CHƯƠNG I: DẪN NHẬP
Từ
khi loài người xuất hiện trên trái đất thì cũng đồng thời xuất hiện 
hiện tượng giáo dục. Trong quá trình tìm kiếm các phương tiện để sống, 
con người đã sớm nhận thức được sự cần thiết phải truyền thụ kinh nghiệm
cho lớp người sau. Thế nên, khi xã hội loài Người ngày càng tiến lên 
thì sự tích lũy kinh nghiệm ngày càng nhiều, càng phong phú, đa dạng về 
nhiều mặt, như kinh nghiệm trong sản xuất, chiến đấu, đời sống v.v...; 
con người ngày càng có nhiều hiểu biết thêm về tự nhiên, về thẩm mỹ, đạo
đức, triết học. Từ đó việc giáo dục bắt đầu được những người có kinh 
nghiệm nhất, hiểu biết nhất tiến hành. Thật chất của giáo dục là truyền 
thụ kinh nghiệm lịch sử xã hội cho thế hệ sau, nhằm chuẩn bị cho họ bước
vào cuộc sống xã hội và lao động sản xuất. Ðó là nét đặt trưng cơ bản 
của giáo dục với ý nghĩa là một hiện tượng xã hội mà chúng ta cần tìm 
hiểu. 
Giáo
dục là vấn đề muôn thuở. Từ xưa đến nay biết bao nhiêu khối óc vĩ đại 
của nhân loại đã đóng góp phần mình vào sự nghiệp trí huệ, kho tàng trí 
thức ấy. Từ nhận thức về hiện tượng giới, khám phá ra nguyên lý vận hành
và phát triển của giới tự nhiên, con người đã tự đặt mình trong mối 
quan hệ, hiện tượng nhân duyên nhằm nâng cao trí tuệ cải tiến đời sống 
của cá nhân và tập thể ngày càng tốt đẹp hơn. Chính điều này đã đem đẩy 
con Người hình thành và phát triển các đường hướng giáo dục, văn hóa. 
Giáo dục vì thể chỉ xuất hiện trong môi trường cộng đồng, không xuất 
hiện con người sống cách ly ngoài cộng đồng. 
1. Lý do chọn đề tài: 
"Tìm
hiểu về giáo dục Phật Giáo" là một đ? tài tuy không đạt yêu cầu cao 
trong việc tham cứu và tìm tòi tư liệu, nhưng là đề tài quan trọng. Vì 
thế người viết đã không ngần ngại chọn đề tài này cho bản Luận Văn Tốt 
Nghiệp của mình cũng như đóng góp một số ý kiến nhỏ để cho nền giáo dục 
Phật Giáo ngày càng được phát triển và phù hợp với hoàn cảnh của đất 
nước thời đại. 
2. Phạm vi đề tài: 
Giáo
dục là đề tài mở rộng, mang tính chất sáng tạo, nhưng trong giới hạn 
của tập luận văn này người viết chỉ đề cập đến một số nét tiêu biểu định
hình một đường hướng giáo dục của Phật Giáo với một số điểm chính như 
sau: 
- Nội dung của Giáo Dục 
- Mục tiêu của Giáo Dục 
- Ðối tượng của Giáo Dục 
- Các tinh thần và kỷ luật của Giáo Dục 
Ðây là những điểm chính yếu mà các chương luận văn kế tiếp người viết sẽ lần lượt đề cập. 
  
 
CHƯƠNG II: NỘI DUNG
1. Khái quát về nguồn gốc của Giáo Dục: 
Chúng
ta không ai là không hấp thụ một nền giáo dục hoặc ít ra một hình thức 
giáo dục. Ai ai cũng đều biết rằng loài cầm thú còn có khả năng biết dạy
con để cho chúng thích nghi với cuộc sống hằng ngày. Dù là loài cầm 
thú, do bản năng, có thể tự thích nghi với cuộc sống, nhưng nếu con thú 
không được cha mẹ huấn luyện thì khó tồn tại giữa thiên nhiên khắc 
nghiệt hay giữa các loài cầm thú khác luôn tìm cách tranh giành, giết 
hại lẫn nhau để được sống còn v.v...Chúng ta hãy xem chim mẹ tập chim 
con chuyển cành, khỉ mẹ tập khỉ con lội qua con suối và gà mẹ trình diễn
cách tìm kiếm thức ăn bên đống rác trước mặt đàn con. Rồi chim con biết
bay, khỉ biết lội và đàn gà biết mưu sinh không còn phải theo mẹ. Ðó là
lối giáo dục của loài động vật. Và như thế chúng ta có thể nói giáo dục
đã hiện hữu rất sớm sủa từ khi có những động vật thượng đẳng xuất hiện 
trên trái đất. Lối giáo dục thô sơ này chỉ là sự truyền tiếp kinh nghiệm
cho thế hệ sau qua bản năng sinh tồn mà chính loài người cũng bắt đầu 
từ đó, nhưng loài động vật không có khả năng truyền đạt bằng ngôn ngữ và
không có óc sáng tạo nên ngàn muôn năm giáo dục của chúng vẫn không 
thay đổi, ngược lại, loài người cũng khởi đầu giáo dục qua bản năng sinh
tồn nhưng dần dần tiến đến giáo dục và loài người đã tiến rất nhanh, 
rất phong phú về quan niệm giáo dục, phương pháp giáo dục. Họ biết nhận 
định đối tượng của giáo dục và thấy được mục đích giáo dục mà họ hướng 
đến. Và vì thế giáo dục thời cổ không còn giống thời hiện đại, nó cũng 
không còn giống nhau ở Ðông phương hay Tây phương, ở xã hội này và xã 
hội khác, khiến chúng ta khó tìm được định nghĩa ngắn gọn cho hai chữ 
"Giáo Dục". Theo W. O. Lester Smith, Giáo Sư Ðại Học Luân Ðôn, Chủ Tịch 
Hội nghiên cứu giáo dục Anh Quốc đã nói: "Khi nghĩ về giáo dục chúng ta 
không được quên rằng giáo dục có tính cách trưởng thành của một cơ thể 
sinh động. Trong khi có những tùy thuộc thường xuyên nó vẫn liên tục 
thay đổi tự thích ứng với những nhu cầu mới và hoàn hảo mới". (When 
thinking about education we must not forget that it has the growing 
quality of a living organism. While it has permanent to new demands and 
new circumstances). Giáo dục do đó không phải chỉ thay đổi theo thời 
gian mà còn thay đổi theo hoàn cảnh nữa, nó mang ý nghĩa và quan niệm 
khác nhau theo mỗi hoàn cảnh xã hội và ngay cả trong cùng một quốc gia 
nó cũng đòi hỏi một ý nghĩa một quan niệm khác nhau cho vùng nông thôn 
và đô thị kỷ nghệ. Nếu muốn giản lược ý nghĩa giáo dục vào một danh từ 
hoặc bảo giáo dục là thế này, là thế khác theo chủ quan của mình, điều 
đó ắt không phải thái độ của nhà giáo dục. Disraeli đã có lần bảo rằng 
ông rất ghét về những định nghĩa, ông cho rằng trong việc nghiên cứu 
giáo dục những định nghĩa ấy không khác những tên đày tớ tốt nhưng là 
những ông chủ xấu. Vì sao vậy? Vì nó phục vụ trung thành cho một quan 
điểm chủ quan và do đó giết chết ý tưởng, sáng kiến về những quan niệm 
rộng rãi và phương cách thích nghi trong tiến trình sinh hoạt của loài 
người trên mặt đất. 
2. Ðịnh nghĩa từ một ý nghĩa về giáo dục: 
Theo
quan niệm sơ khởi của Ðông phương và Tây phương định nghĩa rằng chữ 
"Giáo" nghĩa là dạy, là sự rèn luyện về đường tinh thần nhằm phát triển 
trí thức và huấn luyện tình cảm đạo đức. "Dục" nghĩa là nuôi nấng, săn 
sóc v? mặt thể chất. Vậy giáo dục là một sự đào luyện con người về cả ba
phương diện trí huệ, tình cảm và thể chất. Về phía Tây phương, danh từ 
Education vốn phát xuất từ chữ Educare của tiếng Latin. Chữ E có nghĩa 
là "out" và chữ "ducare" có nghĩa là "to lead". Ðộng từ Educare là dắt 
dẫn, hướng dẫn để làm phát khởi ra những khả năng tiềm tại. Sự dắt dẫn 
này nhằm đưa con người từ không biết đến biết, từ xấu đến tốt, từ thấp 
kém đến đầy đủ tốt đẹp v.v...Danh từ Education xuất hiện ở Pháp từ đầu 
thế kỷ 16 nhưng đến giữa thế kỷ 17 Hàn Lâm Viện Pháp mới định nghĩa lần 
đầu tiên như sau: 
"Giáo
dục là sự săn sóc dạy dỗ trẻ em hoặc về phương diện trí tuệ hoặc về 
phương diện thể chất" (Le soin qu’on prend l'instruction des enfants, 
soit en ce quy regarde les exereices de 1’esprit en ce quy regarde les 
ecercies du corps). Như vậy lúc đầu chữ Education đồng nghĩa với chữ 
Instruction, nghĩa là giảng dạy hay nói cách khác là sự truyền thụ kiến 
thức làm cho nẩy nở thêm lên ví như vun trồng loài cây hay tập luyện 
loài vật vậy. Như thế ta thấy rằng trong quan niệm sơ khởi về giáo dục, 
Ðông phương cũng như Tây phương đều giống nhau ở chỗ lấy con người làm 
đối tượng và nhằm phát triển ba phương diện trí huệ, tình cảm và thể 
chất. 
Theo
từ điển Từ Hải cho rằng "Giáo" là cho biết, "Giáo" là đánh để dạy con 
(người trẻ) bắt chước theo điều hay lẽ phải. "Dục" là nuôi dưỡng, sinh 
ra, làm cho lớn lên, v.v... Tóm lại, "Giáo Dục" là nếu người trên đặt ra
thì người dưới phải bắt chước làm theo và nuôi con khiến cho con làm 
điều thiện. 
Theo
từ điển Giáo Dục (Dictionary of education. Ed. By Carter, V, Good, 
McGraw Hill Book Company, New York - Toronto - London, 1959, p. 191 định
nghĩa): 
a:
The aggregate of all processes by means of which a person develops 
abilities, attitudes, and other forms of behavior of positive value in 
the society in which he lives.  
b:
The social process by which people are subjected to the influence of a 
selected and controlled environment (especially that of the school) so 
that they may attain social competence and optimum individual 
development.  
c:
Ordinarily, a general term for the so-called "technical" or more 
specifically classified professional courses offered in higher 
institutions for the preparation of teachers and relating directly to 
educational psychology, philosophy and of education, curriculum, special
and general methods, instruction, administration, supervision etc; 
broadly, the total pattern of preparation, formal that results in the 
professional growth of teachers.  
(a):
Là các quá trình qua đó một người phát triển các khả năng, thái độ 
sống, và các cách xử thế tích cực trong xã hội mà người ấy sống.  
(b):
Là quá trình xã hội theo đó con người phải tuân theo cái ảnh hưởng của 
môi trường sống đã được chọn lựa và kiểm soát (đặt biệt là môi trường 
học đường) để con người có thể đạt được khả năng xã hội và sự phát triển
khả năng cá nhân tốt nhất.  
(c):
Thông thường là thuật ngữ nói về "Kỷ thuật" chỉ các lớp học chuyên 
nghiệp cao cấp để đào tạo các thầy giáo, liên hệ đến tâm lý giáo dục, 
triết lý giáo dục, lịch sử giáo dục, khóa trình, các phương pháp tổng 
quát, đặt biệt sự giảng dạy điều hành, hướng dẫn, v.v...một cách rộng 
hơn, đó là mẫu mực toàn diện về đào tạo, chính thức hay không chính 
thức, thành sự trưởng thành chuyên môn cho các thầy giáo.  
Theo
một định nghĩa khác cho rằng: "Nói đến giáo dục là nói đến việc dạy, 
việc truyền tho kinh nghiệm, kỷ năng, kiến thức của người dạy cho người 
học". Thực ra, danh từ "Giáo Dục" chỉ mới được dùng ở Trung Quốc vào 
khoảng cuối thế kỷ 19 và sang đầu thế kỷ 20 mới du nhập vào Việt Nam. 
Trước người Trung Hoa và cả người Việt Nam đều quen dùng các từ tương 
đương như Huấn hối, Giáo huấn, Giáo hóa, Dưỡng dục,...Giáo huấn nghĩa là
nuôi nấng dạy dỗ, dẫn đi tới...Về sau, trãi qua nhiều thời đại, trãi 
qua những biến đổi mà từ giáo dục có ý nghĩa hơn, có nội dung cụ thể 
hơn. Cho đến nay mục tiêu của giáo dục hay một định nghĩa cụ thể cho 
giáo dục vẫn chưa được tất cả những nhà giáo dục nhất trí. Ðại khái chỉ 
cho rằng: "Giáo dục" là sự dạy dỗ, truyền thọ và đào luyện làm cho người
nhận sự giáo dục được mở mang trí tuệ và đức hạnh, tự khám phá và hiểu 
được mình nhờ đó có những hành động phù hợp với môi trường, với cuộc 
sống, với cộng đồng và với xã hội. Cách hiểu giáo dục như thế thì quá sơ
sài, nhưng ta chỉ có thể hiểu giáo dục một cách khái quát qua những 
định nghĩa trên. Do vậy, khi chúng ta đề cập đến khái niệm giáo dục thì 
chúng ta rất phức tạp bởi có rất nhiều định nghĩa khác nhau, cho nên đi 
tìm định nghĩa rõ ràng về khái niệm của từ này quả thật không đơn giản. 
