1. Đặc điểm tư duy người Việt Nam ta trong truyền thống là hướng
nội
Hướng
ngoại là thiên về nghiên cứu thế giới vật chất bên ngoài. Hướng nội là thiên về
nghiên cứu thế giới tinh thần bên trong. Thiền tông đã đề xuất chủ trương “dĩ
tâm truyền tâm”. Do đạo Phật quan niệm vạn vật đồng nhất thể, nên bản thể vũ
trụ cũng tiềm ẩn trong mỗi con người. Bởi vậy khi làm cho bản thể trong mỗi cá
nhân hoà đồng với bản thể vũ trụ, thì ta và thế giới hoà làm một. Muốn đạt được
điều đó thì phải có trí tuệ hay Phật học gọi là Bát Nhã. Nhưng để đi đến cái
đó, mỗi người phải tự khai mở tâm mình, “hãy tự thắp đuốc lên mà đi”, mà bước
đầu là phải có sự biến đổi về mặt đạo đức theo hướng thiện. Điều này hợp với người
Việt với truyền thống nghiêng về trau dồi tâm tính, đạo đức luân lý hơn là học
hỏi trau dồi tri thức hiện đại.
Điểm
này khiến người Việt trong cuộc sống đề cao cái TÂM, lối sống tình cảm. Cách
suy nghĩ và lối sống mang nặng màu sắc tình cảm, một mặt giúp nhân dân ta trong
những thời hoạn nạn, thiên tai, địch hoạ... nhưng nó cũng làm hạn chế sự tiến
bộ của khoa học - kỹ thuật.
2. Đặc điểm tư duy người Việt là chú ý nhiều tới các quan hệ
Cùng
một sự vật, hiện tượng chúng ta thường hoặc quan tâm đến cấu trúc, bản chất
hoặc nghiên cứu những mối liên hệ, quan hệ với những sự vật, hiện tượng khác.
Đương nhiên phương Đông chú trọng mối quan hệ nhiều hơn. Xuất phát từ “dịch”,
“vô thường”, người phương Đông cho rằng không có gì là trường tồn, đứng yên mà
vạn vật luôn vận động, biến đổi không ngừng. Vì vạn vật sinh sinh, hoá hoá, sắc
sắc, không không nên cái ta thấy được chỉ là những mối liên hệ thấp thoáng giữa
các trạng thái của sự vật trong quan hệ với những sự vật khác.
Để
chỉ những mối liên hệ, Phật giáo có luật nhân quả. Nhân quả là chỉ mối quan hệ
phổ biến mọi sự vật, hiện tượng. Không có cái tôi độc lập, không có thế giới
tác rời “cái tôi”, không có “cuộc sống” tách rời - tất cả những cái đó là những
tương tác chặt chẽ và chỉ bị tách rời nhau trong tưởng tượng. Do vậy mà người
phương Đông, Việt Nam theo đạo Phật thường để ý nhiều đến mối quan hệ, chủ yếu
cảm tính, đạo đức nên nhiều nhìn nhận sai lệch, có tính chủ quan duy ý trí. Do
đó, cuộc sống người Việt Nam thường chú ý nhiều đến quan hệ họ hàng, làng xóm,
xã hội sao cho khôn khéo, tế nhị.
3. Chiều sâu ảnh hưởng của Phật giáo
Tư
duy người Việt có thêm một loạt khái niệm lấy từ Phật giáo. Những khái niệm đó
góp phần làm tăng những khái niệm mang tính triết lý của người Việt, khiến tư
duy người Việt mang tính khái quát hơn, trừu tượng hơn. Ngoài ra, ảnh hưởng của
Phật giáo lên cách tư duy còn thể hiện ở quan niệm về sự phát triển của vạn vật
qua bốn giai đoạn: sinh (ra đời, xuất hiện) , trụ (tồn tại, hiện
hữu), dị (phát triển, tiến hoá, biến đổi) và diệt (tử, chết, biến
mất), còn ở con người đó là sinh, lão, bệnh, tử. Đó là sự phát triển tự nhiên,
tất yếu của mọi sự vật, hiện tượng, mọi sự sống.
Các
khái niệm “vô thường”, “vô ngã” cũng ảnh hưởng nhiều tới hệ tư tưởng phong kiến
Việt Nam. Theo quan niệm nhà Phật thì mọi sự vật, hiện tượng là sự kết hợp động
của những yếu tố, động (Pháp), bởi vậy chúng luôn vận động không ngừng. Phật
giáo đóng góp một cách nhìn nhận thế giới động, phù hợp với sự phát triển sự
vật.
Áp
dụng triệt để luật vô thường vào việc phân tích con người, Phật giáo cho rằng
người là kết hợp động của năm yếu tố - ngũ uẩn, bởi vậy con người không có cái
gọi là bản ngã mà là vô ngã. Cách nhìn này đã khiến con người sống một cách
không sợ và vị tha.
