NĂM
PHƯƠNG TIỆN PHÁP MÔN NIỆM PHẬT
Thiên Thai Trí Giả Đại Sư biên soạn nguyên bản Hán,
Đại chính tân tu đại tạng kinh Vol. 47, No. 1962,
Tỳ Kheo Thích Đức Trí dịch ra Việt văn.
---***---
Thứ nhất định tâm thiền; Thứ hai là chế
tâm thiền; Thứ ba chân thiền; Thứ tư phương tiện tùy duyên thiền; Thứ năm tức nhị
biên phân biệt thiền.
Trụ
tâm chuyên chú vào một đối tượng gọi là Định Tâm Thiền. Như hành giả lúc niệm Phật khởi quán hào
quang và sắc tướng của Phật, tâm thức an định sâu lắng gọi là Định Tâm Thiền.
Khi
tâm được chuyên chú vào trạng thái định nhưng vẫn chưa dứt sạch thói quen vọng
động và tán loạn, nay cần phải dùng phương pháp tu quán để nhiếp phục. Do đó, phải dùng phương tiện duyên tâm vào
kim tướng của Phật để dứt trừ mọi vọng tưởng gọi là Chế Tâm Thiền.
Lại
nữa, tuy đã điều phục được tâm, trụ tâm chuyên chú vào một đối tượng, nhưng đó
chẳng phải lý quán, nó thuộc về sự tu hành. Cần phải thể nhập pháp quán không,
khởi niệm tự hỏi ai chế tâm? Tức là thấy rõ không có cái ta, không có chủ thể
điều phục tâm thì sẽ không có đối tượng Phật để quán và không có cái niệm vọng xuất
hiện. Đây gọi là Thể Chân Thiền.
Tuy gọi là trạng thái Thể Chân Thiền,
nhưng tâm thức vẫn còn ngưng trệ vào trạng thái không, vô số danh tướng chưa thể
thấu rõ. Nay lấy cái vô sở đắc làm
phương tiện, từ trạng thái tâm không nhập pháp giả
quán để soi xét mọi hiện tượng, không bị mê lầm do chấp cái tâm Không. Đây gọi là Phương Tiện Thiền.
Lại nữa, trạng thái Chân Thiền và
Phương Tiện Thiền đều chưa lìa hết tâm chấp hai bên, nay quán trạng thái tịnh
tâm và động tâm vốn vô tướng mạo, vắng bặt ngôn ngữ, xa rời tư tưởng và khái niệm.
Đây gọi là Tức Nhị Biên Thiền. Từ cạn cho đến sâu, phân biệt như vậy cho dễ hiểu,
thực chất quán sát viên mãn thấu rõ các pháp vốn như vậy, không có phân biệt.
Luận về năm môn niệm Phật:
1.
Xưng danh
niệm Phật tam muội vãng sanh môn.
2.
Quán tướng
diệt tội niệm Phật tam muội môn.
3.
Chư cảnh duy
tâm niệm Phật tam muội môn.
4.
Siêu việt
tâm cảnh niệm Phật tam muội môn.
5.
Tánh khởi
viên dung niệm Phật tam muội môn.
Chư Phật đại từ, đại bi, thường thuyết
pháp giáo hóa chúng sanh, chư Bồ tát dùng nhiều phương pháp giải thích ý nghĩa
pháp đó. Các ngài dùng vô số phương tiện
khai mở Trí tuệ bát nhã, lý do nào mà nói pháp Bát nhã ba la mật? Phật dạy: “Vì muốn chư Bồ tát tăng trưởng
pháp niệm Phật tam muội”. Lý do nào mà
khuyên niệm Phật? Phật dạy: “Nếu có người
niệm Phật, nên biết người này cùng với Văn Thù Sư Lợi không khác”. Vì sao như vậy? Vì pháp niệm Phật tam muội này phát sanh các
đại tam muội của chư Phật, như Du hí tam muội, Thủ lăng nghiêm tam muội và nhiều
món tam muội khác. Từ tam muội này mà thể nhập sâu xa vào trong biển Phật pháp,
đầy đủ các phương tiện hiển bày. Nếu dùng một câu niệm Phật mà tu niệm, thẩm định
rằng trong đó đã bao gồm tất cả pháp môn. Vì sao như vậy? Vì tất cả hiền thánh từ niệm
Phật mà sanh, tất cả các món trí tuệ từ niệm Phật mà có. Cho đến hàng Thập tín Bồ tát và Tam hiền Bồ tát
đều không xa rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng; Không rời xa niệm Nhất thiết
chủng trí. Từ sơ địa Bồ tát cho đến bát
địa, cửu địa, thập địa cũng không xa rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm
Nhất thiết chủng trí.
