Trong
thời gian qua, tác giả đã có duyên may được mời làm thông dịch viên Việt
ngữ trong hai pháp hội lớn của ngài: một pháp hội tổ chức tại đại học
Lehigh University trong tháng bảy, 2008 với đề tài "Bồ Đề Đạo Thứ Đệ
Luận[1]" ở tiểu bang Pensylvania và một pháp hội tháng tám, 2008 tổ chức
tại tỉnh Nantes, Pháp quốc với bốn đề tài chính[2] nói về "Tánh Không"
trong Phật giáo.
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật Giáo Việt Nam Net)
Sau hai pháp hội
đó, tác giả trở về đời sống của mình thường ngày với một tâm tư xúc động
và cảm tạ sâu xa. Ở mỗi pháp hội Đức Đạt Lai Lạt Ma đều đánh dấu trên
tâm tư của mọi người lòng cảm phục vô vàn. Bài viết này không có ý tóm
tắt về hai pháp hội mà chỉ có ý ghi lại lòng cảm xúc sâu xa đó dưới khía
cạnh Ngài là vị thần tượng của thế giới ngày nay. Ngoài giải thưởng
Nobel hòa bình, ở tất cả mọi nơi trên thế giới, các vị lãnh đạo quốc
gia, các trường đại học danh tiếng nhất đều tán thán và trân quý đến con
người của Ngài qua những bằng tưởng lệ, huy chương hay công dân danh
dự.
1. Mở đầu
Trong thời gian qua, tác giả đã có duyên may được mời làm thông dịch
viên Việt ngữ trong hai pháp hội lớn của ngài: một pháp hội tổ chức tại
đại học Lehigh University trong tháng bảy, 2008 với đề tài "Bồ Đề Đạo
Thứ Đệ Luận [1]" ở tiểu bang Pensylvania và một pháp hội tháng tám, 2008
tổ chức tại tỉnh Nantes, Pháp quốc với bốn đề tài chính [2] nói về
"Tánh Không" trong Phật giáo. Sau hai pháp hội đó, tác giả trở về đời
sống của mình thường ngày với một tâm tư xúc động và cảm tạ sâu xa. Ở
mỗi pháp hội Đức Đạt Lai Lạt Ma đều đánh dấu trên tâm tư của mọi người
lòng cảm phục vô vàn. Bài viết này không có ý tóm tắt về hai pháp hội mà
chỉ có ý ghi lại lòng cảm xúc sâu xa đó dưới khía cạnh Ngài là vị thần
tượng của thế giới ngày nay. Ngoài giải thưởng Nobel hòa bình, ở tất cả
mọi nơi trên thế giới, các vị lãnh đạo quốc gia, các trường đại học danh
tiếng nhất đều tán thán và trân quý đến con người của Ngài qua những
bằng tưởng lệ, huy chương hay công dân danh dự.
Với tác giả thì Ngài là vị thần tượng thời nay. Chữ thần tượng này không
được dùng trong ý nghĩa thần thánh hóa, vì Ngài luôn luôn nói tôi chỉ
đơn giản là một vị tỳ kheo Phật giáo. Thần tượng trong ý nghĩa là Ngài
thật sự sống cuộc đời đơn giản và bình dị, với hai bộ áo tỳ kheo, một
đôi giép cao su nhật bản qua tất cả mọi lần giao tiếp chính thức với các
vị lãnh đạo nguyên thủ của các cường quốc, như mới đây chúng ta có thể
nhìn hình trên các báo chí đăng tải buổi diện kiến Ngài đã tiếp vị đệ
nhất phu nhân Pháp quốc Carla Bruni trong bộ áo tỳ kheo và đôi giép nhật
bản. Hình Ngài thật là đơn giản bình dị như thế bên cạnh vị đệ nhất phu
nhân Carla Bruni thật là sang trọng và chúng ta có thể nhận thấy rõ nụ
cười nở trên đôi môi của bà Tổng Thống Pháp quốc, chứng tỏ là bà đã hoan
hỷ như thế nào khi được ở bên Ngài.
