MỤC LỤC
Lời nói đầu
Quy hướng Tịnh độ
Sự lựa chọn pháp tu
Sự
lý viên dung
Sinh tử là việc lớn
Quy y Tam Bảo.
Tại sao phải phát
tâm Bồ đề?
Tín - hạnh - nguyện
Khoa học biện chứng.
Phương pháp niệm Phật
Các mối nghi về Tịnh
độ.
|
Lời
nói đầu
Kinh Pháp Hoa dạy, Ðức Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên lớn “khai thị
chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”.
Chính vì thế, sau khi thành Phật, bằng tất cả tấm lòng đại từ, đại bi, đại
hỷ, đại xả. Ngài đã chu du khắp nước Ấn Ðộ để hoằng hóa độ sinh. Chỉ với
mục đích là làm sao đưa hết thảy chúng sinh đang chìm đắm trong bể khổ vô
minh trở về với đời sống đầy an lạc và giải thoát.
Tuy nhiên, trên bước đường hoằng hóa độ sinh đó, Ðức Phật đã nhận thấy
rằng chúng sinh đời mạt pháp căn tánh không đồng, có kẻ thì căn tánh
thượng, có kẻ thì căn tánh trung, có kẻ thì căn tánh hạ. Cho nên, Ðức Phật
không chỉ dùng một phương tiện mà phải dùng vô số phương tiện để nhiếp hết
thảy chúng sinh trở về với Phật tánh. Tuy có vô số phương tiện nhưng duy
nhất chỉ có một vị giải thoát mà thôi, cũng giống như nước trong bốn bể
tuy nhiều nhưng duy nhất chỉ có một vị mặn.
Pháp của Ðức Phật cũng giống như một trận mưa lớn xuống trần gian, tùy
theo mỗi loại thích ứng tiếp nhận lượng nước của mình mà nuôi sống.
Hôm nay, là thời kỳ mạt pháp, với cách nhìn khách quan của mọi người, đại
đa số chư Tăng, chư Ni và toàn thể tín đồ Phật tử ưa chuộng pháp môn Tịnh
độ. Chắc có lẽ pháp môn Tịnh độ hợp thời và hợp căn cơ sao? Ðúng vậy, Tịnh
độ tông không chỉ dành riêng cho bậc hạ căn mà còn thâu nhiếp bậc trung,
thượng căn nữa. Vì vậy trong Kinh Tượng pháp quyết nghi cũng nói:
- Chúng sinh ở thời chánh pháp, tu giới luật dễ thành tựu.
- Chúng sinh ở thời tượng pháp, tu thiền định dễ thành tựu.
- Chúng sinh ở thời mạt pháp, tu Tịnh độ dễ thành tựu.
Trong Kinh Niệm Phật Ba la mật, phẩm thứ sáu, đức Bồ Tát Quán Thế Âm nói
rằng: “Ðức Thích Ca trọn đời giáo hóa điều phục chúng sinh đã ban bố tám
vạn bốn ngàn pháp môn tu tập nhưng trong đó niệm Phật là thù thắng đệ
nhất”.
Sự thù thắng và phổ cập của pháp môn Tịnh độ cho quảng đại quần chúng
ngoài sự giới thiệu của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, tiếp theo còn có các vị
Bồ Tát khuyên bảo mọi người nên nguyện vãng sinh về Tây phương Cực lạc như
ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, các vị Tổ sư cả thiền lẫn tịnh
như Vĩnh Minh, Trí Giả, Triệt Ngộ, Liên Trì, Thiện Ðạo, Ngẫu Ích, đều là
những vị thiền sư nổi tiếng bên thiền tông, sau khi tham thiền đạt ngộ,
chuyển hướng niệm Phật cầu vãng sinh.
Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ, Tổ thứ ba của thiền Pháp Nhãn cũng là Tổ thứ sáu
của tông Tịnh độ đã nói:
Hữu thiền hữu Tịnh độ
Du
như đới giác hổ
Hiện thế vi nhân sư
Lai
sinh tác Phật Tổ
Nghĩa là:
Có thiền có Tịnh độ
Như
hổ mọc thêm sừng
Hiện đời thầy trời người
Vị
lai làm Phật Tổ.
Chư Phật, chư Bồ Tát, chư Tổ cực lực xiển
dương pháp môn Tịnh độ. Với sự lợi lạc
thật lớn lao này, chúng tôi cũng không ngại gì với tài mọn, đức kém
của mình, để viết lên đây cuốn sách với tựa đề: “Tin sâu pháp môn Tịnh
độ”. Chỉ với tâm nguyện là đem lại lợi lạc cho mọi người, chứ không có ý
cao ngạo, ngã mạn gì cả.
Ðây là cuốn sách đầu tiên, chúng tôi không sao tránh khỏi những sai lầm
trong lối hành văn. Nếu có, kính mong chư Hòa thượng, chư Thượng tọa, các
thân giáo sư, các vị học giả góp ý dạy bảo để cho cuốn sách ra đời được
tốt đẹp hơn.
Mùa
An cư kiết hạ PL. 2547
Cẩn
chí
Tâm
Hải
Kính thưa quý vị,
Ðề tài mà chúng tôi có duyên
được trình bày cùng quý vị hôm nay
thuộc một lãnh vực rất phổ
thông, song cũng rất quan trọng, bởi vì nó liên hệ đến rất nhiều
người theo đạo Phật. Ðó là Pháp môn
Tịnh độ, một pháp môn mà hầu hết các Phật tử đều quen biết. Ðúng
vậy, từ khi đạo Phật du nhập vào nước ta đến nay đã trải qua
biết bao nhiêu sự thăng trầm nghiệt ngã
của lịch sử, đứng trước sự kinh hoàng đầy cay đắng đó Phật giáo
Việt Nam vẫn mãi là một cây cổ thụ đứng vững để che mát cho nhân loại mà
không hề bị tàn lụi. Dù trong mọi hoàn
cảnh nào, Phật giáo Việt Nam luôn luôn sát cánh với dân tộc, hòa
nhập với dân tộc như nước với sữa, thật là đúng như mấy câu thơ của thi sĩ
Hồ Dzếnh:
“Trang sử Phật,
Ðồng thời là trang sử Việt,
Trải bao độ hưng suy,
Có
nguy mà chẳng mất”.
Và đây,
pháp môn Tịnh độ, cũng vậy, như
một dòng suối trong lành, mát dịu cứ mãi tuôn chảy vỗ về đến từng trái tim son của
người dân Việt Nam mà không hề ngưng nghỉ. Chắc có lẽ pháp môn Tịnh
độ đã trở thành một nguồn sống tinh thần ăn sâu vào tâm thức của mỗi người
dân Việt Nam chúng ta.
Thậm chí, từ những em nhỏ cho
đến những cụ già vẫn thường nở trên môi bằng câu niệm “Nam
mô A Di Ðà Phật”. Không chỉ vậy, bây giờ câu niệm Phật đã trở thành một
ngôn ngữ giao tiếp và cũng là món quà dễ mến cho toàn thể chư Tăng và tín
đồ Phật tử.
Thật phải
nói pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng mà chư Phật
trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng
sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc
Niết bàn ngay trong một đời.
Ðức
Phật quán thấy chúng sinh đời mạt pháp đa số là những bậc hạ căn, đầy dẫy
phiền não, phước mỏng nghiệp dày. Vì lòng bi mẫn mà Ngài đã thương tưởng
đến chúng sinh, với lòng từ bi vô hạn, Ðức Phật đã giới thiệu một cảnh
giới Tịnh độ của Phật A Di Ðà, để cho chúng sinh nương nơi tha lực bản
nguyện của Phật A Di Ðà mà được vãng sinh.
Pháp môn Tịnh độ được hình thành trong ba bộ kinh Tịnh độ:
1.-
Phật thuyết A Di Ðà Kinh
2.-
Phật thuyết Vô Lượng Thọ Kinh
3.-
Phật thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh
Bộ kinh Tịnh độ này được hình thành tại
Ấn Ðộ do Ðức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni nói ra chứ không phải do
một ông Thần ông Thánh nào nói cả. Ðể cho những ai đã theo và đang theo
pháp môn Tịnh độ, tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên pháp môn này thì hãy
lắng nghe Ðức Thế Tôn dạy: “Vô lượng Bồ Tát ở mười phương thế giới muốn nghe thuyết
về pháp môn Tịnh độ mà không
được toại nguyện. Giả sử khắp
tam thiên đại thiên thế giới bị nạn hỏa thiêu, nếu ai có được nghe
giảng về pháp môn Tịnh độ mà phải băng
qua miền lửa cháy thì cũng cố nên vượt qua để được nghe diệu pháp này”.
Lời
Phật đã dạy như vậy, đủ chứng tỏ giá trị siêu việt của pháp môn Tịnh độ
hay pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh Cực lạc quốc cao tột đến mức độ nào.
QUY HƯỚNG TỊNH ÐỘ
Nay là thời mạt pháp, chính là lúc pháp môn Tịnh độ đang cần hơn bao giờ
hết cho nhân loại. Vì vậy, chúng ta nên tuân thủ nhiều hơn đối với pháp
môn Tịnh độ. Như ngài Thiên Như Thiền sư đã dạy: “Mạt pháp chi hậu chư
kinh diệt tận, chỉ lưu A Di Ðà Phật tứ tự cứu độ chúng sinh, kỳ bất tín
giả, ưng đọa địa ngục”, nghĩa là: Ðời mạt pháp về sau, các kinh sách đều
diệt hết, chỉ còn lưu lại bốn chữ A Di Ðà Phật để cứu độ chúng sinh, nếu
kẻ nào không tin, tức sẽ bị đọa địa ngục”.
Ngẫu Ích Trí Húc Ðại sư khi viết
quyển “A Di Ðà Kinh yếu giải” đã phải lên tiếng than rằng: “Ðời mạt pháp
ức vạn người tu hành ít có người đắc đạo. Chỉ còn nhờ phép niệm Phật mới
được độ thoát. Than ôi! Nay chính là đời mạt pháp rồi mà bỏ pháp môn niệm
Phật này thì còn pháp môn nào tu học được nữa!”.
Tế Tỉnh Ðại
sư (Triệt Ngộ) Liên tông
thập nhị Tổ thường dạy rằng: “Ngài
Vĩnh Minh Diên Thọ nguyên là bậc
“tông tượng” trong chốn thiền
môn mà còn quy tâm về Tịnh độ thay, huống chi nay là thời kỳ mạt
pháp, chúng ta lại càng phải nên tuân
theo hơn nữa”.
Các vị
Thiền sư còn phải lên tiếng nói
rằng: “Nếu như chúng tôi khi mới xuất gia mà có túc căn sớm với pháp môn Tịnh độ,
thì chúng tôi không phải mất công, tốn sức chuyển pháp môn tu như
thế này đâu”.
Chúng ta thấy, các vị thiền sư còn quy tâm về pháp môn Tịnh độ một cách
dứt khoát, thì phải nói pháp môn niệm Phật là pháp môn vi diệu, bất khả tư
nghì.
Hôm nay, thật là hữu duyên cho chúng ta sớm gặp được pháp môn Tịnh độ ngay
từ ban đầu, theo như chúng tôi nghĩ, chắc có lẽ từ vô lượng kiếp chúng ta
đã từng gieo nhân niệm Phật, chính nhân niệm Phật này mà chúng ta có được
quả niệm Phật hôm nay.
Nhờ nhân duyên lành đó, chúng ta được
chư Phật, chư Bồ Tát, chư Tổ trao tặng pháp môn này, chứ đâu phải dễ. Ðây là một
pháp môn mà các ngài đã thực
hành và đã chứng đắc.
Vậy chúng ta đi theo pháp môn tu của các ngài chỉ dạy thì chúng ta cũng
giống như các ngài không hai không khác.
Chúng ta đã có duyên với pháp môn Tịnh độ, thì chúng ta không sợ lạc
đường, nếu nói lạc đường thì chư Tổ lạc đường trước. Ví dụ, nếu như pháp
môn niệm Phật này không có ai tu theo mà ta tu một mình thì ta mới sợ lạc
đường, huống hồ chư Tổ, nhiều vị tu theo pháp môn này, thì chắc chắn chúng
ta không sợ lạc đường, chúng ta phải có lập trường và tin chắc như vậy,
không có một ý nào mà hoài nghi cả.
Trong Kinh Niệm Phật Ba la mật,
Ðức Phật dạy: “Trong quá khứ vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp nhẫn lại đến
nay, mười phương chư Phật chỉ dùng pháp môn niệm Phật để cứu vớt hết thảy
chúng sinh”.
Trong hiện tại cũng có vô lượng
vô biên hằng hà sa số chư Phật cũng
đang thuyết giảng giáo nghĩa này. Ðức Phật còn nói thêm trong đời
vị lai, tất cả mười phương chư Phật muốn cứu vớt chúng sinh thì không
ngoài pháp môn niệm Phật này. Vì vậy,
Như Lai bảo rằng: Pháp môn niệm Phật là vua trong tất cả các
pháp”.
Chư Phật, chư Tổ, chư Bồ Tát
luôn khen ngợi, tán thán, ra sức xiển dương pháp môn Tịnh độ mà chúng ta
không tin hay sao. Ví như có một người nào đó bị trúng đạn vào chân, thì
chúng ta cũng cảm thấy họ đau như thế nào, khi chúng ta bắt gặp một người
nào đó rạng rỡ nở nụ cười trên môi thì
chúng ta cũng cảm thấy được họ hạnh phúc, họ vui như thế nào, huống
hồ, biết bao nhiêu danh hạnh, biết bao nhiêu tấm gương sáng niệm Phật được
vãng sinh. Tổ Tổ tương truyền cho đến bây giờ thì chúng ta cũng cảm thấy
được pháp môn niệm Phật vi diệu, thù thắng, tuyệt vời như thế nào rồi.
Không phải chúng tôi theo Tịnh
độ mà chúng tôi tự đề xướng, tự đưa pháp môn của mình lên tận trời cao
đâu, mà phải hiểu như thế này, hôm nay, chúng tôi chỉ là người phụ họa
thêm thôi, chỉ là người biết cầm bút để ghi lại những lời chư Phật, chư Tổ
chỉ dạy mà thôi, chớ chúng tôi không bao giờ có ý bảo thủ, tự lập một pháp
môn riêng cho mình đâu, đây là điều mà chúng tôi tối kỵ nhất.
Chúng tôi xiển dương ca ngợi
pháp môn Tịnh độ là đều y cứ vào sử sách, chớ không bao giờ nói một cách
suông, như chúng ta đã từng biết đạo Phật không chỉ nói lý thuyết suông
không, mà còn phải đòi hỏi hành nữa, cho nên có câu “Học đạo chưa phải là
đắc đạo. Hành đạo mới gọi là đắc đạo”. Ðúng vậy, những điều chúng tôi nói
đều y cứ vào sử sách chứ không bao giờ tự nói, để cho quý vị có được tín
tâm đối với pháp môn này, chúng tôi xin giới thiệu một số sách nói về pháp
môn Tịnh độ. Ðó là: Kinh A Di Ðà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng
Thọ, Kinh Niệm Phật Ba la mật, Kinh Ðại thừa Vô Lượng Thọ trang nghiêm
thanh tịnh bình đẳng giác, Niệm Phật thập yếu, Những chuyện vãng sinh lưu
xá lợi v.v...
Ðã là một hành giả tu theo pháp môn Tịnh độ thì chúng ta nên cần tìm đọc
những cuốn sách Tịnh độ, có như vậy mới giúp cho tín tâm của chúng ta vững
chắc thêm. Ngoài những cuốn sách Tịnh độ trên, chúng ta nên tìm đọc ngay
cuốn sách với tựa đề “Liên tông thập tam Tổ”, đây là một cuốn sách gối
đầu, nói rất rõ ràng về phương pháp tu và những công hạnh đẹp của 13 vị Tổ
sư của pháp môn Tịnh độ.
Ðể chúng ta có niềm tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên, đối với pháp môn
Tịnh độ, chúng tôi xin dẫn chứng một vị Tổ trong Liên tông thập tam Tổ cho
quý vị biết: đó là Sơ tổ Huệ Viễn, trong 10 năm ròng rã niệm Phật, ngài
đã thấy Phật A Di Ðà xoa đầu ngài ba lần. Khi lâm chung ngài biết được
ngày giờ ra đi, an nhiên thị tịch một cách tự tại. Từ Sơ Tổ Huệ Viễn lần
đến vị Tổ thứ 13 là Ấn Quang Ðại sư đều niệm Phật, khi lâm chung các ngài
đều biết ngày giờ ra đi một cách tự tại.
Thật phải nói, pháp môn niệm Phật là pháp môn thù thắng. Như vậy thử hỏi
pháp môn Tịnh độ có phải dành riêng cho những người thấp hèn, bất học tu
không?
Chúng tôi xin mạnh dạn trả lời
thật là không phải chỉ dành riêng cho những kẻ thấp hèn mà còn cho đến các
vị đại sĩ Pháp thân Bồ Tát, chư Tổ cũng đều tu theo.
Thế mà nay,
chúng tôi vẫn còn nghe
văng vẳng bên tai pháp môn niệm Phật
chỉ dành cho những kẻ không học, những kẻ ngu phu ngu phụ, những người đầu
làng cuối xóm tu theo thôi, còn những bậc có học, thượng căn ai mà tu theo
làm gì!
Hôm nay, chúng tôi viết đề tài
này là thiết tha kêu gọi những ai mà đã có ý chê bai hủy báng pháp môn
Tịnh độ thì nên lập tâm sám hối, chớ không thì chúng ta tự hủy báng chư
Phật, chư Bồ Tát, chư Tổ đấy, thật là tội nặng đáng đọa vào tam đồ.
Cho nên Ấn Quang Ðại sư đã phải
lên tiếng cảnh cáo người đời rằng:
“Pháp môn niệm Phật cao thâm huyền diệu mà vẫn có nhiều kẻ còn dám
khinh chê cho là chỉ có những người già
nua, tuổi tác yếu đuối, dốt nát mới theo pháp môn Tịnh độ thì quả
là họ đã dám coi thường, khinh chê cả các vị đại Bồ Tát như Di Lặc, Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế
Âm, Ðại Thế Chí, Mã Minh, Long Thọ rồi vậy”.
Ðối với quý vị nào
mà đã phạm vào thiển ý chê bai, hủy báng pháp môn Tịnh độ, thì quý vị
không nên run sợ gì cả. Như chúng ta thường nghe Ðức Phật dạy:
Có hai hạng người
mạnh:
1.- Hạng người có lỗi mà biết
sám hối.
2.-
Hạng người không tạo lỗi.
Vậy quý vị cứ y theo lời Phật
dạy thì quý vị sẽ trở thành người tốt mà thôi.
Ngài Trí Húc Ðại sư, lừng danh trong chốn thiền môn thuở xưa, đã lên tiếng
trước hàng đệ tử: “Khi mới xuất gia, tôi tập ngồi thiền, tự phụ đã tu
theo đốn pháp dễ ngộ và tỏ ý chê bai pháp môn Tịnh độ, cho là tiệm pháp
lâu chứng. Khi ấy còn ít tuổi, tôi dám cả gan nói những điều thiếu suy xét
rằng: “Pháp môn Tịnh độ chỉ dành riêng cho hạng người hạ căn ít học mà
thôi. Chẳng dè, nhân bị một cơn ốm nặng, tưởng khó qua khỏi, tôi mới chịu
phát tâm niệm Phật A Di Ðà, sau đó khỏi bệnh, tôi được đọc nhiều sách nói
về Tịnh độ, lúc này tôi mới bừng tỉnh, bừng tỉnh cái gì? Là thấy chư Bồ
Tát, chư Tổ đều niệm Phật cầu vãng sinh, kể từ đây tôi mới nhất tâm niệm
Phật A Di Ðà cầu vãng sinh Tây phương Cực lạc, ngày đêm không ngừng với
một sức tinh tiến ít người nào sánh kịp”.
