác chửi bới nhục mạ xua đuổi
thậm tệ suốt từ lúc bắt đầu vào thành cho
đến lúc khất thực xong trở về nơi ngự. Nếu
như chúng ta gặp trường hợp như vậy sẽ xử
trí ra sao?
2)-
Một câu chuyện nhẫn nhục khác của một
đệ tử Phật mà Kinh sách đã ghi lại như sau:
“Thời ấy,
một hôm Tôn giả Purna đến đảnh lễ rồi
xin Phật cho phép Tôn giả được đi đến xứ
Chronapraranta để giáo hóa. Dân vùng này có
tính hung dữ và tạo nhiều tội ác, đức Phật
thấy thế nên hỏi Tôn giả:
- Thầy nguyện
đem giáo pháp của Ta đến xứ ấy, nhưng nếu họ
không nghe mà còn dùng lời hung ác nhục mạ,
thầy nghĩ sao?
- Thưa Thế
Tôn, con cho họ là người tốt, vì họ chỉ sỉ
nhục mà không đánh đập con.
- Nếu họ hành
hạ đánh đập thầy thì sao?
- Thưa, con
nghĩ là họ còn có lòng tốt, vì họ đã không
giết con.
- Nếu họ dùng
dao giết hoặc dùng gậy đánh thầy cho tới khi
chết mới thôi, thầy nghĩ sao?
- Thưa đức
Thế Tôn, con nghĩ họ là ân nhân của con, vì
họ đã giúp con bỏ được thân thối tha dơ bẩn
này.
Đến đây,
Tôn giả Purna được Phật khen và chấp thuận:
- Thầy nhẫn
nhục như vậy mới có thể qua xứ ấy.
Tôn giả
Purna qua xứ Chronaprananta giáo hóa một
thời gian, hầu hết dân xứ ấy đều quy y Phật
Pháp Tỳ Kheo (Tăng), vì Ngài đã hành nhẫn
nhục từ bi hỉ xả từ trong đến ngoài của ý
khẩu thân”.
7
)- Lợi ích của nhẫn nhục:
Đối
với cá nhân, người nhẫn nhục tâm được an ổn,
sự nghiệp bền vững, mọi người gần gũi, đối
với gia đình được xum họp, bạn bè gắn bó, xã
hội yên ổn thanh bình. Vì nhận thấy sự lợi
ích của nhẫn nhục nên Phật đã dạy:
Người hơn gây
oán hận,
Kẻ thua lòng
không yên,
Hơn thua đều
buông bỏ,
An ổn ngủ
ngon lành.
Sự
quyết tâm thực hành nhẫn nhục nhất là những
người đã từng bị lửa hận làm cho tan nát cõi
lòng, lại càng nên thực hành nhẫn nhục.
Người có tu hành phải để ý từng tí từng li
về hạnh nhẫn nhục từ thân đến khẩu và nhất
là ý. Không buông lung mặc cho ý muốn phát
lúc nào thì khởi lúc ấy, không để cho tham
sân si điều khiển sẽ có được tâm an bình.
Được tâm an bình rồi, việc tu hành mới có
thể tinh tấn, khi đã tinh tấn tới mức, lo gì
không đạt đạo…