Như trong cuốn "The Educator’s encyclopedia" của ba học giả Mỹ E.W. 
Smith, S.W. Krouse và M.M. Atkinson, 1969, USA, cho rằng khái niệm giáo 
dục chuyển tiếp từ Phương Ðông đến thái độ Phương Tây và trong Larouse 
Universelle của Pháp định nghĩa: "Giáo dục là toàn thể những cố gắng có ý
thức để giúp tạo hóa trong việc phát triển các năng lực thể chất, tinh 
thần và đạo đức của con người, hướng về sự toàn thiện, hạnh phúc và sứ 
mạng xã hội của con người" (Trích dẫn từ Sư Phạm Lý Thuyết, nhiều tác 
giả, nhà xuất bản trẻ năm 1971). Thiết nghĩ đưa ra như thế cũng đủ rõ 
khái niệm giáo dục rồi, tuy nhiên, cần phải tiến thêm một bước nữa để 
tìm hiểu. Từ Ðiển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ Học, Trung tâm từ điển 
học, nxb Giáo dục, 1994, trang 379 có ghi: "Giáo dục 1. (động từ). Hoạt 
động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể
chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được 
những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. 2. (danh từ). Hệ thống 
các biện pháp và cơ quan giảng dạy giáo dục của một nước". 
Qua
các định nghĩa trên, về quan điểm chung, đều cùng có một ý nghĩa. Chúng
biểu hiện trên hai mặt, đó là mặt triết lý giáo dục và khoa học giáo 
dục. Triết lý giáo dục là sự áp dụng của triết học tự thân đối với việc 
nghiên cứu những vấn đề, mà những vấn đề đó nằm trong phạm vi giáo dục 
và khoa học giáo dục giúp đỡ với ý nghĩa phương pháp kỷ thuật, công cụ 
sẽ được dùng để nghiên cứu những mục đích được hoạch định thông qua 
triết lý giáo dục, mối quan hệ giữa khoa học và triết học giáo dục đồng 
đẳng mật thiết không thể tách rời. Ðây chính là ý nghĩa đích thực của 
Giáo Dục. 
3. Mục đích của Giáo Dục: 
Nói
một cách tổng quát, mục đích giáo dục là phạm trù cơ bản của giáo dục 
học. Cho nên mục đích giáo dục là hệ thống định hướng cho công tác 
nghiên cứu lý luận và các hoạt động thực tiển. Bên cạnh đó chúng còn là 
thành tố cơ bản của quá trình giáo dục, có tác dụng định hướng cho toàn 
bộ hoạt động giáo dục, quy định tính chất và phương hướng, nội dung, 
phương pháp và tổ chức của quá trình giáo dục, quy định tiêu chuẩn kiểm 
tra và đánh giá kết quả của chúng. Do vậy mục đích của giáo dục vừa có 
tác dụng định hướng cho hoạt động thực tiển của người dạy và người học 
còn phải hướng tới để đạt kết quả. Mục đích này chỉ được vận hành tốt 
khi có sự phối hợp hoạt động giữa ba bộ phận: Giáo dục nhà trường, Giáo 
dục gia đình và Giáo dục xã hội. Ngày nay trên thế giới người ta luôn 
quan tâm đến việc tìm tòi nghiên cứu, lựa chọn mô hình giáo dục tối ưu 
sao cho phù hợp với xu thế chung của thế giới. 
Nói
tóm lại, sứ mạng cao cả nhất của giáo dục là đào tạo một cá nhân hoàn 
toàn là người có khả năng giao tiếp với cuộc sống như một đoàn thể để 
sáng tạo ra những giá trị luôn luôn mới. Như trong quyển "Giáo dục và ý 
nghĩa cuộc sống" của Krishnamurti viết: "Mục đích của giáo dục đích thực
là rèn luyện trau dồi mối tương giao chính đáng không chỉ giữa các cá 
nhân, nhưng cũng giữa cá nhân và xã hội". 
Ý
nghĩa này đã hướng chúng ta đến một mục đích tối thượng mà bất cứ một 
nền giáo dục nào cũng phải kinh qua. Ðó là ý hướng con người toàn vẹn về
nhân cách, đạt đến bản ngã đích thực của mình. Cùng ý nghĩa này mục 
đích của giáo dục Phật Giáo được xem là yếu tố quan trọng trong các 
phương tiện chuyển hóa, do vậy xác định đường hướng mục đích giáo dục là
một vấn đề thiết yếu không thể thiếu. Thế nên Hòa Thượng Trưởng Ban 
giáo dục Tăng Ni đã đối chiếu với các dữ liệu của kinh điển Phật giáo 
thì giáo dục được thay thế bằng các từ: "Khai hóa, Nhiếp hóa, thi hóa, 
khuyến hóa...Trong đó từ "Hóa" có ý nghĩa quan trọng, chỉ sự làm cho 
chuyển biến, khiến cho trở nên, hóa thành". 
Mục
đích tối hậu của giáo dục Phật giáo là mang lại sự giải thoát khỏi mọi 
sự khổ đau, phiền não muôn thuở vốn có của cuộc đời, của mọi kiếp sống 
của bất cứ ai. Ðó là mục đích cao nhất, khó nhất, phải trãi qua nhiều 
kiếp sống mới đạt tới được, nhưng đối với bất cứ ai cũng có thể đạt tới,
không trong kiếp này thì trong kiếp sau nếu biết và cố gắng kiên trì đi
theo giáo pháp của đức Phật. Ðó là Niết bàn là hạnh phúc tối cao vĩnh 
viễn...trên tinh thần giáo dục Phật học. 
Ðối
với mục đích giáo dục thế học cũng vậy, cũng mang ý nghĩa giải thoát 
nhưng giải thoát con người khỏi cái khổ của ngu dốt, của đói nghèo, của 
lạc hậu, của nô lệ, của bất công, của bóc lột, của áp bức v.v... mà nhà 
nước thường gọi là sự giải phóng, giải phóng cá nhân, giải phóng dân 
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại... Nhưng có giải phóng 
hết được các nỗi khổ mang tính lịch sử nói trên, con người vẫn còn khổ 
với cái khổ muôn thuở, truyền kiếp của sự sống: sinh, lão, bệnh, tử 
v.v... Vì thế bên cạnh sự giáo dục và hệ thống giáo dục của nhà nước và 
của xã hội, con người vẫn cần có sự giáo dục của Phật giáo, chừng nào 
còn có cái khát vọng giải thoát hiểu theo nghĩa của Phật giáo. 
  
 
CHƯƠNG III: MỤC TIÊU CỦA GIÁO DỤC PHẬT GIÁO
1. Mục Tiêu Của Giáo Dục: 
Qua
những định nghĩa về giáo dục, ta có thể nhận định được cái hướng của 
mục tiêu giáo dục. Ðại khái giáo dục là sự truyền thọ kiến thức, đạo đức
và kỷ năng cho người ta, khiến cho người ta có thích nghi với cuộc 
sống, với thiên nhiên và xã hội. Về sau, giáo dục còn khiến cho người ta
có được khả năng sáng tạo, tự nhận biết mình và phát huy cái tốt vốn có
của mình. Như vậy, giáo dục là nhằm cho con người được vươn lên, tiến 
bộ hơn, phát triển theo chiều hướng tốt hơn và từ đó cộng đồng xã hội 
được cải tiến. 
Theo
quan điểm KRISHNAMURTI ông cho rằng giáo dục không chỉ là một vấn đề 
huấn luyện tâm trí. Huấn luyện đưa tới hiệu năng nhưng không toàn vẹn, 
chỉ kéo thêm quá khứ, và một tâm trí như vậy có thể chẳng bao giờ khám 
phá ra được điều mới mẽ nào cả, đó là do đâu mà tìm kiếm những gì là nền
thích đáng. Là một nhà tư tưởng lãnh đạo tinh thần phương Tây, ông đã 
ngao ngán với kiểu giáo dục con người bằng vật chất và máy móc, bằng 
giáo điều và quy luật. Với mục đích như vậy chỉ đem đến sự bất toàn và 
vô hiệu, ông cũng đề ra mục đích giáo dục để đem lại sự hòa điệu, sự 
khám phá và phát minh, sáng tạo những cái mới, bằng tinh thần vô tư và 
tự giác. Ông cho rằng phải tự đánh thức trí thông minh của mình bằng 
cách khảo sát cái tự trị là một điều quan trọng và cần yếu. Cũng như hoa
hồng đang khoe sắc rực rở bên bờ suối dưới ánh nắng ban mai, nó đẹp 
thật hồn nhiên đến lạ lùng, khi ta chưa có một ý niệm nào biểu thị về nó
và gán ghép cho nó có một ý nghĩa riêng. 
Nhận
định của HT. Thích Thiện Siêu trong bài viết: "Bàn về mục tiêu của Giáo
Dục Phật Giáo", Hòa Thượng dưới cách nhìn của một như tưởng Phật học 
nhận định rằng: Mục tiêu của giáo dục giữa thế học và Phật học là một sự
tương quan nhưng khu biệt, bởi vì mục đích của giáo dục thế học chỉ đưa
đến môi trường thích nghi cuộc sống xã hội, bằng khả năng sáng tạo tự 
thân và có chiều hướng tốt nhờ cộng đồng xã hội cải tiến để thỏa mãn nhu
cầu vật chất cho con người trong xã hội, hay xa hơn là mưu cầu hạnh 
phúc cho nhân loại. Hạnh phúc mà con người mong cầu cũng là tiền tài, 
danh vọng, địa vị, tình yêu, sự thành đạt, sự tận tụy hy sinh v.v... 
Ngài cho rằng những yếu tố đó sẽ mang đến hai hệ quả: Ðược thì vui và 
hạnh phúc (dù chỉ nhất thời) không toại ý thì khổ sở (dẫn triền miên) và
tuyệt vọng. Về phương diện này Hòa Thượng đánh giá như sau: "Bao lâu ý 
nghĩa hạnh phúc chưa được xác lập thì xã hội còn phải mò mẫn phương 
hướng phát triển. Lịch sử đã ghi nhận bao nền văn minh đã sụp đổ vì 
những mục tiêu sai lạc trong phương hướng phát triển... chiến tranh, đói
nghèo, bệnh tật suy thoái đạo đức, ô nhiễm môi sinh... là kết quả của 
những sai lạc ấy. Giáo dục phải chia sẻ trách nhiệm và xã hội trước 
những hậu quả gây khổ đau khôn lường đó". 
Nhận
định về xã hội trong thực tại Ngài cũng đồng quan điểm với 
Krishnamurti, nghĩa là sự đào tạo con người mới, hay con người toàn diện
mà chỉ bằng tiêu chuẩn khoa học hay đạo đức hiện đại thì sự thích nghi 
chỉ dẩn đến kết quả: hoặc là thiên thần, hoặc là quỷ sứ, hay là siêu 
nhân và người máy. Không thể đảm bảo sự tồn tại và chỉ là một cách phản 
ánh nhất thời. 
Ðồng
thời Hòa Thượng nêu ra một phương hướng mới bằng mục tiêu giáo dục của 
Phật Giáo cho tương lai, tính giá trị cao theo tinh thần Phật học. Muốn 
đạt mục đích tuyệt đối, theo Ngài chính là sự giải thoát tối hậu, bởi vì
hạnh phúc chỉ đến thật sự khi nào giải thoát đồng nghĩa với tinh thần 
vô ngã. Tâm linh con người thoát khỏi tham, sân, si mạn v.v... viễn ly 
tất cả phiền não và an vui trong cảnh giới Niết bàn trong hiện tại. Ðứng
trước bối cảnh xã hội đang rơi vào thật trạng hổn loạn, dấu hiệu xuống 
cấp quá rõ ràng, đấu tranh, nghèo đói, bệnh tật từ thể chất đến tinh 
thần của căn bệnh thời đại ngày càng gia tăng rõ rệt, từ cá nhân, gia 
đình, học đường và xã hội đang trong tình trạng khủng hoảng, đã và đang 
gây tạo thêm những khó khăn cho quê hương đất nước và dân tộc. Ngài lớn 
tiếng kêu gọi tinh thần tự giác và ý thức trách nhiệm của những người 
thực tâm vì đạo pháp cần phải quan tâm hơn nữa trong sự nghiệp hoằng 
pháp lợi sanh vì tiền đồ đạo pháp, cần đóng góp nhiều hơn nữa khả năng 
sẳn có của mình cho dân tộc và nhân loại. 
Theo
nhận định của T.T. Thích Chơn Thiện nói về "Mục tiêu giáo dục" trong 
Phật Học Khái Luận ở trang 60 có ghi: "Ngài cho rằng một đường hướng 
giáo dục tốt luôn luôn nhắm đến hai mục tiêu đó là đào tạo con người xã 
hội và con người chính nó. Nếu thiếu đi một trong hai mục tiêu ấy là một
nền giáo dục không hoàn chỉnh." 
a) Con người xã hội: 
Giáo
dục con người xã hội theo đạo Phật, không có nghĩa là đánh mất con 
người chính nó, con người cá thể hoặc theo kiểu con người xã hội rập 
khuôn máy móc, mà chính là giáo dục con người xã hội trong mối tương 
quan biện chứng hai chiều giữa cá nhân và xã hội, tạo thành động lực 
giữa xã hội hổ tương và phát triển. Tức là nền giáo dục trong đó bao gồm
sự phát triển tâm linh, sự quan hệ huyết thống và sự quan hệ xã hội 
trong những chuẩn mật nhất định. Vì xã hội là do những cá nhân lập 
thành, mỗi cá nhân là con người xã hội. Con người từ khi sanh ra cho đến
khi trưởng thành đều có mối quan hệ xã hội, mối quan hệ đầu tiên chính 
là mối quan hệ huyết thống. Do vậy, khi đặt ra vấn đề giáo dục con người
trở thành con người xã hội, quả thật là một vấn đề nan giải bởi xã hội 
vốn muôn mặt muôn hình, xã hội đầy rẫy những bất công áp bức và chế độ 
phân tầng đã tạo nên những thứ buồn nôn, đầy rẫy chủ thuyết, chủ nghĩa, 
những tập đoàn, thể chế. Như vậy vấn đề đặt ra giáo dục con người để trở
thành con người xã hội theo kiểu nào? Hay chỉ là một khái niệm suông? 
