Bài viết này, xin giới
thiệu hình ảnh Phật Bà Quan Âm trong thi ca Việt Nam.
Chúng ta đều biết, Đức
Bồ Tát Quan Thế Âm đã được nói đến trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Phổ Môn,
đó là một nam nhân; trong khi hình ảnh được thờ phụng nơi chùa chiền Việt Nam,
được truyền tụng trong dân gian và thể hiện qua thi ca, lại là một Phật Bà. Về
điểm này, Nguyễn Lang viết:
Bồ Tát Quan Thế Âm
được mô tả trong phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa là một nam nhân. Sang Tây Tạng,
Trung Hoa và Việt Nam, Quan Thế Âm biến thành nữ nhân thân, trong lúc đó Phật
tử các nước này vẫn tụng đọc kinh Pháp Hoa mà không thấy có sự mâu thuẫn. Lý do
là kinh Pháp Hoa có nói: "Nếu cần hiện ra thân gì mà cứu độ thì Quan Âm
hiện ra thân đó, như thân quốc vương, thân tể tướng, thân nhi đồng, thân phụ
nữ...". Cho nên bất cứ ở đâu xuất hiện một con người với lòng từ bi rộng
lớn, là ở đó người ta cho là Đức Quan Âm hiện thân. Danh từ Quan Thế Âm
(Avalokitesvara) có nghĩa là người lắng nghe tiếng kêu của cuộc đời; lắng nghe
để tìm tới mà cứu giúp..." (VNPGSLT, Nhà xb VH, H, 1992, tr 99).
Vậy hình ảnh Phật Bà
Quan Âm đã thể hiện trong thi ca Việt Nam như thế nào?
- Ca dao Việt Nam có
câu:
"Cha già là Phật
Thích Ca
Mẹ già như thể Phật Bà
Quan Âm
Nhớ ngày xá tội vọng
nhân
Lên chùa lễ Phật, đền
ơn sinh thành"
- Hình ảnh Phật Bà
Quan Âm cũng được tác giả Truyện Phan Trần nhắc đến, qua hình dạng ni cô Diệu
Thường-tức Phan Kiều Liên sau khi vào chùa tu - với cái nhìn của Phan Tất
Chánh:
"Thẩn thơ trước
dãy hành lang
Vin cành biếc, hái hoa
vàng, làm thinh
Xa xa phảng phất dạng
hình
Đức Quan Âm đã giáng
sinh bao giờ..."
(Truyện Phan Trần, câu
389-392, theo bản của sách VNTVHT của Dương Quảng Hàm, bản in 1968, tr.18)
- Trong tác phẩm
"Sơ kính tân trang", Phạm Thái (1777-1814) đã hai lần nhắc tới hình
ảnh Phật Quan Âm:
"Tu hành nhờ Đức
Thế Tôn
Ắt say sưa đạo lại
buồn bồng duyên
Lọ là khấn vái tiên
thiên
Cậy Quan Âm với Mục
Liên xót tình..."
(SKTTr, câu 1141-1142,
sđd, tr 135).
- Nguyễn Đình Chiểu
(1822-1888) qua tác phẩm Lục Vân Tiên, cũng hai lần giới thiệu Phật Bà Quan Âm:
Quan Âm thường đứng
thảo ngay
Bèn đem nàng lại bỏ
rày vườn hoa
Dặn rằng nàng hỡi
Nguyệt Nga
Tìm nơi nương náo cho
qua tháng ngày
Đôi ba năm nữa gần đây
Vợ chồng sao cũng sum
vầy một nơi..."
(Truyện Lục Vân Tiên,
câu 1523-1528, theo bản trong sách NĐC toàn tập, T1, Nhà xb ĐH và THCN, H 1980,
tr.153).
Đó là đoạn nói Kiều
Nguyệt Nga, trên đường đi cống Hồ đã nhảy biển trầm mình cho tròn tiết nghĩa
với người bạn tình cũ, được sóng thần đẩy vào nơi bãi và được Phật Bà Quan Âm
xót thương đem nàng đến nơi chốn cao ráo, sạch sẽ...Sau này khi bỏ trốn khỏi
nhà cha con Bùi Kiệm, Nguyệt Nga trong cảnh đêm tối tăm mờ mịt, đã gặp được bà
lão cưu mang, thì chính bà lão ấy cũng đã được Phật Quan Âm mách bảo trước:
"Người ngay trời
Phật cũng vưng
Lão bà chống gậy trong
rừng bước ra
Hỏi rằng nàng phải
Nguyệt Nga
Khá tua gắng gượng về
nhà cùng ta
Khi khuya nằm thấy
Phật Bà
Người đà mách bảo nên
già đến đây..."
(Truyện LVT, câu
1651-1656, sđd, tr 159).
-Nếu ngược về với
không khí Thiền học đời Trần (1225 - 1400), chúng ta cũng sẽ gặp hình ảnh Đức
Phật Quan Âm.
Tuệ Trung Thượng Sĩ
(1230- 1291), trong bài thơ "Lui về (Thối cư), đã viết:
"Thẹn bao mình
đục sinh thời đục
Nhờ chút lòng yên gặp
nước yên
Đêm mộng Quan Âm vào
cỏ nội
Sông thu trong vắt
dáng sương huyền".
(Trúc Thiên dịch, Tuệ
Trung Thượng Sĩ ngữ lục, ĐH Vạn Hạnh xb, S, 1969, tr 167).