Chúng ta đã thấy tận tường chưa? Ngài Trí Húc Ðại sư là bậc tông tượng trong chốn thiền môn, khi mới xuất
gia theo Thiền tông, ngài có ý chê bai hủy báng pháp môn Tịnh độ, nhưng
khi bừng tỉnh, ngài thấy mình có lỗi liền lập tâm sám hối, quy hướng về
pháp môn Tịnh độ niệm Phật cầu vãng sinh để giải quyết sinh tử.
Chư Phật, chư Tổ vì thương chúng
sinh đời mạt pháp cứ mãi trôi lăn trong vòng sinh tử, với lòng từ bi vô
điều kiện, các ngài đã khuyên chúng ta nên theo pháp môn Tịnh độ vì dễ tu,
dễ chứng như đi thuyền buồm xuôi dòng, gặp gió thuận, lướt nhẹ trên mặt
nước, tiến mau như mũi tên, còn tu theo các pháp môn khác sẽ gặp nhiều
điều khó khăn.
Cho nên
trong Liên tông thập tam
Tổ, Ấn Quang Ðại sư nói rằng: “Bỏ đường tắt Tây phương, chín giới
chúng
sinh trên khó thể viên thành quả giác. Lìa cửa mầu Tịnh độ, mười
phương chư Phật, dưới không toàn độ khắp quần mê. Pháp môn cao cả lợi
khắp ba căn
nhân đây: chín cõi đồng về, mười phương khen ngợi. Phật nguyện
rộng sâu không từ một vật nên được:
ngàn kinh đều chỉ, muôn luận tuyên bày”.
SỰ
LỰA CHỌN PHÁP TU
Theo như
ngài Ðạo Xước thiền sư, trên bước đường tu tập, ngài đã chia ra hai phương
pháp tu:
1.- Thánh giáo môn.
2.-
Tịnh độ môn
Như thế nào gọi là Thánh giáo
môn? Thánh giáo môn là tự mình dùng giới, định, huệ, diệt tham, sân, si.
Ắt hẳn suốt cả cuộc đời này, chúng ta tự tu một mình liệu có diệt hết
tham, sân, si không, chắc chắn là không rồi.
Thử hỏi, trong đời mạt pháp này
có ai tu mà đạt được cảnh giới phi tưởng phi phi tưởng xứ định chưa, thật
sự chưa có một ai mà đạt được. Nhưng cho dù đạt được đi nữa cũng không
diệt hết tham, sân, si và đây, chúng tôi xin lấy một ví dụ để chứng minh.
Như ông Uất Ðầu Lam Phất tu đạt được cảnh giới cao nhất của cõi
trời Vô
sắc, đó là Phi tưởng phi phi tưởng xứ định nhưng cũng chưa làm chủ
được
phiền não. Là thế này, nhân một buổi ông ta ngồi thiền tại một gốc
cây,
trong lúc đang hành thiền, thì có những
chú chim bay nhảy, kêu hót trên cây rộn rã, lúc này, ông ta tỏ ý
sân hận với mấy chú
chim, liền bỏ gốc cây đi xuống gần một dòng suối để ngồi thiền.
Không ngờ ông ta tránh vỏ dưa gặp vỏ
dừa, trong lúc ngồi thiền tại dòng suối thì những chú cá bơi lui
bơi lại làm động nước phát ra tiếng ồn, lúc này, ông ta nổi sân hận hơn
lúc trước, liền khởi ý ác là sau này
đầu thai làm một con gì mà ăn
hết các loại chim và cá, vì tham
sân si này nổi lên, sau khi chết ông ta đầu thai làm con chồn phi
linh (là con
chồn biết bay).
Qua câu chuyện này cho chúng ta thấy được cho dù tự lực tu mà đạt được
cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng xứ định đi nữa cũng không bao giờ diệt hết tham sân si, huống hồ
chúng ta là chúng sinh đời mạt pháp, phước mỏng nghiệp dày mà một mình tự
lực tu thì chúng ta không bao giờ giải quyết được sinh tử. Như vậy, theo “Thánh giáo môn” thì chúng ta không
kham nổi.
Vậy, chúng ta tiếp tục phân tích, mổ xẻ phương pháp thứ hai: “Tịnh độ
môn”.
Tịnh độ môn chia ra hai phương pháp: yếu chỉ Tịnh độ và tha lực Tịnh độ.
Như thế nào gọi là “yếu chỉ
Tịnh độ”?
Là tự mình sách tấn, tu hành để tạo một cõi Tịnh độ ngay trong hiện tại,
như vậy phương pháp này chỉ dùng cho bậc thượng căn mà thôi.
Như thế nào gọi là tha lực Tịnh độ? Là mình nương nơi bản nguyện của Phật
A Di Ðà để được vãng sinh, phương pháp này khế hợp với ba căn cơ, hạ căn,
trung căn, thượng căn. Tha lực Tịnh độ cũng giống như đi thuyền qua sông,
còn Thánh giáo môn tự lội qua sông. Như vậy, người mà có thuyền chở qua
sông và người tự lội qua sông, thử hỏi trong hai người cùng đi qua sông,
người nào khỏe nhất? Chắc chắn là người có thuyền chở qua.
Qua sự phân tích, mổ xẻ phương pháp tu trên đây, chúng ta chọn phương pháp
tu nào là hợp nhất? Theo chúng tôi nghĩ, chắc chắn ai cũng đều đồng ý
chọn “Tha lực Tịnh độ”. Tại sao ta chọn phương pháp này? Là vì hợp với
căn cơ của chúng ta, cho nên ta không dại khờ gì mà chọn “Thánh giáo môn”.
Chúng ta là một hành giả tu theo đạo Phật, trước khi chọn một việc gì thì
phải đầy đủ tam huệ: Văn huệ, tư huệ và tu huệ.
- Văn huệ: là mình nghe rõ
ràng.
- Tư huệ: là mình tư duy, suy
nghĩ chọn lựa cái nào đúng cái nào sai một cách rõ ràng.
- Tu huệ:
là mình áp dụng tu hành cái mình đã chọn lựa tư duy một cách đúng
đắên. Như vậy, tam huệ rất chi
là quan trọng, nó cũng giống như
nấc thang đầu tiên, hay là một chìa khóa để chúng ta bước vào ngưỡng cửa
Phật pháp. Nếu như ban đầu,
chúng ta nghe một cách lập chập,
tư duy một cách hời hợt, sai lệch, thì khi chúng ta tu, thì dễ bị lệch lạc.
Ngược lại, khi chúng ta tu thì ta cảm thấy an lạc vô cùng, vì vậy,
chúng ta phải hết sức cẩn trọng ở chỗ này.
Ðức Phật
Thích Ca trọn đời giáo hóa,
điều phục chúng sinh. Ngài đã ban ra
tám vạn bốn ngàn pháp môn tu,
nhiều pháp môn tu như vậy, chúng
ta thấy mình hợp căn cơ nào thì theo căn cơ đó, chớ không nên chê bai một pháp
môn nào cả, là đệ tử Phật chúng
ta hết sức để ý ở chỗ này, không nên có một ý nào hủy báng cả, mà chúng ta phải luôn tán thán, ca ngợi, pháp
môn nào cũng tốt cả, Thiền cũng
tốt, Tịnh cũng tốt, Mật tông
cũng tốt. Tại sao chúng ta phải ca ngợi, tán thán như vậy? Là bởi vì đều là Ðức
Phật chỉ dạy cả. Nếu chúng ta không khéo lại chê pháp này hay, pháp
kia dở là chúng ta tự chê trách Ðức Phật, nếu sơ sẩy một chút thôi là
chúng ta rơi vào tội hủy báng pháp, tội này rất chi là nặng.
Trong Tứ hoằng thệ nguyện có dạy: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”.
Chúng ta hợp căn cơ nào thì
chúng ta theo căn cơ đó. Nếu chúng ta sốt thì uống liều thuốc sốt, chúng
ta cảm thì uống liều thuốc cảm, chứ không có ai điên dại sốt mà lấy thuốc
cảm uống đâu bao giờ. Như chúng ta thấy, nước trong bốn bể duy nhất chỉ có
một vị mặn. Pháp của Ðức Phật dạy vô lượng chỉ có một vị giải thoát mà
thôi. Xin lấy một ví dụ. Chúng ta đi ra Hà Nội, đâu phải có một đường đi,
mà có nhiều đường để đi, chúng ta có thể đi xe, có thể đi máy bay, có thể
đi tàu lửa, có thể đi bộ v.v... đường nào cũng tới Hà Nội, tuy lâu hay mau
mà thôi. Cũng vậy, muốn đạt được quả vị Phật thì chúng ta cũng có rất
nhiều phương pháp tu như là Thiền, Tịnh, Mật, Giáo v.v... Chúng ta phải
hiểu tường tận như vậy, thì chúng ta không mắc kẹt vào tội chấp pháp,
Thiền cũng tốt, Tịnh cũng hay, Mật cũng tuyệt vời.
Trong Kinh Kim Cang Ðức Phật dạy: “Chánh pháp ta còn bỏ, huống gì là phi
pháp”. Chúng ta muốn qua sông thì cần thuyền, khi qua sông rồi thì bỏ
thuyền lại, cho nên chúng ta phải biết tất cả chỉ là phương tiện mà thôi.
Nếu chấp phương tiện là chúng ta khổ hay nói cách khác là sự và lý phải
viên dung.
SỰ LÝ VIÊN DUNG
Ðiều căn bản và duy nhất là phải hiểu sự lý cho rõ ràng, luôn luôn thực
hành không gián đoạn thì chắc chắn không sai. Sự không ngại gì lý, lý
không ngại gì sự, hai phạm trù này luôn luôn hỗ tương cho nhau, nếu thiếu
một trong hai thì ắt hẳn không có kết quả tốt, cũng giống như con chim đủ
đôi cánh mới bay được, chiếc xe đủ hai bánh mới chạy được, chúng ta phải
hiểu như vậy thì không bao giờ thiên lệch về một bên nào cả.
Ðôi khi chúng ta cứ nê chấp vào thuật ngữ vô niệm, lý không để rồi bác bỏ
sự tu niệm Phật cầu vãng sinh. Như vậy, dễ rơi vào tình trạng “chưa bước
lên bờ đã vội phá bỏ chiếc bè” tất sẽ không tránh khỏi bị chết chìm dưới
nước. Chúng ta phải biết rằng “Lý tuy đốn ngộ nhưng sự phải lần lượt tu
hành”.
Ví dụ: điểm đến của chúng ta là
Hà Nội, như vậy lấy cái gì để đến Hà Nội được? Tức nhiên chúng ta phải đi
bằng máy bay, bằng xe... Chúng ta muốn đi qua bên kia sông thì chúng ta
phải cần cái gì đây? Chắc chắn là chúng ta phải mượn thuyền. Cũng vậy,
muốn thấy được bản lai diện mục thì
chúng ta cần phải có sự ngồi
thiền, quán sổ tức, tri vọng, câu thoại đầu. Muốn đạt đến nhất tâm bất loạn hay niệm Phật
tam muội thì cần phải mượn sự
niệm Phật. Như vậy, chúng ta mới hiểu ra rằng: sự và lý là một,
thiền và tịnh là một không hai không khác.
Nhiều khi chúng ta không suy xét kỹ, lấy những lý cao siêu trong
kinh điển
ra, để biện luận cho cái hiểu biết của mình. Như câu “Kỳ tùy tâm
tịnh, tức Phật độ tịnh” (nếu tâm mình tịnh, tức là cõi Phật đó rồi,
không cầu
đâu xa, rồi lại phủ nhận không
có cõi Phật), đây là sự hiểu
biết thật là nông cạn, thật là đáng thương, không chỉ vậy mà còn
gây ra một
hoang mang lớn cho số Phật tử tu theo pháp môn Tịnh độ.
Chúng ta thử xét câu “Kỳ tùy tâm tịnh, tức Phật độ tịnh” đúng ở cấp độ nào
và không đúng ở cấp độ nào?
Ðáp: Ðúng ở cấp độ khi chúng ta thấy được Phật tánh.
Không đúng ở cấp độ khi chúng ta chưa thấy được Phật tánh.
Thử hỏi trong mỗi chúng ta có ai
đạt được Phật tánh chưa? Thật sự mà nói chưa có ai đạt được Phật tánh.
Như vậy, khi chúng ta chưa thấy được Phật tánh, mà chúng ta lấy những lý
cao siêu này để mà biện bạch cho cái hiểu biết của mình thì nó sẽ phản
kháng lại cho chúng ta những điều như sau.
Thứ nhất, chỉ là lời nói viễn
vông đầu môi chót lưỡi.
Thứ hai, không thực tế.
Thứ ba, mâu thuẫn với chính mình
(mâu thuẫn là sao? Là mình chưa đạt được cái lý đó, mà cứ cho mình là đạt
được, cũng giống như nghĩ cơm mà không ăn cơm thì không sao tránh khỏi sự
đói bụng, không chỉ mâu thuẫn với chính mình mà còn mắc vào tội đại vọng
ngữ, không chứng mà nói chứng).
Câu nói: “Kỳ tùy tâm tịnh, tức
Phật độ tịnh” nghe qua tựa hồ như đúng lý, nhưng nếu xét cho kỹ thì lại
không hợp, mà chỉ chuyên về phần lý thuyết ngụy biện. Tại sao? Vì bất kỳ
một pháp nào hiện hữu cũng đều nói lên lý và sự của nó. Nói về lý thì tâm
mình tịnh tức là Tịnh độ, cũng như nói do tâm chúng sinh uế trược nên mới có thế giới Ta bà đau
khổ. Chúng ta đã thấy do có tâm phiền não của chúng sinh nên mới có thế
giới uế trược Ta bà. Vậy thì, khi chúng sinh niệm Phật tâm được thanh tịnh
tức nhiên cũng có cảnh giới Tịnh độ Cực lạc mà chúng sinh đó sẽ sinh về.
Thế thì cảnh Cực lạc là một thế giới thanh tịnh có thật, có Phật A Di Ðà
đang thuyết pháp giống như Ðức Phật Thích Ca thuyết pháp ở cõi Ta bà này.
Như vậy, ta niệm Phật cầu vãng sinh về Cực lạc có gì là không đúng, có gì
là vọng cầu xa xôi. Mong sinh về cảnh tịnh điều đó không hay hơn là mải mê
ở trong cảnh uế sao?
Lại nữa câu
nói “Tự tánh là Phật Di Ðà, tâm là cảnh Tịnh độ”, cũng như bảo chúng sinh
ai cũng có Phật tánh và có thể thành Phật. Nhưng thử hỏi tâm ta đã hoàn
toàn thanh tịnh chưa, và thật sự ta đã thành Phật chưa? Nếu chưa, thì
đừng quá cao ngạo, bỏ sự chấp lý, tự cho tự tánh là Phật A Di Ðà, thanh
tịnh tâm là Tịnh độ.
Nhìn một
cách thực tế, cõi Ta bà của chúng ta có mấy ai phát tâm xuất gia
đâu, trong một trăm người thì chỉ có một người xuất gia.
Chúng ta
thử nhìn ra bên ngoài, biết bao nhiêu điều gây rối cho xã hội như
là
tham nhũng hối lộ, xì ke, ma
túy, sát sinh, trộm cướp, tà dâm, v.v... có mấy ai chịu quay đầu
để nhìn
lại chính mình, để tu tập. Nhìn
chung, đại đa số thì chìm đắm
trong ngũ dục, lục trần. Với cách nhìn khách quan như thế này, thì
làm sao chúng ta chuyển nổi cõi Ta bà này thành Tịnh độ được.
Với câu nói “Tự tánh Di Ðà, duy
tâm Tịnh độ” thì quá ư là không đúng với thực tế, chỉ là hư vọng
mà
thôi.
Chúng ta phải hiểu rõ Tịnh độ là gì?
Tịnh: thanh tịnh, trong sạch.
Ðộ: cõi, nước.
Như vậy, Tịnh độ là một cõi thanh tịnh, trong sạch chứ không phải một cõi
uế trược như cõi Ta bà này.
Tịnh độ còn có nghĩa là: tịnh hóa thân tâm, trang nghiêm quốc độ.
Như vậy, muốn chuyển đổi một cõi đầy uế
trược thành một cõi Tịnh độ thật sự, thì mỗi chúng sinh trong cõi
uế trược đó đều phải cùng nhau tu tập,
cùng nhau tịnh hóa thân tâm, cùng nhau trang nghiêm quốc độ, thì mới
chiêu cảm được cõi Tịnh độ. Còn ngược lại, thì không bao giờ có được. Như vậy muốn có cõi Tịnh
độ, thì phải có nhân thanh tịnh,
trong sạch, muốn có được nhân
thanh tịnh trong sạch thì chúng ta phải làm sao? Chúng ta phải nhất tâm
niệm Phật nguyện cầu vãng sinh.
Cho nên chúng ta phải biết rằng,
nay tâm chưa tịnh, tánh lại chưa
phải là Phật A Di Ðà, thì đừng sinh tâm ngã mạn tự cao, chê bai chánh pháp, chê lời
Phật dạy, chê lời Tổ dạy, lý
thuyết ngụy biện chỉ mang thêm tội lỗi vào thân miệng ý mà trôi
lăn trong vòng ác đạo. Không ít
người có tâm ngã mạn tự cao, mắc
bệnh không tưởng, nên tự cho mình là kẻ siêu việt vượt hơn các bậc
tiền bối, khinh khi thầy tổ, chê
bai lời Phật và Bồ Tát, hủy diệt mất chánh tín, làm bạn với ma vương, cuối
cùng cũng chỉ rơi vào con đường
sinh tử. Liên Trì Tổ sư có dạy
“Thời mạt pháp, tín tâm của bậc xuất gia có khi không bằng hàng nam
cư sĩ, và phần nhiều hàng nam cư sĩ tín tâm không bằng nữ cư sĩ”.
Ðúng vậy, chúng ta học cho nhiều, hiểu biết cho nhiều dễ rơi vào một trong tám nạn,
đó là thế trí biện thông, đôi khi chúng ta lấy mớ hiểu biết của mình để rồi đi
thắc mắc điều này, nghi ngờ điều kia, để chúng ta hiểu được một khái niệm mơ hồ nào đó, về một thế giới
nào đó, chính cái này sẽ trở
thành sở tri chướng cho chúng
ta. Cái biết đó sẽ làm cho ta chướng ngại đến niềm tin, đánh mất lòng tin, thật
là nguy hiểm vô cùng.
Tại sao Tổ Liên Trì nói: “Thời
mạt pháp tín tâm của người xuất gia có khi không bằng hạng nữ cư sĩ”? Vì
hàng nữ cư sĩ họ không cần lý thuyết suông, không cần ngụy biện để chứng
tỏ ta là người học rộng hiểu nhiều, mà chỉ tín tâm vào lời Phật Tổ, vào sự
tu trì nên đạo hạnh ngày càng tăng trưởng một cách mau chóng, và sự nghiệp
vãng sinh có phần cao hơn. Chỉ trừ những kẻ phước mỏng tội dày, nghiệp
chướng sâu nặng, mới dễ bị lôi cuốn vào các pháp môn khác bỏ đi pháp môn
niệm Phật vi diệu mà trước đây họ đã từng tu niệm. Vì nghiệp trần quá nặng
nên bỏ Phật chạy theo trần cảnh ma nghiệp, ham vui nhất thời, ưa chuộng
danh tiếng, mê theo lý thuyết mà bỏ đi sự tu, mê cảnh không tưởng bỏ bê
giác tánh; ngày tháng chần chừ, chỉ mang lại cho tâm thần rối loạn, đầu óc
ngơ ngơ ngẩn ngẩn, như người mất trí, Phật Phật ma ma, tâm thần bất định, có khi tâm trí cuồng loạn, nên
sinh tử luân hồi cũng vẫn là con đường mở rộng để đón chờ.