Ðối với vấn đề xã hội, Ðức Phật thường có thái độ thận trọng, tuy nhiên 
vẫn có thái độ nhất khoát với những cá nhân, tập đoàn hay những thành 
phần nào làm lũng đoạn xã hội, hoặc đưa xã hội vào cảnh bế cùng. Giáo 
dục cá nhân để trở thành con người xã hội. Ðức Phật luôn luôn tạo nơi 
người đó một niềm tin, sự thông cảm sâu xa, một tình thương vô bờ, sự 
hiểu biết một tinh thần buông xả và thái độ hành động vị tha, xây dựng 
phát triển cuộc sống xã hội hòa bình an lạc. Chính những điều này cũng 
đủ cho chúng ta thiết tưởng Ðức Phật, Ngài nói lên giá trị con người xã 
hội theo hướng giáo dục có chuẩn mực và định giá được con người xã hội 
sống một đời sống thể hiện được con người của chính mình và khi tiếp xúc
xã hội con người luôn có tinh thần vị tha, niềm thông cảm sâu xa đối 
với cuộc đ?i. Ðó là hướng giáo dục con người xã hội qua mục tiêu thứ 
nhất của Giáo Dục Phật Giáo. 
b) Con người chính nó: 
Giáo
dục con người chính nó là con người cá nhân biểu hiện thể chất, tâm 
tính, tư duy tình cảm và vị trí của nó trong hoạt động tồn tại tự nhiên.
Giáo dục con người cá nhân là nhắm vào các đặc tính sẵn có và đánh thức
những gì tiềm ẩn trong con người trỗi dậy. Tuy nhiên, nó không hoàn 
toàn phải điều tốt cả, do vậy nhà giáo dục phải có trách nhiệm chỉ bảo 
cho nó ý thức được những gì cần phát triển và những điều gì cần ngăn 
chặn để chuyển hóa. Một cá nhân xuất hiện không chỉ là thể chất mà còn 
mang một dấu ấn tiềm tàng của một quá trình, cái mà Ðức Phật gọi là 
"nghiệp", do vậy bản năng của nó không gì hơn chính là nghiệp, hay là 
những nội kết thuộc nhân quá khứ. Bản năng đó được xem như là kết quả và
nó được biểu hiện trên ba tính chất: Thiện, Ác, và Trung tính. Nhà giáo
cần phải nắm bắt được những bản năng hoạt động của đối tượng giáo dục, 
để kịp thời có những phương thức phù hợp trong việc tác động trên các 
mặt biểu hiện của nó, tùy theo tính chất hoặc tốt hoặc xấu hoặc trung 
tính bộc lộ. Giáo dục như thế tạo sự phát triển những bẩm tính tốt đẹp, 
có năng lực hoạt động về cả thể chất lẫn tinh thần, đồng thời đánh thức ý
thức dậy qua sự hiện hữu của những dòng lưu hiện trên tâm thức. Cho nên
một nhà khoa học muốn khám phá chân lý, điều trước tiên phải dẹp bỏ 
những kiến thức chết tức giống những kiến thức thâu lượm được, vì chúng 
chỉ khái niệm khô khan mà cuộc sống là sự linh hoạt vận động liên tục. 
Do đó, giá trị tự giác trong đạo Phật có vị trí rất quan trọng, chính 
nhờ có "tự giác" mới có khả năng làm hoàn thiện được con người chính nó.
Như ông, bà xưa thường có câu: "Thắng muôn vạn quân không bằng tự chiến
thắng mình, tự chiến thắng mình là chiến công oanh liệt nhất". Bởi thế,
khi giáo dục con người chính nó chúng ta phải ý thức rằng làm cho cá 
nhân ấy luôn phù hợp với cuộc sống với quy luật tự nhiên, và điều đó có 
nghĩa xem sự sống là một chuỗi vận động nên con người không thể tách ra 
khỏi cuộc vận động tự thu mình trong một điểm trú ẩn nào khác. 
2. Giáo Dục Học Ðường Và Giáo Dục Phật Giáo: 
a) Giáo dục học đường: 
Học
đường là một thiết chế xã hội, là nơi cung cấp những kiến thức và những
chất năng cần thiết, nơi tạo cơ sở khoa học cho học sinh, sinh viên xử 
lý đúng đắn các mối quan hệ cho xã hội. Nhà trường là xã hội văn hóa, 
phổ cập hóa những kiến thức phổ thông cho những tâm hồn có ý chí hoài 
bảo và lý tưởng vươn lên đến vòm trời xa rộng. Mặt khác, nhà trường là 
nơi đào tạo, ung đúc và phát huy tiềm lực của những tài năng trí tuệ và 
đạo đức con người. Ðứng về phương diện lãnh đạo GHPGVN hiện nay nhằm 
củng cố độ ngũ Tăng Ni trẻ trên ba quan điểm TU, HỌC, và HẠNH với bản 
nguyện tốt đạo đẹp đời trên cơ sở giáo dục Phật giáo là không có loại 
người nào là không giáo dục được, hay không huấn luyện được. Do đó, 
trường sở Phật Giáo hiện nay được tái tạo và một số mới được thiết lập 
đã được đưa vào quy chế học đường, Tăng Ni sinh được đi vào nề nếp sinh 
hoạt học tập đồng bộ và gặt hái nhiều thành quả tốt đẹp. Qua suốt thời 
gian bốn năm học tập tại trường Tăng Ni sinh đã được nhà trường tạo rất 
nhiều điều kiện học thêm các ngoại khóa để mở mang kiến thức tiếp cận 
với thực tế bên ngoài, song song với việc học tập ấy, Tăng Ni sinh còn 
đứng ra thực hiện được nghĩa vụ công dân cho chính mình như đất nước ta 
năm nay gặp nhiều thiên tai lũ lụt ở các tỉnh do cơn bảo tàn khốc kéo 
đến, Tăng Ni sinh đã không ngần ngại mở cuộc vận động quyên góp mọi thứ 
để tạo quỷ cứu trợ cho đồng bào Phật tử nghèo đang sống trong cảnh màn 
trời chiếu đất, chịu mọi sự mất mát đau thương. Ðây chính là hình thức 
vừa tu, vừa hành của Tăng Ni sinh học Phật thể hiện đúng với câu: "Phước
huệ lưỡng toàn phương tác Phật" vậy. Hơn nữa, trong việc giáo dục đào 
tạo con người Phật giáo nhằm vào ba lãnh vực học để đào tạo chuyên ngữ 
Phật học gọi là Giới học, Ðịnh học và Huệ học. Ba lĩnh vực này ở phương 
Tây vào thế kỷ 19 các nhà giáo dục gọi là Ðức dục, Thể dục và Trí dục. 
Phật giáo từ rất sớm đã chú trọng vào ba lãnh vực giáo dục này mà còn 
cho thấy liên quan hữu cơ của ba môn học như "Nhân giới sanh định, nhân 
định phát tuệ". Vì chính nhờ ba môn học GIỚI - ÐỊNH - TUỆ này mà tất cả 
mọi người mới có thể tiến đến con đường giác ngộ, không còn bị khổ đau 
trong cõi Diêm Phù Ðề nữa. Do vậy, chúng ta phải công nhận rằng; Giới - 
Ðịnh - Tuệ là pháo môn tu hành trọng tâm của Phật giáo một hệ thống giáo
dục của Phật giáo mang tính: Từ bi - Trí tuệ - Bình đẳng - Tự do - Lục 
hòa - Bát chánh v.v... luôn luôn đi liền với nhau tạo nên một sức sống 
mãnh liệt với một tâm hồn thánh thiện trong cuộc sống thực tại tự nghìn 
xưa và mãi tận nghìn sau, vẫn là bài học phù hợp với mọi thời đại và môi
trường. Như có một học giả nổi tiếng khoa sử Việt Nam nhận định về giáo
dục như sau: "Nền giáo dục Phật giáo của khối óc và con tim. Khối óc 
sáng suốt và con tim quả cảm. Tư tưởng giáo dục Phật giáo là tư tưởng 
giáo dục hiện thực và hành động." 
Qua
những nhận xét tổng thể được trình bày trên đây, chúng ta có thể thấy 
được tình hình Phật giáo hiện nay đã thấm nhuần trong từng hơi thở con 
người trong cuộc sống, như máu xương, da thịt liền nhau trong tình đời ý
đạo. Nguyên lý cơ bản giáo dục Phật giáo không chỉ dừng lại nơi giá trị
đạo đức Phật giáo mà còn gắn liền với vận mệnh dân tộc và lan tỏa khắp 
thế giới. 
Nhận
rõ điều này Hòa Thượng Hiệu Trưởng Học Viện Phật Giáo Việt Nam cơ sở 
II, trú xứ Thiền Viện Vạn Hạnh trong buổi lễ khai giảng năm học mới đã 
phát biểu: "...Là sinh viên Phật giáo trong thời kỳ xã hội hóa, hiện đại
hóa, tiến lên văn minh toàn cầu hóa. Với tinh thần Duy Tuệ Thị Nghiệp, 
sống bằng pháp hạnh vô ngã vị tha, bổn phận và trách vụ của chúng ta 
phải luôn luôn tinh cần phát huy toàn triệt khả năng ‘Giới đức, Tâm đức 
và Tuệ đức’ phải tập trung hơn nữa, nỗ lực chuyên sâu hơn nữa các môn 
Phật học lẫn thế học. Nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội, đồng thời nêu cao 
gương hạnh Phật trong sứ mệnh lịch sử giao phó là ‘truyền trì mạng mạch -
tiếp dẫn hậu lai - hoằng pháp lợi sanh - Báo Phật ân đức’ ngay trong 
cuộc đời này." 
Phải
chăng đây chính là tâm huyết của bậc thầy đã trọn dâng đời mình cho sự 
nghiệp giáo dục đạo đức. Một lời khuyên nhũ chân tình của từ tâm đạo vị,
như một di chỉ tốt hậu cho đàn hậu tấn chung soi. Ðây không phải là sự 
bắt buộc mà là phương châm hành động cho một thực tại sống, một giá trị 
đạo đức của nền tảng giáo dục Phật giáo mà Hòa Thượng là một điển hình. 
Ðiều này cho thấy lập trường nhất quán của giáo dục Phật giáo xuyên suốt
quá trình trên 25 thế kỷ, trãi bao dâu bể tan thương, thăng trầm biến 
đổi, tinh thần Giáo dục Phật giáo vẫn muôn đời chói rạng. 
b) Về giáo dục Phật giáo: 
Cách
đây gần 3000 năm Ðức Phật đã hiện hữu trên cuộc đời, sống trong nhung 
lụa quyền quý nhưng dưới mắt Ngài còn biết bao khổ đau của kiếp người, 
khổ đau vì chế độ giai cấp bất công của truyền thống xã hội bấy giờ cho 
đến khổ đau lớn nhất là phải lặp đi lặp lại mãi kiếp sống không thú vị 
gì trong sáu nẻo luân hồi. Tất cả nổi niềm băn khoăn ấy là thúc đẩy Ngài
từ bỏ cuộc đời vương giả dấn thân đi tìm lẽ sống vĩnh hằng bất tử, Ngài
trở thành bậc toàn giác toàn trí thấu suốt mọi quy luật chi phối con 
người và vũ trụ. Từ khi hành đạo cho đến khi nhập Niết Bàn, trên bước 
đường truyền bá chánh pháp, Ngài chỉ dạy mọi người phương cách đạt đến 
hiểu biết chính xác, thấy rõ thật chất của mọi việc để ứng xử đúng đắn 
được an vui giải thoát cho bản thân mình và những người liên hệ. Trong 
suốt 49 năm năm tận tụy với chất năng của vị thầy giáo hóa liên tục 
không ngừng nghĩ bằng trí tuệ hoàn toàn sáng suốt, việc làm thánh thiện 
và phương pháp giảng dạy sâu sắc, hiệu nghiệm. Ðức Phật quả là một nhà 
giáo dục tuyệt vời. Ngày nay Ðức Phật vắng bóng trên cuộc đời nhưng nhân
cách siêu việt của Ngài đã trở thành bất tử. Những lời giáo huấn, những
tư tưởng trong sáng Ngài truyền trao vốn còn là mô hình quý báo chỉ đạo
cho sự sống có ý nghĩa của loài người toàn khắp năm châu dưới mọi dạng 
hình muôn màu muôn vẻ trong suốt thời gian dài hơn 25 thế kỷ. Ðiều này 
thể hiện rõ nét Phật giáo tiêu biểu cho một hệ thống giáo dục toàn mỹ 
toàn bích. 