Đối với vua Trần Nhân
Tông, tức Trúc Lâm đệ nhất Tổ (1258-1308), hình ảnh Phật Quan Âm còn có thể tạo
nên sức khơi gợi lớn giúp kẻ tu hành đạt đạo. Trong buổi tham vấn Thiền học tại
chùa Sùng Nghiêm, một vị Tăng hỏi: "Bậc tu hành lớn còn có thể rơi vào
vòng tròn nhân quả nữa chăng?"
Điều Ngự đã đáp bằng
bốn câu kệ:
"Miệng tợ huyết
hồng phun Phật, Tổ
Răng như gươm bén đốn
thiền lâm
Sáng kia chết xuống A
Tỳ ngục
Vội niệm Nam mô Quan
Thế Âm".
(Dẫn theo Nguyễn Lang,
VNPGSL, t1, Nhà xb Lá Bối, S, 1974, tr 321)
- Chùa Diên Hựu còn
gọi là Liên Hoa đài hay Nhất Trụ tự (chùa Một Cột) được xây dựng vào năm 1049
đời vua Lý Thái Tông (1028-1054) với hình ảnh một đóa hoa sen mọc từ dưới nước
lên. Cuối thế kỷ XVIII, danh sĩ Trần Bá Lãm đã có bài thơ, không chỉ là ca ngợi
cảnh đẹp mà còn ngợi ca tính chất linh ứng của Bồ Tát Quan Thế Âm:
"Xóm hoa trong
thành, chùa trong xóm
Danh là Diên Hựu, Lý
triều xây
Trong cung hòa hợp
mộng hoàn tử
Bồ Tát Quan Âm mới
linh thay"
(Nguyễn Đăng Thục
dịch, Phật giáo Việt Nam, Nhà xb Mặt Đất, S, 1974, tr 79)
-Tính chất linh ứng
của Bồ Tát Quan Thế Âm còn gắn liền với những sinh hoạt bình thường của người
dân Việt Nam và cũng được nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp, nhà thơ của chùa Hương,
nhắc đến:
"...Mẹ bảo đường
còn lâu
Cứ vừa đi vừa cầu
Quan Thế Âm Bồ Tát
Là tha hồ đi
mau..."
(Bài Chùa Hương, dẫn
theo Thi ca VN hiện đại, Khai Trí xb, S, 1968, tr 238).
-Trong văn chương chữ
Nôm, hai tác phẩm trường thiên viết về sự hóa thân của Phật Bà Quan Âm được
truyền tụng khá sâu rộng trong dân gian Việt Nam là Quan Âm Nam Hải và Quan Âm
Thị Kính.
* Quan Âm Nam Hải gồm
1426 câu thơ lục bát, giới thiệu về quá trình dốc chí tu Phật của công chúa
Diệu Thiện-được gọi là Bà Chúa Ba-con gái út của vua Trang Vương với nơi chốn
tu hành và đắc đạo là chùa Hương Tích:
"Đức Phật mới chỉ
đường tu
Rằng có một chùa tại
Hương Tích sơn
Gần biển Nam Việt
thanh nhàn
Sang tu chốn ấy sẽ
toan viên thành ..."
(Dẫn theo Nguyễn Lang,
VNPGSL, 72, sđd, tr 102).
* Quan Âm Thị Kính gồm
788 câu thơ lục bát, lời thơ chải chuốt, bác học hơn. Tác giả hẳn là một người
am hiểu cả Nho, Phật, viết về cuộc đời Thị Kính với đức tính Nhẫn nhục và Từ
bi-hiếu sinh, nhờ đấy mà bà đã đắc đạo. Nhà văn Vũ Khắc Khoan đã có những nhận
xét rất xác đáng về nội dung tư tưởng của tác phẩm:
"Tư tưởng Phật
giáo lại càng tỏ rõ khi Thị Kính cam chịu tiếng oan, vì lòng từ bi, vì đức hiếu
sinh, hy sinh cuộc sống của mình để nuôi đứa bé sơ sinh của Thị Mầu. Nỗi oan
mưu sát chồng đã đưa Thị Kính đến con đường giải thoát, nỗi oan quyến rũ Thị
Mầu không làm cho nàng nản chí trên con đường giải thoát; nhưng chính lòng từ
bi, đức hiếu sinh, chính hành động tích cực nuôi con Thị Mầu mới thực sự đưa
nàng lên cõi giải thoát.
Trên hành trình vượt
sông mê để cập bến giác, tinh thần Phật giáo đã là một ngọn hải đăng soi sáng
bước chân Thị Kính. Để Thị Kính trở thành Tiểu Kính Tâm, để tiểu Kinh Tâm trở
thành Đức Phật Quan Âm ". (Lời giới thiệu của sách "Vở chèo Quan Âm
Thị Kính, Nhà xb Đào Tấn, S, 1966, tr 14).
Hình ảnh Quan Âm Thị
Kính còn bước sang lãnh vực sân khấu chèo, với nhiều kịch bản chèo được lưu
hành khá rộng rãi trong dân gian. Bản in "Vở chèo Quan Âm Thị Kính"
do Nhà xb Đào Tấn ấn hành năm 1966 do Vũ Khắc Khoan giới thiệu, là bản in được
hình thành do sự góp trí nhớ của nhiều nghệ sĩ ngành chèo và một số bạn hữu vốn
hâm mộ bộ môn này. Chèo Quan Âm Thị Kính là một trong số ít vở chèo cổ nổi
tiếng .
Tóm lại, từ ca dao đến
thơ, từ thơ đến Nôm, kịch bản chèo, hình ảnh Đức Phật Quan Âm gắn bó đậm đà với
văn học nghệ thuật Việt Nam vậy.