Mỗi con người là một huyền
thoại. Chúng ta ai ai cũng có huyền thoại khi còn trong trứng nước cho
đến khi mở mắt chào đời; những chuyện li kỳ về mỗi người khi sinh ra đều
được đấng sinh thành ghi nhớ và kể lại như là một điềm lạ về sự chào
đời của đứa con thân yêu dù rất nhỏ nhoi, và đôi khi chúng ta bẵng quên
mất khi đời sống quá ư bận rộn mệt nhoài…
Cũng thế, các vĩ nhân và thánh nhơn xuất
hiện trên thế gian này đều có những huyền thoại vĩ đại hơn chúng ta,
đặc trưng của những huyền thoại hoăc sinh hay tử được lưu truyền từ đời
này sang đời khác, bằng khẩu truyền, bằng thiên hùng ca hay bút ký…
Những câu chuyện huyền thoại xoay xung quanh cuộc đời của các vĩ nhân
như là một sự minh chứng đối với sự hiện hữu tuyệt vời của họ trong một
mốc son lịch sử và được truyền tụng cho đến bây giờ.
Là một con người trên tất cả con nguời,
là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni
gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp, phi phàm và đầy thi vị nhất;
khi vừa mới mở mắt chào đời Người đã nhẹ nhàng bước trên bảy đóa hoa
sen, tay phải chỉ lên trời, tay trái trỏ xuống đất và dõng dạc tuyên
ngôn: “ta là Đấng cao quí duy nhất trong thiên hạ” ( I alone am the
World-Honored One). Biết bao thế kỷ tang thương, cuộc dâu bể đổi dời,
huyền thoại về sự ra đời của Ngài như vẳng nghe mới hôm nao đây bên
những trang kinh tưởng chừng như chưa ráo mực.
Tương truyền, vào một đêm Hoàng hậu
Mahamaya mộng thấy con voi trắng sáu ngà từ cõi trời bay xuống trong
tiếng nhạc vang lừng, quỳ xuống bên chân Hoàng hậu, con voi dâng cho bà
một cành sen hồng được mang từ cái vòi của nó. Thức giấc, Hoàng hậu thấy
cảm giác dễ chịu và khoan khoái với những mùi hương lạ thơm ngát căn
phòng, và bà biết rằng mình đã thụ thai Thái tử Siddhartha.
Vào một buổi sáng trời trong xanh, nắng
đẹp, chim chóc vui hót, Hoàng hậu Mahamaya đi dạo chơi trong vườn
Lumbini, một khu vườn xinh đẹp thuộc thành Kapilavatthu, một lúc bà thấy
mệt và vịn tay phải vào cành cây vô ưu (ashok tree) đang nở đầy hoa thì
hạ sinh thái tử. Thái tử Siddhartha được sinh ra từ hông bên phải, ngay
lúc ấy ngài đứng dậy đi bảy bước, dưới chân Ngài nở bảy đóa sen, một
tay chỉ trời một tay chỉ đất mà nói rằng: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã
độc tôn.”
Hơn hai mươi lăm thế kỷ trôi qua, biết
bao giấy mực luận bàn về huyền thoại này; sự đản sinh của Đức Phật đã
trở thành đề tài muôn thuở cho các nhà nghiên cứu bình luận, là chủ đề
gây tranh cãi nhiều nhất từ xưa tới nay; bên cạnh đó nó cũng là tiền đề
gây hứng thú nhất cho các nhà Phật học và thi nhân kim cổ.
Không ít các nhà phân tích Phật học cho
rằng bảy đóa sen kia là tượng trưng cho bảy phần Bồ đề (hay Thất giác
chi) một trong Ba mươi bảy phẩm trợ đạo-là phương pháp tối yếu để giúp
cho người học đạo và tu đạo thể nhập được giác ngộ, hoặc là yếu nghĩa
của Tam Thừa Tứ quả, và cũng không ít người cho rằng bước sen thứ bảy là
sự giải thoát hoàn toàn từ sáu bước sen trước, như là sự vượt thoát
sáu cõi luân hồi.Một số nhà bình luận khác thì cho rằng con số 7 là con
số triết học thuần túy của Ấn Độ, với ý nghĩa không gian có bốn (đông,
tây, nam, bắc), thời gian có ba (quá khứ, hiện tại và tương lai); Thái
tử đi trên bảy đóa sen tượng trưng cho sự vượt thoát về ý niệm của không
gian và thời gian. Ngài sinh từ hông phải là biểu thị cho bản thể tuyệt
đối vô nhiễm và câu tuyên ngôn: “Ta là Đấng cao quí nhất trong thiên
hạ” là sự xác tín về Phật tính-vốn ẩn tàng trong mỗi chúng sinh…tất cả
khía cạnh lý giải đều có ý nghĩa nhất quán mặc dù trên hình thức có đôi
chút dị biệt, đó là sự giác ngộ về Chân tâm Phật tính xuyên qua truyền
thuyết Đản sinh này.