Nhưng do vì trí tuệ sai biệt mà lập các
danh tướng, chúng sanh mê danh, vọng sanh kiến giải sai khác, đọa lạc vào cảnh
ma giới. Có người không hiểu rõ tính chất
của giáo lý này một cách tường tận nên xem thường pháp niệm danh hiệu Phật, tự hiểu
theo quan điểm sai lạc nên không nắm bắt được ý nghĩa thù thắng trong đó. Nay nhân vì thương xót cho tình cảnh đó mà
tôi trình bày ý nghĩa thâm sâu của pháp niệm Phật. Luận về nhân của người tu đạo, không xa rời
Tam hiền thập thánh; Nếu luận về quả chứng ngộ tức là quả vị Phật Như Lai. Người tu đạo thường tri ân và niệm mười
phương tất cả chư Phật; Chứng đắc quả vị giải thoát phải chứng trú trạng thái
thanh tịnh đệ nhất thiền. Nên biết rằng,
trạng thái thiền đó muốn thể nhập vào cảnh giới chứng ngộ rốt ráo, không pháp
môn nào hơn pháp niệm Phật. Nhưng than
ôi! Kẻ hậu thế chưa từng thể nghiệm trong pháp hành, mất đi lợi ích to lớn của
pháp môn này. Từ khả năng thấy biết hạn
hẹp đó nên mất phương hướng của sự tu học, thật đáng xót thương!
Lại nữa, Chư Phật vì sự giải khổ cho chúng sanh mà
khuyên niệm danh hiệu Phật, nguyện sanh cực lạc quốc, nên mới dạy pháp niệm Phật
vãng sanh; Chúng sanh tuy hoan hỉ Phật thân, nhưng nghiệp lực sâu dày nên không
thấy, nên mới dạy pháp quán tướng diệt trừ tội chướng; Chúng sanh mê chấp cảnh
trần, nên mới dạy pháp quán các cảnh do tâm tạo; Chúng sanh chấp các pháp thật
có thật không, lạc vào hai bên nên dạy pháp quán xả li tâm và cảnh; Chúng sanh
vui đắm sâu vào cảnh không tịch của thiền định, chấp thủ trạng thái định, không
rõ thật pháp, nên mới dạy pháp Tánh khởi Viên thông.
Đức thế tôn là bậc thầy cao quý! Bậc dẹp trừ tất cả ngã tướng, bậc khai mở
pháp môn niệm Phật vi diệu, con đường thẳng tới giác ngộ trọn vẹn. Duy chỉ có bậc thông hiểu kinh luận, đầy đủ kinh
nghiệm tu chứng, định tuệ viên dung, kiểm chứng pháp môn này hoàn toàn tương
ưng với các kinh luận liễu nghĩa đại thừa, đó là sự thật. Nên biết pháp trì danh niệm hiệu Phật thâm sâu
khó nghĩ bàn, một câu niệm Phật mà chứa đủ các pháp môn, niềm tin thành tựu một
khi đã y vào giáo nghĩa tịnh độ mà thực hành.
Từ nghĩa lý năm môn niệm Phật mà xét, có
từng bước làm phương tiện tu học. Hành
giả, lúc niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, nguyện sanh cõi Cực Lạc, còn gọi là
pháp môn xưng danh hiệu Phật nguyện vãng sanh.
Hành giả quán tưởng thân Phật, chuyên
chú không tán loạn, thì sẽ thấy tướng Phật quang minh rực rở chiếu soi hành giả,
lúc bấy giờ tất cả tội chướng đều được tiêu trừ, gọi là pháp môn quán tướng Phật
diệt tội.
Lại quán tướng Phật này là từ tâm khởi
không ngoài cảnh khác, gọi là pháp môn quán các cảnh do tâm sanh.
Lại quán tâm này, không có thực tướng mạo
nắm bắt, gọi là pháp môn quán xa rời tâm và cảnh.