Thương thay! Vì một chút đánh
mất tín tâm đối với pháp môn tu mà muôn đời trầm luân nơi sinh tử đau khổ.
SINH TỬ LÀ VIỆC LỚN
Nỗi thao thức trong mỗi chúng ta là làm sao giải quyết được sinh tử bởi vì
còn sinh tử thì chúng ta cứ mãi trôi lăn trong vòng luân hồi của lục đạo hết sức khổ sở. Vì sinh
tử, chúng ta cứ mãi vô ra trong bào thai đầy hôi tanh máu mủ, nhơ nhớp của người mẹ, có khi nằm
trong bào thai của con chó, con
heo, con cá v.v... cứ mãi quay đi lộn lại trong vô lượng kiếp như
vậy, thật là ghê rợn. Vì sinh tử mà làm đảo lộn luân thường đạo lý, ví dụ
như cha lấy con, con lấy cha, mẹ lấy con, con lấy mẹ, chị lấy em, cầm dao
giết con vật để ăn, không ngờ ta giết cha mẹ, anh, chị, em, thân bằng
quyến thuộc của ta nhiều đời nhiều kiếp mà không hay không biết.
Vì sinh tử, chúng ta không chỉ làm khổ cho mình mà còn làm khổ đến cho tất
cả mọi người như là làm khổ vợ, khổ chồng, khổ con, khổ cha mẹ v.v...
trong vô lượng kiếp như vậy.
Ôi! Nghĩ
đến sinh tử thật là kinh hoàng, mà chúng ta không giác ngộ tu hành hay
sao, chúng ta không gấp rút hay
sao, đợi đến chừng nào đây.
Thật là may
mắn thay, chúng ta được
làm thân người, sớm lại được gặp Phật
pháp. Ðặc biệt, chúng ta lại gặp
được pháp môn Tịnh độ, nhờ tha
lực bản nguyện của Phật A Di Ðà mà chúng ta được liễu sinh thoát tử vãng sinh về
thế giới Cực lạc.
Ðể cho chúng ta luôn thức tỉnh,
tu hành một cách nghiêm mật, thì chúng ta phải luôn nghĩ đến sự vô thường,
sự trống vắng, ngắn ngủi của kiếp người.
Khi đề cập đến việc
được làm thân người, được gặp Phật pháp là khó hay dễ, thật là khó vô
cùng. Như chúng ta thường nghe: “Nhân thân nan
đắc, Phật pháp nan văn”, nghĩa là “Thân người khó được, Phật pháp
khó nghe”.
Thật là khó được gặp mà hôm nay
chúng ta đều gặp được cả.
Chúng tôi thầm nghĩ, chắc có lẽ
chúng ta từ vô lượng kiếp đã từng tu tạo phước đức cho nên hôm nay mới gặp
được quả tốt như thế này, bằng ngược lại thì chúng ta không dễ gì mà gặp
được đâu.
Vì vậy, chúng ta phải luôn
thường xuyên nghĩ đến sự vô thường,
trống vắng, mỏng manh của cuộc đời mà tinh tấn tu hành, chứ trong
thời gian ngắn ngủi này, chúng ta không chịu tu sửa thì thật uổng phí cả
một kiếp người.
Ðức Phật đã dạy: “Mỗi khi chúng
ta đánh mất thân này, thì trăm ngàn muôn kiếp khó mà kiếm lại được”. Cũng
giống như Ðức Phật ví con rùa đui hai mắt, sống tận dưới đáy biển, cứ một
ngàn năm khúc gỗ trôi qua biển thì con
rùa đui hai mắt nổi lên liền chui vào đúng bọng cây. Phật mới bảo các vị Tỳ Kheo,
các thầy thấy con rùa đui hai mắt chui được vào bọng cây khó hay là
dễ? Các thầy Tỳ Kheo trả lời: Kính bạch Thế Tôn, thật là khó vô cùng. Cũng vậy, được làm thân người lại là khó gấp
mấy lần con rùa đui hai mắt chui vào bọng cây.
Có vị Tổ dạy rất độc đáo:
“Thiên niên thiết thọ khai hoa dị, nhất thất nhân thân vạn kiếp nan”,
nghĩa là: “Ngàn năm cây sắt nở hoa còn dễ hơn mỗi khi chúng ta đánh mất
thân người thì trăm ngàn muôn kiếp khó mà kiếm lại được”.
Như chúng ta đã biết, có khi nào
cây sắt nở hoa không? Không bao giờ có chuyện đó, khó như vậy đó, được
làm thân người còn khó hơn cây sắt nữa.
Trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, có
đoạn ghi: “Ðức Phật lấy ít đất để lên móng tay, rồi bảo Ca Diếp Bồ Tát
rằng:
- Ðất ở mười phương thế giới
nhiều hay đất ở móng tay ta nhiều?.
- Bạch Thế Tôn, đất ở móng tay
không thể nào sánh bằng đất ở mười phương thế giới.
- Ðúng thế, này thiện nam tử!
Có người đã chết trở lại được thân người, bỏ thân trong ba đường ác mà
được thân người, căn thân đầy đủ, được sinh nơi trung quốc, có đủ chánh
tín, có thể tu tập đạo hạnh, có thể tu tập chánh đạo, có thể được giải
thoát, có thể nhập Niết bàn, được như trên đây thật là hy hữu, như số
lượng đất trên móng tay”.
Qua những dẫn chứng trên, chư
Phật, chư Tổ thường nhắc nhở chúng ta có được thân người thật là khó vô
cùng, khi đã có rồi thì chúng ta phải biết quý trọng, bảo vệ nó, mượn nó
để tu hành, chớ không nên buông lung, để rồi chúng ta đánh mất nó, trăm
ngàn muôn kiếp khó mà kiếm lại được.
Chúng ta phải luôn
thức tỉnh cái chết đến cận kề bên ta. Thân này thật là mỏng manh, giả hợp,
chỉ cần chúng ta hít vào mà không thở ra thì ta đã qua đời khác rồi, như
bông hoa sớm nở tối tàn, có gì mà vui đâu. Cho nên, vào một hôm, Ðức Phật
hỏi các vị Tỳ Kheo rằng: “Mạng người sống trong bao lâu?
- Có vị trả
lời là mạng sống con người trong khoảng vài ngày, bị Ðức Phật chê
trách, ông chưa hiểu đạo, ông
chỉ hiểu cái da của Phật pháp.
- Có vị trả lời: Mạng sống con
người trong khoảng bữa ăn, bị Ðức Phật chê trách, ông mới hiểu được cái
xương của Phật pháp.
- Có vị trả lời: Mạng sống con
người trong một hơi thở. Vị này được Ðức Phật ca ngợi và tán thán là ông
đã hiểu tận xương tủy của Phật pháp.
Vì thế Ðức Phật thường dạy:
“Tất cả vạn vật hiện hữu trên vũ trụ này đều là giả tạm vô thường, không
có gì là bền chắc đâu, chỉ có tu nhân tích đức mới là cái thật để cho
chúng ta mang theo.
Khổng Tử cũng nói: “Thế thượng
vạn ban đô thị giả, nhân sinh đạo đức quả duy chân”, nghĩa là “Tất cả vạn
vật hiện hữu trên thế gian này đều là vô thường, duy chỉ có đạo đức mới
trường tồn vĩnh cửu”.
Chúng ta thường biết được thân này là vô thường, là giả tạm, không có cái
gì là ta cả, nghĩ như thế chúng ta mới quên mình tu được, còn ngược lại chúng ta không hay không
biết, cứ cho cái thân này là thường còn, cuộc đời này là đẹp đẽ,
chấp cái ta này là thật có thì quý vị cứ mãi tham đắm bả ngũ dục giả tạm ở
thế gian, suốt cả cuộc đời làm nô lệ cho cái giả, suốt cả cuộc đời làm nô
lệ cho ăn, uống, ngủ nghỉ, mà không hay không biết, thật là khổ đau vô
cùng.
Ðể đối trị lại những dục vọng tham muốn ở đời, Ðức Phật đã chỉ dạy chúng ta trong “Tứ niệm xứ” là
phải luôn quán thân này là bất tịnh, là hôi thối.
Kinh Trung Bộ I có đoạn ghi: “Này các
vị Tỳ Kheo, hãy quán thân này từ gót chân cho đến đỉnh đầu là một bọc da chứa đựng toàn
là những đồ bất tịnh hôi thối như là: tóc, lông, móng, máu, mủ, đờm, nước miếng, nước tiểu,
phân v.v...”
Ðức Phật muốn cho chúng ta thấy được thật tướng của thân thể này, để chúng
ta khỏi phải mê lầm về nó. Như quý vị thường thấy, hằng ngày trong thân
thể của chúng ta có chín cái lỗ thường chảy ra những đồ bất tịnh hôi tanh.
Vì thế, các vị Tổ ví chín cái lỗ này chảy ra những đồ bất tịnh hôi thối
gấp mấy lần mùi hôi ở những cống rãnh của thành phố chảy ra. Chín lỗ đó là
gì? Hai tai chảy ra ráy, hai mũi chảy ra nước mũi, miệng chảy ra nước
miếng, hai mắt chảy ra ghèn, đường tiểu tiện chảy ra nước tiểu, đường đại
tiện thải phân.
Khi chúng ta đi ngang qua những
cống rãnh ở thành phố, thì chúng ta cảm thấy thế nào? Thối hay thơm?
Thật là thối vô cùng, các cống rãnh đã thối như thế, chư Tổ ví thường ngày
thân thể chúng ta chảy ra những đồ bất tịnh hôi thối gấp mấy lần mùi hôi ở
cống rãnh.
Chúng ta tu hành thì phải thấy được thật tướng của thân thể này là vô
thường, là giả tạm, là bất tịnh. Khi chúng ta nhận chân được thực tướng
rồi, chúng ta không dại gì làm nô lệ cho nó nữa, mà chúng ta chỉ biết mượn
nó làm phương tiện để tu tập. Cho nên chúng ta không khổ vì nó. Còn ngược
lại, đối với những người không nhận chân được thực tướng của thân thể này
là bất tịnh, là vô thường, là giả có, thì người ta cứ mải mê làm nô lệ cho
cái thân này hoài. Cứ cho thân này là có thật, là trong sạch, người ta cứ
vỗ béo, ăn cho ngon, mặc cho đẹp, đánh
phấn son cho cái thân này, chải chuốt cho cái thân này, không ngờ họ đã đánh phấn
son, vỗ béo, chải chuốt cho bọc
da hôi thối mà họ không hay
không biết, thật là đáng thương tâm cho họ.
Trong cuốn Sa Di Luật Giải, Ðức Phật dạy: “Cái khổ của con lừa, con lạc
đà chở nặng, cái khổ của những kẻ trôi lăn trong sinh tử luân hồi chưa gọi
là khổ. Ngu si không nhận chân được thực tướng, không biết được hướng đi
ấy mới gọi là khổ”.
Tại sao
Ðức Phật nói cái chở
nặng của con lừa, con lạc đà và những kẻ trôi lăn trong sinh tử
chưa gọi
là khổ? Là bởi vì con lừa, con lạc đà và những kẻ trôi lăn trong
sinh tử
chỉ khổ một đời thôi, còn đối với những
người ngu si không nhận chân được thực tướng, không biết được
hướng đi thì họ sẽ bị trôi lăn mãi mãi trong vòng sinh tử luân hồi mà
không khi nào
ra khỏi.
Ðạo Phật chúng ta cho thân này
là vô thường, là giả hợp, là bất tịnh, hiểu như vậy có phải một cách yếm
thế hay không? Thưa là không phải. Nhờ chúng ta biết được thân này là vô
thường, là bất tịnh, là giả có cho nên ngày nào còn sống thì ngày đó ta
nên sống đẹp và sống tốt, làm lợi ích cho mọi người.
Chúng ta không nên hiểu một cách
yếm thế, cho thân này là vô thường, là bất tịnh, là giả có rồi chúng ta
chán đời, ưng làm gì thì làm, bỏ bê thân này, chích xì ke, ma túy, quấy
phá xã hội. Những ai mà hiểu như vậy hoàn toàn sai lệch với ý của chư Phật
dạy. Chúng ta là những Phật tử đã hiểu đạo, thì phải luôn tỉnh thức sự
sống chết đến với chúng ta rất mau, cái chết nó không hẹn một ai hết, nó
đến với chúng ta một cách bất đắc kỳ tử.
Có khi nào cái chết đến với
chúng ta mà ta hẹn là cho tôi sống thêm khoảng 5, 6 ngày nữa rồi tôi chết,
không bao giờ có hẹn như vậy được.
Bình nhật thường ngày chúng ta
cũng đã từng chứng kiến biết bao nhiêu
là sự chết chóc của mọi người,
có người thì chết trẻ, có người thì chết già v.v..., đã từng chứng kiến như
vậy mà tại sao chúng ta không
chịu giác ngộ để sớm tu hành,
còn đợi đến chừng nào nữa đây. Chúng ta nên biết rằng: mỗi khi đánh mất
thân người thì trăm ngàn muôn kiếp khó mà kiếm lại được. Cho nên chúng ta
phải thương mình lo tu hành đi, đừng có ham gì bả danh lợi giả tạm của thế
gian.
Kinh Tạp A
Hàm, Ðức Phật đưa ra bốn hình ảnh con ngựa để ví dụ bốn hạng
người như sau:
- Con ngựa thứ nhất chỉ thấy
bóng roi đã chạy.
- Con ngựa thứ hai, nhịp roi lên
lưng mới chạy.
- Con ngựa thứ ba, đánh cho thật
đau mới chạy.
- Con ngựa thứ tư, đánh chết bỏ,
lúc lắc chớ không chịu chạy.
Qua hình ảnh bốn con ngựa, Ðức Phật chỉ rõ cho chúng ta thấy được bốn hạng
người:
- Hạng người thứ nhất, chỉ nghe
tiếng đồn có người chết là giác ngộ tu ngay.
- Hạng người thứ hai, chỉ chứng
kiến một người chết thôi là giác ngộ tu liền.
- Hạng người thứ ba, đã chứng
kiến khoảng 1, 2, 3 người chết, lúc đó mới chịu tu.
- Hạng người thứ tư, tuy đã
chứng kiến vô số người chết mà không hề
nhúc nhích, họ cứ cho là cái
chết của người ta chớ đâu phải cái chết của mình. Hạng người này
chúng tôi xin bái.
Qua bốn con ngựa trên, đa số
chúng ta rơi vào con ngựa thứ tư, ít có ai mà rơi vào con ngựa thứ nhất,
hai, ba.
Vậy, chúng ta sớm tỉnh giác,
thân mạng của chúng ta vô thường, ngắn ngủi, thật chi là trống vắng không
có gì là chắc đâu.
Cho dù làm vua, làm quan đi nữa,
khi chết cũng để lại đống tro nhơ mà thôi. Như chúng ta đã biết, sống lâu
như ông Bành Tổ là 800 năm, nay đâu còn, giàu sang như Vương Khải, Thạch
Sùng rồi cũng xuôi tay mà thôi.
“Bao bì cốt nhục nung huân huyết
Cưỡng tác kiều yêu cuống hoặc nhân,
Thiên cổ anh hùng giai nhân tận
Bách niên đồng tác nhất khanh trần”
Nghĩa là:
Máu mủ thịt xương một túi nhơ
Tô
điểm chi mong gạt tình hờ
Vạn
thuở anh hùng giai nhân tận
Trăm năm để lại đống tro nhơ”.
Chúng ta đã hiểu rõ được thật
tướng của thân thể mình rồi. Ngày nào còn sống thì chúng ta phải tinh tấn
tu hành ngày đó, chớ đừng hẹn lần hẹn lữa. Chớ để cơn vô thường đến cướp
ta đi thì trăm ngàn muôn kiếp không có cơ hội để tu.
Ngày xưa các vị Tổ trong lúc tu
hành các ngài thường luôn để ý đến sự
vô thường và luôn xem sinh tử là sự đại. Khi một ngày trôi qua, các
vị Tổ thường than rằng: “Ôi! Một ngày đã trôi qua rồi mà ta chưa làm
được gì cả!”. Quý ngài rất quý thời gian tu vô cùng. Ðể cho sự tu tập một
cách nghiêm mật, các vị Tổ làm một cái hòm nhỏ để bên gối nằm. Khi nào các
ngài cũng liếc mắt nhìn cái hòm, ám chỉ là cái chết kề cạnh bên ta, chỉ
cần sơ suất một chút thôi là ta nhảy vào đó liền. Chính cái hòm nhỏ này có
một tác dụng ghê gớm, nhờ nó mà giúp cho các vị Tổ tinh tấn tu hành một
cách nghiêm mật, không bao giờ xao lãng.
Như chúng ta đã biết, trong kinh công phu chiều có đoạn:
Thị nhật dĩ quá,
Mạng diệc tùy giảm
Như
thiểu thủy ngư
Tư
hữu hà lạc
Ðại
chúng đương cần tinh tấn
Như
cứu đầu nhiên
Ðản
niệm vô thường
Thạnh vật phóng dật.
Nghĩa:
Ôi! Một ngày đã trôi qua rồi,
Mạng sống theo đó mà giảm dần
Như
cá ở ao cạn nước
Có
gì vui đâu
Ðại
chúng nên cần tinh tấn
Như
cứu lửa cháy trên đầu
Luôn nhớ nghĩ vô thường
Chớ
nên phóng dật.
Chúng ta sống cao nhất là khoảng 50 tuổi đến 100 tuổi, đây là số tượng
trưng thôi, cũng có người 1 tuổi chết, có người sống đến 10 tuổi chết, có
người sống 20, 30 tuổi... là chết.
Ví dụ tuổi thọ của chúng ta là 50 tuổi, cứ một ngày trôi qua thì tuổi thọ
giảm còn lại 49 tuổi, cứ như thế mà giảm dần, cho đến khi ta mất mạng. Tục
ngữ có câu “Nước chảy đá mòn” cũng giống như cá ở ao mà cạn nước, như
chúng ta đã từng thấy trong các ao hồ, cứ mỗi ngày mặt trời lên, thì nước
trong ao hồ đều bốc hơi, nước cứ mỗi lần bốc hơi như vậy làm cho nước ở ao
hồ cạn dần, thì mạng sống của những con cá ở trong đó cũng theo đó mà giảm
dần.
Qua bài thơ trên đây, cho chúng ta thấy được mạng sống của kiếp người thật
là ngắn ngủi, thật là trống vắng vô cùng. Vì vậy, chúng ta nên sớm tỉnh
ngộ đến sự vô thường, xem sinh tử là việc lớn mà một lòng siêng năng, tinh
tấn, gấp rút tu hành, chớ nên buông lung giải đãi mà bỏ phí qua một kiếp
người thật là oan uổng vô cùng.
Chúng ta phải luôn tỉnh giác, gấp rút tu hành như hình ảnh cứu lửa cháy
trên đầu.