Qua
đây ta thấy được nền tảng Giáo Dục Phật Giáo vốn có tự bao đời. Ngay 
khi đạo Phật được du nhập vào đất nước Việt Nam, Ðạo đức Phật giáo nhanh
chóng hòa tan vào đời sống con người xã hội, mỗi hành động, mỗi ý tưởng
của ngôn ngữ sinh hoạt đời thường điều có chất liệu Phật giáo thấm 
nhuần theo từng lĩnh vực: Văn hóa đạo đức, vật chất lẫn tinh thần, trách
nhiệm và bổn phận con người trong cuộc sống. Cũng như Thượng Tọa Thích 
Chơn Thiện đã phát thảo đôi nét về giáo dục như sau: "Giáo dục thường 
được hiểu là những gì làm nên văn hóa và văn minh của một xứ sở. Các 
công trình sáng tạo là suối nguồn của văn minh và các vai trò xây dựng 
phát triển xã hội của giáo dục, là suối nguồn của văn hóa một dân tộc 
Giáo dục văn hóa và văn minh đều là sản phẩm của tư duy con người trong 
một thời đại, con người luôn ước mong được an ổn, hòa bình và hạnh phúc.
Vì thế, văn hóa và giáo dục phải đem lại an ổn, hòa bình và hạnh phúc 
cho con người. 
Một
hệ thống văn hóa giáo dục ấy phải được xây dựng trên cơ sở một hệ thống
triết lý, tâm lý và mầu người giáo dục lý tưởng. Các vấn đề giáo dục 
quan yếu này phải phát xuất từ một lý thuyết về nhân tính lý tưởng, nói 
lên được sự thật của con người, cuộc đời và nối liền hệ thống tách rời 
giữa con người và cuộc đời." 
Như
vậy một nền giáo dục có giá trị thật sự là tự thân nó phải đóng góp 
tích cực cho sự văn minh và tiến bộ của con người, nhằm đem lại an lạc 
và hạnh phúc cho mọi loài. Herbert George Wells (1866 - 1964) nhà cải 
cách xã hội, sử gia triết học người Anh đã nhận định: "Phật giáo mang 
lại sự tiến bộ cho thế giới văn minh và văn hóa chính đáng nhiều hơn bất
cứ ảnh hưởng nào khác trong tiến trình nhân loại". 
Qua
những điều nêu trên đây cho thấy sự nghiệp giáo dục là một nguồn lực 
tối cần yếu trong sự hình thành và phát triển của xã hội con người nói 
riêng và cộng đồng nhân loại nói chung. Ðược thể hiện qua một số điều 
chính yếu như: 
* Giáo dục Phật giáo phải thể hiện được bản sắc văn hóa Phật giáo Việt Nam: 
Là
một Tôn giáo du nhập vào Việt Nam khá sớm, Phật giáo đã thích ứng hoàn 
toàn vào phong tục tập quán bản địa. Chính trên tính chất tùy thuận ấy 
mà Phật giáo tồn tại và phát triển. Và cũng chính trong quá trình này, 
những khía cạnh, những yếu tố mới vốn cô động trong tinh hoa nguyên lý 
Phật giáo, có được môi trường Việt Nam tốt đẹp để nở hoa, khoe sắc. 
Những nét mới ấy chỉ có thể và duy nhất ở Việt Nam. Không thể phát sinh y
như vậy ở một quốc gia khác. Ðiều đó tạo thành bản sắc của Phật Giáo 
Việt Nam. Chẳng hạn như ở Hà Nội có hình ảnh Bà Ðậu - Bà Dâu được thờ 
trong chùa Phật mang tên bà là gương sáng về lòng nhân hậu, hoặc là hình
ảnh người cư sĩ hành pháp Phật được rất nhiều người tôn kính đó là ngài
Tuệ Trung Thượng Sĩ, hoặc tượng trưng cho một vị vua thời Trần xem nhẹ 
ngai vua xuống dân kêu gọi hành thập thiện. Ðây chính là những gương 
sáng nói lên nét đặt thù độc đáo về sự phát triển của một nền văn hóa 
Phật Giáo Việt Nam. Những điều ấy cần thiết được chuyển tải và trở thành
nội dung của việc giáo dục Phật giáo, làm cho dòng mạch văn hóa tốt đẹp
ấy tiếp nối không dứt đoạn nhằm truyền trao lại thế hệ sau một cách 
trọn vẹn nhất tinh hoa Phật Giáo Việt Nam. 
* Giáo dục Phật giáo phải thể hiện tinh thần nhập thế của Phật Giáo Việt Nam: 
Ðể
đảm bảo tính dân tộc và tính bản đại của Phật giáo, nền Giáo dục Phật 
giáo cần chuyển tải tư tưởng "đem đạo vào đời", bằng tinh thần nhập thế 
của Phật Giáo Việt Nam. Vì tinh thần này chẳng những đem đạo vào đời mà 
vẫn còn tồn tại ở các nước khác, mặt khác tinh thần nhập thế của Phật 
giáo còn bao hàm một ý nghĩa sâu rộng hơn, do hoàn cảnh, môi trường sinh
sống, cá tính, đặc trưng dân tộc người Việt nhất là do vị trí của dân 
tộc Việt Nam, một quốc gia luôn bị đe dọa bởi ngoại xâm, mà tinh thần 
nhập thế này ngoài phạm vi thuộc lãnh vực xã hội còn là các hoạt động 
thuộc chính trị và quân sự nữa. Ðây chính là một trong những đặc điểm 
làm cho Phật Giáo Việt Nam mang tính thực tiển năng động qua nhiều thời 
kỳ lịch sử. 
* Giáo dục Phật giáo phải thể hiện những cốt tủy của Giáo lý Phật Giáo: 
Ðào
tạo một thế hệ tiếp nối trên căn bản Phật giáo thì điều tất yếu và tối 
quan trọng chính là nền giáo dục ấy phải thể hiện được những cốt tủy của
đạo Phật. Nội dung nền giáo dục đó phải chuyên tải đến thế hệ sau những
tinh hoa của Phật giáo nhất là trong giai đoạn hiện nay. Giai đoạn 
chuyển tiếp của một thiên niên kỷ. Phật giáo càng cần thiết bản chất 
năng động, thực tiển của mình hơn lúc nào hết, những tính chất, những 
tinh hoa cốt tủy ấy đã hàng ngàn năm nay được đề cập phân tích và biện 
giải hầu hết nằm trong tam tạng kinh điển Phật giáo. Nhưng điều quan 
trọng là trong số những tinh hoa ấy yếu tố nào, tính chất nào đặc biệt 
góp phần tối quan trọng vào việc nói lên bản chất của Phật Giáo Việt 
Nam. Ðây chính là những yếu tố, những tính chất, những điểm then chốt 
nhất thực sự giúp vào công việc xây dựng xã hội mới có hiệu quả và ý 
nghĩa nhất? Thế nên muốn đạt được những điều vừa nói trên, nền Giáo dục 
Phật giáo Việt Nam hiện nay cần góp phần làm sáng tỏ hơn nữa tính "vô 
ngã vị tha" tinh thần "cứu khổ cứu nạn" của Phật giáo. Ðây là một trong 
những yếu tố giúp vào việc tiến đến mục tiêu tối hậu mà Phật giáo đã đề 
ra là sự giải thoát. Ðây cũng chính là chìa khóa mở ra sự giải thoát cho
những con người trên thế gian và cho một hạnh phúc, một thiên đàn tại 
thế, đó là một xã hội thanh bình, ấm no và giàu mạnh. Cũng có thể nói 
bên cạnh tính Bi, Trí, Dũng cần có tinh thần vô ngã vị tha và cứu khổ 
cứu nạn là một trong những hoạt động chủ yếu của lớp thiền sư đã thực 
hiện trong suốt chiều dài lịch sử, và đã góp phần mang lại một đạo Phật 
Việt Nam vừa đơn giản, vừa vô cùng sâu sắc. Vì nó đã chan hòa được vào 
ngay trong chính bản thân của mỗi con người Việt Nam. 
c) Phương pháp giáo dục: 
Trong
một giới hạn nào đó thì nền tảng giáo dục là những nguyên tác cơ bản, 
đã được nung đúc thành hệ thống nhằm sinh sản hoặc tái hiện thành con 
người hoàn thiện đó chính là phương pháp giáo dục qua bài viết của giáo 
sư Lý Kim Hoa trên Báo Giác Ngộ số 2 ra ngày 20.4.1996. Ông đề cập đến 
một số nét cơ bản về lĩnh vực giáo dục và nền tảng xây dựng trong bài 
viết này ông cho rằng muốn đạt tốt hiệu quả giáo dục thì phải tiến trình
theo 3 lãnh vực sau: 
- Phương pháp soạn thảo chương trình. 
- Phương pháp tổ chức các phương pháp giáo dục. 
- Phương pháp giảng huấn và học tập. 
Ðây
là ba lãnh vực mà chúng ta cần phải biết cách linh động và luôn luôn 
tiến đến để phù hợp với trình độ, nhằm đáp ứng nhu cầu đưa con người và 
xã hội đi lên. Ðồng thời ông dẫn chứng và đối chiếu phương pháp giáo dục
của Phật giáo phù hợp với khế lý, khế cơ và khế thời, phù hợp với yêu 
cầu lý luận, sự thật, lẽ phải và thực tế. Ðại ý ông muốn nói phương pháp
giáo dục cần áp dụng lối giảng dạy, phù hợp với đối tượng hoàn cảnh, 
môi trường trong sự dạy cũng như sự học. Về phương diện Phật học thì 
giáo sư chú trọng phương pháp tự phát, y cứ duy thức học của pháp tướng 
tâm để thấm sâu vào tâm thức. Mặt khác áp dụng vào nhân minh học và lập 
cước trên tiêu chuẩn trực giác của thiền tông nghĩa là tự chứng, tự nội 
với tinh thần vô úy mà bài pháp được ông minh chứng là câu chuyện của Bồ
Tát Phú Lâu Na - một con người có đủ đức tin trên tiến trình và sứ mệnh
giáo dục Phật giáo. 
Qua
đây ta có thể hiểu được nền tảng giáo dục hay nói cách khác hơn phương 
pháp giáo dục là nhằm đào tạo thế hệ tương lai. Thế hệ nắm vận mệnh quốc
gia, dân tộc. Quốc gia thịnh hay suy, dân tộc cường hay nhược đều do 
giáo dục tốt hay xấu, đúng hay sai. Vì thế giáo dục là một công tác 
trọng đại; một vấn đề cần được đặt ra, cần được nghiên cứu tỉ mỉ và cải 
tiến kịp thời. Nhìn lại quá khứ của nước ta thì việc giáo dục ngày xưa 
chỉ thiên về đạo lý văn chương, nhưng ngày nay lại nặng về lý thuyết 
khoa học. Như vậy là phiến diện thiếu xót. 
Thật
ra con người là một cái gì đó rất phức tạp, bao gồm nhiều cá tính, 
thiên tư khác nhau nên không thể chấp nhận đồng đều một số giáo điều bất
biến, một số kiến thức cố định. Nói cách khác, đem một số giáo điều 
kiến thức của một người lớn ra mà nhồi sọ trẻ em một các đồng đều không 
phân biệt cá tính, thiên tư là làm một việc thất sách. Chính vì thế, 
chẳng những không phát triển được đúng mức những phần tử ưu tư mà còn 
làm thui chột những phần tử kém thiên tư. Do vậy, chúng ta cần phải có 
một phương pháp giáo dục mới mẽ hơn nhằm đào tạo cho việc cải tiến giáo 
dục, nhất là lề lối giáo dục cổ điển đã quá cũ kỷ, lỗi thời, nên cần 
được các nhà có trách nhiệm về giáo dục ở nước ta lưu tâm, và cải đổi 
phương pháp giáo dục cho nghành giáo dục ngày càng được thăng hoa hơn 
trong cuộc sống. Bởi thế, dù trong một ban nghành nào hay tổ chức nào 
v.v...muốn thực hiện được công việc gì, trước tiên phải có phương pháp 
làm việc thì công việc đó mới có hiệu quả cao. Nếu đề ra phương pháp 
tốt, tức hiệu quả thu hoạch phải tốt; còn phương pháp chưa cao tất nhiên
không thể đòi hỏi một hiệu quả mỹ mãn được. Ví dụ: Một tay cưỡi ngựa 
thì không thể phốc một cái có thể phi nước đại, mà phải có những kỷ 
thuật thích hợp trong tư thế ngồi làm sao cho vững vàng, nắm dây cương 
ra sao, không phải ai cũng có thể cưỡi ngựa được. Hoặc giả chúng ta có 
thể quan sát một cô thư ký văn phòng xem thử cô ta làm việc thế nào. Cô 
ta dùng phương pháp tổ chức công việc trong này, bố trí công việc theo 
lịch, việc xử lý hồ sơ v.v... Nếu như một người tầm thường chưa biết gì 
về phương pháp làm việc, chắc chắn không khỏi rơi vào lúng túng hoặc 
không có đầu óc tổ chức, làm gì cũng vụng về, hiệu quả đạt được không là
bao. Như vậy, phương pháp là con đường vạch định để đạt đến mục đích 
cao nhất trong khoảng thời gian ngắn nhất. Ðiều này cho thấy phương pháp
giáo dục là con đường thẳng nhất chắc chắn nhất, để làm ra chân lý và 
một khi chân lý ấy đã tìm ra được và truyền nó lại cho người khác. Hay 
nói khác hơn, người ta tìm ra chân lý bằng phương pháp nghiên cứu và 
truyền chân lý lại cho người khác bằng phương pháp giáo dục. Nhưng 
phương pháp này được thực hiện ra sao còn tùy thuộc rất nhiều ở các 
nguyên lý, điều kiện thuận tiện, tùy chỗ, tùy thời để thích ứng vào hoàn
cảnh xã hội thực tại. 
"Công
tác giáo dục có nhiệm vụ song song với trình độ phát triển về vật chất 
và tinh thần, tạo sự thích ứng giữa đứa trẻ với những giá trị tinh thần 
mà hoàn cảnh đòi hỏi. Sự thành công phải lệ thuộc cách thức, phương pháp
mà nhà giáo dục đã dùng để tạo sự thích ứng đó". 