Do đó chữ thần tượng ở đây không phải trong ý hướng thần thánh hóa, mà thần tượng vì con người đơn giản bình dị của Ngài đã ban cho mỗi
chúng ta lòng hoan hỷ vô biên khi được sống bên Ngài, khi được nhìn sự
bình dị và tấm lòng rộng lớn bao la của Ngài lúc Ngài nói câu:
Cho đến khi thế giới và các chúng sinh còn tồn tại,
Tôi xin nguyện tồn tại để phục vụ cho tất cả chúng sinh....
Đời sống của Ngài là cả sự bình dị và lòng chân thật như Ngài đã từng
nói tại lần Ngài ghé thăm tu viện Ganden Ling của Dagpo Rinpoche tại
ngoại ô Paris: "Điều khổ tâm nhất là phải đóng khuôn, làm vai trò
giả tạo như thể mình là một vị đã đạt được một cái gì, mà cho dù có cố
đóng vai trò như thế cũng không thể làm mãi mãi, vì chỉ một thời gian
sau là sẽ trở thành vô cùng khổ sở...."
2. Đời sống bình dị và lòng chân thật của Ngài ban ra niềm hạnh phúc vô biên
Ở trong một thế giới hiện đại vô cùng của thế kỷ thứ 21 ngày nay, cả thế
giới lao đầu vào trong cuộc sống tiêu thụ và chạy đua không ngừng nghỉ
trong sự phung phí và tiện nghi. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng cảnh cáo và
răn dạy là hạnh phúc không nằm trong các tiện nghi vật chất. Bởi vì càng
có tiện nghi vật chất thì chúng ta càng phát triển trí thông minh và từ
đó phát sinh những nhu cầu và đòi hỏi tìm kiếm về tâm linh. Nếu chúng
ta không nhận chân ra là những tiện nghi vật chất không thể giải quyết
những vấn đề của tâm lý mà thể hiện chính yếu qua lòng bất an sợ hãi
thâm căn cố đế của mình thì chúng ta sẽ chỉ càng ngày càng lâm vào những
bế tắc của đời sống khi lao đầu vào các cuộc chạy đua hưởng thụ tiện
nghi vật chất. Thực vậy, khi chúng ta còn nghèo khổ, phải đầu tắt mặt
tối để lo tìm giải quyết nhu cầu cơm áo thì những sự căng thẳng tâm lý
không có cơ hội phát triển. Nhưng khi bụng đã được no đủ, có nhà cao cửa
rộng, xe cộ tiện nghi thì những nhu cầu tâm lý và tâm linh phát triển
mạnh mẽ hơn nhiều. Thêm một điều nữa ta có thể thấy rõ là khi phải chịu
các sự khổ đau tinh thần thì tiện nghi vật chất không giúp ta được nhiều
gì để giảm thiểu các khổ đau đó. Nhưng khi chúng ta phải chịu khổ đau
vật chất hay khổ đau thể xác thì một thái độ an nhiên điềm tĩnh sẽ giúp
chúng ta vượt qua các khổ đau, đau đớn thể xác dễ dàng. Như vậy thì tinh
thần quan trọng hơn vật chất nhiều lắm, mặc dù các tiện nghi vật chất
thực ra cũng có giúp ta phần nào trong đời sống. Nhưng trạng thái tinh
thần của chúng ta mới thực sự là điều chính yếu để mang lại hạnh phúc
lâu dài.