Có khi nào lửa đang cháy trên
đầu mà chúng ta hẹn là hãy đợi tôi một hai phút rồi tôi dập tắt sau. Không
bao giờ hẹn được, lửa vừa cháy là chúng ta nhanh chóng dập tắt liền, còn
nếu chậm trễ một chút thôi thì nó thiêu đốt chúng ta ngay. Cũng vậy, qua
hình ảnh này ngụ ý cho ta thấy được: Nếu chúng ta không chịu gấp rút tu
hành thì quỷ vô thường đến cướp ta ngay. Lúc này, than van, kêu trời kêu
đất, cho dù chúng ta cầu khẩn một cách tha thiết đi nữa thì cũng đã muộn
màng lắm rồi. Cổ đức dạy rằng: “Khuyên niệm Phật than rằng chưa rảnh, quỷ
sứ đòi khóc một khóc hai” hay là “Mạc đãi lão lai phương niệm Phật, cô
phần đa thị thiếu niên nhân”, nghĩa là: Chớ để tuổi già mới niệm Phật, mồ
hoang lắm kẻ tuổi còn xanh. Vì vậy, một lần nữa, chúng ta nên sớm giác ngộ
vô thường mà gấp rút tu hành, chớ đừng để luống qua một kiếp người thì
trăm ngàn muôn kiếp khó mà kiếm lại được. Chúng ta cũng đã hiểu như thế
nào là vô thường, cũng đã thấy rõ được thật tướng của thân thể mình, thì
chúng ta phải sống như thế nào đây, để chuẩn bị cho ngày ra đi của mình
một cách êm đẹp. Phải hiểu rằng, chúng ta sống hôm nay là để chuẩn bị cho
ngày ra đi, chớ ta không nên ham sống mà bỏ quên đi ngày nhắm mắt xuôi
tay, đây là điều tối quan trọng, chúng ta nên nhớ mãi.
Sống như thế nào để trở thành
một người lương thiện có đạo đức, có tu tập. Trước hết, chúng ta phải nên
quy y Tam Bảo.
Theo tư
tưởng của Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: Muốn sinh về Cực lạc, phải tu
ba phước:
- Hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư
trưởng, tâm từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành.
- Thọ trì tam quy, giữ kỹ các
giới, không phạm oai nghi.
- Phát lòng Bồ đề, tin lý nhân
quả, đọc tụng kinh điển Ðại thừa, khuyến tấn người tu hành.
Ba thứ phước này là chánh nhân
tịnh nghiệp của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai. Ðây là nói về dùng
phước lực để vãng sinh.
QUY
Y TAM BẢO
Muốn trở thành một người Phật tử
trước hết chúng ta phải quy y Tam Bảo. Cho nên, việc quy y Tam Bảo là việc
cần thiết không thể thiếu được. Như thế
nào gọi là quy y Tam Bảo?
Chúng tôi xin giải nghĩa bốn chữ
“Quy y Tam Bảo”.
- Quy: Quay về
- Y: Nương tựa.
- Tam Bảo: là ba ngôi báu Phật,
Pháp, Tăng.
Vậy, “Quy y Tam Bảo” là quay về
nương tựa với Phật, Pháp, Tăng.
Tại sao chúng ta phải quy y Phật? Phật là đấng giác ngộ sáng suốt, là bậc “Thiên nhân chi đạo sư, tứ sinh
chi Từ phụ”. Vì vậy, chúng ta nên quy y Phật.
Tại sao chúng ta phải quy y Pháp? Bởi vì pháp là chân lý do Ðức Phật nói ra, nhờ pháp mà chúng ta có được
cuộc sống an lạc, giải thoát, cho nên chúng ta phải quy y Pháp.
Tại sao
phải quy y Tăng? Tăng là hòa
hợp, là trang nghiêm thanh tịnh, chư tăng là những người thay thế Ðức Phật hoằng
truyền chánh pháp, cho nên chúng ta phải quy y Tăng. Ðây là nói về
sự quy y Tam Bảo. Còn lý quy y Tam Bảo
là sao? Là chúng ta quy y (nương tựa) tự tánh Tam Bảo trong ta,
trong ta cũng sẵn có đủ Phật, Pháp, Tăng. Nhưng muốn đạt được tự tánh Tam Bảo, điều cần thiết chúng ta
phải quy y sự Tam Bảo. Tại sao
chúng ta cần phải quy y sự Tam
Bảo? Là vì thế này, nhờ ông Phật bằng gỗ, bằng xi măng mà chúng ta
lễ lạy, nhờ đó mới đánh thức được ông
Phật bên trong của chúng ta, nhờ
sự quy y Pháp là những lời Ðức Phật dạy, qua những lời dạy đó, giúp
chúng ta nhận ra được, hiểu ra được đâu là chánh đâu là tà, rồi áp dụng tu
hành thì lúc đó chúng ta mới thức tỉnh được pháp tánh trong ta. Sự quy y
Tăng, là nhờ hình bóng của chư tăng hiện tại mà ta khởi được lòng tôn
kính, nhờ sự tôn kính này mới giúp ta thấy được bản thể thanh tịnh hòa hợp tăng trong ta. Như vậy chúng ta
cũng đã hiểu được như thế nào là
sự, lý quy y Tam Bảo.
Khi quy y thì chúng ta đã lãnh thọ năm giới:
1.-
Không sát sinh.
2.-
Không trộm cắp.
3.-
Không tà dâm.
4.-
Không nói dối.
5.-
Không uống rượu.
Năm giới này rất quan trọng,
không chỉ riêng người Phật tử thọ trì mà hàng xuất gia cũng lấy năm giới
này làm gốc. Muốn đạt được quả vị Phật thì cũng không ngoài năm giới này.
Năm giới này là nền tảng sống,
là chân hạnh phúc cho chúng ta, nếu chúng ta tu tiến hơn nữa là chúng ta
tu thêm thập thiện: thân có ba, khẩu có bốn, ý có ba.
Thân có ba: không sát sinh,
không trộm cắp, không tà dâm.
Khẩu có bốn: không nói dối,
không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời thêu dệt, không nói lời hung ác.
Ý có ba: không tham, không
sân, không si.
Nếu như toàn thế giới ai ai cũng
biết giữ năm giới, tu thập thiện thì ắt hẳn thế giới đó sẽ có tràn đầy
hạnh phúc, người với người sống trong
tình đạo, luôn sống trong tình huynh đệ, biết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau,
người mạnh thì biết nâng niu
người yếu, biết tôn trọng lẫn nhau, biết kính trên nhường dưới,
biết hoan hỷ xả bỏ cho nhau. Ôi! Nhân quả không sai chạy, “Nếu chúng ta
biết gieo nhân lành thì chúng ta sẽ hưởng quả lành”, đây là một chân lý từ
muôn thuở không bao giờ sai chạy.
Khi Ðức Phật còn tại thế, có Bà la môn
hỏi Phật: Con đã thọ trì năm giới, tu thập thiện, hằng ngày con luôn sống là một
người hiền lành đạo đức thì sau
này con chết con sẽ đi về đâu, xin Ngài hãy chỉ dạy cho con được
rõ.
Ðức Phật dạy: Này Bà la môn, có một cây nghiêng về hướng Tây, khi nó ngã,
thì nó sẽ ngã về hướng nào?
– Bạch Ðức Thế Tôn, tất nhiên nó phải ngã về hướng nó đã nghiêng.
– Cũng vậy, cả cuộc đời Bà la môn biết sống là một người hiền lương thì
sau khi chết sẽ sinh vào một thế giới an lành.
Chúng ta phải biết rằng, theo đạo Phật là phải tin chắc nhân quả.
Nếu chúng ta gieo hạt ớt thì cho ra quả ớt. Nếu chúng ta gieo hạt chanh
thì sẽ cho ra quả chanh. Chớ không ai mà gieo hạt ớt cho ra quả chanh bao
giờ. Ở hiền thì gặp lành, ở ác thì gặp ác, niệm Phật thì sẽ thành Phật,
chúng ta phải hiểu nhân quả một cách rõ ràng như vậy thì sự tu hành của
chúng ta mới phát triển được.
Trong sách này chúng tôi chỉ đề cập đến giới thứ nhất
“Không sát sinh”.
Khi chúng ta chưa quy y Tam Bảo,
chưa thọ trì năm giới thì chúng ta sát sinh vô tội vạ, gặp con vật nào mà
thích ăn là giết nó chớ không hề có lòng từ gì cả. Chỉ vì món ăn ngon, vì
vỗ béo cho thân thể mình mà mình tàn nhẫn cầm dao cướp mất đi mạng sống
của mọi loài, chúng tôi thử hỏi quý vị, có ai đó cầm dao cắt cổ mình, mình
có biết đau không? Ðau lắm phải không quý vị. Cũng vậy, khi chúng ta cầm
dao cắt cổ con vật thì nó cũng biết đau như chúng ta vậy đó, chúng ta cũng
biết ham sống sợ chết, thì con vật nó cũng vậy, nó cũng biết ham sống sợ
chết, tuy hình hài của nó khác chúng ta, nhưng đời sống tâm thức của nó
cũng không khác ta.
Trong Kinh Tạp A Hàm nói: “Nếu
có người nào muốn giết hại ta, ta không vui, thì tất nhiên kẻ khác cũng
vậy, không vui cho ta giết hại họ. Tại sao mình muốn mạng sống mình còn mà
lại giết hại mạng sống của kẻ khác? Như vậy là trái ngược, con người cần
phải sửa chữa”.
Ðức Phật dạy “Nhất thiết chúng
sinh giai hữu Phật tánh”, nếu chúng ta giết một con vật, là ta tự giết Phật tánh của nó,
tội rất nặng.
Nếu hôm nay chúng ta ăn 1 ký
thịt thì mai sau sẽ phải trả 10 ký thịt, nếu giết người bằng một viên đạn
thì sau này sẽ nhận lãnh bằng một viên đại bác, không bao giờ nằm ngoài
luật nhân quả.
Khổng Tử than rằng “Sinh tiền
bất tri thiên đường lộ, tử hậu nan ly địa ngục môn”, nghĩa là: “Lúc sống
mà không biết làm việc lành, thời sau khi chết khó mà thoát khỏi cửa địa
ngục”. Ðây là một chân lý không bao giờ sai chạy được.
Nhất thiết chúng sinh vô sát nghiệp,
Thập phương hà xứ động đao binh.
Gia
gia, hộ hộ đồng tu thiện,
Thiên hạ hà sầu bất thái bình.
Nghĩa là:
Hết thảy chúng sinh không nghiệp giết,
Mười phương nào có nổi đao binh.
Mỗi
nhà, mỗi chốn đều tu thiện.
Lo
gì thiên hạ chẳng thái bình.
Bởi vì chúng sinh do vô minh che
lấp mà cứ hơn thua, đố kỵ đâm giết lẫn nhau, chính vì nhân vô minh này
khiến cho chúng sinh cứ mãi trôi lăn trong vòng sinh tử không khi nào ra
khỏi. Khi thì đầu thai thành người, khi thì đầu thai làm con vật, cứ thay
nhau đầu thai như vậy để mà trả vay, vay trả cho nhau không khi nào ngừng
nghỉ.
Chúng ta hãy lấy lời Ðức Phật
dạy mà suy rộng ra, mỗi ngày chúng ta giết những con cá, con gà, con vịt,
con bò v.v... không ngờ là chúng ta cầm dao giết cha mẹ anh em, con cái
của ta nhiều đời nhiều kiếp mà ta không hay không biết. Nhất là những bữa
ăn, những đĩa thịt, những đĩa cá tràn đầy. Không ngờ những đĩa thịt, đĩa
cá đó là thịt của cha mẹ, anh em, con
cái của ta đó. Quý vị thấy kinh hoàng không, tại sao không ngưng ngay
nghiệp sát ư?
Trong Kinh Vu Lan có đoạn ghi:
“Ta lễ bái những bậc tiền bối và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa. Ðống xương hỗn
tạp chẳng vừa không phân trai gái bỏ bừa khó coi chắc cũng có ông bà, cha
mẹ hoặc thân ta hoặc kẻ ta sinh, luân hồi sinh tử lộn quanh, lục thân đời
trước thi hài còn đây”.
Phật dạy từ vô lượng kiếp cho
đến nay, chúng ta lang thang mãi trong vòng sinh tử luân hồi bất tận đến
nỗi tất cả chúng ta đều là thân bằng quyến thuộc của nhau, dưới hình thức này hoặc hình thức khác. Vì thế
Phật nói: “Này các Tỳ Kheo, thật khó mà tìm được kẻ nào trong đời
quá khứ chưa từng là cha mẹ, anh em, chị em, con cái của các ngươi”.
Chúng ta là
người Phật tử, là con Phật, phải thấu hiểu lời Phật dạy, không chỉ
chúng ta có cha mẹ, anh em, con
cái trong một kiếp này đâu, mà
phải hiểu rằng, vì sinh tử luân hồi hiện bây giờ cha mẹ, anh em,
con cái của chúng ta đang ở cảnh giới súc sinh, ngạ quỷ, A tu la, nhân,
thiên, nói tóm lại là ở trong lục đạo.
Kinh Phạm Võng, phẩm Bồ Tát
giới, Ðức Phật dạy: “Tất cả người nữ là mẹ ta, tất cả người nam là cha
ta, mỗi đời ta từ đó sinh ra, chúng sinh trong lục đạo đều là cha mẹ của
ta, nếu ta giết mà ăn chính là ta giết cha mẹ của chúng ta”.
Chúng ta đã
nhiều đời nhiều kiếp có tu
rồi, nên hôm nay chúng ta biết quy y
Tam Bảo, gặp được chánh pháp,
nghe được lời Phật dạy, biết
được trong vô lượng kiếp ai ai cũng là thân bằng quyến thuộc của ta
cả. Chúng ta đã hiểu một cách tường tận như thế rồi thì phải mau mau lập
tâm sám hối, ngưng ngay việc sát sinh, bên cạnh đó, chúng ta phải thường
xuyên mua vật phóng sinh để chuộc lại những tội lỗi mà mình đã tạo từ vô
lượng kiếp cho đến bây giờ.
Như vậy, đã quy y Tam Bảo, cũng
đã hiểu rõ lời Phật dạy rồi, thì chúng ta nên phát khởi cái tâm Bồ đề rộng
lớn.
TẠI SAO PHẢI PHÁT TÂM BỒ ÐỀ?
Bởi vì tâm Bồ đề rất là quan
trọng, nó là điều kiện tốt, là trợ hạnh để giúp cho chánh hạnh của chúng ta được viên mãn. Chánh
hạnh của chúng ta là nhất tâm niệm Phật A Di Ðà.
Ví dụ chúng
ta muốn cho hạt giống nảy mầm thì phải cần những duyên bên ngoài,
đó là đất, nước, mặt trời, phân v.v... Cũng vậy, để cho việc niệm Phật dễ
đạt được nhất tâm bất loạn thì chúng ta không thể thiếu trợ hạnh là tâm Bồ
đề. Chỉ có phát khởi được cái tâm Bồ đề chúng ta mới bước vào biển thệ
nguyện của Như Lai.
Thế nào là phát khởi cái tâm Bồ
đề? Tâm Bồ đề có nghĩa là cái tâm cầu tiến, tâm cầu thành Phật, để độ tất
cả chúng sinh, người đại phát tâm Bồ đề là người đã phát nguyện niệm Phật.
Tại sao người niệm Phật là người đại phát tâm Bồ đề? Là vì người niệm
Phật trước sau gì cũng thành Phật, khi thành Phật, bản nguyện của chư Phật
là độ tất cả chúng sinh. Như vậy, người phát tâm niệm Phật là người đại
phát tâm Bồ đề.
Luận Vãng Sinh đã nói: “Phát
tâm Bồ đề chính là phát tâm cầu thành Phật, tâm cầu thành Phật là tâm độ
chúng sinh, tâm độ chúng sinh là tâm nhiếp chúng sinh, sinh về cõi Phật.
Người niệm Phật không chỉ đạt được đại tâm Bồ đề mà còn thâu nhiếp luôn
tam nghiệp và lục độ vạn hạnh.
Như thế nào là thâu nhiếp ba
nghiệp (thân, khẩu, ý)? Khi chúng ta niệm Phật thì ý luôn nhớ nghĩ đến
Phật, miệng luôn niệm Phật, thân hành theo tiếng niệm Phật, như vậy, thì
có phải là thâu nhiếp ba nghiệp thanh tịnh ư? Thật là vi diệu.
Không chỉ vậy, niệm Phật còn đạt
được lục độ vạn hạnh Ba la mật. Như chúng ta biết, lục độ vạn hạnh là một
công hạnh đẹp của chư Bồ Tát phát tâm hành Bồ Tát đạo. Như trong kinh nói,
có vị đã trải qua trong hằng sa kiếp để tu pháp lục độ vạn hạnh mà cũng
chưa hoàn toàn công hạnh được. Thế mà nay, chỉ cần nhất tâm niệm Phật,
muôn việc trần tự nhiên dứt bỏ tức là pháp bố thí Ba la mật.
- Nhất tâm niệm Phật, các việc
ác tự dứt, tức là đạt được pháp trì giới Ba la mật.
- Nhất tâm niệm Phật, lòng được
nhu hòa mát dịu, tức là đạt được pháp
nhẫn nhục Ba la mật.
- Nhất tâm niệm Phật, vĩnh viễn
không bị thối lui, không bị đọa lạc, tức là đạt được pháp tinh tấn Ba la
mật.
- Nhất tâm niệm Phật, không sinh
các vọng tưởng, tức là đạt được pháp thiền định Ba la mật.
- Nhất tâm niệm Phật, chánh niệm
rõ ràng, tức là đạt được pháp trí tuệ Ba la mật.
Suy xét cho cùng tột thì không
ra ngoài nhất tâm niệm Phật mà muôn hạnh được đầy đủ cả. Thật phải
nói,
lục tự “Nam
mô A Di Ðà Phật” là một câu thần chú,
một lương dược thần tiên cho chúng sinh đời mạt pháp. Trong Kinh
Ðại Bổn ngài Pháp Tạng có phát nguyện rằng: “Khi ta thành Phật,
chúng hữu tình trong nước ta, nếu không được thần thông tự tại Ba
la mật,
thì ta không lấy ngôi chánh giác làm chi”.
Chúng ta muốn bước trên lộ trình
hành Bồ Tát đạo, thì chúng ta phải thường xuyên kiểm soát tâm mình từng
giờ từng phút, chớ để một ý niệm xấu xa nào ảnh hưởng đến cho mọi người.
Ðã phát khởi cái tâm Bồ đề thì chúng ta phải phát nguyện rằng, cho con
luôn gánh vác những khó khăn, những khổ đau của mọi người để lấy an lạc
hạnh phúc của mình thay vào cái khổ của mọi người.
Ấn Quang Ðại sư khai thị rằng:
“Nhẫn việc mà người không thể nhẫn, làm việc mà người không thể làm, thay
thế việc nhọc cho người, thành tựu việc tốt cho người, lúc ngồi yên lỗi
mình thường nhớ, khi luận bàn chớ nói lỗi người, kính mọi người đều là Bồ
Tát, duy chỉ có mình thiệt là phàm phu”.
Ðã phát khởi cái tâm Bồ đề thì
trong mỗi cử chỉ hành động, lời nói, chúng ta phải luôn đắn đo, cân nhắc
cho thật kỹ.
Khi nói chúng ta phải nên lựa
lời mà nói, tìm những lời nói nào mà mang lại hạnh phúc an lạc cho mọi
người thì ta nên nói, còn những lời nói nào mà đem lại sự đau khổ, buồn
phiền, tức giận cho mọi người thì ta không nên nói, còn nếu như khi nói,
chúng ta chỉ cần sơ sẩy, không chịu suy nghĩ một chút thôi là làm cho
người ta phải đau khổ vì lời nói của mình thì quá ư là mâu thuẫn với tâm Bồ đề
của mình rồi. Bởi vì sao mà nói mâu thuẫn? Vì tâm Bồ đề thường là
đem lại lợi ích cho mình và cho người chứ có bao giờ tâm Bồ đề đem lại sự
khổ đau cho mọi người đâu, cho nên quý vị phải hiểu rõ ràng về phát khởi
cái tâm Bồ đề.