Ðể
đạt được phương pháp trên, người làm công tác giáo dục cũng phải có 
phương pháp giáo dục. Tức là phương pháp truyền đạt thông tin kiến thức 
đến đối tượng. Giáo dục không có nghĩa đơn thuần là dạy mà bao gồm cả sự
học, do vậy phương pháp giáo dục chính là phương pháp dạy và học, nghĩa
là bằng cách nào để truyền đạt tốt nhất có hiệu quả nhất và bằng cách 
nào có thể tiếp thu mau nhất, có kết quả cao nhất. Ðức Phật được mệnh 
danh là bậc đạo sư, vậy phương pháp giáo dục của Ngài đã ứng dụng như 
thế nào trong suốt cuộc đời giáo hóa, và đến nay phương pháp đó hiệu quả
như thế nào. Riêng Hòa Thượng Thích Minh Châu - Viện Trưởng Viện Ðại 
Học Vạn Hạnh, hiện là Hiệu Trưởng Trường HVPGVN hiện nay với niềm ưu tư 
thao thức về sự nghiệp giáo dục qua bài viết "Một môi trường giáo dục 
tốt phải khởi nguồn xây dựng bởi những người có ý thức và trách nhiệm" 
đăng ở trang 3 tập văn Thành đạo PL: 2538 nội dung với phương pháp giáo 
dục như sau: 
"Sự
nghiệp giáo dục chỉ có thể thành công chừng nào sự nghiệp ấy trở thành ý
thức và trách nhiệm chung của tất cả mọi người. Thiếu mất ý thức và 
trách nhiệm này, chúng ta không thể nói đến giáo dục hay xây dựng một 
môi trường tốt đẹp cho con người". 
Như
vậy, theo chủ trương của Ngài thì tinh thần giáo dục phải được đặt trên
nền tảng trí tuệ giải thoát là căn bản, và phải kiên trì thật tốt để 
nuôi dưỡng môi trường giáo dục. Bởi vì đức Phật dạy: Trí tuệ giải thoát 
sẽ không hiển hiện với con người ngay lập tức mà nó sẽ hiển hiện một 
cách từ từ, do đó học từ từ và hành từ từ. Với tư tưởng Nam truyền Phật 
giáo, lập trường của phương pháp giáo dục mà Hòa Thượng xây dựng luôn y 
cứ vào khả năng phát triển đời sống tâm thức theo pháp môn Giới - Ðịnh -
Tuệ là nền tảng căn bản. Trong phương pháp giáo dục của Phật giáo thì 
đường đời giáo dục là được thể hiện qua hai mặt sau đây: 
* Ðứng về mặt hệ thống giáo dục: 
Theo Phật giáo thì dân tộc ta thường có câu ca dao rằng: 
"Thứ nhất tu tại gia, 
Thứ hai tu chợ, 
Thứ ba tu chùa ". 
Chữ
"Tu" ở đây có nghĩa là tu học, tu dưỡng thân tâm, đổi mới nếp sống hằng
ngày về cá nhân, gia đình, xã hội và Phật giáo được đề cập ở trong 
chương 4 nói về đối tượng của giáo dục Phật giáo. 
* Ðứng về mặt tổ chức: 
Khi
nói đến giáo dục Phật giáo tức là nói đến ý nghĩa giáo dục trong kinh 
điển Phật giáo hơn là nói đến một nền giáo dục Phật giáo được thực hiện 
với một hệ thống tổ chức hoàn hảo. Sở dĩ như vậy vì Phật giáo chưa có 
một nền giáo dục có tính phổ thông, áp dụng cho hết thảy mọi đối tượng. 
Ðiều này hẳn phải chờ đến một tương lai nào đó. Tuy vậy, ngay từ thời 
Ðức Phật khởi từ vườn Trúc Lâm do Tần Bà Sa La cúng tặng, giáo đoàn Tỳ 
Kheo cũng đã được tổ chức khá chặt chẻ với cơ sở vật chất khang trang, 
với các chức vụ như Duy na, Giáo thọ. Ðó là những vị cao hạ có trách 
nhiệm giáo dục những tăng sĩ của thế hệ kế tiếp. Những buổi thuyết pháp 
của đức Phật cũng được phân loại theo các đối tượng như các Trưởng lão, 
Ðại đức, Tăng sĩ trẻ, Cư sĩ, người lao động. Tất cả các hoạt động như: 
Tổ chức an cư kiết hạ, quy định về phòng ốc, giới trường, yết ma đều 
nhằm phục vụ cho việc tu học, vì phát triển phạm hạnh, thăng hoa tâm 
thức. 
Trong
giai đoạn đầu tổ chức, Giáo dục Phật giáo nhắm đối tượng là tu sĩ tức 
là các Tỳ Kheo và cho đến nay, nền Giáo dục Phật giáo vẫn chỉ dành cho 
giới tăng sĩ là chủ yếu. Trong khi đó, đối với người bình thường các Tỳ 
Kheo cũng ra sức giảng pháp, đem tinh thần Phật giáo để truyền đạt cho 
mọi người mà không có hệ thống tổ chức đầy đủ và cụ thể như một nền Phật
giáo thật sự. Lý do để hiểu là không phải mọi người đều là Phật tử. 
Phật giáo không phải là tôn giáo độc nhất tại một địa phương, một vùng 
hay trên thế giới. Thế nên, khi đứng trước lãnh vực làm việc trong một 
tổ chức nào đó, không chỉ riêng Phật giáo mà các lãnh vực khác cũng vậy,
đều không tránh khỏi mọi thiếu sót bởi đất nước ta còn eo hẹp về kinh 
tế, và kinh phí chưa thể cung cấp đầy đủ, rất người quan tâm và tài trợ 
đến nghành Phật giáo. Hay nói cách khác hơn là tinh thần đoàn kết còn 
rời rạc nên trong khi làm việc với nhau chưa được chặt chẽ cho lắm. Do 
vậy mà dẫn đến sự bất đồng ý kiến v.v... Như trong giáo trình Xã hội học
đề cương của Giáo sư Phó Tiến Sĩ Nguyễn Minh Hòa có đề cập ở trang 160 
phần 4 - mục 4 - chương 5 có viết: "Ðối với cá nhân những người làm công
tác quản lý lãnh đạo. Các cán bộ cao cấp giữ trọng trách trong các cơ 
quan của chính phủ thì dư luận xã hội đóng vai trò cực kỳ quan trọng, vì
thế các nguyên tắc các quốc gia trên thế giới thường xuyên thăm dò dư 
luận về uy tín của mình. Các chủ trương các cơ quan luôn luôn lắng nghe 
các ý kiến nhận xét của các nhân viên dưới cấp về năng lực làm việc, tư 
các đạo đức, tác phong quan hệ và uy tín của mình." Ðây cũng chính là 
quan điểm cơ bản trong chu trình kiến tạo một hệ thống tổ chức quy mô 
của các vị đứng gốc độ động cơ lãnh đạo. Theo hệ thống tổ chức của các 
trường Phật học trong nước hiện nay, vấn đề nhân sự còn quá hiếm hoi, 
công tác thì luôn bị ách tắc chưa được hoàn chỉnh. Phần lớn là do thiếu 
kinh phí, rất ít người quan tâm tài trợ cho công tác của nghành giáo 
dục. Một số điểm đáng nói là cá nhân lãnh đạo vì tư hữu riêng, chùa 
riêng, cuộc sống kinh tế riêng nên lo việc chung còn thiếu tinh thần 
đoàn kết nội bộ, hay một vài nơi có những vị là quá bao đồng dẫm lên 
nhiệm vụ của người khác, đại để tình hình hiện nay trên nguyên tắc chung
thì công tác nhìn bên ngoài có lẽ trôi chảy, nhưng bên trong không kết 
hợp nhất quán cho lắm. Hơn nữa, vì lý do cụ thể có những vị đóng góp 
công sức rất nhiệt tâm nhưng trên cơ bản không học qua các lớp quản lý 
và xử lý hành chánh, một nghiệp vụ chuyên môn của bộ phận văn phòng, 
không trách gì công tác luôn bị đình trệ và chậm tiến. 
Sự
thiên trọng về phát triển vật chất, sự lơ là trong việc phát triển tâm 
linh càng lúc càng khiến con người cảm thấy lạc lõng, cô đơn, bối rối. 
Chúng ta trong thời đại ngày nay, đứng trước những khổ đau, bất ổn thời 
đại như chiến tranh, đói kém, hận thù, những sa đọa của xã hội, sự cạn 
kiệt của môi trường có thể nghĩ rằng cái khổ của con người chưa có chiều
hướng vơi đi mà lại đang có nguy cơ tăng lên. Trách nhiệm đó là của 
giáo dục. 
Giáo
dục ngày nay chưa đi đúng hướng. Giáo dục cần nổ lực nhiều hơn nữa vào 
việc nghiên cứu của con người trong quan hệ với thiên nhiên và xã hội. 
Giáo dục có nhiệm vụ xây dựng, định hình phát triển nhân cách của con 
người trong nỗ lực giúp cho con người tự tìm hiểu mình, tự xây dựng mình
tổ chức cho mình. Ðấy là điều mà Carl Roges gọi là: "Self concept" mà 
An dras Angyal gọi là: "Self - organization" một sự thâm nhập vào cái 
tôi của tự mỗi người mới có thể giúp người ấy nhận thấy cái nguyên nhân 
khổ đau trên đời. Tuy nhiên riêng về đường lối cũng như hệ thống tổ chức
của Phật giáo thì có khác hơn. Nhờ có sự ủng hộ rất nhiệt tình của các 
tín đồ đối với các người tu sĩ học Phật, nên thường đối mặt vật chất 
cũng tạm ổn định, với hơn nữa là dựa vào kinh điển Phật học khá sâu, bởi
thế trong khi làm việc đều có tinh thần đoàn kết chặt chẽ rất cao, chịu
khó lắng nghe mọi ý kiến của người khác và cấp trên đưa xuống thì cấp 
dưới tuân thủ làm việc một cách trôi chảy... Do vậy mà ngày nay Phật 
giáo đã và đang phát triển rất cao về nghành Giáo dục, không những lan 
truyền các tự viện, đồng thời Phật giáo còn được phổ biến rộng rãi trên 
thế giới và trở thành môn học chính thức ở nhiều Ðại Học Phật Giáo và 
không Phật giáo. Ngoài hệ thống Phật Học Viện dành cho tu sĩ Phật Giáo, 
chúng ta thấy có nhiều trường Ðại Học Phật Giáo tại Trung Quốc; Ðại Học 
Hoa Nghiêm ở Hàn Châu, Dương Châu, Phật Quang, Phật Học Nghiên Cứu Viện ở
Ðài Loan v.v... Trong khi đó, tại Ấn Ðộ, Thái Lan, Campuchia và Việt 
Nam cũng có Ðại Học Phật Giáo nổi tiếng như New Delhi, Nalanda, 
Mahachulalongkorn, Maha Makut, Preah Sihanu, Aaja, Học Viện Phật Giáo 
Việt Nam, v.v... Ngoài ra còn có rất nhiều Phật Học Viện, Thiền viện 
dành cho cư sĩ ngày càng được thành lập nhiều như ở Pháp, Mỹ, Canada, 
Úc. Người ta hy vọng trong tương lai gần sẽ có những hội nghị Quốc Tế về
Giáo Dục Phật Giáo và việc tổ chức ấy sẽ rộng rãi, được mang tính hiện 
đại hơn. 
Ðiều
này cho thấy nền Giáo Dục Phật Giáo cách đây 25 thế kỷ qua, thì chưa có
một nền giáo dục được tổ chức và thực hiện hoàn bị mang ý nghĩa của một
nền giáo dục hiện đại, nhưng nhờ có sự nổ lực và tiếp cận với nền giáo 
dục xã hội bên ngoài trên toàn thế giới rất nhanh, nên nền Giáo Dục Phật
Giáo từ 25 thế kỷ đã thể hiện được tất cả những gì mà giáo dục hướng 
đến. 
CHƯƠNG IV: ÐỐI TƯỢNG CỦA GIÁO DỤC PHẬT GIÁO
1. Ðối tượng của giáo dục: 
Ðể hiểu sâu hơn về đối tượng của giáo dục này, trước tiên chúng ta cùng sơ lược về vài điểm chính yếu sau: 
* Khái niệm về đối tượng của Giáo dục học: 
Giáo
dục học là khoa học về việc giáo dục con người, khoa học về sự hình 
thành nhân cách con người trong quá trình người giáo dục và người được 
giáo dục hoạt động có tổ chức một cách đặt biệt. 
Lãnh
vực nhận thức của Giáo dục học là những tri thức về khái niệm, tính 
chất, đặc điểm về tổ chức hoạt động trong việc giáo dục con người. Phạm 
vi nhận thức của Giáo dục học bao gồm việc giáo dục thế hệ trẻ đang lớn 
lên và những người đang trưởng thành. Việc giáo dục con người là một quá
trình giáo dục, quá trình này có sự vận động, diễn ra trong thời gian, 
không gian nhất định, có nội dung quy luật và động lực của nó. Giáo dục 
với tư cách là một hiện tượng xã hội được nhiều nghành khoa học xã hội 
nghiên cứu; Kinh tế học, Xã hội học, Ðạo đức học, Tâm lý học, Khoa học 
quản lý...Giáo dục học khác với các nghành khoa học nên chổ có nghiên 
cứu bản chất trong của quá trình giáo dục bằng cách tìm hiểu cấu trúc và
cơ chế của quá trình đó. Nó coi giáo dục là một quá trình hình thành cá
nhân một cách có ý thức, có mục đích, có tổ chức, nó soi sáng các quy 
luật của quá trình đó, nghiên cứu lý luận và phương pháp của hoạt động 
Giáo dục, giáo dưỡng. 
