Trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Bụt cũng dạy chúng ta trở
về và tiếp xúc với những khổ đau bên trong chúng ta. Nhiều người trong chúng ta
không có đủ can đảm để trở về với chính mình, bởi vì chúng ta sợ phải chạm đến
những niềm đau, nỗi khổ trong lòng mình. Hầu hết chúng ta đều tìm cách trốn
chạy khỏi những khổ đau của chính mình bằng cách tiêu thụ. Chúng ta đọc tiểu
thuyết, xem sách báo, tivi, phim ảnh để khỏa lấp những khổ đau bên trong. Chúng
ta không biết làm cách nào để đối diện và chuyển hóa những khổ đau đó. Và vì
vậy chúng ta cứ tiếp tục khổ đau và làm cho những người ta thương khổ đau.
Chính vì điều này mà trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Bụt khuyên chúng ta trở về
và nhận diện những khổ đau trong ta; đây là bài thực tập thứ bảy trong Kinh
Quán Niệm Hơi Thở. Bài thực tập thứ tám là buông bỏ những căng thẳng và sầu khổ.
Nếu chúng ta biết cách thực tập hơi thở có ý thức, thực tập đi chánh niệm, lái
xe chánh niệm và ăn chánh niệm mỗi ngày thì năng lượng chánh niệm trong ta sẽ
đủ mạnh để giúp ta trở về và ôm ấp những lo lắng, sợ hãi trong ta. Nếu chúng ta
biết cách ôm ấp nỗi khổ, niềm đau trong ta một cách nhẹ nhàng thì chỉ sau vài
phút là những khổ đau đó sẽ vơi đi liền.
Khi một bà mẹ nghe tiếng con khóc, bà sẽ đến bế đứa trẻ
lên và ôm nó vào lòng với tất cả sự trìu mến. Người mẹ đó có thể chưa biết có
chuyện gì xảy ra với đứa trẻ, nhưng việc bà bế đứa bé trong tay đã có thể giúp
đứa bé bớt khổ ngay lập tức. Năng lượng chánh niệm cũng có tác dụng tương tự
như vậy. Chúng ta chưa biết gốc rễ của những niềm đau, nỗi khổ trong ta, nhưng
nếu ta có thể ôm lấy niềm đau một cách nhẹ nhàng với năng lượng chánh niệm thì
ta có thể nhanh chóng làm vơi nhẹ những khổ đau ấy rồi.
Trong Kinh về Bốn Sự Thật Mầu Nhiệm (Tứ Diệu Đế), Bụt đã
chỉ ra cho ta sự thật thứ nhất là khổ, sự thật thứ hai là bản chất của khổ. Nếu
chúng ta biết cách lắng nghe sâu những khổ đau trong chính mình thì chúng ta có
khả năng hiểu được những gốc rễ đưa tới khổ đau đó. Những ai không thực tập
chánh niệm thì sẽ không biết cách đối diện với những khổ đau và lắng nghe
chúng. Trên thực tế, chúng ta thường sợ trở về và đối diện với những khổ đau
đó. Chỉ những ai biết cách lắng nghe những khổ đau trong mình và nhìn sâu vào
bên trong với năng lượng của chánh niệm và chánh định thì sẽ có khả năng đi ra
khỏi những khổ đau đó. Khi chúng ta hiểu được niềm đau, nỗi khổ của chính mình
thì ta sẽ bớt khổ liền. Cái hiểu sẽ làm phát khởi tình thương ngay trong trái
tim ta. Nếu ai đó hỏi tôi rằng “Làm thế nào để chế tác được thương yêu?”, tôi
sẽ nói rằng chỉ có một cách duy nhất, đó là hãy nhìn sâu vào niềm đau, nỗi khổ
của chính mình và tìm cách hiểu chúng. Nếu ta không hiểu những niềm đau của
mình thì ta không thể hiểu được những khổ đau của một ai khác và không thể
thương được ai.
Giáo pháp Bụt dạy về thương yêu rất rõ ràng. Chúng ta
phải học thương chính bản thân mình trước khi có thể thương một ai khác. Muốn
thương được thì trước tiên phải hiểu. Hiểu ở đây có nghĩa là hiểu về khổ đau.