Ðã phát khởi cái tâm Bồ đề khi
làm một việc gì phục vụ cho mọi người,
chúng ta phải luôn luôn hoan hỷ,
vui vẻ mà làm, chớ không nên làm
một cách bắt buộc, rồi đùng đùng tức giận, buồn phiền, trách mắng người ta, vì vậy, để
cho chúng ta luôn có cái tâm hoan hỷ, vui vẻ làm việc phục vụ mọi
người, chúng ta thường quán như thế này: Tất cả mọi người đều là anh em,
cha mẹ, thân bằng quyến thuộc của ta nhiều đời nhiều kiếp, vì thế, khi ta
làm một việc gì mà phục vụ cho số đông chính là ta phục vụ cho cha mẹ, anh
em, thân bằng quyến thuộc của ta nhiều đời nhiều kiếp chớ không có ai
khác, chúng ta thường quán hoặc hiểu như vậy thì tôi quả quyết rằng chúng
ta sẽ gặt hái được tâm hoan hỷ vui vẻ, thậm chí làm việc một cách siêng
năng, quên cả thời gian luôn. Những điều này chúng tôi đã hành và đã thực
sự thấy được hoan hỷ vui vẻ khi phục vụ một việc gì cho số đông người, cho
nên chúng tôi mới trình bày.
Ðã phát khởi cái tâm Bồ đề thì
chúng ta phải luôn hạ mình xuống để mà nhẫn nhục những lời cay nghiệt từ
bên ngoài ập đến ta. Tại sao chúng ta phải hạ mình? Chúng ta phải thường
quán rằng: À! Thân thể này là giả tạm, vô thường thì lời nói nó cũng là
giả tạm không thật, nói rồi nó cũng mất thôi, tại sao ta chấp gì cho khổ,
dại gì ta chấp cái giả, tâm của ta dùng để chứa những công hạnh đạo đức, dại gì ta chứa
những cái giả, những cái đau khổ để cho mệt óc ta. Chúng ta thường tư duy, quán xét như vậy thì ta dễ khiêm hạ và dễ
nhẫn nhục vô cùng. Còn đối với những người không chịu tư duy, quán
xét, họ cứ cho cái thân này là thật,
lời nói này là thật, họ cứ chấp cái giả là thật cho nên họ ôm luôn cả một khối khổ mà
họ không hay không biết. Thật là đáng thương vô cùng.
Ðức Phật dạy: “Người luôn biết
khiêm hạ và nhẫn nhục là người đại trí tuệ, là đại sức mạnh, chớ không
phải là người thấp hèn”.
Tại sao Ðức Phật nói người luôn
biết khiêm hạ và nhẫn nhục là người đại trí tuệ? Là vì thế này, người
biết nhẫn nhục thì họ đã biết trước sự việc đó sẽ đưa đến quả khổ cho nên
người ta mới nhẫn nhục.
Chúng tôi lấy ví dụ cho dễ hiểu.
Có hai người và một đống lửa. Người thứ nhất thấy đống lửa liền chạy thẳng
vào, người thứ hai thấy đống lửa liền
tránh xa. Như vậy, trong hai
người trên, người nào khôn và người nào dại? Chắc chắn Người thứ nhất là dại, người thứ hai là khôn. Ðúng vậy,
qua ví dụ này, người thứ hai
nhằm ám chỉ cho người biết khiêm
hạ và nhẫn nhục. Người thứ nhất nhằm ám chỉ cho người không biết
khiêm hạ và nhẫn nhục.
Như người
phát tâm Bồ đề là phải
thường xuyên khiêm hạ và nhẫn nhục, để đem lại lợi ích cho mình, rồi đem
lợi ích đó cho mọi người.
Ðức Phật của chúng ta trong vô
lượng kiếp vì cầu quả vị Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác, Ngài đã phát khởi cái tâm Bồ đề hết sức là
dũng mãnh, chúng sinh cần gì thì Ngài bố thí cái đó, chúng sinh
cần con mắt thì Ngài cho con mắt, chúng
sinh cần máu thì Ngài cho máu v.v... vì tâm Bồ đề mà Ngài đã bố
thí
mắt, tai, mũi, lưỡi, vợ con... cho
chúng sinh. Vì tâm Bồ đề mà Ngài
nguyện gánh vác tất cả những tội lỗi khổ đau của chúng sinh để
thành tựu cái tốt đẹp cho chúng sinh từ
vô lượng kiếp như vậy mà tâm Bồ đề của Ngài không bao giờ thối
chuyển.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Ðề Bà Ðạt Ða, Ðức Phật nói rằng: “Từ vô
lượng kiếp, không có một hạnh
khó nào mà Ta không làm cho đến
những việc nhỏ như hạt cải Ta cũng không bỏ, vì cầu quả vị Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác”.
Chúng ta là đệ tử Phật, phải noi theo tấm gương sáng của Phật, phát khởi
cái tâm Bồ đề giống Phật, có như vậy mới báo đáp được một phần nào công ơn
của chư Phật.
Trên bước đường tu hành, vì phát khởi cái tâm Bồ đề, chúng tôi đã phát 10
hạnh nguyện như sau:
1. Con nguyện luôn sống là một người đạo đức và hiền lành.
2. Con nguyện luôn biết sống kính trên nhường dưới.
3. Con nguyện khi nói luôn nhớ nghĩ những lời hay ý đẹp đến với mọi
người.
4. Con nguyện luôn thương yêu và tôn kính tất cả mọi người.
5. Con nguyện luôn biết tất cả mọi người đều là cha mẹ, anh em, bạn bè
của con.
6. Con nguyện luôn hồi hướng những việc thiện mà con đã tạo được đến
cho tất cả mọi người cùng hưởng.
7. Con nguyện luôn biết sống nhẫn nhục và xả bỏ.
8. Con nguyện luôn siêng năng lấy việc tu học để báo đáp công ơn cha
mẹ và những người đã tận tình quan tâm đến con.
9. Con nguyện luôn biết sống khiêm hạ và nhỏ bé.
10. Con nguyện luôn nhớ nghĩ niệm danh hiệu Nam Mô A Di Ðà Phật.
Ðây là 10 điều tâm nguyện mà chúng tôi phải hằng ghi nhớ suốt đời, bên
cạnh đó chúng tôi không sao quên được tứ hoằng thệ nguyện:
“Chúng sinh vô biên thệ nguyện
độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.
Vậy tâm Bồ đề là tâm lợi mình,
lợi người, trên cầu thành Phật quả,
dưới cứu độ chúng sinh.
Ðối với một
hành giả tu theo đạo Phật
thì trước hết là phải xem sinh tử là
việc lớn, vì sinh tử mà chúng ta
phải chịu biết bao nhiêu sự khổ
đau trong lục đạo, không khi nào ra khỏi. Vì vậy, chúng ta nên xem sinh tử là việc lớn để
mà tinh tấn tu hành, còn nếu như chúng ta tu một cách lai rai, tu cho có lệ, tu một cách lơ mơ,
thì suốt cả cuộc đời chúng ta không bao giờ giải quyết được sinh tử.
Ðể cho chúng ta niệm Phật dễ đạt
được nhất tâm bất loạn hay niệm Phật tam muội thì chúng ta không thể thiếu
được phát khởi tâm Bồ đề. Chúng tôi vẫn còn nhớ lời dạy của ngài Tế Tỉnh
đại sư trong Liên tông thập tam Tổ ;
“Thật vì sinh tử
Phát lòng Bồ đề
Dùng tín nguyện sâu
Trì
danh hiệu Phật”
Bài thơ gồm có 16 chữ thôi mà nó
bao gồm hết cương tông của pháp môn Tịnh độ. Như vậy, chúng ta đã tâm sự
với nhau không ngoài lời dạy của Ðại sư Tế Tỉnh.
“Thật vì sinh tử, phát lòng Bồ
đề”, thì chúng ta đã trao đổi với nhau rất kỹ rồi. Bây giờ, chúng ta hãy
bước vào điểm vàng son của pháp môn Tịnh độ, đó là “Dùng tín nguyện sâu,
trì danh hiệu Phật”.
TÍN
- HẠNH - NGUYỆN
Pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu
vãng sinh Cực lạc, cần phải đầy đủ ba điều kiện: Tín, Nguyện, Hạnh”.
Tín là chúng ta phải tin sâu,
nguyện là phải thiết tha, hạnh là phải hành chuyên.
Ðối với niềm tin là phải tin ở 6
điều: Tin tự, tin tha, tin nhân, tin quả, tin sự, tin lý.
1.- Tin tự (tin ở nơi mình):
Tức là tin tất cả đều do ở nơi tâm của mình tạo ra cả “nhất thiết duy tâm
tạo”. Vì thế, nếu mình niệm Phật ắt sẽ được Phật A Di Ðà tiếp dẫn không
sai.
2.- Tin tha (tin ở nơi người):
Tức là tin Phật Thích Ca không bao giờ nói dối. Phật A Di Ðà chẳng thề
nguyện suông. Như chúng ta thường biết, Ðức Phật chế giới răn dạy chúng ta
là đừng nói dối thì làm sao mà Ngài nói dối chúng ta, đây là cái điều
không có.
Kinh Dược Sư ghi: “Trăng sao
còn có thể rơi, núi cao còn có thể mòn, biển sâu còn có thể cạn, nhưng lời
Ðức Phật nói ra thì trăm ngàn muôn kiếp không sai chạy”.
Kinh Ðại Tập có ghi: “Mãnh
phong khả thuyết tác hệ phược, Tu di khả thuyết khẩu xuy động, bất khả
thuyết Phật hữu nhị ngữ, thực ngữ như ngữ cập tịnh ngữ” (có thể bảo: buộc
luồng gió mạnh thổi lung lay hòn núi Tu Di, nhưng không thể bảo Phật nói
trước sau khác nhau, bởi vì Phật bao giờ cũng nói toàn là sự thật, chân
chính và trong sạch). Như vậy, chúng ta phải tin chắc pháp môn Tịnh độ do
Ðức Phật Thích Ca nói ra, tin chắc 48 lời nguyện của Phật A Di Ðà là như
đinh đóng cột, cho nên, nếu như y theo pháp môn Tịnh độ mà hành trì tất sẽ
cảm được Ðức Phật A Di Ðà tiếp dẫn sinh về Cực lạc.
3.- Tin nhân: Tức là tin niệm
Phật chính là nhân vãng sinh, giải thoát.
4.- Tin quả: Tức là tin sự vãng
sinh và thành Phật là kết quả.
5.- Tin sự: tức là tin cảnh
giới Tây phương Cực lạc và tất cả các sự tướng ở nơi cõi ấy, đều là có
thật.
6.- Tin lý: Tức là tin điều “lý
tánh duy tâm” nghĩa là một tâm của mình bao trùm khắp cả mười phương quốc
độ của chư Phật.
Ðể phát khởi tín tâm vững chắc
đối với pháp môn Tịnh độ, chúng tôi xin
giới thiệu mười niềm tin trong cuốn “Luận Tịnh độ chỉ quy”
1.- Tin Phật thuyết pháp.
2.- Tin hàng phàm phu trong cõi
mê, thần thức không bao giờ tiêu diệt.
3.- Tin rằng nếu trong cõi này
tu hành không đắc đạo quả thì không thể tránh khỏi luân hồi.
4.- Tin rằng cho dù sinh lên cõi
trời cũng không tránh khỏi bị đọa lạc (Kinh Niết bàn, quyển 38, Ðức Phật dạy: “Dầu ai có làm
bậc Tứ Thiên Vương, lần lên bậc Tha Hóa Tự Tại Thiên, rồi khi mạng chung cũng có thể rơi vào loài súc sinh, mang
lốt sư tử, cọp, beo, voi, ngựa v.v...”
5.- Tin rằng chúng sinh đã về
thế giới Cực lạc thì vĩnh viễn không còn thối chuyển. (Kinh A Di Ðà nói
rằng: Những người sinh về đó, đều là A bệ bạt trí, bất thối chuyển, không
còn bị rơi rớt nữa).
6.- Tin
rằng chúng sinh phát nguyện
sinh về thế giới Tịnh độ, thì chắc chắn
sẽ vãng sinh.
7.- Tin rằng chỉ cần xưng niệm
một danh hiệu Phật thì sẽ tiêu diệt được trọng tội sinh tử trong 81 kiếp.
(Kinh Niệm Phật Ba la mật, Ðức Phật dạy: “Muốn vãng sinh Cực lạc chỉ cần
xưng niệm danh hiệu Phật là đủ. Vì danh hiệu chính là biểu tướng của Pháp
thân, cho nên niệm danh hiệu tức là niệm Pháp thân Phật vậy. Vì sao người
niệm Phật khỏi phải kiêm thêm pháp tu nào khác, vì ngay nơi danh hiệu Nam
mô A Di Ðà Phật luôn luôn chứa đựng vô lượng vô biên công đức, vô lượng vô
biên diệu dụng, vô lượng vô biên quang minh, tướng hảo, uy lực không thể
nghĩ bàn”.
8.- Tin rằng người niệm Phật sẽ
được Phật A Di Ðà vận dụng thần thông chiếu sáng nhiếp thủ mà không hề xả
bỏ.
(Trong Kinh Thập Vãng Sinh giảng
rất rõ rằng: Không những Phật A Di Ðà dùng bản nguyện nhiếp thọ
oai lực
gia trì, mà Ngài thật sự từ bi đến cực điểm, còn phái 25 vị Bồ Tát
ngày đêm bảo hộ. Người niệm Phật là người ít có ở thế gian, người
niệm Phật được mười phương tất cả chư Phật khen ngợi, hộ niệm, 25
vị Bồ
Tát ngày đêm hộ vệ, tuyệt không cho đó là lỗi).
9.- Tin rằng người niệm Phật có
hằng hà sa chư Phật trong mười phương
dùng thần thông hộ niệm người
ấy. (Kinh A Di Ðà, Ðức Phật dạy
rằng: “Nhữ thị đẳng hằng hà sa số các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng,
biến phú tam thiên đại thiên thế
giới, thuyết thành thiệt ngôn,
nhữ đẳng chúng sinh đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất
thiết chư Phật sở hộ niệm kinh. Nghĩa là: Còn nhiều Phật khác như cát sông Hằng, cũng như
thế nữa, đều ở nước mình, và đều
hiện ra tướng lưỡi rộng dài, che
khắp ba ngàn, đại thiên thế giới, nói lời thành thật, rằng chúng sinh ngươi, nên
tin kinh này, là bản kinh: tán
thán công đức, chẳng xiết nghĩ bàn, và được hết thảy chư Phật hộ
niệm).
Khi Ðức Phật Thích Ca nói ra
pháp môn này, sợ chúng sinh đời mạt pháp không tin (nan tín chi pháp) pháp
khó tin. Cho nên chư Phật mười phương mới xuất tướng lưỡi rộng dài che
khắp tam thiên đại thiên thế giới để cùng hộ niệm với lời nói của Ðức Phật
Thích Ca. Các Ðức Phật mười phương nói rằng: Này các chúng sinh ơi! Các
ngươi phải tin đi, những lời Ðức Phật Thích Ca nói ra đều là sự thật, các
ngươi nên tin chắc mà y giáo phụng hành, lúc này chúng sinh nghe vậy liền
tin. Chúng tôi lấy ví dụ: Khi tôi nói một điều gì cho một Phật tử, thì vị
Phật tử này chưa chắc tin trọn vẹn lời nói của tôi, Phật tử này còn nghi
ngờ rằng: không biết ông thầy này nói đúng hay sai, Phật tử này cứ đắn đo
hoài, lúc này có khoảng 10 thầy đến nói rằng, này vị Phật tử, Phật tử nên
tin lời nói của thầy đó đi, thầy ấy nói toàn sự thật, không bao giờ nói
dối Phật tử đâu, lúc này người Phật tử mới tin chắc.
Chư Phật xuất tướng lưỡi rộng
dài che khắp tam thiên đại thiên thế giới có nghĩa là gì? Tướng lưỡi rộng
dài nhằm chỉ cho biết là chư Phật mười phương ba đời quá khứ, hiện tại, vị
lai đều là nói chân thật, không bao giờ nói dối. Chúng ta không nên hiểu
sai “tướng lưỡi” là cái lưỡi bằng xương bằng thịt như của chúng ta đâu.
10.- Tin rằng khi sinh về đó sẽ
chứng quả Vô thượng Bồ đề.
Triệt Ngộ đại sư có bài kệ:
Nhất cú Di Ðà
Chứng tam bất thối
Chỉ
thử nhất sinh
Tiên bổ Phật vị
(Một câu Di đà
Chứng tam bất thối
Chỉ
trong một kiếp
Lên
ngôi vị Phật)
Trong kinh A Di Ðà dạy: “Những người vãng sinh về thế giới Cực lạc đều trở
thành A bệ bạt trí. Chữ A bệ bạt trí nguyên tiếng Ấn Ðộ đọc là Avaivarti,
chữ Hán là bất thối (chẳng lui sụt). Có ba nghĩa:
- Vị bất thối: đã dự vào địa vị
tứ thánh rồi, chẳng sa đọa xuống địa vị lục phàm nữa.
- Hạnh bất thối: đã tu hạnh Bồ
Tát thường hóa độ chúng sinh, chẳng sa đọa xuống địa vị Nhị thừa nữa.
- Niệm bất thối: tâm tâm, niệm
niệm, giờ phút nào cũng như dòng nước chảy vào bể Tát bà nhã (bể Nhất
thiết trí).
Theo Thiên
Thai giáo thì khi tới đệ nhất trụ mới đến ngôi vị bất thối, khi chứng
thập hồi hướng mới lên ngôi hạnh
bất thối, và khi chứng ngôi Sơ địa Bồ Tát mới đạt được niệm bất
thối.
Theo quan niệm của Phật giáo Ðại
thừa, thì khi trừ được tư hoặc và kiến hoặc mới lên ngôi vị bất thối; phá
được trần sa hoặc mới lên ngôi hạnh bất thối; và trừ được vô minh hoặc mới
lên ngôi niệm bất thối. Nghĩa là phải tu a tăng kỳ kiếp mới chứng được tam
bất thối, nhưng đối với pháp môn Tịnh độ, chỉ cần vãng sinh Cực lạc quốc
là vĩnh viễn không bị thoái chuyển nữa và chắc chắn đạt được quả vị Phật.
Qua mười niềm tin trên đây, chúng ta phải tin chắc không có một ý
nào mà ta không tin. Chỉ có tin
thì chúng ta mới đạt được tất
cả, bằng không thì chúng ta sẽ mất tất cả. Vì thế trong Kinh Hoa Nghiêm
nói rằng: “Lòng tin là mẹ đẻ các
công đức, lòng tin hay nuôi lớn
căn lành, lòng tin hay tựu quả Bồ đề của Phật”.
Chúng ta có tin chắc là có cảnh
giới Cực lạc không? Ðể trả lời câu hỏi này một cách chính xác, chúng tôi
sẽ đưa ra một vài dẫn chứng, sự kiện để chứng minh.
Trước tiên, chúng tôi xin dẫn
chứng Kinh A Di Ðà, Ðức Phật dạy: “Xá Lợi Phất! Tùng thị Tây phương quá
thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực lạc, kỳ độ hữu Phật hiệu A
Di Ðà, kim hiện tại thuyết pháp”, nghĩa là: Xá Lợi Phất ơi! Từ đây đi về
bên Tây phương kia trải qua hết mười muôn ức cõi Phật, có một thế giới gọi
là Cực lạc, cõi ấy có Phật hiệu A Di Ðà, hiện đang thuyết pháp.
Qua đoạn kinh trên đây cũng đủ ý
cho
ta tin là có cảnh giới Cực lạc. Tại sao chúng ta tin? Tại vì cảnh giới
Cực lạc chính Ðức Phật Thích Ca nói ra. Ngay tựa kinh cũng đủ cho chúng ta
tin “Phật thuyết A Di Ðà Kinh” là Phật nói Kinh A Di Ðà.