* Quá trình Giáo dục là đối tượng của Giáo dục học: 
Quá
trình Giáo dục là quá trình hình thành cá nhân con người được tổ chức 
một cách có mục đích và có kế hoạch, căn cứ vào những mục đích và những 
điều kiện do xã hội quy định, được thực hiện thông qua các hoạt động 
giáo dục và học tập trong một thời gian và không gian nhất định; nhằm 
giúp người học chiếm lĩnh những kinh nghiệmp xã hội của loài người, nhờ 
đó mà hình thành các phẩm chất năng lực của cá nhân theo những yêu cầu 
của xã hội. Quá trình giáo dục theo quan niệm trên đây chính là đối 
tượng nghiên cứu của giáo dục học. Giáo dục học nghiên cứu quá trình 
Giáo dục trong tính tổng thể, tính toàn vẹn của nó, cũng như các bộ 
phận, các yếu tố của quá trình đó. 
Quá
trình giáo dục tổng thể bao gồm quá trình dạy học và quá trình giáo dục
nghĩa hẹp (gồm các quá trình giáo dục bộ phận; quá trình đức dục; thể 
dục và lao động.) Ngoài ra, quá trình giáo dục này còn được gọi là quá 
trình giáo dục nghĩa rộng và đào tạo. Trong lãnh vực nghiên cứu khoa học
giáo dục và nhà trường còn được gọi là quá trình sư phạm tổng thể. 
* Cơ Cấu của quá trình giáo dục: 
Quá
trình giáo dục tổng thể cũng như các quá trình bộ phận đều được tạo 
thành bởi các yếu tố sau: Chủ thể giáo dục (người giáo dục) khách thể 
(hoặc đối tượng) Giáo dục (người học), mục đích giáo dục, nội dung, 
phưong pháp, phương tiện, hình thức tổ chức giáo dục. Tham gia vào quá 
trình giáo dục (mình có những điều kiện giáo dục bên ngoài [môi trường 
kinh tế - sản xuất], chính trị, văn hóa xã hội) và điều kiện bên trong 
(môi trường sư phạm và cơ sở vật chất thiết bị trong nhà trường.) 
Một
vài điểm chính yếu được đề cập trên, là chỉ định nghĩa theo cách giáo 
dục học của thế học. Riêng về cách định nghĩa "Ðối tượng của Phật Giáo 
Việt Nam". Theo Giáo Sư Tiến Sĩ Thượng Tọa Thích Chơn Thiện cho rằng: 
Ðối tượng của giáo dục là con người, chỉ có con người mới có văn hóa và 
giáo dục. Không phải là con người trong ý nghĩa "con người là con vật có
lý trí", bởi lý trí không thể là yếu tố quyết định hiện hữu của con 
người toàn diện. Ở một mặt nào đó lý trí là phần giúp tạo nên một giá 
trị khác với loài động vật khác, nhưng ở mặt khác lý trí chính là nhân 
tố gây ra nhiều phiền não, khổ đau cho con người. Cũng không phải là con
người trong ý nghĩa "con người là con vật có tôn giáo", bởi vì các tôn 
giáo hình thức đã phó thác con người cho một đấng sáng thế nào ấy, đã 
đánh mất vị trí làm chủ con người, và vì không nhân danh tôn giáo hình 
thức, con người vẫn có thể xuất hiện như con người chính nó rất hiện 
thực và nhân bản. Con người ở đây là con người trong tương quan xã hội 
với các dòng tâm - sinh - vật lý đang trôi chảy trước mắt. Chính con 
người này đang tiếp thu các nội dung giáo dục, mà không phải là chiếc 
máy truyền đạt của giáo dục đòi hỏi phải đáp ứng với yêu cầu phát triển 
của các cá nhân, tiếp thu và đáp ứng tâm lý của đối tượng tiếp thu thế 
nào để đem lại hạnh phúc cho các cá nhân và tập thể mà cá nhân đang 
sống. Với điều kiện này đòi hỏi đến kỷ thuật, tâm lý và phương pháp 
truyền đạt kiến thức như là một phần của nội dung Giáo dục. 
Theo
như Trường A Hàm, Trung A Hàm và Khởi Thế Kinh, Ðức Phật dạy: Khi vận 
mệnh suy thoái và các tiêu cực của loài người đã tới, thì sẽ có 4 hiện 
tượng suy đồi và tiêu vong, cụ thể là những quốc gia kém phước đức và 
gây nhiều tội ác, thì toàn thể nhân dân phải tích cực học làm những điều
thiện và tránh những điều ác. Nghĩa là từ quan chức đến thường dân cố 
gắng đồng tâm nhất trí, để chuyển hóa 4 cộng nghiệp thành 2 việc làm 
nhân ái hợp lòng dân và đáp ứng những nguyện vọng chung của mọi người, 
bởi lẽ 4 hiện tượng suy thoái xảy ra là do: 
1) Vận mệnh chung của đất nước. 
2)
Chính những người dân đã gây ra tội ác, đi ngược lại những quy luật 
thiên nhiên và những luật lệ cũng với truyền thống văn minh cao đẹp của 
dân tộc. 
3)
Do các nhà lãnh đạo quốc gia thiếu nhiệt tình giúp đở nhân dân không đủ
phẩm chất tài đức, lợi dụng chất năng của mình để tham nhũng. 
Bởi vậy, mới có 4 hiện tượng suy đồi như sau: 
- Nghèo đói, thất nghiệp. 
- Bệnh tật trầm trọng. 
- Chiến tranh chém giết lẫn nhau. 
- Ngu si, thất học và gian ác. 
Muốn
chuyển biến, đổi mới toàn bộ 4 việc tiêu cực nêu trên, nhà nước và nhân
dân cùng cương quyết lật ngược lại bằng điều phước thiện cụ thể: 
1)
Hiện đại hóa và công nghiệp hóa nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, 
tiểu thủ công nghiệp, đại công nghiệp hóa, trồng trọt hoa màu chăn nuôi 
gia súc, để cho mọi người có cơm ăn, việc làm theo tiến trình văn minh 
và thực tiển. 
2)
Phải xây thêm bệnh viện, viện xá, chuẩn y viện và những văn phòng y tế,
cùng giáo dục và đào tạo các bác sĩ, y sĩ, dược sĩ và y tá để phục vụ 
khắp nơi. 
3)
Tổ chức những hội đoàn tương thân tương ái để giao dịch, làm ăn trao 
đổi những kinh nghiệm về kinh tế thị trường vượt lên những tranh chấp 
quyền lợi, biên giới lãnh thổ và những ý hệ chính trị. 
4)
Xây dựng thêm các thường học, đào tạo thêm các chuyên viên, để trực 
tiếp giảng dạy về chữ nghĩa văn hóa, khoa học, kỷ thuật và chuyên nghiệp
cho nhân dân, nhất là cho các giới trẻ. Ðể hiểu biết và thực hành trong
nếp sống cụ thể hằng ngày, truyền đạt cho họ biết yêu chân lý, biết làm
việc thiện, và biết làm tốt đẹp cuộc đời, ngay trong thời gian hiện tại
và trên khắp quê hương, đất nước mình, bằng đời sống văn minh và môi 
trường trong sạch. 
Ðiều
này cho ta thấy đối tượng của giáo dục là con người, thế mà một số định
nghĩa đầy đủ về con người cho đến nay vẫn là một đề tài nghiên cứu chưa
ngã ngũ. Như vậy, chứng tỏ con người chưa thật biết mình. Xem con người
như một sản phẩm đặt biệt cao cấp của thượng đế, hay xem con người là 
một sinh vật có lý trí đều là những quan điểm mơ hồ. Ðiều ấy kể là những
vấn đề do con người đặt ra, trong đó có giáo dục, đến từ kinh nghiệm, 
từ mong ước được vươn lên, nhất là mong ước được thích ứng, hài hòa với 
thiên nhiên, xã hội và chính mình. "Bản chất con người là một tương hòa 
các quan hệ xã hội", con người lại có bản năng và lý trí, có tâm hồn và 
đạo đức... Con người lại có nhân tính riêng, hay còn gọi là nhân cách. 
Giáo dục nhằm đào tạo con người phát triển vươn lên về nhiều phương 
diện. Song son với việc thu nhập kinh nghiệm, kiến thức và kỷ năng, con 
người cần được giáo dục để tự nhận biết mình, để phát triển nhân cách 
của mình theo đường hướng lý tưởng của xã hội qua việc giáo dục cá nhân,
gia đình, đoàn thể và xã hội. 
a) Giáo dục cá nhân: 
Do
các cá nhân có nhiều sự khác biệt về vật lý, tâm lý, tâm linh, giai cấp
xã hội và khả năng, nên học đường ngày nay cần có đường hướng giáo dục 
cá nhân. Mục đích của cuộc sống con người gồm hai bổn phận: Bổn phận đối
với chính bản thân và bổn phận đối với chính tha nhân. 
Trong
hai bổn phận này, bổn phận đối với chính mình là cần trước nhất. Trước 
hết, ta phải xây dựng chân chính bản thân mình sau mới nghĩ đến việc xây
dựng cho người khác, bởi thế Giáo Sư Tiến Sĩ Russell N. Cassell có 
viết: 
"Hướng dẫn được con người là một khoa học: 
Trước là tìm giúp người này tự tìm hiểu lấy mình. 
Hai là tìm cách giúp họ nhận định rõ ràng những điều hiểu biết ấy về bản thân mình. 
Ba là tìm cách giúp họ nhận lấy trách nhiệm về sự tự do lựa chọn. 
Và sau hết tìm cách giúp họ tự vạch lấy một con đường lối hành động ăn khớp với sự lựa chọn đó."1 
Thật
ra, mỗi con người là một cá nhân độc nhất, là một cơ cấu phức tạp gồm 
những nhu cầu tinh thần, thể chất, tình cảm, xã hội với những mức độ 
trưởng thành và những tiềm năng khác nhau. Thanh thiếu niên là một cá 
nhân đáng được quan tâm một cách đúng mức vì chúng là những chồi non của
xã hội, của đất nước nên chúng ta có nhiệm vụ hướng dẫn, tìm hiểu để 
giúp chúng vượt qua khúc quanh của cuộc đời. Muốn được vậy chúng cần 
phải ý thức bổn phận đối với chính mình, tha nhân, gia đình, quốc gia và
nhân loại. Cho nên, dù ở trường hợp nào người hướng dẫn cần phải quan 
tâm và đạt được mục tiêu tổng quát của khoa hướng dẫn: "Nhằm vào sự phát
triển cá nhân toàn diện, nhằm vào tất cả vấn đề của cuộc sống cá nhân 
và tương quan cá nhân"2. Nhưng muốn đạt đến mục tiêu hướng dẫn và thi 
hành ấy một cách hữu hiệu chúng ta nên lược qua một vài phương thức: Hội
đàn, Khải đạo, Tổ chức sinh hoạt tập thể trong và ngoài học đường...đều
là những phương thức hướng dẫn thông dụng trong các lĩnh vực gia đình, 
học đường và xã hội. Nhưng điều kiện cần đủ để đạt đến mục tiêu trên là 
nắm vững và tôn trọng tinh thần các quy luật... "Tinh thần hướng dẫn có 
tính cách tư vấn và khuyến cáo hơn là cưỡng định...chấp nhận mọi thái 
độ, mọi hành vi dù không tốt đẹp để tìm hiểu và sửa chữa. 
Quy
luật hướng đòi hỏi người hướng dẫn phải có nhiều đức tính nhẫn nại và 
tháo vát, biết lắng nghe để tìm hiểu hơn là phát biểu nhằm cho mình mà 
quên cả tha nhân" 
Như
vậy hệ thống giáo dục cá nhân là phương thức giáo dục đánh thức những 
tiềm năng cao quý nơi mỗi con người. Ðể rõ hơn chúng ta hãy nghe Thượng 
Tọa Thích Chơn Thiện nhận định trong Luận Án Tiến Sĩ, p. 124: 
"Một
hệ thống giáo dục cá nhân yêu cầu có các tinh thần giáo dục về trách 
nhiệm cá nhân, tự tin, tự nỗ lực, tự chế, tự chấp nhận, tự tri...không 
có các tinh thần ấy, hệ thống giáo dục cá nhân không thể hữu hiệu." 
b) Giáo Dục Gia Ðình: 
Có
lẽ sẽ không ai bác bỏ rằng gia đình chính là tế bào của xã hội, là 
những đơn vị hợp thành xã hội. Giữa gia đình và xã hội có mối liên quan 
chặt chẻ với nhau: Trong có ấm thì ngoài có êm, quan hệ gia đình thuận 
hòa, tốt đẹp sẽ góp phần làm cho kỷ cương của xã hội được củng cố và 
phát triển. Bởi gia đình có đào tạo giáo dục nên những người tốt thì xã 
hội mới có những công dân tốt. 
Gia
đình là tế bào của xã hội. Thế nên, củng cố gia đình là củng cố nền 
tảng xã hội và phát triển gia đình tức phát triển xã hội. Nghĩa là mỗi 
thành viên trong gia đình phải dự phần vào việc phát triển cuộc sống xã 
hội, gia đình khép kín là một trở ngại cho xã hội. Ngoài ra gia đình còn
là một hình thức cộng đồng và được gắn bó v?i nhau bởi mối quan hệ hôn 
nhân và huyết thống. 