Phu nhân Tổng thống Pháp Carla Bruni-Sarkozy
tươi cười lúc đuợc diện kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma. |
Như
vậy, khi nhận ra điều căn bản đó, là thực sự chúng ta không cần nhiều
nhặn gì lắm về đời sống vật chất, hai bữa cơm đơn giản một ngày và một
ít quần áo ấm thân là đủ, thì chúng ta bắt đầu thực sự đi vào con đường
tìm về hạnh phúc. Chúng ta thực sự cần săn sóc đời sống tâm linh của
mình nhiều hơn, để đi đến niềm hạnh phúc rất đơn giản trong sự tri túc
vật chất và an vui của tinh thần. Đây là điều Ngài thường nhấn mạnh:
hạnh phúc và an vui của tinh thần chỉ có thể phát triển qua lòng nhân ái
từ bi, an hưởng trong niềm vui sướng khi mình nhìn thấy những việc làm
của mình giúp cho những người khác đạt được an vui...
Nhưng thế nào mới là làm cho những người khác an vui... Mang lại an vui
cho người có phải là ban cho họ những tiền bạc của cải hay sự thành công
rực rỡ và quyền lực?
Trên thực tế, chúng ta nhận thấy là không phải như vậy. Tiền bạc của cải
danh tiếng chẳng thể ban cho mọi người lòng an vui. Bởi vì nếu tiền bạc
của cải danh tiếng quyền lực mang đến sự an vui thì có lẽ những vị vua
chúa hay là các vị lãnh đạo nguyên thủ đều được an vui. Trong khi ngược
lại, chúng ta thấy những vị đó đều thường ăn ngủ không yên, lo lắng quá
độ như ngồi trên lò lửa đốt, hoặc là làm việc quá độ và căng thẳng đến
mức sinh ra bệnh tật như là đau tim và tiết ra nhiều chất cholesterol
gây xơ cứng động mạch, tai biến mạch máu não và bại xuội.
Ngược lại, chúng ta sẽ hưởng nhiều sự an vui bên một người đầy đức hạnh
mà lại thật là bình dị. Như là hình ảnh tươi cười của bà Tổng Thống Pháp
quốc khi được diện kiến bên Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Chỉ cần được sống gần Đức Đạt Lai Lạt Ma để nhìn thấy đức hạnh và lòng
nhân ái thật là sống động của Ngài sẽ mang lại niềm hoan hỷ tuyệt vời
đó. Những điều tự mình mắt thấy tai nghe về lòng nhân ái và bình dị đó
sẽ trở thành những bài học ghi tâm khắc cốt cho chúng ta, làm thành
những bài học thân giáo [3] qua các hành động thực sự tự nhiên của Ngài.
Trong hai pháp hội vừa qua đã có không biết bao nhiêu nhũng bài học
sống động đó mà chúng ta có thể ghi chép lại một ít sau đây.
3. Lòng nhân ái và từ bi
Trong pháp hội tại Saint Herblain, tỉnh Nantes, một hôm Ngài đang thuyết
giảng trên ngai, bỗng ngưng lại và chỉ vào hai vị nhân viên an ninh
đang đứng bên dưới sân khấu và yêu cầu Ban Tổ Chức mang đến hai ghế ngồi
cho các nhân viên đó vì Ngài nhận thấy họ đã đứng liên tục trong mấy
ngày pháp hội để bảo đảm an ninh cho toàn thể hội trường. Ngài nói là
hãy mang cho họ ghế ngồi để được thoải mái trong việc làm của họ, và như
thế họ sẽ có đầu óc tỉnh táo hơn để làm việc được vui vẻ và hữu hiệu
hơn. Hai vị nhân viên an ninh sung sướng ngồi thoải mái và rất cám ơn
Ngài, một cử chỉ tuy nhỏ, nhưng đã chứng tỏ là Ngài để ý và rất quan tâm
đến niềm phúc lạc của người khác qua các sự để ý thật vi tế và chi
tiết.