Lúc bấy giờ, hành giả hướng đến trạng
thái thiền định sâu lắng, buông xả tất cả tâm thức và ý thức, nhập Niết bàn,
nương vào năng lực mười phương chư Phật gia trì và hộ niệm hưng khởi trí tuệ. Hành giả đang ở trong nhất niệm, tịnh Phật quốc
độ và thành tựu chúng sanh. Công đức tu học vốn có qua bốn giai đoạn trước trăm
ngàn vạn phần không bằng một phần giai đoạn Tánh khởi viên thông này. Vì sao như vậy, không còn luận ở công sức mà
có diệu dụng cùng khắp, nghĩa là từ một thân mà biến thành vô lượng thân. Hành giả tùy duyên hành đạo, được Phật hộ niệm
thấu rõ tận cùng nghĩa lý Phật pháp, thành tựu mười hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ
tát. Bổn nguyện như vậy, thể nghiệm pháp
vốn như vậy, tức gọi là pháp tánh khởi khởi viên thông.
Trên đây đã trình bày xong năm phương
tiện của pháp môn niệm Phật tam muội.
Hỏi: “Như thế nào gọi
là niệm Phật Tam muội?”
Đáp: Kinh Đại Bửu Tích,
chương 116 có dạy rằng: “Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, tu như thế nào để mau chứng
đắc quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác?”.
Phật dạy: “Nhất hạnh tam muội.
Người nam, người nữ nào tu pháp Tam muội này thì mau chứng đắc quả vị vô
thượng chánh đẳng chánh giác”.
Ngài Văn Thù sư lợi thưa hỏi tiếp rằng:
“Thế nào gọi là niệm Phật tam muội?” Phật dạy: “Pháp giới một tướng, thể nhập
vào pháp giới, gọi là nhất hạnh tam muội. Nếu có người nam, người nữ nào muốn
nhập vào pháp nhất hạnh tam muội, nên khéo nghe pháp Bát nhã ba la mật, như
pháp mà tu hành, sẽ nhập vào pháp nhất hạnh tam muội. Như tâm duyên quán pháp giới, bất thối, bất
hoại, không nghĩ bàn, không chướng ngại, không tướng trạng.
Người nam, người nữ đó, muốn nhập vào
Tam muội này, ở tại một nơi thanh nhàn, xả bỏ tâm ý ô nhiễm, không giữ tướng trạng
trong tâm, chuyên tâm một vị Phật mà xưng danh hiệu. Tùy theo phương vị, ngồi
ngay thẳng đoan nghiêm, nhất tâm xưng niệm tương tục danh hiệu Phật, tức là
trong nhất tâm niệm có thể thấy ba đời tất cả chư Phật. Vì sao như vậy? Niệm
công đức vô lượng vô biên của của một vị Phật cũng đồng với niệm công đức biện
tài vô lượng của vô lượng chư Phật. Nhập
nhất hạnh tam muội này thì thông suốt rõ ràng vô số các cõi nước chư Phật vốn
không có tướng sai biệt.” Văn này được xác chứng!
Hỏi: Nhiều người họa hình tượng Phật để
quán tưởng và chiêm bái, có đúng với thánh giáo chăng?
Đáp: Kinh Đại Bửu Tích chương 89 có dạy:
“Lúc bấy giờ Thường Tinh Tấn Bồ Tát muốn họa hình tượng Phật, đi vào chốn núi rừng
thâm sâu vắng lặng, không có bóng người qua lại, xa rời nơi có cầm thú, để
chuyên tâm làm việc này. Ngài lấy cỏ làm bồ đoàn mà ngồi trước bức họa tượng, đoan tâm chánh niệm quán hình tượng Phật.
Quán sát xong rồi, khởi niệm như vầy: “Như lai hi hữu vi diệu, hình tượng còn
đoan nghiêm vi diệu như thế, huống gì là pháp thân thực của Đức Như Lai!”.
Lại khởi niệm như sau: “Làm sao mà quán
Phật”. Lúc bấy giờ, Lâm Thần biết rõ tâm niệm của Bồ Tát Tinh Tấn, liền bạch Bồ
tát rằng: “Này thiện nam tử! Có Phải ông đang nghĩ cách như thế nào để quán Phật?”;
Và bảo rằng: “ Nếu muốn quán Phật, nên quán hình tượng Phật, quán hình tượng
này như quán Phật không khác, gọi là quán Phật, quán Phật như vậy, gọi là sự
quán tưởng tuyệt hảo nhất.”