Xin đơn cử một ví dụ: Thời vua
Tự Ðức, có ông Nguyễn Trường Tộ qua Pháp để du học. Sau khi trở về nước kể
lại những văn minh của nước Pháp như là: đèn treo ngược không có dầu
cũng cháy, xe không người lái cũng chạy cho vua nghe, thì vua bác bỏ không tin, cho ông
Nguyễn Trường Tộ là nói láo, vua tức
giận đòi chém đầu.
Qua câu
chuyện này cho ta thấy những lời ông Nguyễn Trường Tộ nói đều là
sự thật, bởi vì ông đã trực tiếp sang Pháp về. Vì sao vua Tự Ðức bác bỏ
và
không tin những văn minh của nước Pháp? Là vì vua chưa thấy nước
Pháp cho
nên không tin, nhưng thật sự là
có nước Pháp. Cũng vậy, Ðức Phật của chúng ta cũng đã từng dạo
chơi ở cõi
Tây phương Cực lạc, thấy cõi Cực
lạc rõ rõ ràng ràng, như thấy trái chanh trong lòng bàn tay. Cho
nên, Ngài
mới thuật lại cho chúng ta nghe.
Vì thế mà chúng ta phải tin chắc
là có cõi Cực lạc của Phật A Di Ðà, một lòng niệm Phật cầu vãng
sinh, thì
có lợi vô cùng. Ấn Quang đại sư đã dạy rằng: “Nên để ý, đừng đem
trí hiểu biết của phàm phu suy
độ, nhận lầm rằng: bao nhiêu sự
mầu lạ không thể nghĩ bàn ở Tây
phương đều thuộc về ngụ ngôn để
thí dụ cho tâm pháp, chớ không phải cảnh thật”. Nếu có sự hiểu
biết lầm lạc ấy, tất sẽ
mất điều lợi ích vãng sinh Tịnh
độ, mối hại này lớn phải nên cẩn thận.
Tâm trí của các Ðức Phật thật là
sáng suốt không có gì ngăn ngại cả, cũng giống như một hồ nước
trong thật
trong, khi ta nhìn vào hồ thì ta sẽ thấy rõ ràng những vật nằm
trong đó. Các Ðức Phật mười phương đặc biệt có được Phật nhãn, cho nên
khi các Ngài nhìn
thì không có chỗ nào mà các Ngài
không thấy cả. Còn con mắt phàm
phu của chúng ta thì chỉ nhìn được xa nhất là 1 cây số thôi, với
cách nhìn
kém cỏi như vậy thì làm sao chúng ta thấy được những thế giới hiện
đang hiện hữu ở trong vũ trụ này.
Chúng ta tin có lục đạo (địa
ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la, nhân, thiên) thì tất nhiên chúng ta phải
tin chắc là có cõi Cực lạc không sai chạy.
KHOA HỌC BIỆN CHỨNG
Ngày nay, nền khoa học đã phát
triển cực nhanh, các nhà khoa học đã dùng phi thuyền để khám phá vũ trụ.
Sau nhiều lần thực nghiệm, họ đã cho rằng ngoài hành tinh của chúng ta còn
có vô số hành tinh khác nữa, những hành tinh khác đó đều có sự sống.
Nhà Thiên văn học Melvin Berger ước tính
rằng: Vũ trụ có hàng tỷ tinh vân, hàng triệu thiên hà cùng thiên thể đủ loại.
Nếu có người nào diễm phúc ngồi trên một phi thuyền không gian, bay với vận tốc ánh sáng
thì có thể dạo chơi vòng quanh
vũ trụ, rồi trở lại về điểm xuất phát sau một thời gian chừng 200 tỷ tỷ
năm!
Chúng ta thấy, các nhà khoa học
đã tin như vậy, thì làm sao chúng ta
lại không tin.
Thật may mắn cho đạo Phật của
chúng ta, ra đời gặp được nền khoa học phát triển cực nhanh, nhờ sự phát
triển đó, mà đã chứng minh được những lời Ðức Phật dạy là thực tế, không
viễn vông.
Ngược lại, nếu nền khoa học
không phát triển, không dùng kính hiển vi nhìn vào nước thấy có vi trùng,
không dùng phi thuyền khám phá vũ trụ, thì những lời Ðức Phật dạy trong nước có vi trùng, trong vũ trụ có vô số
tam thiên đại thiên thế giới, chỉ là hư vọng mà thôi.
Nhưng các nhà khoa học chỉ mới
tìm thấy một số thế giới, còn vô số thế giới khác nữa chưa tìm thấy được.
Trong Kinh A Di Ðà Ðức Phật dạy: “Từ đây đi sang cõi Cực lạc kia thì phải
trải qua mười muôn ức Phật độ, mới đến được cõi Phật A Di Ðà”. Theo như
các nhà khoa học tính:
“Ức” ở đây là mười triệu, vậy
mười vạn ức, thành một ngàn ngàn triệu.
Phật độ: là một khu vực của một
vị Phật hóa độ, trong kinh Phật gọi là một tam thiên đại thiên thế giới,
danh từ khoa học gọi là một tỷ thái dương hệ.
Nay hãy nói, thế nào là một Phật
độ (hay là một tam thiên đại thiên thế giới). Ta lấy ngay quả đất của
chúng ta đang sống, quả đất của chúng ta có một hòn núi Tu Di cao nhất,
bốn bên Ðông, Tây, Nam, Bắc, mỗi bên là một châu, chung quanh có Thiết Vi
bọc lấy, châu nào cũng cùng chung ở dưới một mặt trời, một mặt trăng soi
vào, mỗi châu là một thiên hạ; quả đất có bốn thiên hạ. Cho nên gọi là
“quả tứ thiên hạ”.
Một ngàn quả tứ thiên hạ gọi là
một tiểu thiên thế giới.
Một ngàn tiểu thiên thế giới gọi
là một trung thiên thế giới.
Một ngàn trung thiên thế giới
gọi là một đại thiên thế giới.
Vậy chữ
“tam thiên” ở đây có nghĩa là
một nhân với ba lần ngàn, chứ không
phải là ba ngàn. Tức là: 1x1000
= 1000 (tiểu thiên); 1000x1000 = 1.000.000 (trung thiên);
1.000.000x1000 = 1.000.000.000 (đại thiên).
Nay Phật bảo: phải đi qua mười
vạn ức Phật độ, như thế về phía Tây, đến đấy là thế giới Cực lạc.
Thế mới biết vũ trụ quanh ta
huyền bí chừng nào và sự hiểu biết của
loài người còn rất nông cạn, sao
dám phủ nhận điều mà Phật Thích Ca, đấng giác ngộ hoàn toàn đã
trông thấy rõ.
Quả thật, lời nói của Ðức Phật
cách đây hơn 2500 năm không hề sai chạy. Chính vì chỗ này, các nhà khoa
học rất kính phục Ðức Phật, xem Ðức Phật là một bậc thầy, là một kết quả,
là một đáp số đúng nhất để họ tham khảo. Vì thế, nhà bác học thiên tài
Albert Einstein đã nói rằng: “Nếu có
một tôn giáo nào đáp ứng mọi nhu
cầu của khoa học hiện đại, đó là Phật giáo”.
Hôm nay, sự thành tựu vượt bậc
của khoa học cùng với tư tưởng tiến hóa của nhân loại, đòi hỏi thẩm định
lại giá trị của nhiều tư tưởng triết học xưa nay; và đương nhiên, những
triết học mang tính phi lý lạc hậu, phản khoa học đều phải tự đào thải
trước sự phát triển văn minh của loài người.
Ðức Phật đã nhận thấy rằng:
Ngài đã làm việc rất khó, là giới thiệu cảnh Cực lạc thế giới xa lạ cho
người phần đông mắc chứng đa nghi. Nhưng vì nặng tâm từ, thương chúng sinh
phải trôi lăn mãi trong bể khổ, nên dù biết là việc rất khó nhưng Ngài vẫn
cứ làm (Nan
tín chi pháp – Kinh A Di Ðà).
Như chúng ta biết khi Ðức Phật
chứng được quả vị Bồ đề, Ngài muốn đem pháp tối thượng thừa để dạy chúng
sinh, nhưng khổ nỗi, chúng sinh đời mạt pháp này đa số là căn tánh chậm
lụt, cho nên Ngài không truyền trao pháp tối thượng thừa được. Ngài tùy
theo căn cơ của chúng sinh, mà thiện xảo phương tiện, phương tiện trì danh
niệm Phật nguyện vãng sinh là một trong những phương tiện dễ tu dễ chứng cho chúng
sinh đời mạt pháp. Chúng ta biết rằng: thuốc không quý tiện, lành bệnh là
hay, pháp không thấp cao, hợp cơ là đúng.
Cho dù pháp tối thượng thừa liễu
nghĩa là quý, nhưng nếu chúng ta truyền trao không đúng thời, không đúng
lúc, thì sẽ trở lại bình thường không quý.
Xin đơn cử một ví dụ: Ðứa bé
học lớp 1 mà ta đem trình độ lớp 12 dạy cho nó thì quá ư là sai lệch,
chúng ta phải lấy kiến thức lớp 1 dạy cho nó, có như vậy mới đưa đến lợi
lạc cho đứa bé. Ngược lại chúng ta lấy kiến thức lớp 12 dạy cho đứa bé,
đứa bé không hiểu gì cả, chỉ là vô ích mà thôi. Qua ví dụ này cho ta thấy
được, cái quý, cái tối thượng thừa là ở chỗ phải hợp thời cơ, thực tế,
chúng sinh tu được, học được ấy mới gọi là quý, là tối thượng thừa. Còn
nếu chúng ta nói lý cao siêu mà mọi người không hiểu, không thực tế chỉ là
đầu môi chót lưỡi, viễn vông, vô ích.
Các Ðức Phật trong quá khứ, khi
thành Phật các ngài nói toàn là pháp tánh, nhưng đặc biệt riêng Ðức Phật
Thích Ca chúng ta nói pháp tánh lẫn pháp tướng. Vì vậy, mà chúng sinh đời
mạt pháp có vô số phương tiện để tu tập, tuy nhiều như vậy nhưng chỉ có
một mà thôi, đó là thành Phật. Phương tiện của Ðức Phật dạy cũng giống như
một trận mưa lớn xuống trần gian, tùy theo mọi loài mà nhận lượng nước của
mình để nuôi sống.
Như vậy, qua những dẫn chứng, sự
kiện trên đây đủ chứng minh cho ta thấy được cõi Cực lạc là có thật. Chúng
ta đã có tín tâm vững chắc rồi thì một lòng chuyên niệm danh hiệu của
Ngài, thiết tha nguyện rằng: Sau khi lâm chung cho con dứt hết mọi phiền
não, tận mặt được thấy Phật A Di Ðà và Thánh chúng liền được vãng sinh về
thế giới của Ngài.
Chúng ta đã theo pháp môn tha
lực Tịnh độ, bên sự tự lực, nguyện lực của chúng ta, thì ta cần phải nương
vào tha lực của Phật A Di Ðà, nhờ tha lực của Phật mà sự vãng sinh của
chúng ta dễ dàng hơn.
Vào thời
Ðức Phật Thế Tự Tại Vương, có quốc vương Vô Tránh Niệm xuất gia trở
thành Pháp Tạng Tỳ Kheo, trên
bước đường tu tập hành Bồ Tát
đạo, vì muốn cứu độ hết thảy chúng sinh cho nên Pháp Tạng Tỳ Kheo đã phát
ra 48 lời nguyện để cứu độ chúng sinh, và đây xin đọc lời nguyện thứ 18 của Ngài.
“Giả sử khi tôi thành Phật, nếu
có chúng sinh trong mười phương tin ta, niệm ta, khi lâm chung chỉ nhớ một
niệm cho đến mười niệm, nếu không sinh về nước tôi, tôi thệ không lấy ngôi
Chánh giác”.
Căn cứ theo lời nguyện thứ 18,
Ðức Phật yêu cầu chúng ta rằng: Chỉ cần chúng ta tin Ngài, niệm Ngài, khi
lâm chung chỉ nhớ một cho đến mười niệm thì chúng ta sẽ được sinh về thế
giới của Ngài ngay tức khắc.
Chư Phật ba đời, quá khứ, hiện
tại, vị lai không có vị Phật nào mà nói dối chúng sinh cả, mỗi khi các
Ngài đã phát ra một lời nguyện nào thì như đinh đóng cột. Ðức Phật dạy
chúng ta không được nói dối thì làm sao các Ngài nói dối chúng ta được.
Chúng ta phải có lập trường vững chắc như vậy, thì chúng ta mới thiết tha
niệm Ngài, thì công phu tu tập của chúng ta tinh tấn hơn. Còn ngược lại
chúng ta đa nghi, không biết Phật A Di Ðà phát nguyện thật hay không, chúng ta cứ nghi nghi, ngờ ngờ
như vậy, đánh mất đi lòng tin
đối với Ðức Phật, khi đánh mất
đi lòng tin rồi thì sự công phu tu tập niệm Phật của chúng ta không
thiết tha, không nghiêm mật thì hỏi làm sao cảm ứng đạo giao được với bản
nguyện của Phật A Di Ðà.
Chúng ta muốn đi đâu xa, thì cần
phải có tư lương như là tiền tài, vật thực, thuốc men v.v... thì chúng ta
mới đi được chớ. Còn ngược lại chúng ta không có tiền tài, vật thực, thuốc
men thì làm sao chúng ta đi được.
Cũng vậy, nếu chúng ta vãng sinh
về thế giới Cực lạc của Phật A Di Ðà thì chúng ta phải gieo nhân niệm
Phật, nhân niệm Phật chính là tư lương, hành trang cho chúng ta được vãng
sinh. Còn bằng không, thì không bao giờ sinh về thế giới của Ngài được.
Cũng giống như chúng ta muốn qua sông thì cần phải có thuyền, nếu chúng ta
bỏ thuyền thì không bao giờ qua bên kia sông được.
Các Ðức Phật trong mười phương
thương chúng sinh như mẹ thương con, mẹ thương con, trông ngóng con mà con
không thương mẹ, không nhớ mẹ thì cái thương cái nhớ của mẹ chỉ là vô ích.
Vậy để cho cái nhớ của mẹ có ích thì người con thường luôn nhớ mẹ, thương
mẹ, trông ngóng về mẹ, nhờ như vậy, giữa mẹ và con mới có luồng điện cảm
ứng đạo giao.
Vậy, để được vãng sinh sau khi
lâm chung thì chúng ta phải thường xuyên tưởng Phật, nhớ Phật, niệm Phật,
không gián đoạn, có như vậy khi bỏ thân này thì Ðức Phật A Di Ðà sẽ từ bi
tiếp dẫn chúng ta ngay.
Tôi xin lấy một ví dụ: có hai
người bạn chơi thân với nhau từ nhỏ đến lớn. Nhưng sau này vì hoàn cảnh
sống, cho nên hai người bạn này chia tay nhau, một người ở lại chốn đồng
quê, một người đi vào thành phố. Trải qua thời gian xa cách cũng khá lâu,
một hôm, người bạn ở thành phố nhận được tin người bạn ở đồng quê bệnh
nặng chuẩn bị chết, lúc này anh ta hốt hoảng lo lắng, nhớ nghĩ về bạn
nhanh chóng thu xếp công việc, anh ta về liền.
Qua câu chuyện này cho ta thấy rằng: nếu hằng ngày chúng ta thường luôn
nhớ nghĩ niệm Ngài thì khi chúng ta có xảy ra sự cố gì như là bệnh hay
chết thì Phật A Di Ðà sẽ hiện ra trước mặt tiếp dẫn ta ngay. Cũng giống
như anh bạn ở thành phố nghe bạn mình sắp chết liền về ngay không chậm
trễ.
Khi lâm chung chúng ta nhớ một niệm cho đến mười niệm, hay nhất tâm bất
loạn thì đâu phải dễ. Vậy, để đạt được một niệm hay mười niệm thì ngay lúc
trẻ, chúng ta phải nỗ lực niệm Phật một cách miên mật, không bao giờ xao
lãng, có như vậy, khi lâm chung chúng ta mới nhớ niệm Phật được.
Từ vô lượng kiếp chúng ta bị trôi lăn mãi trong vòng sinh tử cho nên tàng
thức hay A lại da thức của chúng ta cũng chứa biết bao nhiêu là điều tội lỗi, để cho tàng thức của
chúng ta mỗi ngày được bào mòn đi, thì chúng ta phải nên siêng năng niệm Phật
liên tục không ngừng nghỉ. Cũng giống
như một ly nước đục, chúng ta muốn cho nó trong, thì phải dùng
nguồn nước sạch chảy liên tục, có như vậy nó mới đẩy hết chất cặn bã, cáu
bẩn trong ly nước ra, thì nó mới để lại cho chúng ta một ly nước tinh
khiết.
Trái lại, nếu chúng ta chỉ giọt một giọt nước sạch vào ly nước đục thì làm
sao làm cho ly nước đục trong sạch được.
Tâm thức của chúng ta cũng giống
như ly nước đục vậy đó. Ðể cho tâm thức được tẩy trừ sạch hết phiền não
tham, sân, si, từ vô lượng kiếp thì chúng ta phải mau mau dùng nguồn nước
trong lành “Nam mô A Di Ðà Phật” tưới
mãi, tưới mãi vào tâm thức, có sự liên tục không gián đoạn như vậy
thì mới đẩy hết những tạp nhiễm xấu xa trong tâm thức của chúng ta ra
được. Lúc này chỉ để lại trong tâm thức bằng một câu niệm Nam mô A Di Ðà
Phật mà thôi.
Khi chúng ta đã huân tập được
câu niệm Phật vào A lại da thức rồi, thì khi lâm chung ta có thể niệm hàng
tỷ, hàng tỷ nữa kìa, còn nhớ một cho
đến mười niệm là chuyện nhỏ.
Chúng ta phải hiểu rằng nhớ một niệm cho đến mười niệm là con số
tượng trưng thôi. Bằng ngược lại, chúng ta niệm Phật một cách lơ là không
chú tâm, một ngày niệm mười ngày nghỉ. Hỡi ơi! Làm sao mà tẩy trừ được
hoặc nghiệp tham sân si từ vô lượng kiếp, thì làm sao khi lâm chung chúng
ta nhớ niệm Phật được.
PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT
Như vậy, cách hành trì pháp môn
Tịnh độ như thế nào đây? Có nhiều cách:
1.- Quán tưởng niệm Phật
2.- Quán tướng niệm Phật
3.- Quán tượng niệm Phật
4.- Trì danh niệm Phật (mặc niệm
hoặc cao thanh niệm Phật)
5.- Quán sổ tức niệm Phật (nương
sáu chữ Nam mô A Di Ðà Phật vào hơi thở vô ra)
6.- Sổ châu niệm Phật (nương câu
Nam mô A Di Ðà Phật vào từng hạt chuỗi).
Ðối với pháp môn Tịnh độ, thì có
nhiều phương pháp tu, nhưng chúng tôi chỉ đơn cử sáu phương pháp phổ thông
này.
Trong sáu phương pháp niệm Phật
trên đây, đa số chúng ta theo phương pháp trì danh, quán sổ tức, sổ châu
v.v... là nhiều nhất, còn phương pháp
quán tưởng, quán tượng, quán tướng niệm Phật thì rất khó cho bậc hạ căn,
ba phương pháp này chỉ dùng cho
bậc thượng căn mà thôi.
Trên bước đường tu tập theo pháp
môn Tịnh độ, chúng tôi đã chọn phương pháp “quán sổ tức niệm Phật”. Tại
sao chúng tôi phải chọn phương pháp này, là bởi vì, khi chúng tôi phát
nguyện tu theo pháp môn Tịnh độ thì chúng tôi đã suy nghĩ rằng: Nếu mình
theo pháp môn này thì mình phải chọn phương pháp nào để trong mọi hoàn
cảnh mình luôn luôn tưởng Phật, nhớ Phật, niệm Phật. Ðắn đo suy nghĩ mãi,
cuối cùng chúng tôi chọn phương pháp “Quán sổ tức niệm Phật”.