Một hôm khác, Ngài được ông thị trưởng tỉnh Nantes tên là Jean-Marc
Ayrault mời đến tòa thị sảnh để dự tiệc chiêu đãi. Hôm ấy, ông thị
trưởng vừa mới đọc diễn văn xong, đi xuống về chỗ ngồi của mình trong
khi Đức Đạt Lai Lạt Ma lên nói vài lời với khán giả. Ngài chưa kịp nói
gì thì bỗng nghe ồn ào, ông thị trưởng kéo ghế ngồi chẳng ngờ vì lính
quýnh thế nào mà kéo ghế quá ra phía sau cho nên chân ghế lọt ra ngoài
sàn sân khấu và ông ta bị ngã nhào. Khán giả thấy cảnh hoạt náo của ông
thị trưởng cũng bật cười. Lúc ấy, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhanh nhẹn đi
xuống và định đỡ ông thị trưởng lên thì các hộ vệ viên đã nâng ông đứng
giậy. Nhưng Ngài cũng thân chinh mang lại một cái ghế và đặt ở giữa khán
đài, đè nhấn xuống thử để xem có chắc không, rồi vừa cười vừa chỉ cái
ghế và mời ông thị trưởng "an tọa!", và nói: “Trong các
buổi họp long trọng thế này tôi thuờng thấy không khí quá nghiêm trọng
và hay cố tìm cách làm cho mọi người thư giãn vui vẻ hơn. Nhưng mà may
quá, lần này thì tôi không cần cố vì nhờ ông thị trưởng đã chuyển đổi
không khí thành thoải mái và vui hơn nhiều cho chúng ta”. Mọi người lại được dịp cười ồ lên và bầu không khí chuyển thành vui vẻ, rất là thân mật, không còn nghiêm trọng như trước
Lòng nhân ái và từ bi của Đức Đạt Lai Lạt Ma thật là vi tế, nhưng lại
thật là đơn giản, không màu mè, không có tâm ý cố tạo, hoàn toàn "vô
tâm" và "vô cầu", làm cho tất cả các người gần gũi Ngài đều cảm thấy tự
nhiên, trừ bỏ hẳn các tâm cạnh tranh và giành giựt.
Con đường tu tập thực sự phải là tự “tạo dựng công đức mà không tạo dựng công đức, đó mới là thực sự tạo dựng công đức [4]”.
Đó là ý nghĩa của "vô tâm" và "vô cầu" trong tất cả các hành trì tích tụ
công đức qua các hạnh từ bi nhân ái. Tích mà vô tâm vô cầu nên không có
người tích, không có kẻ thọ báo công đức vì dù sao cũng đã hành hạnh
Thập Hồi Hướng toàn bộ công đức đến mọi chúng sinh hữu tình. Cho nên khi
chúng ta ở bên người tu tập mà "vô tâm" "vô cầu" thì sẽ cảm thấy vô
cùng thoải mái hoan hỷ và cùng nhau hành trì để tất cả đều trọn thành
Phật đạo.
4. Lòng bình dị và chân thật
Đức Đạt Lai Lạt Ma đi đâu cũng toát ra một tâm thức thực sự bình dị và
chân thật. Sự bình dị và chân thật luôn được thể hiện qua các cung cách
đối thoại và trả lời dí dỏm của Ngài đối với các câu hỏi của mọi người
đặt ra. Trong cả hai pháp hội ở Lehigh University cũng như tại Nantes,
Ngài đã cho một khoảng thời gian để trả lời các câu hỏi, và những câu
trả lời của Ngài đã chứng tỏ tâm thức bình dị và chân thật của Ngài. Mọi
người, ai cũng vô cùng thần tượng và thánh hóa Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đôi
khi những câu trả lời của Ngài đã xóa những cách nhìn quá xa vời về Đức
Đạt Lai Lạt Ma.
Có một câu hỏi rất thú vị đã được đặt ra như sau: "Thưa Ngài, có khi nào
Ngài mất lòng kiên nhẫn không (His Hollines, have you ever been loosing
your patience) ?". Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mỉm cười và trả lời câu hỏi ấy
qua một câu chuyện có thực về Ngài.
Đức Đạt Lai Lạt Ma kể lại: "Tôi có từng quen biết một vị phụ nữ
người Mỹ và là một nhà báo của của tờ Nữu Ước Thời Báo (New York Time).