Nói
là môi trường đầu tiên của xã hội, tất cả bằng tình cảm thông qua tình 
cảm mà thuyết phục và giáo dục và được đứa trẻ tiếp nhận một cách hồn 
nhiên vô tư, từ đó tác động một cách trực tiếp, cá nhân làm cho đứa trẻ 
phát triển cả hai phía cạnh thể chất lẫn tinh thần, bằng sự giáo dưỡng 
của cha mẹ. Gia đình còn là một thiết chế xã hội tương đối ổn định, gia 
đình có truyền thống gương mẫu giá trị riêng, mỗi đứa trẻ sinh ra trong 
gia đình đều có sự tiếp nhận các truyền thống khuôn mẫu riêng có ấy của 
gia đình. 
Trong Pháp Cú kinh đức Phật dạy: 
"Như người ngồi nhà vụng lợp 
nước mưa sẽ rỉ vào 
tâm không tu cũng vậy 
tham dục vĩ vã vào" (PC, 13) 
"Như ngôi nhà khéo lợp 
nước mưa không thấm vào 
tâm khéo tu cũng vậy 
tham dục khó lọt vào" (PC, 14) 
Qua
hai đoạn kinh ẩn dụ trên cho thấy môi trường giáo dục gia đình rất quan
trọng trong trách nhiệm và bổn phận của người cha và người mẹ, sự 
truyền đạt đúng đắn tốt đẹp thì con cái được một ý thức lễ giáo tốt đẹp,
ngược lại chúng sẽ trở nên hư hỏng, hoang đàng và bất trị. 
Xã
hội ngày nay đang phản ảnh tình trạng thiếu niên rơi vào tình huống tha
hóa tri thức và đạo đức, nạn thất nghiệp và vấn đề phạm pháp ngày càng 
phát triển, phải chăng do cha mẹ thiếu tinh thần trách nhiệm giáo dưỡng,
con cái quá buông thả và không kỷ luật trong việc học hành kể cả việc 
giải trí vui chơi từ thuở nhỏ của con cái mình, làm cho đứa trẻ mất niềm
tinh nơi cuộc sống vào buổi đầu đời. Chúng không được cha mẹ thương yêu
chìu chuộng, tạo một cảm giác lành mạnh, người cha thì quá độc tài, 
lạnh lùng và nghiêm khắc, chúng thật sự mất hẳn niềm tin vui hạnh phúc 
với một cảm giác thẩm mỹ về nét đẹp tinh thần làm tâm hồn chúng trở nên 
cô đơn và xa lạ đối với những người sanh ra chúng. 
Giáo
dục gia đình còn là sự giao tiếp, bổn phận, sự cư xử giữa người với 
người dựa theo lời dạy của Ðức Phật trong kinh Thiện Sanh, thuộc Trường 
Bộ kinh: (Sinhlovada Digha Nikaya), quy định 6 quan hệ vào quyền hạn của
mỗi thành viên trong gia đình, ăn ở và đối xử với nhau cho hợp tình hợp
lý của một nề nếp chung gương mẫu. Ðó là: 
Tương hệ giữa cha mẹ - con cái. 
Tương hệ giữa thầy - trò. 
Tương hệ giữa chồng - vợ. 
Tương hệ giữa bạn bè. 
Tương hệ giữa chủ - thợ. 
Tương hệ giữa tu sĩ - cư sĩ. 
Sáu
mối quan hệ trên nói lên rằng đời sống là mối tương quan, tương duyên 
giữa con người và xã hội: "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi 
người" không thể sống mà chỉ biết cá nhân cũng không thể sống bị cá nhân
đánh mất hoàn toàn. Vì giải thoát thì phải là vấn đề cá nhân, nhưng về 
hạnh phúc tương đối ở đời thì phải là hạnh phúc của tương giao. 
c) Giáo dục xã hội: 
Nhà
trường và gia đình là mối tương quan sinh động, quân bình đem các tiến 
bộ cho cá nhân và xã hội. Và để có thể góp phần tích cực vào việc xây 
dựng và phát triển xã hội, giáo dục phải xứng đáng đóng được vai trò 
hướng dẫn của mình. Vai trò giáo dục này không chỉ hạn chế trong việc 
cung ứng cấp thời mà phải biết tìm hiểu chiều hướng phát triển lâu dài, 
hàng mấy mươi, mấy trăm năm của xã hội. 
"Càng
ngày người ta càng nhận thấy vai trò quan trọng của giáo dục không phải
là nhằm nơi cung cấp những người thợ cho xã hội, mà là ở nơi cung cấp 
những trái tim, những khối óc cho xã hội." 
Thật
vậy, chính những trái tim, khối óc ấy đem lại cho xã hội những luồng 
máu mới, những nhiệt tình mới, những sáng kiến mới làm cho xã hội luôn 
trẻ trung sinh động và tiến hóa thêm lên. 
"Chỉ
có thế chúng ta mới mong xây dựng được một xã hội thái bình, một Niết 
Bàn tại trần thế, một xã hội trong đó liên hệ giữa người và người là mối
liên hệ tích cực, hướng thượng, hổ tương và thân ái." 
Giáo
dục xã hội là giáo dục góp phần phát triển, làm thay đổi bộ mặt của xã 
hội. Và chính giáo dục đã góp phần đào tạo những người quản lý nhà văn 
hóa, những nhà hoạt động xã hội và một đội ngũ công nhân lành nghề năng 
động sáng tạo, nắm vững công nghệ: 
"Giáo
dục và tiến bộ xã hội có mối liên hệ với nhau. Muốn cho đất nước ta 
phát triển, đầu tư một cách đúng mức và cần quan tâm hơn nữa đến nghành 
giáo dục. Và đến lượt mình, giáo dục tốt sẽ tạo ra một nguồn nhân lực 
dồi dào với số lượng lớn có giá trị cao về mọi mặt." 
Có
như thế chúng ta mới thực hiện được mục tiêu cao cả "Người giàu nước 
mạnh, xã hội công bằng và công minh" để hướng tới hòa nhập và sự phát 
triển chung cùng với các dân tộc khác vững bước vào thế kỷ 21. Tuy nhiên
trong xã hội có rất nhiều mối quan hệ khác nhau, rất đa dạng và phong 
phú. Do vậy, khi nói đến giáo dục xã hội thì phải liên tưởng đến giai 
cấp xã hội. Và giai cấp xã hội là gì? Người viết xin được giới thiệu qua
để làm sáng tỏ thêm cuộc sống được tốt đẹp, thăng hoa thêm cách nhìn 
của đức Phật. Về giai cấp xã hội: 
Ðức
Phật cho rằng lý thuyết giai cấp chỉ là một cái chấp của tri thức, và 
"những người nào còn chấp trước lý thuyết giai cấp thì còn rất xa sự 
thành tựu vô thượng trí đức" (Dhammapada) Ngài là vị tỵ tổ cách mạng; tự
Ngài phế đế bài phong, phá tan thành sắt giai cấp ở xã hội Ấn lúc bấy 
giờ, nâng đở giai cấp hạ tiện, chủ trương thuyết sống hòa đồng (lục hòa)
Ngài đã thành công một cách rực rỡ mà không tốn một mũi tên và chẵng 
hao một giọt máu của nhân loại. Quyền cao tước trọng, công danh phú quý 
tột bậc trên đời, còn ai hơn Ngài. Thế mà Ngài xã bỏ ngôi vua để đổi lấy
đời du sĩ, nhằm hóa độ chúng sanh cầm đuốc chân lý soi sáng cho mọi 
loài. Ngài tự đề xướng thuyết bình đẳng được khẳng định trong kinh Sutta
- Nipata - Verse 136 như sau: 
"Không có giai cấp Bà La Môn do giòng giống sanh ra; 
Không có giai cấp Pariah do giòng giống sanh ra; 
Bằng việc làm cụ thể, mới có thể gọi là Pariah 
Bằng việc làm cụ thể mới có thể gọi là Bà La Môn" 
Câu
nói ấy là câu nói đầu tiên của bình đẳng đã hiện thân trong đức Phật 
Thích Ca. Nó có giá trị như một lời tuyên ngôn trước nhất của mặt trận 
bình đẳng chống lại sự bất công của giai cấp xã hội. Mặt khác, Ngài còn 
giảng dạy một cách rõ ràng rằng chỉ có những tính cách di truyền mới có 
thể coi là nguồn gốc trong giòng giống qua câu nói: "Không có giai cấp 
dòng máu cùng đỏ, trong giọt nước mắt cùng mặn". Vì thế, trong khi đi 
vào quần chúng với lòng từ bi rộng lớn, với nếp sống phản ảnh, vấn đề 
trọng đại phải thực hiện và tiêu diệt nguyên nhân của mọi sự thù hận, 
chém giết bằng cách khuyết sung chất người về giai cấp đang bị xã hội, 
đè nén, tù hãm, thầm kín trong tâm tư mọi cá thể, giai cấp chỉ là những 
chiếc áo để thay, và vì tình thương trong con người mới là một thực thể,
khai thác và nuôi dưỡng. Nhưng con người không phải ai cũng tiến bộ như
nhau, song khi tìm hiểu họ, ta sẽ không phân định theo từng khu vực ảnh
hưởng của giai cấp mà cần xét đoán chân tướng nội tâm của họ, họ phát 
huy khả năng phục vụ. Muốn đạt được điều này trước tiên chúng ta phải tự
mình ý thức được một cách khiêm tốn và mạnh mẽ rằng: không có một cá 
nhân nào khác có thể cải thiện được chúng ta. Khi mỗi cá nhân của chúng 
ta được cải thiện thời đương nhiên gia đình chúng ta, học đường chúng 
ta, xã hội chúng ta, quốc gia chúng ta sẽ được cải tiến và cải thiện 
theo. Nếu cá nhân xấu thì xã hội sẽ bị ảnh hưởng, còn như cá nhân tốt 
đẹp thì xã hội tốt đẹp, xã hội tốt đẹp thời cá nhân cũng tốt đẹp luôn. 
Thật sự không có một ranh giới chia xẻ giữa cá nhân và xã hội, đó chính 
là bức thông điệp giáo dục xã hội mà Ðức Phật đã gởi đến chúng ta cách 
đây 2550 năm. 
2. Ðối tượng giáo dục của Phật giáo: 
a) Ðối với tu sĩ Phật giáo: 
Chính
các Tăng Ni là đối tượng cần quan tâm giáo dục trước hết, để trở thành 
vai trò nồng cốt trong công cuộc giáo dục đạo Phật. Bởi các chùa hiện 
nay thường hay mắc phải hai khuyết điểm: 
- Một là tuyển người xuất gia quá dễ dãi. 
- Hai là phương pháp dạy đạo đức chưa được hoàn mỹ và kỷ lưỡng cho lắm. 
Do
đó hiện nay tư cách Tăng Ni đang bị than phiền rất nhiều và cộng thêm 
lối sống sinh hoạt tu tập của các chùa không đáp ứng được mục tiêu giáo 
dục quần chúng, vì Tăng Ni không có trình độ theo kịp với xã hội bên 
ngoài và không được định hướng đúng đắn. Thế nên, mong rằng các nhà chức
trách trong Ban Giáo Dục Tăng Ni cần phải có một phương sách cao và 
triệt để hơn, mạnh mẽ hơn để nâng cao trình độ Tăng Ni cần phải có một 
bước tiến dài. Ðồng thời cần nên yêu cầu các chùa chiền, tu viện, thiền 
viện v.v... phải thận trọng về việc thu nhận người xuất gia và không nên
ưa chuộng số đông. 
b) Những nổi niềm trong sinh hoạt Tăng Ni hiện nay: 
Hưởng
ứng phong trào nâng cao dân trí, phát triển xã hội, Tăng Ni trẻ quyết 
tâm học tập Phật học lẫn thế học khắp cả ba miền. Theo như thống kê hiện
nay số lượng Tăng Ni cư trú trên địa bàn thành phố khá đông, chứng tỏ 
sự ham tu hiếu học và ý chí cầu tiến của Tăng Ni trong thời phát triển 
thật đáng tuyên dương. Song bên cạnh đó là những nỗi niềm không kém phần
quan trọng là vì sự sinh hoạt đời sống vật chất ở thành phố rất cao. 
Nếu như ở một ngôi chùa làng quê mỗi ngày chi phí cho 4 hoặc 5 người 
tiêu dùng chỉ từ 5 đến 10 ngàn đồng, nhưng trái lại đối với cuộc sống 
quân bình ở thành phố thì một người phải. 
Tương
đương với số tiền đó. Như vậy khoảng ngân sách cho học phí, tài liệu, 
giáo án, phương tiện đi lại v.v... phải mất từ ba trăm đến bốn trăm ngàn
đồng cho một tháng, như thế một số tiền lớn ấy tìm đâu ra giữa cuộc 
sống kinh tế bon chen nơi phồn hoa đô hội, trong khi Tăng Ni sinh chỉ là
những người tu và chỉ biết lo đi "ăn học". 
Theo
một số Tăng Ni sinh cho biết phần lớn họ đi học như thế là do sự cần 
cầu giáo pháp của Ðức Phật, thế nên bằng mọi giá họ vẫn kiên trì theo 
đuổi Phật học, vì không muốn rơi vào tình trạng quê hèn, kém dở hay 
thiếu văn hóa, và để có một trình độ, một nơi cư trú đi học mong lấy cho
được mảnh bằng. Họ phải đấu tranh dành quyền sống, chấp nhận mọi gian 
khó...có lẽ họ tâm đắc với câu: "Fear and disappear when ignorances 
dispelled by knowlege" "Sự sợ hải và lo lắng sẽ không còn, khi ngu si bị
xua tan bởi kiến thức". 