Nếu ta không hiểu những khổ đau của chính mình thì chúng ta không thể thương và
chăm sóc cho chính mình được. Nếu chúng ta không hiểu những khổ đau của người
khác thì ta không thể thương và giúp người đó vơi bớt khổ đau được. Chúng ta ai
cũng biết rằng khi chúng ta hiểu được nỗi khổ, niềm đau của chính mình thì
chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được khổ đau của người khác.
Trong các phương pháp tu tập mà Bụt chỉ dạy, có một
phương pháp gọi là lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn từ hòa ái. Lắng nghe
với tâm từ bi có thể giúp nối lại sự truyền thông. Đôi khi chúng ta không thể
truyền thông với chính bản thân ta. Nhiều người trong chúng ta luôn tìm cách
trốn chạy khỏi chính mình, bởi vì chúng ta không biết cách lắng nghe nỗi khổ
của chính mình. Khi chúng ta bắt đầu hiểu được niềm đau của chính mình thì
chúng ta có thể truyền thông được với chính mình dễ dàng hơn. Và khi chúng ta
có khả năng truyền thông được với chính mình rồi thì chúng ta sẽ dễ dàng truyền
thông với một người khác. Ta có thể đi đến gặp người đó và nói rằng: “Mẹ ơi,
con biết mẹ đã chịu nhiều khổ đau trong những năm qua, vậy mà con đã không thể
làm gì để giúp mẹ; trái lại, con còn có những hành xử làm cho mẹ khổ đau thêm.
Con đã không thể giúp mẹ bởi vì con chưa hiểu được chính những nỗi khổ và khó
khăn của chính con. Mẹ ơi, con không muốn làm cho mẹ khổ. Sở dĩ con làm cho mẹ
khổ là vì con đã không hiểu được những khổ đau của mẹ. Mẹ ơi, hãy giúp con! Mẹ
hãy nói cho con biết về những khó khăn của mẹ, con không muốn tiếp tục phạm
phải những sai lầm trước đây và làm cho mẹ khổ thêm. Nếu mẹ không giúp con thì
liệu có ai khác có thể giúp con?”
Nếu mình có thể nói với người thương của mình bằng ngôn
ngữ như vậy thì người đó có cơ hội mở lòng mình ra. Khi đó ta có thể áp dụng
phương pháp lắng nghe với tâm từ bi. Nếu ta lắng nghe với tâm từ bi thì người
thương của ta sẽ bớt khổ liền. Trong quá trình lắng nghe, ta phải luôn ý thức
rõ rằng ta lắng nghe chỉ với một mục đích duy nhất, đó là giúp cho người kia
nói ra để cho người đó bớt khổ.
Có thể lời nói của người kia vẫn còn chứa nhiều tri giác
sai lầm và chất liệu trách móc, chua chát. Những lời nói đó có thể làm phát
khởi tâm hành nóng giận và bực bội trong ta. Và trong trường hợp đó, ta sẽ đánh
mất khả năng lắng nghe của mình, ta không thể tiếp tục lắng nghe với tâm từ bi
được nữa. Đó là lý do tại sao trong suốt quá trình lắng nghe, ta phải luôn nắm
lấy hơi thở và tự nhắc mình rằng “hôm nay mình lắng nghe chỉ với mục đích duy
nhất là giúp người kia có dịp nói ra những niềm đau trong lòng, để giúp họ bớt
khổ”.
Nếu ta làm được như vậy thì ta sẽ có thể tiếp tục duy trì
năng lượng thương yêu trong suốt buổi lắng nghe và những gì người kia nói không
thể làm phát khởi tâm hành buồn giận và khó chịu trong ta. Những lời người kia
nói có thể chứa đầy tri giác sai lầm, nhưng ta quyết tâm không ngắt lời người
đó. Ta tự dặn mình rằng có thể ba hay bốn ngày sau ta sẽ cung cấp cho người ấy
thêm một số thông tin để giúp người đó điều chỉnh tri giác của mình. Còn bây
giờ là lúc ta chỉ thực tập lắng nghe thôi.