Bà ta rất thích Phật giáo và hành trì theo Phật giáo. Một lần, bà ấy đã
đến gặp tôi và hỏi: Khi ra đi thì Ngài để lại cho chúng con một cái gia
tài gì? (What legacy you leave to us when you depart from this life?).
Tôi trả lời cho bà là tôi không cần phải nghĩ về gia tài để lại, vì như
thế không đúng với giới nguyện của tôi, mà tôi chỉ hành trì đạo. Rồi bà
ta lại hỏi câu ấy trong vài lần khác, và tôi cũng trả lời thêm nữa y như
vậy. Sau đó bà lại đến và đặt một câu hỏi như thế, nhưng theo một kiểu
khác, và lúc đó thì tôi đã không giữ được bình tĩnh nữa (nguyên văn: and
I lost my temper) [5]".
Toàn hội trường bật cười lên ầm ỹ trước câu trả lời thật dí dỏm của Đức
Đạt Lai Lạt Ma. Câu trả lời thật bình dị và chân thật, thẳng thắn đến độ
làm người nghe đôi khi cảm thấy thấy ngỡ ngàng, hồn nhiên và thú vị
trước sự chân thật đó, ("và tôi đã không giữ được bình tĩnh ...and I lost my temper").
Tôi cũng ôm bụng cười lăn trước máy vi âm. Ở đây, bạn đọc thực sự
cần phải sống ngay tại hội trường lúc đó mới hiểu được cung cách trả lời
của Ngài, mới nhìn thẳng được vào tâm bình dị và dí dỏm của Ngài.
Một sự chân thật tự nhiên thẳng thắn không hề mang cái tâm chê trách
người đối diện, và nhất là không tự thần thánh hóa hay đóng vai thánh
thiện, nói là mình không bao giờ mất bình tĩnh. Câu trả lời của Ngài chỉ
như là một lời nhắc nhở thương yêu: hãy đừng chấp trước như thế, vì như
vậy là si ngốc. Như người mẹ mắng yêu đứa con dại dột của mình: sao con
lại dại ngốc thế, đâu cần phải lo lắng như vậy....
5. Lòng tôn trọng và hòa hài với các tôn giáo khác
Giữa lúc thế giới đi vào trạng thái phân hóa trầm trọng. Trước sự chia
cách và bạo động tôn giáo qua những hành động của một nhóm quá khích
Taliban đã đặt chất nổ tàn phá tượng Phật lớn, cao 150 bộ anh và cổ xưa
đến 1700 năm trong vùng núi Hindu Kush của Afghanistan, Đức Đạt Lai Lạt
Ma vẫn kêu gọi sự tôn trọng và hòa hài tôn giáo. Ngài vẫn thường tranh
đấu cho Hồi giáo và luôn luôn tuyên bố: "Tuy có các khác biệt, nhưng
tựu chung, tất cả các truyền thống tôn giáo đều có cùng một căn bản, đó
là kêu gọi phát triển lòng thương, lòng nhân ái đến tất cả mọi người".
Trong cả hai pháp hội vừa qua, Đức Đạt Lai Lạt Ma đều tha thiết kêu gọi
phát triển lòng tha thứ và hòa hài tôn giáo, tôn trọng tất cả các truyền
thống tôn giáo khác nhau. Ở mọi nơi, Ngài luôn luôn khuyên bảo hãy tôn
trọng và thông cảm lẫn nhau. Đức Đạt Lai Lạt Ma không bao giờ khuyến
khích ai cải đạo. Ngài luôn luôn nói, hãy giữ truyền thông tôn giáo gia
đình của quý vị, và tránh gây ra những sự xáo trộn, rối loạn tâm linh.
Nhất là khi vào lúc cuối đời, ở trong tình trạng lâm chung mà bị khủng
hoảng nguồn cội tâm linh (identity crisis) thì là một điều rất nguy hiểm
cho thần thức người chết.