Tiện đây, chúng tôi xin trình
bày cặn kẽ phương pháp này.
Như thế nào gọi là “Quán sổ tức
niệm Phật”? Là mình nương câu Nam mô A Di Ðà Phật vào hơi thở ra vô.
Như thế nào gọi là nương câu niệm Nam mô A Di Ðà Phật vào hơi thở ra vô?
Thế này: Khi chúng ta hít vô
nhẹ nhàng và thật dài thì chúng ta niệm “Nam mô A”, thở ra thật dài và nhẹ
nhàng ta niệm “Di Ðà Phật”. Khi hơi thở vô ra cùng câu niệm Phật vừa dứt
chúng ta đếm 1, cứ lần lượt như vậy ta đếm đến 10, đến 10 rồi thì chúng ta
đếm trở lại 1. Trong lúc ta đang hành trì mà ta đếm từ 1 mà nhảy lên số 5,
6 thì ta phải biết ngay, ta bị vọng tưởng xen vào. Lúc này ta lập tức bỏ
ngay, rồi đếm lại 1, chúng ta nên nhớ phải đếm theo thứ tự từ 1 đến 10,
đến 10 ta ngưng lại, rồi đếm lại từ 1 đến 10, cứ mãi như vậy.
Phương pháp này chúng ta phải
sắp xếp một thời gian cố định để mà hành trì. Khi hành trì có thể ngồi
kiết già hay bán già cũng được. Hành trì trải qua thời gian khoảng 2, 3
tháng cho đến một năm, đã tạo thành thói quen. Khi đã thuần thục rồi, có
thể ngồi hay không ngồi chúng ta cũng vẫn nhớ niệm Phật trong mọi hoàn
cảnh.
Trước kia
hơi thở nuôi sống chúng ta, nhưng sau này ta biết gán câu Nam mô A
Di Ðà Phật vào hơi thở một cách
thuần thục, thì chính câu Nam mô
A Di Ðà Phật này thay hơi thở nuôi sống ta hằng ngày. Thật là tuyệt
diệu vô cùng.
Dù trong mọi hoàn cảnh nào, nếu
hơi thở chúng ta còn thì câu niệm Phật hằng tuôn chảy. Thậm chí nhiều khi
chúng tôi cố quên đi câu niệm Phật mà không quên được. Tại sao chúng tôi
không quên được? Tại vì chúng tôi đã cột chặt câu Nam mô A Di Ðà Phật vào
hơi thở vô ra của mình rồi. Nếu hơi thở còn vô ra thì câu niệm Phật theo
đó mà vô ra, cứ liên tục như vậy không bao giờ gián đoạn. Cũng giống như
đã tạo thành cái nghiệp giữa hơi thở và câu niệm Phật. Chính vì thế mỗi
lần hơi thở rung động thì câu niệm Phật khởi lên.
Khi chúng
ta đã gắn câu niệm Phật vào hơi thở vô ra một cách thuần thục hay
đã tạo thành nghiệp. Cho dù
chúng ta đi trên máy bay, đi
tàu, đi bộ, đi xe đạp v.v... thì câu niệm Phật hằng tuôn chảy trong
tâm thức của chúng ta.
Cũng giống như một đứa bé ban
đầu không biết hút thuốc, nhưng sau này, vì bạn bè rủ rê hút, cho nên em
bé mới tập hút, cứ mỗi ngày mỗi hút như vậy, thì tạo cho em bé đó nghiệp
ghiền, khi mà đã tạo thành nghiệp ghiền rồi thì em bé này luôn luôn nhớ
nghĩ đến thuốc, không bao giờ bỏ được.
Như vậy, khi chúng ta đã gắn câu
niệm Phật vào hơi thở, tạo thành nghiệp quen, thì ta không bao giờ bỏ được
câu niệm Phật. Cũng giống như đứa bé
khi đã ghiền thuốc rồi thì đứa
bé không bỏ được thuốc. Phương pháp này chính chúng tôi đã thực
hành nó một cách thuần thục, cho nên chúng tôi mới dám trình bày.
Vậy, trên bước đường tu tập,
chúng ta nên chọn cho mình một pháp tu thích hợp, chỉ có thích hợp thì nó
mới giúp mình dễ đạt được quả vị mong muốn.
Chúng ta đã có niềm tin sâu đối
với pháp môn Tịnh độ này rồi, bên cạnh
đó chúng ta phải một lòng thiết
tha phát nguyện cho con sau khi
lâm chung được sinh về thế giới của Ngài. Mình có nguyện thì mới có tới được và ngược
lại chúng ta không nguyện sinh
về nước Ngài thì không bao giờ
tới được. Cũng giống như chúng ta muốn đi ra Hà Nội thì trước đó một hai ngày
chúng ta đã có ý nguyện là ta sẽ đi Hà Nội, nhờ ý nguyện như vậy chúng ta mới đi đến Hà Nội
được. Cũng vậy, chúng ta muốn sinh sang thế giới Cực lạc thì chúng
ta phải có ý nguyện cầu sinh về đó.
Chúng ta đã
đặt trọn niềm tin rồi, thì chúng ta phải phát nguyện vãng sinh,
nếu chúng ta tin rồi mà không có phát nguyện, thì niềm tin ấy cũng
chỉ là vô ích. Tín, hạnh, nguyện cũng
giống như cái kiềng ba chân nếu thiếu một trong ba cái thì hỏng.
Vì thế, Ngẫu Ích
Ðại sư là một bậc tôn túc về
Tịnh độ đã dạy: “Ðược vãng sinh cùng chăng toàn do tín nguyện có
hay không, phẩm vị thấp cao đều bởi hành trì sâu hoặc cạn; ngài lại bảo:
Nếu không tín
nguyện, dù trì niệm câu hồng
danh cho đến gió thổi không vào,
mưa sa chẳng lọt, vững chắc như
tường đồng vách sắt, cũng không được vãng sinh.
Kinh A Di Ðà, Ðức Thích Tôn của
chúng ta cứ mãi nhắc đi nhắc lại điểm ấy, qua các đoạn văn như sau: “Lại
nữa Xá Lợi Phất! Chúng sinh về cõi nước Cực lạc đều là hàng A bệ bạt trí.
Trong số ấy có nhiều bậc nhất sinh bổ xứ số lượng rất đông, không thể dùng
toán số tính biết được, chỉ có thể lấy số không lường không ngằn a tăng kỳ
để nói mà thôi.
Xá Lợi Phất! Chúng sinh nghe
rồi, phải nên phát nguyện cầu sinh về cõi kia. Bởi tại sao? Vì được cùng
các bậc thượng thiện nhân như thế đồng họp một chỗ.
Xá Lợi Phất! Ta thấy sự lợi ích đó nên
nói lời này, nếu có chúng sinh nào nghe
lời nói đây, phải nên phát nguyện cầu sinh về quốc độ ấy.
Xá Lợi Phất! Nếu có người đã
phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sinh về nước Phật A Di
Ðà, những người đó hoặc đã sinh, hoặc đang sinh, hoặc sẽ sinh, đều được
không thối chuyển nơi quả A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề. Thiện nam tử,
thiện nữ nhân, nếu có lòng tin phải nên phát nguyện cầu sinh về quốc độ
ấy”.
Ðoạn kinh này, Ðức Phật thương
chúng sinh như con đẻ, lúc nào cũng muốn cho chúng sinh sớm được thành
Phật, suốt cả cuộc đời sống vì chúng sinh. Vậy để nhớ đến công ơn cao cả
đó, chúng ta phải làm gì? Chúng ta chỉ cần đaàu7841?t trọn niềm tin vào
lời dạy của chư Phật, phát tâm Bồ đề niệm Phật nguyện cầu vãng sinh, đây
mới là yếu chỉ tâm nguyện độ sinh của chư Phật ở cõi Ta bà này.
Khi sinh về đó rồi thì sung
sướng đời đời, không bao giờ gặp những
điều khổ, muốn gì thì có nấy.
Muốn ăn thì cơm liền hiện ra, muốn uống nước thì nước liền hiện
ra, muốn có
chiếc áo đẹp để mặc thì áo đẹp
liền hiện ra. Ở cõi Cực lạc
chúng ta chỉ cần khởi ý muốn thì có liền, còn ở cõi Ta Bà của
chúng ta đây làm lụng hết sức là cực nhọc, nhưng không được như ý, tại
sao chúng ta không nguyện sinh về thế giới Cực lạc?
Ở cõi Cực lạc đất đai thì bằng
phẳng êm dịu, khí hậu ôn hòa, thường ngày nghe chim hót ra những điều diệu
pháp. Quang cảnh xung quanh hết sức là trang nghiêm thanh tịnh, có như vậy
mới gọi là Cực lạc được chớ.
Kinh A Di
Ðà, Ðức Phật dạy: “Xá Lợi Phất, bỉ độ hà cố danh vi Cực lạc, kỳ
quốc chúng sinh vô hữu chúng
khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực lạc” (Xá Lợi Phất ơi! Cõi ấy sao
gọi là Cực lạc, bởi vì chúng sinh trong cõi ấy không gặp điều khổ mà chỉ
hưởng toàn là những điều vui không à, cho nên mới gọi là Cực lạc).
Kinh A Di Ðà diễn tả rất rõ ràng về y báo và chánh báo ở cõi Cực lạc:
Ðã sinh về cõi Tây phương
Có
ao thất bảo có hương ngũ phần
Lưu
ly có đất sáng ngần
Ma
ni có nước trong ngần chảy quanh
Thất trân có bảy lớp thành
Bảy
hàng cây báu, bảy vòng lưới châu
Có
ngân các, có kim lâu
Có
chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe
Nghe rồi tỏ đạo Bồ đề
Bao nhiêu nghiệp chướng hồn mê dứt liền
Ðã
sinh về chín phẩm sen
Mấy
tai cũng sẩy, mấy duyên cũng tròn
Phật như thể mẹ tìm con
Con
mà gặp mẹ lại còn lo chi
Lầu
vàng đài các thiếu gì
Ăn
thì cơm ngọc, mặc thì áo châu
Không ơn, không oán không sầu
Không già không chết có đâu luân hồi.
Kinh A Di Ðà diễn tả cõi Cực lạc
hết sức là sung sướng như vậy, tại sao chúng ta còn chần chờ chi nữa, hãy
mau mau nhất tâm niệm Phật cầu vãng sinh.
Chúng ta có hiểu được y báo và
chánh báo ở cõi Cực lạc như thế nào chưa? Là thế này:
Chánh báo: Ðức Phật A Di Ðà.
Y báo: các cảnh giới sự tướng
bên ngoài. Chánh báo như thế nào thì y báo như thế đó.
Ðức Phật A Di Ðà trang nghiêm
thanh tịnh cho nên mới chiêu cảm được cảnh giới, sự tướng ở cõi Ngài cũng
trang nghiêm thanh tịnh theo.
Chúng ta hãy nhìn kỹ lại y báo
và chánh báo của chúng ta. Chánh báo chúng ta là một phàm phu đầy dẫy
nghiệp chướng cho nên mới chiêu cảm y báo của chúng ta đầy dẫy sự khổ đau,
nào là động đất, thiên tai lũ lụt, nào là xì ke ma túy, đất đai thì gồ
ghề, khí hậu ô nhiễm, kẻ cao người lùn, kẻ điếc người đui, đâm chém lẫn
nhau. Như vậy, chúng ta đã hiểu được như thế nào là y báo và chánh báo
rồi.
Một hành giả tu theo pháp môn
Tịnh độ thì phải phân biệt được một cách rõ ràng về y báo và chánh báo,
giữa cõi Cực lạc và cõi Ta Bà, có phân biệt một cách tận tường như vậy thì
chúng ta mới chán bỏ được cõi Ta Bà này để một lòng thiết tha niệm Phật
cầu vãng sinh, bằng ngược lại nếu ta không hiểu được sự nhiệm mầu, sự sung
sướng ở cõi Cực lạc gấp bội lần ở cõi Ta Bà thì lòng phát nguyện vãng sinh
của chúng ta rất chi là yếu ớt. Không hiểu được sự thù thắng ở cõi Cực lạc
thì chúng ta cứ mãi đắm chìm trong Ta Bà ngũ trược ác thế đầy đau khổ này.
Ở trong nhà lửa đang cháy cứ cho là sung sướng, hay nói rộng hơn là chúng
ta đang bị nhốt trong nhà lửa tam giới. Cho nên Ðức Phật diễn tả sự khổ
đau của con người ở cõi Ta Bà như một sự bùng cháy đổ vỡ của toàn thể thế
giới: “Toàn thể thế giới bốc cháy, toàn thể vũ trụ đắm chìm trong khói
lửa, toàn thể vũ trụ làm mồi cho lửa, toàn thể vũ trụ run lập cập” (Kinh
Tương Ưng Bộ tr.133).
Ðặc biệt ở pháp môn Tịnh độ,
niệm Phật được đới nghiệp vãng sinh, có nghĩa là mình mang cả nghiệp thức
đầy dẫy của mình về bên đó. Ta được đới nghiệp vãng sinh là nhờ tha lực
của Phật A Di Ðà. Nếu chúng ta được sinh về thế giới Cực lạc rồi thì không
còn bị đọa lạc, rơi rớt vào lục đạo nữa. Trong Kinh A Di Ðà nói: “Những
người sinh về thế giới Cực lạc đều là A bệ bạt trí” có nghĩa là bất thối
chuyển, không còn lui sụt nữa, ở đó gặp thắng duyên, ta cứ tu riết, tu
riết khi nào đạt đến quả vị vô sinh mà thôi.
CÁC
MỐI NGHI VỀ TỊNH ÐỘ
Có người hỏi rằng: Kinh thường
nói người niệm Phật đới nghiệp vãng sinh, liền dự vào hàng Thánh chúng, đạt được bất thối chuyển
tâm. Còn mang thân phàm phu, còn nghiệp lực làm sao đạt được bất thối tâm
nơi đạo Bồ đề?
Ðáp: Kinh A Di Ðà Phật Thích Ca
có dạy: “Cõi Cực lạc kia sau khi chúng sinh đã sinh về đều là bậc A la
hán và Bồ Tát bất thối chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ đề. Có năm nhân duyên
khiến cho chúng sinh ở cõi kia được tâm bất thối chuyển nơi đạo quả Bồ đề.
- Do nguyện lực từ bi rộng lớn
độ chúng sinh của Phật A Di Ðà.
- Chúng sinh ở nơi cõi kia
thường gặp ánh sáng của chư Phật và Bồ Tát chiếu đến, làm cho tâm Bồ đề
tăng trưởng.
- Cảnh giới
Cực lạc trang nghiêm, ngày ngày có tiếng chim kêu, nhạc trỗi, gió
thổi, những âm thanh này phát
ra, nếu có chúng sinh nghe được
liền phát tâm nghĩ nhớ tới Phật,
Pháp, Tăng. Cho nên tâm Bồ đề không bị thối lui.
- Cõi Cực lạc toàn là thiện hữu
tri thức đồng tu, luôn giúp đỡ nhau trên bước đường tu học, không
có ác
hữu tri thức ngăn cản, ngoài cảnh không có quỷ thần tà ma, ngoại
đạo quấy nhiễu, nội tâm không tham sân si, tình ái phiền não rối loạn,
nên
tâm Bồ đề không bị thối lui.
- Chúng sinh cõi kia thọ mạng
lâu dài đồng với chư Phật, Bồ Tát nên
đủ thì giờ tu tập cho đến ngày
chứng đạo, không phải sống chết
nhiều phen như chúng sinh nơi Ta bà, mê mờ trong lúc thọ thai chuyển thân, quên đi
bản nguyện ban đầu, do đó tâm Bồ
đề dễ bị thối lui. Trái lại
chúng sinh ở Cực lạc luôn tăng trưởng theo thọ mạng.
Vì những nhân duyên thù thắng
như thế, nên chúng sinh ở mười phương thế giới sau khi vãng sinh về cõi
kia, bao gồm những vị đới nghiệp vãng sinh nơi hạ phẩm hạ sinh cũng được
liệt vào hàng Thánh chúng và đạt được tam vị bất thối.
Chỉ cần quay đầu lại quy y với
Phật A Di Ðà mà chuyên tâm niệm Phật cầu vãng sinh Cực lạc để đạt được ba
quả vị bất thối chờ ngày thành Phật, trong khi nếu ở thế giới Ta bà, muốn
đạt được thì phải trải qua ba đại a tăng kỳ kiếp tu tập trong sinh tử.
Trái lại, bây giờ chỉ một lòng nhất tâm niệm Phật trong đời này, thì ta sẽ
được vãng sinh, đạt được tam bất thối và Phật quả nhất định sẽ viên thành.
Không còn
thối chuyển, không còn bị đọa lạc thì chúng ta đã giải quyết được bọn
giặc sinh tử rồi đấy. Chúng ta
thấy pháp niệm Phật dễ tu, dễ
chứng, dễ giải quyết sinh tử trong một đời mà tại sao chúng ta không gấp
rút niệm Phật ư!
Ấn Quang Ðại sư dạy rằng: “Thời
mạt pháp, chúng sinh nghiệp nặng, tâm tạp, nếu ngoài pháp môn niệm Phật mà
tu các pháp môn khác, chỉ gieo được phần trí tuệ, phước đức căn lành thì
có, nhưng phần liễu thoát sinh tử luân hồi trong hiện thế thì không. Tuy
có một vài vị cao đức phi thường, song đó chỉ là những bậc Bồ Tát hiện thế
làm mô phạm cho chúng sinh như Kinh Lăng Nghiêm đã nói, nhưng các vị ấy
cũng chỉ là nương theo trình độ chúng
sinh mà thị hiện ngộ đạo chứ không phải chứng đạo. Pháp môn Tịnh độ
thời nay tuy ít người được tam muội như xưa, nhưng cũng có thể nương theo
nguyện lực của mình và bản nguyện của Phật A Di Ðà mà đới nghiệp vãng sinh
về cõi Cực lạc, từ đây không còn sinh tử luân hồi, mà lần tu tập cho đến
lúc chứng quả vô sinh”.
Sự thù
thắng và phổ cập của pháp môn Tịnh độ cho quảng đại quần chúng ngoài
sự giới thiệu của Ðức Phật Thích
Ca Mâu Ni, còn có các vị Bồ Tát
khuyên bảo mọi người nên nguyện
vãng sinh về Tây phương như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, các vị Tổ sư
cả Thiền lẫn Tịnh như Vĩnh Minh,
Trí Giả, Triệt Ngộ, Liên Trì, Thiện Ðạo, Ngẫu Ích, đều là những vị Thiền sư nổi tiếng bên Thiền tông, sau
khi tham thiền đạt ngộ, chuyển
hướng niệm Phật cầu vãng sinh.
Thật phải nói pháp môn niệm Phật là vua trong tất cả các pháp. Trong Kinh Niệm
Phật Ba la mật phẩm thứ 6, đức
Quán Thế Âm nói rằng: “Trọn đời
Ðức Phật Thích Ca giáo hóa điều phục chúng sinh, Ngài đã ban ra tám vạn bốn
ngàn pháp môn để cho chúng sinh
tu tập, nhưng trong đó pháp môn niệm Phật là thù thắng đệ nhất”.
Tại sao trong mười phương thế giới đều có cõi Tịnh độ, mà sao chư Phật,
chư Bồ Tát, chư Tổ chỉ khuyên chúng sinh niệm Phật để nguyện về cõi Tịnh
độ của Phật A Di Ðà mà không khuyên chúng sinh phát nguyện về cõi Tịnh độ
khác?