Lúc bấy giờ Đại Tinh Tấn Bồ Tát khởi niệm
như sau: “ Quán tưởng hình tượng Phật, chẳng phải giác, chẳng phải tri, tất cả
pháp đều như vậy, như là văn tự, văn tự như thế, bản tính không tịch, vốn không
tướng nắm bắt, thân tướng của Như lai cũng lại như thế. Hình tượng chẳng phải
chứng, chẳng phải quả, chẳng phải đắc, chẳng phải trụ, chẳng phải đi, chẳng phải
đến, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng phải tịnh, chẳng phải sắc, chẳng phải tham,
sân và si.
Hình tượng chẳng phải ấm, giới, nhập, chẳng
phải đầu tiên, chẳng phải giữa, chẳng phải sau. Tất cả các pháp cũng là như vậy, thân tướng
Như Lai cũng lại như vậy. Như hình tượng
này, chẳng phải giác, chẳng phải tri, chẳng phải tạo tác, tất cả chư Phật cũng
lại như thế, cho đến lục căn cũng lại như thế”. Bồ tát quán thân Như lai như vậy, ngồi kiết
già, ở trong tam thất nhật (21 ngày) thành tựu ngũ thông, cúng dường chư Phật. Chư thiên cũng rãi hoa cúng dường chư Phật. Từ
công đức tán thán chư Phật, trong pháp hội có hai vạn người chứng trú vào đạo
vô thượng chánh đẳng chánh giác, vô số người trụ trong công đức của hàng nhị thừa.
Đại Tinh Tấn, chính là đức Thích Ca Mâu
Ni Phật đã từng như vậy.” Văn này đã rõ ràng.
Ước theo Tứ giáo mà luận, phàm tâm không
thể tự độc lập mà sanh, tất phải nương vào giả duyên mà hiện khởi. Hành giả lúc niệm Phật, ý tưởng làm nhân; hào
quang của Như lai là duyên, cũng gọi là pháp trần, thuộc đối tượng của ý căn. Niệm khởi lên, tức là pháp sanh khởi, quán căn
trần, năng niệm và sở niệm này, cả ba tướng đều lay động, sanh diệt liên tục,
niệm niệm không dừng nghỉ. Tất cả là không, tức thuộc quan điểm của tiểu thừa tạng
giáo.
Tức là tâm quán niệm Phật khởi, hay phát
khởi cái đối tượng, nó vốn là không, do vọng tâm khởi, tâm thật không khởi, niệm
khởi vốn không tự tánh, thể nó vốn là không.
Quán tướng Phật, như hình tượng phản ánh trong tấm kính, như hoa đốm giữa
hư không, không có Phật, không có niệm, tức là thuộc quan điểm của Đại thừa
thông giáo.
Tức tâm quán niệm Phật khởi, tức là pháp
giả danh, từ cạn đến sâu thông suốt, vô lượng danh tướng, thấy rõ như nắm trong
lòng bàn tay; Thấu rõ tâm này là như lai tạng, đoạn trừ hạt giống mê hoặc có từ nhiều kiếp mới chứng chân thường. Xa rời chấp ngã nhị biên, vô Phật và vô niệm,
đó là quan điểm của Đại thừa biệt giáo.
Tức tâm quán niệm Phật khởi, tức không
, tức giả , tức trung. Hoặc là căn hoặc là trần đều là pháp giới; Một niệm khởi
lên duyên cõi nước chư Phật; Nhất niệm chiếu sáng lục đạo chúng sanh. Không có trước hay sau, liễu ngộ tánh giác xưa
nay là như vậy. Như người đại phước giữ
đá hóa ngọc, không cần xả niệm, chẳng cầu li niệm, nhị biên tức trung đạo, vô
Phật vô niệm, là quan điểm của đại thừa viên giáo; “Kinh Anh Lạc” nói rõ sự chứng
ngộ của Như Lai là ý nghĩa này vậy.
(Ngũ
phương tiện niệm Phật môn, 1 quyển)