Điển hình nhất của lòng tôn trọng và hòa hài này là câu chuyện Đức Đạt Lai Lạt Ma thường kể trong các pháp hội. Ngài nói: "Tôi
có quen biết một người bạn Âu Mỹ tu trong truyền thống Thiên Chúa Giáo
của giòng tu Phan Xi Canh, một giòng tu kín và thường hay nhập ẩn tu, để
trầm tư mặc tưởng (thiền theo lối Thiên Chúa Giáo). Một hôm, trong lúc
nói chuyện, tôi hỏi thăm là khi ông nhập ẩn tu như vậy để mặc tưởng thì
ông thiền định về điều gì? Ông ta nói rằng chỉ để thiền định về lòng
nhân từ (nhân ái-từ bi) [6]. Tôi thật là thích thú nhận ra rằng căn bản
của các tôn giáo vẫn là lòng từ bi. Sau một thời gian quen biết và trao
đổi các kinh nghiệm tu tập, ông ta càng ngày càng thích về Phật giáo.
Rồi đến một hôm, ông đến gặp tôi nói rằng, thưa Ngài, tôi bây giờ đang
tìm hiểu về Tánh Không. Tôi bèn cười và nói với ông ta: đấy không phải
là chuyện của ông (that is none of your business)".
Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích là vì ông ta từ xưa đến giờ vẫn tu trong
truyền thống tôn giáo hữu thần, nghĩa là đặt trọng tâm trên lòng tin vào
đấng Thượng Đế Toàn Năng. Nếu bây giờ tìm hiểu vào Tánh Không của Phật
giáo sẽ phải loại bỏ ý niệm và lòng tin vào đấng Thượng Đế, vì Tánh
Không đồng nghĩa với Nhân Quả và Duyên Khởi, nói rằng không có đấng Tạo
Hóa nào sinh ra mọi sự vật, mà tất cả chỉ là do nhân duyên, tùy thuộc
vào nhau mà khởi sinh. Nếu tìm học thêm như thế, ông ta sẽ có nguy cơ bị
mất lòng tin vào Thượng Đế và sẽ lâm vào tình rạng rối loạn tâm linh,
đó là một điều rất nguy hiểm cho người tu sĩ.
Nhưng điều cực kỳ hay ở đây là Đức Đạt Lai Lạt Ma đã khéo léo trả lời một cách thật là dí dỏm và bình dị: "đấy không phải là chuyện của ông (that is none of your business)". Và Ngài đã cười phá lên thật là thoải mái.
6. Tâm siêu thế gian và không màng đến quyền lợi chính trị
Trong một chương trình bình luận chính trị mới đây xảy ra trên đài
truyền hình France 2 tại Paris, Pháp quốc, nhân lúc thời sự đang nóng
bỏng về vấn đề Thế Vận Hội Quốc Tế [7] tại Bắc Kinh, liên hệ cả đến sự
bất tôn trọng nhân quyền của và đàn áp Tây Tạng của Trung Cộng, một bình
luận gia chuyên môn và nổi tiếng của Paris đã phân tích lý do tại sao
Trung Cộng lại sợ hãi Đức Đạt Lai Lạt Ma như thế.
Ông ta đã giải thích cặn kẽ lý do tại sao mà Trung Cộng lại sợ hãi và
nhất định không chịu công nhận quyền tự trị của Tây Tạng (Tibet
autonomy), mặc dù Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ xin được có quyền tự trị và
chấp nhận giải pháp Tây Tạng vẫn thuộc về nước Trung Cộng chứ không đòi
độc lập thành quốc gia riêng rẽ. Đó là vì một lý do chủ yếu: Đức Đạt Lai
Lạt Ma không màng đến quyền lực thế gian. Ngài nói rằng một khi được
công nhận quyền tự trị, Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ từ chức nguyên thủ của
chính phủ Tây Tạng và thiết lập một chính quyền hoàn toàn tự do dân chủ
qua những cuộc bầu cử quốc hội và Thủ Tướng Tây Tạng. Còn Ngài thì sẽ tự
mình rút lui về cương vị một tu sĩ Phật giáo đơn thuần và chuyên hành
trì mà thôi.