Ðúng vậy, không chỉ có một cõi
Tịnh độ của Phật A Di Ðà đâu mà trong mười phương đều có cõi Tịnh độ như
là: cõi Tịnh độ của Phật Di Lặc ở trời Ðâu Suất; ở Ðông phương có cõi
Tịnh độ của Phật Dược Sư v.v... Tuy có nhiều cõi Tịnh độ nhưng cũng tùy
theo cơ cảm nhân duyên của một chúng sinh có duyên với Ðức Phật nào thì
nguyện về với Ðức Phật ấy. Chúng ta phải biết rằng một Phật là tất cả
Phật, tất cả Phật là một Phật.
Tại sao lại nói như vậy? Các
Ðức Phật đồng chung một thể tánh thanh tịnh, thể tánh thanh tịnh này là
bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, không cao, không thấp, không dài,
không ngắn, bình đẳng vắng lặng cho nên mới nói là một Phật là tất cả
Phật, tất cả Phật là một Phật là vậy đó. Cũng giống như một mặt trăng in
hình bóng vô số mặt trăng trong các ao hồ, tuy vô số hình bóng mặt trăng
trong các ao hồ nhưng duy nhất chỉ có một mặt trăng mà thôi. Chính vì vậy,
chúng ta chỉ cần niệm một Ðức Phật là chúng ta đã niệm tất cả chư Phật
rồi. Chúng ta không cần niệm nhiều Phật, qua sự lập luận trên cho ta thấy
được, chư Phật, chư Bồ Tát, chư Tổ rất khéo léo phương tiện để độ chúng
sinh trở về với Phật tánh chân tâm của mình. Cái việc chư Phật, chư Bồ
Tát, chư Tổ khuyên chúng sinh nguyện về cõi Tịnh độ của Phật A Di Ðà là
quá đúng, quá hay. Tại sao đúng? Là khi chúng ta tập trung vào một đề tài
hay chuyên nhất niệm một Ðức Phật, thì chúng ta dễ đạt đến nhất tâm. Còn
nếu chúng ta chọn nhiều đề tài hay là
ham niệm nhiều Phật thì chỉ đưa
đến cho chúng ta loạn tưởng tạp niệm, không bao giờ nhất tâm được. Người ta
thường nói rằng: “Một nghề
không chín, chín nghề không nên”. Xin đơn cử một ví dụ: Một cậu
học trò luôn nuôi dưỡng cho mình một ý
nguyện trong tâm là sau này cố gắng học để làm bác sĩ, với ý nguyện
trung thực trong sáng như thế này, thì trước sau gì cậu học trò cũng làm
bác sĩ. Và ngược lại, nếu cậu học trò này không chọn cho mình một nghề duy
nhất, khi thì chọn bác sĩ, khi thì mơ tưởng đến kiến trúc v.v... với ý
loạn tưởng này, mà cậu học trò không chọn cho mình một nghề duy nhất, thì
chỉ đưa đến nhọc công tốn sức mất thời gian mà thôi. Chẳng khác gì người
bộ hành đứng giữa ngã ba đường, không biết đường nào để đi. Có nhiều người
hiểu như thế này: Niệm một Phật không đủ, phải niệm nhiều Phật, khi lâm
chung Phật này không rước thì có Phật khác rước, niệm như vậy là tạp niệm
không phải là chánh niệm. Vì thế, mà Ðức Phật khuyên chúng ta hãy đặt trọn
niềm tin vào Ðức Phật A Di Ðà, nhất tâm niệm ngài, một lòng phát nguyện
vãng sinh.
Trong kinh Tùy nguyện vãng sinh
nói rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Mười phương đều có Tịnh độ, tại sao Thế Tôn
lại riêng khen ngợi cõi Tây phương Cực
lạc và khuyên chúng sinh nên
chuyên niệm Phật A Di Ðà để cầu về cõi ấy?
Phật bảo ngài Phổ Quảng: Chúng
sinh ở cõi Nam Diêm phù đề (là cõi nước chúng ta đang ở) phần nhiều tâm
trược loạn, vì thế ta chỉ tán thán một Tịnh độ ở Tây phương, khiến các hữu
tình chuyên tâm vào một cảnh, để cho sự vãng sinh được dễ thành tựu, nếu
nhớ niệm tất cả chư Phật, vì niệm cảnh quá rộng, nên tâm mênh mang tán
loạn, tam muội khó thành, không được vãng sinh”.
Có người đặt câu hỏi như thế này: Ðức Phật dạy tất cả các pháp hữu tướng
đều là như huyễn, Ta bà cũng huyễn, Cực lạc cũng huyễn vậy ta cần chi phải
niệm Phật để cầu sinh Cực lạc có ích lợi gì?
Ðể trả lời câu hỏi này, chúng
tôi xin lấy một ví dụ về “giấc mộng” để làm đáp số.
Giấc mộng thì có mộng ác và mộng
lành, trong giấc mộng ác chúng ta thường mơ thấy ma quỷ đủ loại rất ghê sợ hãi hùng, đôi
khi cũng thấy có người lấy dao rượt chém mình, có khi thấy mình bị rơi từ núi cao xuống
v.v... Những hình ảnh trong giấc
mộng ác này luôn làm cho chúng
ta thất kinh, thất hồn, hoang mang, sợ sệt không khi nào mà an tâm
được trong giấc ngủ.
Trong giấc
mộng lành, chúng ta thường thấy những điều tốt đẹp như là: thấy
Phật, thấy chư Bồ Tát, chư Tổ, khi thì chúng ta thấy mình trúng số
độc đắc, luôn luôn thấy những người bạn tốt đến dùng những lời hay ý đẹp
khuyên mình tu hành, mơ thấy mình làm vua, làm quan, mơ thấy mình thi đỗ
Ðại học v.v... những hình ảnh đẹp trong giấc mộng lành luôn luôn đem lại
cho chúng ta một đời sống tinh thần an lạc hơn, vui tươi hơn, tâm được an
tịnh hơn.
Như vậy qua hai giấc mộng trên,
chúng ta chọn giấc mộng nào? Tức nhiên chúng ta phải chọn giấc mộng lành,
mộng đẹp chứ không ai dại khờ gì chọn giấc mộng ác.
Cũng vậy, giấc mộng ác ví như
cõi Ta bà ngũ trược ác thế, còn giấc mộng đẹp ví như cõi Cực lạc. Vậy thì
Ta bà và Cực lạc cũng đều huyễn mộng, nhưng hai cái huyễn mộng này hoàn
toàn là khác nhau.
Ở trong cảnh mộng khổ của Ta bà
chúng sinh luân chuyển sinh tử không ngừng để chịu khổ trong cảnh mộng, từ
mộng cảnh này sang mộng cảnh kia không bao giờ dứt. Càng đi sâu trong mộng
thì càng mê càng khổ. Chi bằng ta nguyện sinh Cực lạc, tuy là cũng cảnh
mộng, nhưng ra khỏi mộng thì liền thành bậc Ðại giác. Uế và tịnh tuy đồng
cảnh mộng nhưng bậc Bồ Tát từ Thất địa trở xuống vẫn còn cảm thọ khác nhau; còn nóng, còn lạnh, còn
xúc, còn cảm, nên thà rằng ta cảm nhận cảnh giới an lạc để bước vào
Phật quả, hơn là chấp sự thọ cảm khổ bức để cho tâm Bồ đề bị thối chuyển.
Kinh dạy: “Từ bậc Nhị thừa, sơ
phát tâm Bồ Tát, cho đến Bồ Tát đệ thất địa Viễn Hành, đều ở trong huyễn
mộng mà tu, chỉ trừ bậc Bồ Tát đệ bát địa trở lên bậc Ðẳng giác và Phật
quả mới an tịnh trong Phật quốc Tịnh độ”. Như vậy, chư Phật đã dạy, chư Bồ
Tát, chư Tổ đã hành pháp môn này thì quý vị nên an tâm niệm Phật chớ đừng
có mối hoài nghi gì cả.
Thật là thiện căn phước đức nhân
duyên cho chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp đã có đủ nên chúng ta mới gặp
được pháp môn niệm Phật này. Nhờ đầy đủ phước đức nên chúng ta dễ tin sâu,
nguyện thiết, hành chuyên đối với pháp môn này. Vì thế trong Kinh A Di Ðà
nói rất rõ: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sinh bỉ
quốc”, nghĩa là, không thể đem một ít thiện căn phước đức nhân duyên mà
được sinh về nước đó đâu.
Chúng ta đã có đủ thiện căn
phước đức nhân duyên cho nên chúng ta y giáo phụng hành pháp môn Tịnh độ
một cách nghiêm mật như thế này. Còn ngược lại chúng ta không có đủ thiện
căn phước đức thì khó mà gặp được pháp môn này, khó mà sinh về thế giới
Cực lạc.
Chúng ta thử nghĩ, ngài Văn Thù,
Phổ Hiền tu vô lượng kiếp mới đến thế giới Hoa Tạng, mới gặp được pháp môn
Tịnh độ. Còn chúng ta ngày nay, vừa mới học Phật mà đã tìm được pháp môn
này. Hoa Tạng hải hội 41 vị Pháp thân đại sĩ Bồ Tát gặp quý vị, không một
vị nào mà không bội phục. Tại sao các ngài lại bội phục? Là vì các ngài
tu vô lượng kiếp mới tìm được pháp môn này, còn chúng ta không hao một
chút sức nào cũng gặp được. Các ngài đầy đủ “Tín, nguyện, hạnh” cầu vãng
sinh về thế giới Cực lạc thấy Phật thành Phật. Ngày nay, chúng ta cũng áp
dụng phương pháp như thế, lý luận như thế, vãng sinh Tây phương, thấy Phật
thành Phật cùng với các ngài không hai không khác.
Ða số người
phàm phu chúng ta không
tin Phật A Di Ðà là có thật mà cứ nhận
cái giả làm cái thật? Cái gì là
giả? Tiền tài, danh vọng, đối với người trí là người ta vưùt bỏ nó
ngay, không cần ngó ngàng gì đến nó,
tại sao người trí vứt bỏ cái giả
ngay? Là vì người ta hiểu rõ khi chúng ta chết, chúng ta đâu mang cái
giả, của cải vật chất đi theo
đâu, mà chúng ta chỉ mang đi
theo được sự công phu tu tập của chúng ta mà thôi.
Có ai đó hỏi chúng ta: Tu theo pháp môn Tịnh độ là tu cái gì?
Trả lời:
Tu “Thanh tịnh, bình đẳng giác”.
Tại sao phải tu thanh tịnh, bình đẳng giác?
Trả lời: Vì có đầy đủ Tam Bảo
và tam vô lậu học, đây là cốt lõi của đạo Phật.
Thanh tịnh: Tăng bảo – Giới
Bình đẳng: Pháp bảo – Ðịnh
Giác: Phật bảo – Tuệ
Vậy tu phương pháp nào để đạt được tam học và Tam Bảo?
Trả lời: Chỉ cần dùng tín
nguyện trì danh hiệu Phật A Di Ðà là đủ. Sáu chữ Nam mô A Di Ðà Phật mà
chứa đủ tam học và Tam Bảo. Thật phải nói pháp môn niệm Phật thù thắng vi
diệu, bất khả tư nghì vô cùng.
Trong kinh Niệm Phật Ba la mật,
Ðức Phật dạy: “Ðây là môn tu thích đáng khế hợp mọi căn cơ mà chư Phật
dùng để đưa hết thảy muôn loài xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn tại thế,
thành Phật trong một đời”.
Niệm Phật cứu độ khắp hết thảy
chúng sinh muôn loài.
Niệm Phật có ba điều lợi ở địa
ngục.
1.- Hồi hướng công đức cho ông
bà cha mẹ từ tiền kiếp.
2.- Các tội nhân nghe tiếng niệm
Phật đều được giải thoát.
3.- Ðược vãng sinh Tây phương
Tịnh độ.
Chúng tôi lấy ví dụ để chứng
minh một trong ba điều lợi trên.
Có hai vợ
chồng, người vợ rất hiền lành, mỗi
ngày chị ta rất siêng năng niệm Phật, chồng thì không thích niệm
Phật, nghe niệm Phật là anh ta khó chịu, để cho chồng mình có
sự lợi lạc sau khi chết, cho nên
mỗi ngày chị ta bắt chồng đánh
trống cho chị ta niệm Phật. Người chồng này rất khờ khạo cho nên
vợ sai gì làm
nấy. Vì vậy, cứ mỗi ngày anh ta
đánh trống cho vợ niệm Phật. Sau
khi lấy nhau ba năm, anh ta chết, liền rơi vào địa ngục rất chi là
kinh ngạc. Ðến giờ hành hình tội nhân, có một con quỷ cầm
một cây sắt đánh vào tội nhân,
con quỷ đánh trật, cây sắt va
chạm vào một vạc dầu kêu lên một tiếng giống tiếng trống. Lúc này
anh ta nhớ
lại sao tiếng kêu này giống mình
đánh tiếng trống cho vợ mình
niệm Phật quá vậy. Lúc này duyên niệm Phật đã khởi dậy, anh liền
niệm A Di Ðà Phật. Nhờ niệm Phật, anh
ta thoát khỏi cảnh địa ngục trở
về nhân gian, các tội nhân ở trong đó nghe tiếng niệm Phật đều
được vãng
sinh hết thảy.
Chúng ta chỉ cần gieo nhân niệm
Phật thì đời đời kiếp kiếp chúng ta không bao giờ gặp quả khổ. Vì thế,
trong Kinh Pháp Hoa nói rằng: “Nếu có người nào đi vào tháp miếu có thờ
tượng Phật, miệng chỉ cần xưng lên Nam mô Phật, hay đưa tay lên tỏ lòng
cung kính thì cũng được thành Phật”.
Như chúng ta thấy, ông Tu Bạt Ðà
La là vị đệ tử cuối cùng của Ðức Phật. Tại sao ông Tu Bạt Ðà La được Ðức
Phật xuất gia và chứng quả A La Hán? Là vì thế này, trong nhiều kiếp quá
khứ ông ta là một người đi đốn củi ở rừng. Một hôm ông ta bị cọp rượt, ông
ta hoảng hốt leo lên một cây lớn, thì con cọp cứ hung dữ, cắn xé dưới gốc
cây hết sức là ghê gớm, anh ta rất sợ, anh ta liền niệm một tiếng lớn là
Mô Phật thì con cọp liền bỏ đi xa.
Chúng ta thấy chỉ cần niệm một
tiếng Mô Phật thôi mà được gặp Phật xuất gia chứng quả vị A La Hán. Huống
hồ chúng ta niệm Phật ròng rã suốt ngày đêm, chắc chắn chúng ta sẽ được
thành Phật sớm.
Chính vì sự lợi lạc số đông cho
chúng sinh, hiện nay trên khắp thế giới
biết bao nhiêu vị cao tăng xiển dương pháp môn Tịnh độ.
Chúng tôi
xin đưa ra một vị cao tăng
đang xiển dương pháp môn Tịnh độ là Pháp sư Tịnh Không, là người Trung
Hoa, hiện giờ ngài đang sống tại Úc Châu, tài đức hay công năng tu tập của
ngài về pháp môn Tịnh độ cũng đã vang vọng khắp toàn thế giới mà ai ai
cũng biết cả.
Pháp sư
Tịnh Không đã thuyết giảng rất rõ ràng trong “Kinh Ðại thừa Vô
Lượng
Thọ trang nghiêm thanh tịnh bình
đẳng giác”: Tôi tin Tịnh độ là vì giảng Kinh Hoa Nghiêm 17 năm,
tôi từ Kinh Hoa Nghiêm khai ngộ đại triệt đại ngộ. Ngộ cái gì? Ngộ vì
thấy mười phương chư Phật niệm Phật mà thành Phật, vì thế tôi
quyết tâm học pháp môn này mà không cần đến Kinh Hoa Nghiêm nữa.
Tôi xem
Kinh Hoa Nghiêm là công cụ đưa tôi vào
Tịnh độ cũng giống như qua sông
rồi không cần đến thuyền nữa”.
Lời cuối cùng, chúng tôi thiết
tha kêu gọi toàn thể mọi người hãy sớm bừng tỉnh tin ngay lời Ðức Phật dạy
mà một lòng thiết tha niệm Phật A Di Ðà cầu vãng sinh về thế giới của
ngài. Tóm lại, pháp môn niệm Phật A Di Ðà đã hợp thời cơ, khế lý, lại còn
nhiếp cả Thiền, Giáo, Luật và Mật, thaät là viên mãn. Mỗi câu “A Di Ðà Phật” là tâm yếu của chư Phật,
dọc thì quán suốt năm thời,
ngang lại gồm thâu tám giáo và điểm son của pháp môn Tịnh độ là từ phàm phu nặng nghiệp quả mà liền
thẳng đến ngôi bất thoái, không
như các pháp môn khác dù phá được phiền não, nhưng khi lâm chung,
tinh thần hôn mê, lại quên mất sở tu, sở chứng, làm cho tâm thoái chuyển, lại
phải đọa vào bát nạn tam đồ. Do
đó, pháp môn Tịnh độ được đại đa
số Phật tử tu trì. Thế mà đến nay vẫn còn nhiều điều nghi vấn thì
thực cần phải lưu tâm nghiên cứu để làm sáng tỏ những điểm còn mờ ám, mới
mong thoát khỏi mê đồ đáng tiếc.
Mấy lời tâm huyết
Thuyết pháp giảng kinh,
viết sách giáo lý nhà Phật hoặc in kinh sách đem phát cho mọi người xem,
để họ sớm giác ngộ. Ðược như thế công đức vô lượng, đó gọi là pháp thí.
Nếu không đủ điều kiện làm
những việc ấy, thì thỉnh một số kinh sách chịu khó đem đến từng nhà cho
mượn đọc, rồi sau đó lại lần lượt cho nhà khác mượn nữa, hoặc đọc cho kẻ
khác nghe, nhất là cho người không biết chữ nghe, cũng được công đức vô
biên, đó cũng gọi là Pháp thí.
Chính Ðức Phật đã dạy:
“Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thí là công đức lớn nhất, không có công
đức nào sánh bằng”.
Tưởng về lợi cũng như về
danh, chúng ta đừng lo nghĩ vội, mà điều tối cần là làm sao cho rạng rỡ
chánh đạo trước cái đã. Ðó là mục đích chính và thiêng liêng cao cả của
chúng ta. Nền móng đạo pháp cần nhờ sự chung lưng góp sức của chúng ta.
Vậy mỗi người nên xây đắp vào đó một ít vôi, một ít nước, hoặc một tảng đá
hay một viên gạch v.v... ngõ hầu cái nền móng ấy được thêm bền vững và
kiên cố đời đời.
Chúng ta không nên quan
niệm ở công đức vô lượng vô biên, mà điều cần thiết là nên nghĩ nhiều đến
những người lầm đường lạc lối, sống trong vòng đầy tội lỗi không có lối
thoát, hãy mau cứu vớt họ, cảnh tỉnh họ để cùng quay về chân lý. Nếu được
như thế chính ta đã làm lợi ích cho Phật Pháp vậy.
Với hoài bão cuộc đời, chúng ta hãy “Tất Cả
Vì Phật Pháp”. Hy vọng mấy lời tâm
huyết này được nhiều vị hảo tâm in kinh sách cho muôn dân xem.
Ðược như vậy công đức không gì sánh bằng!
Tha thiết mong mỏi như
thế!
Tặng cho
thân nhân một số tiền nhỏ, lòng mình
không vui.. Nhưng mình không đủ sức tặng nhiều hơn. Chỉ có một cách là
tặng các loại sách tu hành để xây dựng cho đời sống thanh cao, thì dù một
quyển sách giá chỉ có vài ngàn, nhưng vẫn còn quý hơn bạc vạn.