Tăng thân Làng Mai đã tổ chức rất nhiều khóa tu chánh
niệm ở châu Âu và châu Mỹ. Chúng tôi luôn hướng dẫn phương pháp thực tập lắng
nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn từ hòa ái; phương pháp này đã giúp rất nhiều
cặp vợ chồng hàn gắn lại với nhau. Vào ngày thứ năm của khóa tu, chúng tôi
thường đề nghị các bạn thiền sinh sử dụng những gì họ đã học được ở khóa tu để
hàn gắn lại quan hệ giữa họ với những người khác. Và luôn luôn có những điều
mầu nhiệm xảy ra khi họ áp dụng phương pháp này. Nếu ta biết cách lắng nghe nỗi
khổ, niềm đau của chính mình thì ta sẽ có thể lắng nghe được nỗi khổ, niềm đau
của người khác nhờ sử dụng phương pháp lắng nghe với tâm từ bi. Với ngôn từ hòa
ái và khả năng lắng nghe sâu, chúng ta có thể nối lại sự truyền thông giữa mình
với mọi người. Nếu người mà ta muốn làm lành không có mặt trong khóa tu thì ta
có thể sử dụng điện thoại. Nhiều người đã báo cáo lại với tôi rằng bằng cách
thực tập phương pháp lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn ngữ hòa ái, họ đã
gọi điện và hòa giải được với cha, con hoặc vợ/chồng của họ.
Khi ta đau khổ, ta có xu hướng nghĩ rằng khổ đau của ta
là do một người khác gây ra. Chúng ta muốn trừng phạt người đó bởi vì họ đã làm
cho ta khổ. Nhưng khi chúng ta thực tập hơi thở có ý thức và nhìn sâu vào nỗi
khổ, niềm đau của người đó thì ta sẽ thấy rằng người đó cũng chỉ là nạn nhân
của chính khổ đau trong lòng họ. Nhiều người trong chúng ta không biết cách xử
lý khổ đau của chính mình và vì vậy chúng ta gây khổ đau cho chính bản thân và
cho những người xung quanh, trong đó có những người mà mình thương yêu như cha,
mẹ, con cái, vợ hoặc chồng.
Những người như vậy chưa từng có cơ hội được nghe giáo
pháp của Đức Thế Tôn để có thể biết cách lắng nghe sâu và hiểu được khổ đau của
chính mình. Và từ trước tới giờ, chưa có ai giúp họ thấy được điều đó. Ta là
người đã biết về pháp môn và đã có sự thực tập, vì vậy ta có thể là người đầu
tiên có khả năng giúp họ. Ta thấy rằng người đó đang có đầy khổ đau trong lòng
và không biết phải xử lý như thế nào. Họ đang là nạn nhân của khổ đau nơi chính
mình. Khi quán chiếu một cách sâu sắc, ta thấy rằng người đó cần được giúp đỡ
chứ không đáng bị trừng phạt. Nếu chúng ta có thể hiểu được khổ đau của chính
mình và của người khác thì ta sẽ không còn có ý định trừng phạt ai cả mà chỉ
muốn giúp đỡ họ mà thôi.
Chúng ta có thể áp dụng những phương pháp Bụt dạy để thúc
đẩy hòa giải và mang lại sự hòa hợp trên thế giới. Tại Làng Mai, nước Pháp,
chúng tôi đã từng tài trợ cho các nhóm người Palestine
và Israel
đến Làng để thực tập cùng với chúng tôi. Ban đầu những người này có rất nhiều
khó khăn khi thực tập, bởi vì cả hai nhóm đều chứa đầy năng lượng buồn giận và
sợ hãi. Vì vậy trong tuần đầu tiên, chúng tôi chỉ giới thiệu với họ phương pháp
trở về với chính mình và ôm ấp năng lượng buồn giận và sợ hãi trong con người
họ. Đó chính là thực tập hơi thở quán niệm thứ tám trong kinh Quán Niệm Hơi
Thở: “Thở vào, tôi làm cho các tâm hành trong tôi an tịnh. Thở ra, tôi làm cho
các tâm hành trong tôi an tịnh”. Trong suốt tuần đầu tiên, chúng tôi chỉ cho họ
phương pháp buông bỏ những căng thẳng và những niềm đau trong cơ thể. Chúng tôi
đã cùng họ thực tập hơi thở có ý thức và đi thiền hành để chế tác niềm vui và
hạnh phúc. Bắt đầu sang tuần thứ hai, cả hai nhóm đều được hướng dẫn phương
pháp thực tập lắng nghe với tâm từ bi. Chúng tôi đã mời nhóm người Palestine nói lên những
nỗi khổ, niềm đau mà họ đã trải qua. Chúng tôi cũng khuyên họ chỉ nói lên niềm
đau của mình mà không trách móc hay buộc tội, để cho phía bên kia có thể lắng
nghe và hiểu được họ. Nhóm người Israel chỉ ngồi yên và lắng nghe.