Trung Cộng vốn là một nước đặt căn bản điều hành trên sự thống trị bằng
đàn áp phi dân chủ. Những lần chính quyền Trung Cộng đã đàn áp đẫm máu
trên chính người dân đồng bào của họ như vụ biểu tình của Thiên An Môn
năm 1989 đã chứng tỏ điều đó.
Ngay cả trong lần Thế Vận Hội vừa qua, người ta cũng có thể thấy rõ sự
điều hành của Trung Cộng đặt toàn diện trên hệ thống quân đội và công an
để giữ sự thống trị trên dân chúng và áp đặt quyền hành. Trên các đài
truyền hình, chúng ta đã thấy cảnh các người dân oan kêu khóc vì bị tước
đoạt nhà cửa làm Thế Vận Hội mà không được bồi thường thỏa đáng.
Do đó chính quyền Trung Cộng rất sợ hãi lòng tôn trọng dân chủ không
màng đến quyền lợi chính trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Vị bình luận viên
trên đài truyền hình France 2 còn nói rằng, với đức hạnh và tinh thần
siêu thế gian, không màng đến quyền lợi chính trị, nếu Đức Đạt Lai Lạt
Ma thực hiện được quyền tự trị Tây Tạng sẽ làm khởi sắc lại phong trào
tranh đấu cho dân chủ tại Trung Cộng, lôi kéo theo các phong trào đòi
quyền tự trị khác của các vùng Tân Cương, vùng xứ Hồi, vùng Tráng tộc và
Nội Mông. Một vị Đạt Lai Lạt Ma trở về được xứ Tây Tạng tự trị, tranh
đấu xây dựng cho nền dân chủ của Tây Tạng và không màng đến quyền lợi
chính trị sẽ được tất cả các sắc dân Trung Hoa hướng về và chiêm ngưỡng,
để từ đó sẽ khởi sắc những phong trào tranh đấu cho tự do dân chủ mạnh
mẽ hơn cả phong trào Thiên An Môn năm 1989.
Như thế, đó mới là điều Trung Cộng sợ hãi, Đức Đạt Lai Lạt Ma và các đức hạnh của Ngài, hơn bao giờ hết.
7. Đức Đạt Lai Lạt Ma, vị thần tượng bình dị trong lòng chúng ta
Đức Đạt Lai Lạt Ma là vị thần tượng của thời đại chúng ta, cái thời đại
mà những giá trị của lòng nhân ái, của lòng vị tha đã bị đời sống tiêu
thụ và vật chất đẩy vào quên lãng. Thời nay, tất cả đều hướng sự sống về
lòng vị kỷ, cho cá nhân của riêng mình. Gia đình, cha mẹ, con cái đều
quay cuồng trong cuộc sống chạy theo đồng tiền và sự thành công danh
tiếng.
Thế nhưng, cho dù sống trong trào lưu tiêu thụ và vật chất đó, nhân cách
của Ngài đã sáng chói qua bộ áo tu bình dị và đôi giép nhật bản cố hữu.
Ngài đã nổi bật lên qua đời sống bình dị và lòng chân thật của mình khi
đi khắp nơi trên thế giới thuyết pháp và tranh đấu cho nhân quyền, cho
lòng nhân ái, lòng vị tha và tha thứ.
Mọi nơi đều hướng về Đức Đạt Lai Lạt Ma với lòng thành kính vô biên và chia sẻ sự tranh đấu bất bạo động cao quý của Ngài.