Khi
quan sát thế giới bên ngoài, Phật giáo đã nhìn ra một mối quan hệ phổ biến, cơ
bản giữa các sự vật, hiện tượng – đó là mối quan hệ nhân – duyên - quả. Thuyết
này là sự phản ánh khái quát rút ra từ thế giới hiện tượng, đặc biệt là khi xem
xét sự phát triển của tự nhiên. Cách nhận thức hợp lý này đã cung cấp cho người
Việt một cách suy nghĩ mang tính chất nhân quả để nhìn con người, cuộc sống,
vạn vật: “nhân nào, quả nấy”,”gieo gió, gặp bão”, “ở hiền gặp lành”....
Các
học giả đều cho rằng chưa có một học thuyết, một tôn giáo nào phân tích thế
giới nội tâm, trong đó có tư duy sâu sắc như Phật giáo. Theo Phật học thì tư
duy, ý thức của con người tựa như một dòng sông của ý niệm tuôn chảy không
ngừng. Trong một sátna (thời gian búng ngón tay), tâm ý ta đã trải qua 960 lần
chuyển niệm, trong thời gian một ngày đêm, nó trải qua mười ba ức triệu niệm.
Dưới dòng sông tuôn trào này, ở nơi sâu thẳm vô hình đâu đó là A-lại-da thức
(tàng thức) – nơi tàng trử mọi mầm móng của vũ trụ. Tuy khó hình dung nhưng
Phật giáo đã cung cấp cho ta một cái nhìn động về tư duy, ý thức. Phật giáo chỉ
cho ta rằng muốn có tư duy, suy nghĩ đúng thì điều kiện cần là phải tập trung
tư tưởng.
Tư
tưởng, tư duy, ý thức của con người giống như ngọn đèn. Nếu cứ để bình thường
thì toả sáng bốn phương, nhưng nếu biết tập trung toàn bộ ánh sáng vào một
điểm, hội tụ chúng lại, thì điểm này trở nên rất sáng và mạnh. Vai trò của
Thiền đối với tư duy cũng giống như việc tập trung ánh sáng vậy. Nó là một
phương pháp khoa học.
Phật
giáo còn dạy muốn suy nghĩ thật khách quan cần phải có cái tâm bình tĩnh, tỉnh
táo. Tâm nhảy nhót như khỉ vượn, bị thiêu đốt bởi tham lam, hận thù, si mê, tâm
đứng ở nhị kiến, thích và không thích, yêu và ghét, thì nhận thức không thể nào
khách quan được. Tâm như vậy giống như mặt nước hồ qua trận cuồng phong làm nổi
sóng, vẩn đục và không thể nào thấy được những viên cuội dưới đáy sông.
Muốn
cho tâm được yên tĩnh, tỉnh táo thì việc đầu tiên là nên nghĩ và làm những điều
thiện. Đạo Phật hướng người Việt tới việc suy nghĩ về làm những điều thiện, làm
lành lánh giữ. Trong các loại nghiệp của con người có 3 loại nghiệp quan trọng
nhất là thân, khẩu, ý. Trong đó Phật giáo coi nghiệp ý (về tư duy, suy nghĩ) là
quan trọng nhất. “Tổng vệ sinh”, “làm sạch” tư duy vừa là công việc khẩn thiết
vừa là công việc thường xuyên từng giờ, từng phút với mỗi Phật tử. Tư tưởng từ
bi bác ái, chủ trương khuyến thiện trừ ác, hỷ xả, cứu khổ, cứu nạn là những tư
tưởng lôi cuốn đông đảo người Việt và trở thành lòng thương người, tính nhân
đạo của họ. Chính vì quan tâm cứu vớt con người trước bất công đau khổ nên
người Việt đã tiếp thu và nhiệt tình ủng hộ đạo Phật.
Đạo
Phật cũng đóng góp một khía cạnh phương pháp nhận thức quan trọng – đó là mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức, tinh thần và tự nhiên hay tâm và vật. Một mặt
thì tâm và vật không tách rời nhau. Không có vật thì cũng chẳng có tâm. Ngược
lại, không có tâm thì vật như thế nào ta cũng không biết. Sở dĩ có vật là vật
do ta đã quẳng cái tâm vào đó rồi.
Mặt
khác, không chỉ có vật chất, giới tự nhiên, vật luôn vận động mà ý thức, tinh
thần, tâm cũng luôn vận động. Hai cái luôn vận động như vậy, cậy làm thế nào để
nắm bắt, nhận thức được cái thứ hai. Đứng trước vấn đề này Phật giáo đã đưa ra
giải pháp như đã trình bày là tập trung tư tưởng, giữa cho tâm yên tĩnh, tỉnh
táo. Như vậy ở đây Phật giáo dùng cái tĩnh trong sáng được tập trung cao độ để
nắm bắt cái động, “dĩ biến bất biến ứng vạn biến”. Đây là một vấn đề khá lý thú
so với nhận thức thông thường.