Họ không ngắt lời ngay cả khi họ nhận thấy có những tri giác sai lầm. Họ biết
rằng sau này họ sẽ có dịp cung cấp thông tin để giúp cho người Palestine điều chỉnh lại nhận thức mình.
Phương pháp lắng nghe này đã mang lại những kết quả thật
kỳ diệu. Lần đầu tiên, phía bên này đã nhận ra là những người ở phía bên kia
cũng chịu nhiều khổ đau không kém gì họ. Khi hiểu được như vậy thì tự nhiên
lòng xót thương bắt đầu tràn ngập trong trái tim họ và họ bớt khổ ngay tức thì.
Sau hai tuần thực tập tại Làng Mai, cả hai nhóm người Palestine và Israel đều cảm thấy vơi bớt rất
nhiều khổ đau trong lòng. Đến tuần thứ ba, cả hai nhóm có thể chia sẻ với nhau
và nắm tay nhau cùng đi thiền hành. Họ đã hứa rằng khi trở về Trung Đông, họ sẽ
tổ chức những hoạt động để những người khác có thể đến và học cách chuyển hóa
khổ đau. Ở Pháp, hầu như năm nào chúng tôi cũng tổ chức những khóa tu như vậy.
Trong xã hội của chúng ta hiện đang có rất nhiều sự kỳ
thị, chia rẽ, bạo động và căm thù. Những vấn đề này chỉ có thể được chuyển hóa
bằng sự thực tập lắng nghe sâu và sử dụng ngôn từ hòa ái. Nếu ta đang tu tập
trong một tăng thân theo truyền thống đạo Bụt, ta có thể tìm cách tổ chức như
thế nào để tạo ra một môi trường mà các nhóm người có mâu thuẫn, xung đột có
thể đến và thực tập lắng nghe nhau. Tôi cho rằng sở dĩ các cuộc đàm phán về hòa
bình thường không mang lại kết quả là vì các cuộc đàm phán đó không được tiến
hành theo phương pháp mà Bụt đã chỉ bày. Khi các bên bước vào bàn đàm phán về
hòa bình, họ thường muốn bàn về vấn đề ngay lập tức, trong khi đó các bên tham
chiến vẫn còn mang đầy kỳ thị và căm thù. Với sự sợ hãi, giận dữ và nghi ngờ,
họ không thể nào có niềm tin đối với nhau. Và vì vậy các cuộc đàm phán thường
lâm vào tình trạng khó khăn. Theo phương pháp của đạo Bụt, khi các bên bước vào
đàm phán về hòa bình, chúng ta không nên để họ bàn vào vấn đề ngay lập tức mà
ta nên dành hai hoặc ba tuần để các bên thực tập buông bỏ những căng thẳng
trong thân và tâm của họ. Ta có thể sử dụng bài thực tập thứ tám trong Kinh
Quán Niệm Hơi thở để giúp những người đó buông bỏ sự căng thẳng và làm lắng dịu
năng lượng sợ hãi và giận dữ trong họ.
Chúng ta cần có những người nắm được hơi thở chánh niệm
có mặt để yểm trợ, đóng góp năng lượng bình an và định tâm cho các bên xung
đột. Chúng ta cần hướng dẫn cho các bên xung đột cách thức làm lắng dịu cơ thể
và cảm xúc của họ. Và khi cả hai bên đều đã bình tĩnh hơn, lắng dịu hơn, chúng
ta có thể mời họ thực tập lắng nghe nhau. Cả hai phía đều đã chịu quá nhiều khổ
đau, dù họ thuộc phe thân chính phủ hay phe đối nghịch.
Chúng ta cần ít nhất là một tuần hoặc mười ngày để cả hai
bên có thể nói lên những khổ đau mà họ đã phải trải qua. Nếu cả hai phía đều
hiểu được niềm đau của nhau thì họ sẽ vơi bớt khổ đau rất nhiều. Khi tình
thương yêu, lòng xót thương phát khởi trong trái tim của những người tham gia
xung đột thì việc tiến hành đàm phán để đi đến hòa bình sẽ dễ dàng hơn rất
nhiều.
Chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều khi giúp những người Palestine và Israel xích lại gần nhau. Tôi tin
rằng khi sử dụng những giáo lý và phương pháp Bụt dạy, chúng ta có thể giúp mọi
người hòa giải với nhau. Chúng ta có thể đóng góp vào sự hòa hợp và thống nhất
của quốc gia. Trong đạo Bụt, có một giáo lý gọi là Vô Phân Biệt [Tương Tức
(BTV)]. Theo giáo lý này, trong tình thương chân thật không còn tồn tại bất kỳ
sự phân biệt nào. Khi có tình thương chân thực thì khổ đau của mình cũng là khổ
đau của người, hạnh phúc của mình cũng là hạnh phúc của người. Trong tình
thương chân thật, không còn tồn tại hạnh phúc của cá nhân hay khổ đau của cá
nhân. Đức Thế Tôn đã dạy cho chúng ta về trí tuệ Vô Phân Biệt. Khi tôi nhìn vào
bàn tay phải của tôi, tôi có thể thấy trí tuệ Vô Phân Biệt. Bàn tay phải của
tôi chưa bao giờ kỳ thị bàn tay trái. Bàn tay phải của tôi đã vượt thoát những
mặc cảm hơn, kém và bằng. Bàn tay phải đã giúp tôi viết xuống các bài thơ tôi
làm. Tôi còn sử dụng bàn tay phải để viết thư pháp. Tuy vậy, bàn tay phải của tôi
không cảm thấy mình quan trọng hơn bàn tay trái. Nó chưa bao giờ nói: “Tay trái, anh chẳng có ích lợi gì cả. Nhìn tôi đây này,
tôi đã viết tất cả những bài thơ này”. Còn bàn tay trái của tôi, nó cũng chẳng
cảm thấy mặc cảm gì cả. Đó là lý do tại sao bàn tay trái của tôi không hề khổ
đau tí nào. Cả hai bàn tay tôi luôn luôn sống chung với nhau rất hòa hợp.
Một ngày nọ, tôi đang tìm cách treo một bức tranh lên
tường. Bàn tay trái của tôi cầm một cây đinh và tay phải tôi cầm một cái búa.
Ngày hôm đó tôi không được khéo léo cho lắm. Thay vì đóng vào cây đinh, tay
phải cầm búa lại đập vào một ngón tay của bàn tay trái. Ngay lúc đó, bàn tay
phải hạ búa xuống và ôm lấy bàn tay trái mà không hề có sự phân biệt, kỳ thị
nào cả, bởi vì nỗi đau của bàn tay trái cũng là nỗi đau của bàn tay phải. Tay trái của tôi hiểu được điều đó, cho nên nó không hề
giận bàn tay phải. Tay trái của tôi không nói rằng: “Tay
phải, anh đã làm cho tôi đau. Tôi phải đòi lại công bằng. Đưa búa đây cho
tôi!”. Đó là lý do tại sao bàn tay phải và bàn tay trái của tôi luôn sống chung
với nhau một cách hòa hợp. Bàn tay phải nhìn thấy bàn tay trái trong chính mình
và ngược lại. Đó chính là trí tuệ Vô Phân Biệt, là tuệ giác Bất Nhị.
Khi những người thực tập đạo Bụt theo truyền thống Bắc
Tông nhìn sâu vào giáo lý của truyền thống Nam Tông, họ sẽ thấy Bắc Tông trong
Nam Tông. Với sự thực tập nhìn sâu, họ sẽ thấy rằng tất cả những tư tưởng siêu
việt trong các kinh điển Đại thừa đều đã có trong những giáo lý tinh yếu của
đạo Bụt nguyên thủy. Họ sẽ nhìn thấy Bắc Tông trong Nam Tông và ngược lại. Có
một cách nhìn gọi là cách nhìn tương tức. Khi nhìn vào một bông hoa, ta sẽ thấy
bông hoa được làm từ những yếu tố không phải là bông hoa. Nhìn thật sâu vào
bông hoa, ta sẽ thấy được ánh nắng mặt trời. Nếu không có ánh nắng mặt trời thì
bông hoa không thể sống được và vì vậy có thể nói bông hoa được làm từ những
yếu tố không phải là bông hoa, trong đó có ánh nắng mặt trời. Nhìn sâu vào bông
hoa ta còn thấy những đám mây. Ta biết rằng nếu không có mây thì sẽ không có
mưa và hoa sẽ không thể sống được nếu thiếu nước. Và vì vậy những đám mây cũng
là một yếu tố không phải là bông hoa. Nếu chúng ta lấy đi tất cả những yếu tố
không phải là bông hoa thì bông hoa không thể nào tồn tại được. Do vậy ta có
thể nói một bông hoa được làm từ những yếu tố không phải là hoa.