Một người bạn đã từng hỏi tôi: "Tại sao anh không đóng góp, làm
chùa, in kinh sách cho Phật giáo Việt Nam mà lại làm việc tích cực và tu
tập tích cực theo truyền thống Mật tông Tây Tạng và sùng kính Đức Đạt
Lai Lạt Ma?" Tôi trả lời: "Phật giáo giảng dạy giáo lý và hành
trì để đạt giác ngộ. Nơi đâu có đấng giác ngộ thì mình hướng về nơi đó
tu tập. Ngày xưa Đức Phật Thích Ca thành đạo và tất cả chúng ta bây giờ
đều tu tập pháp của Ngài. Bằng chứng là chúng ta luôn luôn tụng đức
Thích Ca là vị bổn sư qua câu Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Đức
Thích Ca cũng là người Ấn độ chứ có phải là người Việt Nam đâu? Là người
xứ nào, đâu phải là điều ta nên phân biệt, tổ Huệ Năng ngày xưa có nói:
Phật tánh đâu có phân biệt nam bắc".
Lần khác bạn tôi bảo là, có người nói một câu như sau: "Tôi tu theo
truyền thống Việt Nam vì không thích hợp truyền thống Mật tông Tây Tạng
với các màu sắc sặc sỡ hoa hoè hoa sói, và hỏi tôi nghĩ sao về câu này". Tôi trả lời: "Một
lần nữa, tu học Phật giáo là để đạt giác ngộ, do đó giác ngộ là điều
chính yếu chứ không nên mắc kẹt vào những màu sắc để rồi quên mục đích
chính là giác ngộ. Do đó, tuy màu sắc hoa hoè mà có giác ngộ thì cứ tu
theo thôi, không nên chỉ vì kẹt thấy cái màu sắc đó mà bỏ cái cốt lõi là
giác ngộ bên trong. Còn nếu không có màu sắc hoa hoè mà lõi bên trong
không có giác ngộ thì tu theo cũng đâu có ích gì. Tóm lại, giác ngộ mới
là chính yếu, đừng quan tâm đến chuyện phụ (màu sắc) mà quên đi là mình
đang đi tìm về giác ngộ. Không nên bị ngăn ngại vì chuyện phụ
đó. Vả lại, theo tôi biết thì chính người nói câu không thích màu sắc
hoa hoè đó cũng tu theo Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, mà lại quên
rằng chính bổn sư của mình là người Ấn độ và mặc quần áo hoa hoè của
người Ấn độ thời xưa, và như thế đã tự mình mâu thuẫn với chính lập luận
của mình.”
Và sự thực thì không thể nào phủ nhận: Đức Đạt Lai Lạt Ma là vị thần
tượng của thời nay. Thế giới hướng về vị thần tượng không vì thần thánh
hóa, mà do sự ban phát niềm vui hạnh phúc khi được gần Ngài và sống với
nhân cách cao quý đầy đức hạnh, nhưng lại thật là bình dị và chân thật
của Ngài.
Không Quán
Chú thích:
[1] Tạng ngữ là Lam Rim Chen Mo. Trang nhà http://www.dalailamajuly2008.com/Welcome.html.
[2] Bốn đề tài chính là: 1. Căn bản Trung Quán Luận, 2. Thích Bồ Đề Tâm
Luận, 3. Bảo Hành Vương Chính Luận, 4. Tràng Hoa Tri Kiến Luận. Trang
nhà http://www.dalailama-nantes2008.fr/site_VN/intro.php.
[3] Thân giáo nghĩa là bài học đến từ sự sống của bản thân .
[4] Cùng ý nghĩa trong kinh Kim Cang.
[5] Theo cuốn sách "Un simple moine : Le Dalaï-Lama raconté par ses
proches" của Déborah Hart Strober thì một nhân chứng kể lại là Đức Đạt
Lai Lạt Ma đã trả lời bà ta là "Tôi nghĩ là bà ngu xuẩn (I think you are
stupid)".
[6] Pháp ngữ là miséricorde, miséricordieux, Anh ngữ là graciousness, mercy, merciful.
[7] Olympic Games.
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật Giáo Việt Nam Net)
Không Quán (phatgiaovnn.com)