Ðiều
này đã nói lên lòng can đảm, ý chí phi thường qua những cuộc dấn thân, 
đi tìm sự học đạo của giới trẻ đầy nhiệt huyết trong cuộc sống hôm nay. 
Ngày
nay, trong hệ thống giáo đoàn Phật giáo chúng ta với số lượng Tăng Ni 
hiện tại rất nhiều, nhưng số lượng cao đó không có nghĩa là Phật giáo 
tiến lên, mà ngược lại đó là nổi niềm lo lắng lớn lao, niềm thao thức 
trăn trở của các bật tôn túc, những vị lãnh đạo Giáo hội. 
Về mặt này có thể đúc kết một số nét như sau: 
-
Các vị lãnh đạo trong giáo hội cần hoan hỷ và quan tâm hơn nữa trong 
nghành giáo dục - Nhằm nâng đở cho một số Tăng Ni đứng tuổi thiếu căn 
bản về đạo học (nội điển) vì trong sự tu phải có sự học song hành, kiến 
thức và đạo đức đi đôi. 
-
Các vị trong Ban lãnh đạo cần liên hệ tốt hơn với Tăng Ni sinh trong 
việc ăn ở tu học, quý Phật tử hảo tâm và quý vị Trụ trì có đệ tử cho đi 
tu học nên bám sát tình hình thực tế nâng đở kịp thời giúp các Tăng Ni 
sinh có một nguồn an ủi tinh thần cũng như vật chất trong quá trình tu 
học. 
-
Tăng Ni sinh là những người thừa kế sứ mạng truyền trì mạng mạch của 
tương lai Phật giáo, cần phải có tâm đức, trí đức và hạnh đức một cách 
xứng đáng, để không cô phụ tấm lòng thương tưởng của chư tôn đức và tính
tâm của bao Phật tử hết lòng ủng hộ. 
  
CHƯƠNG V: CÁC TINH THẦN CỦA GIÁO DỤC PHẬT GIÁO
Khi
chúng ta vọng về vấn đề Giáo dục Phật giáo thì có rất nhiều mục tiêu 
yêu cầu của xã hội, nhưng dù gì đi nữa thì đối tượng của giáo dục là con
người, do đó giáo dục phải nhằm giúp con người tự tin khám phá ra mình,
phát triển nhân cách của mình trong mối tổng hòa các quan hệ xã hội. 
Giáo dục còn trang bị cho con người kinh nghiệm, kiến thức và kỷ năng đủ
để đưa con người đi tìm hạnh phúc. Bên cạnh đó, nền giáo dục còn thể 
hiện được các tinh thần giáo dục theo giáo lý Ðức Phật qua tinh thần vô 
ngã vị tha, tinh thần bao dung và tinh thần nhập thế. 
1. Tinh thần vô ngã vị tha: 
Xưa
nay máu đã chảy quá nhiều do chiến tranh và thù hận, những tiếng khóc 
than rên xiết vẫn không tạm ngừng ngớt trên thế gian này, nên cuộc chiến
sẽ không bao giờ chấm dứt như luân hồi bất tận. Nguồn gốc thảm họa 
chiến tranh đó là do lòng ích kỷ nhỏ nhen của loài người đã biến thế 
gian thành bãi chiến trường. Với những cảnh tượng giành giựt cấu xé tàn 
hại lẫn nhau để rồi gây nên cảnh tượng tương tàn tương sát trên thế gian
này. Muốn tạo được thế giới hòa bình, một xã hội an lạc hạnh phúc, 
không gì bằng đường lối tạo chính mỗi cá nhân, sống với tinh thần vô ngã
vị tha. 
Giáo
lý vô ngã vị tha là hình ảnh của một con người hoàn toàn bằng hành 
động, lời nói, ý tưởng quên mình vì người, sống làm việc cho tha nhân. 
Nghĩa là một hệ thống giáo lý nhằm hướng dẫn con người có một đời sống 
cao rộng bao la, tự tại và lý tưởng, thay vì mãi mãi bị ràng buộc điên 
đảo trong một bản ngã chật hẹp và không thật. Như vậy, con người phải 
hướng đến một đời sống cao thượng vô ngã, vì vô ngã là vô tận, không bị 
chi phối bởi định luật vô thường biến đổi của các pháp trên thế gian: 
"Có và không, thịnh và suy, vinh và nhục, khen và chê..." Con người phải
xã bỏ cái ta giả dối, ích kỷ thì đời sống con người đạt được tự tại an 
lạc trên thế gian này. 
Nói
chung, đến với giáo dục bằng tinh thần vô ngã, vị tha thì người con 
Phật không bao giờ trốn tránh cuộc đời để tìm nguồn hạnh phúc an lạc cho
riêng mình. Vì như vậy chỉ là ích kỷ, tự tạo cho mình một cuộc sống lẽ 
loi. Trong khi đức Phật dạy chúng ta là người đệ tử Phật chân chánh luôn
sống tu tập chính mình để thể hiện rõ nét tích cực vô ngã đi vào cuộc 
đời bằng những hành động dấn thân, với tinh thần hướng thượng đã đưa ý 
thức "sống" lên tầm cao của thời đại, xây dựng một nền văn hóa cho dân 
tộc. Tinh thần vô ngã vị tha này đã ảnh hưởng rất sâu sắc qua những câu 
ca dao, tục ngữ: 
Nhiễu điều phủ lấy giá sương 
Người trong một nước phải thương nhau cùng 
Lá lành đùm lá rách 
Thương người như thể thương thân. 
Những
câu trên đây hàm chứa tinh thần vô ngã vị tha rất đầy nhân cách và cũng
là cơ sở làm thăng hoa một dân tộc, một truyền thống giáo dục cao đẹp 
trong Phật giáo luôn luôn thương yêu đùm bọc lẫn nhau. 
Cùng với đạo lý vô ngã vị tha này, tinh thần bai dung cũng đóng vai trò quan trọng trong đường hướng giáo dục Phật giáo. 
2. Tinh thần bao dung: 
Là
một hệ thống giáo dục Phật giáo không chỉ lấy những tư tưởng nào đó 
mang nhãn hiệu đạo Phật, mà cần biết phải sử dụng, chấp nhận các tư 
tưởng nào chân chánh, dù tư tưởng đó thuộc một tôn giáo nào khác, một 
cộng đồng khác. Cũng như đạo Phật không phải là nhãn hiệu đạo Phật mà 
đạo Phật có nghĩa là chân lý. Ðiều đó có nghĩa là đạo Phật nêu lên được 
nền tảng của chân lý và luôn luôn đóng góp những chân lý mới được khám 
phá, và chính là tinh thần bao dung mang tính giáo dục của Phật giáo. 
3. Tinh thần nhập thế: 
Ðến
với giáo dục bằng tinh thần nhập thế là nơi dấu chân xưa của các vị Bồ 
Tát, lấy cuộc đời khổ đau làm trường rèn luyện, xem nghịch cảnh chướng 
duyên là tiêu hướng kiên trì, để làm nở hoa giải thoát trên mảnh đất tam
giới. Có như thế chúng ta mới làm sống dậy dòng sinh hoạt trí huệ thực 
chứng của Ðức Phật khơi mở hơn 25 thế kỷ qua: 
"Không
xuất thế thì không có gì khả dĩ hơn được cuộc đời, không có gì khả dĩ 
hướng dẫn được cho cuộc đời và làm đẹp cho cuộc đời. Còn không nhập thế 
thì không phải là đạo Phật nữa, bởi vì từ bi và trí huệ, bản chất của 
đạo Phật, trong trường hợp này, sẽ không có chỗ sử dụng". 
  
 
CHƯƠNG VI: KẾT LUẬN
Nhìn
lại bối cảnh lịch sử Việt Nam, chúng ta thấy suốt chiều dài lịch sử 
trong việc giữ nước và dựng nước, tôn giáo đóng vai trò hết sức quan 
trọng, trong đó bao gồm cả nền giáo dục Phật giáo đã gắn liền với dân 
tộc làm chất keo sơn, nhờ đó Việt Nam được độc lập tự chủ. Vì Ðạo Phật 
luôn lấy con người làm trung tâm giáo dục nhằm mục đích chuyển hóa con 
người từ mê đến giác, đạo Phật không xa lìa cuộc đời, không tách khỏi 
cuộc đời, "Ðạo" và "Ðời" là một nhất thể, đạo vốn là đời được giác ngộ 
giải thoát khỏi các lậu hoặc phiền não, đem đến đời sống hạnh phúc chân 
thực cho con người, đoạnh trừ mọi khốn khổ đau thương và ưu phiền của 
kiếp sống. Thế nên, Ðức Phật từ khi thành đạo cho đến lúc Niết Bàn, trên
bước đường truyền bá chánh pháp, Ngài chỉ dạy mọi phương cách đạt đến 
hiểu biết chính xác, thấy rõ thật chất của mọi việc để ứng xử đúng đắn 
được an vui giải thoát cho bản thân mình và những người liên hệ. Trong 
suốt bốn 49 năm tận tụy với chức năng của vị thầy giáo hóa liên tục 
không ngừng nghĩ bằng trí tuệ hoàn toàn sáng suốt, việc làm thánh thiện 
và phương pháp giảng dạy sâu sắc, hiệu nghiệm, Ðức Phật Thích Ca quả là 
giáo dục tuyệt vời. 
Khi
"Tìm hiểu về giáo dục Phật giáo" ta nhận thức được mục đích của Giáo 
Dục Phật Giáo là muốn cải thiện con người và tổ chức xã hội con người, 
và vạch ra phương hướng cải tạo thân tâm để đưa con người đến sự sống đi
ra dần khỏi các phiền não, hướng đến giác ngộ giải thoát. Mỗi người 
phải tự mình thực nghiệm con đường giáo dục ấy sẽ có sự đóng góp đáng kể
vào sự phát triển của một xã hội, như một sứ giả người Anh đã đánh giá: 
"Phật
Giáo đã mang lại sự tiến bộ cho thế giới văn minh và văn hóa chính đáng
nhiều hơn bất cứ ảnh hưởng nào khác trong tiến trình nhân loại." (Dịch 
giả: Tâm Quang, trang 99). 
Qua
những gì đã được đề cập của bản luận văn này cho thấy được Ðức Phật là 
một nhà giáo dục vĩ đại, một con đường giáo dục Phật giáo đáng được 
nghiên cứu và áp dụng rộng rãi. Con đường giáo dục ấy rất giá trị trong 
hướng giáo dục con người chính nó và có nhiều gợi ý khác rất cần thiết 
cho một đường hướng giáo dục môi sinh, giải quyết nhiều khủng hoảng của 
cá nhân và xã hội cần được thời đại đi sâu vào các công trình nghiên 
cứu, phát hiện, triển khai và ứng dụng thiết thực. 
Do
vậy, thế hệ hôm nay tiếp nối thực hiện và khơi mở dòng sinh lực "nền 
giáo dục Phật giáo" này là chúng ta thực hiện được hoài bảo của Thế Tôn 
và được gần gũi Ngài dẫu có xa cách bao thế kỷ. Có như thế chúng ta mới 
xứng đáng là hàng Thích tử, chuyển vận cổ xe pháp vào đời "vì lợi ích 
thế gian". Ðây chính là tâm hướng cảm nhận của người viết muốn bộc bạch 
qua bản luận văn ngắn ngủi và giới hạn này. 
Ni Sinh Thích Nữ Hạnh Từ 
Trường Cao Cấp Phật Học TP. H.C.M. 
Khóa IV 
  
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Kinh Trung Bộ I, II, III. VNCPHVN, ấn hành 1992. 
Phật Học Khái Luận, TT. Thích Chơn Thiện - Ban GD Tăng Ni ấn hành 1993. 
Tâm Lý GD - Lê Hoàng Thanh Dân, NXB Trẻ, 1964. 
Trích trong "GDPG" của TT. Thích Chơn Thiện, ấn hành 1997. 
Sư Phạm Lý Thuyết - Lê Hoàng Thanh Dân & TGK, NXB Trẻ, 1971. 
Từ Ðiển Tiếng Việt - Hoàng Phê & TGK, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1994. 
Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống - Hoài Khanh, NXB Ca Dao, 1993. 
Hội thảo GDPG trong thời hiện đại - VNCPHVN tổ chức 23-09-1996. 
Báo Giác Ngộ số 116 (15-10-1995). GHPGVN - THPGVN. 
Tuần báo Giác Ngộ bộ mới số 2 (13-04-1996). 
Lý thuyết về nhân tính qua kinh tạng Pàli - Luận Án Tiến Sĩ của học giả Thích Chơn Thiện. 
Tập Văn Thành Ðạo - PL: 2538, ấn hành 1994. 
Hội nghị Ban Thường Trực Hội Ðồng Trị Sự GHPGVN - 6 & 7 - 1996. VP II TWGHPGVN (Thiền Viện Quãng Ðức). 
Giáo dục học đại cương - Nguyễn An - lưu hành nội bộ, 1998. 
Các vấn đề giáo dục - Lê Hoàng Thanh Dân, NXB Trẻ, 1970. 
Ibid - Tuệ Sĩ, NXB An Tiêm, 1970. 
Kinh Pháp Cú - HT. Thích Minh Châu - Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam cơ sở II, ấn hành năm 1990. 
Giáo dục & tiến bộ xã hội - Ngô Văn Lê - bài phát biểu tại hội thảo GDPG, ấn hành 1995. 
Tác
phẩm "How to live without fear and worry in the present life of 
K.SRIDHAMMANDA" - Tỳ Kheo Thích Tâm Quang - PL: 2539, ấn hành 1995. 
Ðạo Phật Hiện Ðạo Hóa - HT. Thích Nhất Hạnh, NXB Lá Bối, 1968. 
  
Source: TVHS