Ta cũng có thể sử dụng cách nhìn đó khi nhìn vào đạo Bụt.
Đạo Bụt là một đóa hoa rất đẹp và được hình thành từ những yếu tố không phải là
đạo Bụt. Thực tập đạo Bụt, ta có thể tiếp cận được với trí tuệ của tất cả các
truyền thống khác, đó là lý do tại sao đạo Bụt hoàn toàn không mang tính chủ
thuyết, không phải là một đức tin để tôn thờ và bảo vệ. Nếu ta theo truyền
thống Bắc Tông, ta có thể nói Bắc Tông là một bông hoa đẹp, nhưng bông hoa đẹp
đó cũng được làm từ những yếu tố không phải là Bắc Tông. Nếu ta lấy đi tất cả
những yếu tố không phải là Bắc Tông thì truyền thống Bắc Tông sẽ không thể tồn
tại. Ta cũng có thể nói tương tự như vậy với truyền thống Nam Tông.
Khi ta trồng hoa sen, ta biết rất rõ rằng chúng ta cần
phải có bùn để nuôi hoa sen. Khi chúng ta nhìn vào hoa sen, chúng ta nhìn thấy
những yếu tố không phải là hoa sen và chúng ta biết rằng bùn là một trong những
yếu tố không phải là hoa sen nhưng lại là một yếu tố thiết yếu để hoa sen có
thể biểu hiện được. Khổ đau của chúng ta cũng có thể xem như là bùn và hạnh
phúc của chúng ta có thể ví như hoa sen. Giữa hạnh phúc và khổ đau có một mối
liên hệ mật thiết và sâu sắc. Chúng ta sẽ có được trí tuệ vô phân biệt khi
chúng ta nhìn sâu vào tự tánh của hoa sen. Khi chúng ta nhìn thấy yếu tố bùn
trong hoa sen, ta sẽ không còn kỳ thị đối với bùn nữa.
Cũng như vậy, khi nhìn vào một người con, ta sẽ thấy
người cha. Đứa con là sự tiếp nối của người cha. Người con được làm từ những
yếu tố không phải là con, ta không thể lấy yếu tố cha ra khỏi con được. Đó là
lý do tại sao khi nhìn sâu vào đứa con ta có thể thấy người cha và ngược lại.
Khi nhìn như vậy ta sẽ chạm tới được tự tánh vô ngã, ta sẽ có được trí tuệ vô
phân biệt, có được tuệ giác bất nhị. Khi ta nhìn sâu như vậy, ta sẽ không còn
có thể giận cha mình được nữa, bởi vì ta là sự tiếp nối của cha. Giận cha cũng
có nghĩa là ta đang giận chính bản thân ta. Đó là lý do tại sao tinh thần vô
phân biệt trong đạo Bụt lại vô cùng quan trọng cho một nền hòa bình trên thế giới.
Với tuệ giác Vô Phân Biệt và Bất Nhị, ta sẽ không còn coi ai là kẻ thù nữa. Ta
sẽ thấy rằng những người làm ta khổ cần được giúp đỡ, chứ không đáng bị trừng
phạt.
Đạo Bụt là một di sản vô giá đã được trao truyền cho
chúng ta từ bao nhiêu thế hệ đi trước. Nếu chúng ta biết thực tập theo tinh
thần Vô Phân Biệt thì ta có thể đóng góp rất lớn vào sự hòa hợp và hòa giải
trong các quốc gia và trên thế giới. Những giáo lý và phương pháp thực tập của
đạo Bụt vẫn còn mang tính thực tiễn đối với thế giới hiện đại ngày nay. Chúng
ta cần học hỏi và thực tập đạo Bụt như thế nào để có thể giúp phát triển tuệ
giác Vô Phân Biệt và Bất Nhị trong ta.
Nếu chúng ta biết áp dụng sự thực tập chánh niệm vào đời
sống hàng ngày thì chúng ta có thể tạo ra hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây. Nếu
ta biết thực tập lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn từ hòa ái, ta có thể
tái lập lại sự truyền thông và mang lại hòa bình cho đất nước của chúng ta cũng
như cho thế giới này.
Nhất Hạnh
(Pháp thoại của Sư ông Làng Mai tại Đại học Thammasat Thái
Lan - đọc được trên Bangkok Post ngày
26.10.2010)
Thích
nữ Chân Tại Ngiêm dịch