Tuy nhiên các Học giả Đông Tây đứng trên
lập trường khách quan thì cho rằng bảy bước hoa sen là sự đại diện cho
bảy phương hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới và Tại đây (east,
west, north, south, up, down and here). Và một tay chỉ trời một tay chỉ
đất là một điềm lành báo hiệu sự hiện hữu của một vị Cứu tinh cho cõi
Thiên Nhơn-nối kết giữa trời và đất, giữa thiên đường và trần gian bụi
bặm, và câu tuyên ngôn: “Ta là Đấng tôn quý nhất trong thiên hạ” theo
quan điểm Phật giáo Phát triển là một cách nói khác để xác quyết về tính
giác hằng hữu trong không gian vô cùng và thời gian vô tận bên trong
mỗi chúng sinh.
Bên cạnh đó không ít các bình luận gia
ngoại đạo cho rằng huyền thoại đản sinh của Đức Thích Tôn được vay mượn
từ huyền thoại chào đời của Thần Indra-vị thần cổ của Ấn Độ giáo vốn
được truyền tụng ở trong văn học Rig Veda. Thần Indra cũng sinh ra từ
bên hông của mẹ, và khi vị thần này chào đời thì có những hiện tượng lạ
xảy ra như là nhật thực (1), trái đất vang động, núi non trời đất lung
lay (2), và tất cả các vị thần khác đều sợ hãi sự phẫn nộ của thần Indra
…(3), một trong những thi kệ của Rig Vedic cũng ca ngợi vị thần này:
“Ồ Indra, sự khéo léo của người giống như bậc thầy của các Thiên chủ
và loài người…”(4). đặc biệt khi vừa ra đời thần Indra nói rằng ông ta
sẽ là đấng thừa hành những sứ mệnh vĩ đại. Cũng có một số Học giả khác
cho rằng truyền thuyết Đản sinh của Đức Phật không ít thì nhiều có ảnh
hưởng truyền thuyết Hy Lạp, khoảng thời gian sau khi Đại đế Alexander
cai trị vùng Đông Á vào năm 334 BCE, và có một sự hòa nhập đáng kể về tư
tưởng và nghệ thuật giữa Phật giáo và Hy Lạp. Một số khác thì đinh ninh
rằng câu chuyện Đản sinh là được “nâng lên” từ câu chuyện ra đời của
chúa Jesu khi những nhà Thương buôn Phật giáo trở về từ Trung Đông…Tất
cả sự tranh cãi này không ngoài mục đích là đánh tan thần tượng thần
thánh hóa Đức Phật.
Dù vậy không ai có thể chối bỏ được hình
tượng hoa sen-một biểu tượng cho trí tuệ trong nghệ thuật Phật giáo,
hoa sen còn đại diện cho sự tinh khiết và thanh cao của tâm linh. Bên
cạnh đó bảy bước hoa sen của Đức Phật chỉ cho bảy hướng: Đông , Tây,
Bắc, Nam, Trên , Dưới và Tại đây thì không tương đồng với bất kỳ huyền
thoại nào khác. Đức Phật ra đời trong một bối cảnh xã hội Ấn Độ đầy phức
tạp; mặc dù trong giai đoạn này thế lực chính thống của Bà La Môn giáo
đã đến thời kỳ suy yếu; thay vào đó sáu phái Triết học và bảy mươi hai
tà kiến với nhiều lập trường triềt thuyết tranh nhau hùng cứ bốn hướng
đông, tây, nam, bắc và khu vực thượng lưu và hạ Lưu sông Hằng. Sự ra đời
của Ngài như để dàn xếp và thống nhất các học thuyết tư tưởng bằng sự
giác ngộ thực tại duyên khởi, và chỉ có Đức Thích Tôn mới làm được cuộc
cách mạng lịch sử của các trào lưu tư tưởng đương thời. Và cho đến hôm
nay, giáo lý giải thoát này vẫn mãi hiện hữu mầu nhiệm giữa lòng trời
đất bao la, xuyên qua bốn phương đông, tây, nam và bắc của quả địa cầu
này.
Ngoài bảy bước hoa sen, huyền thoại Đản
sinh với câu tuyên ngôn: “Ta là Đấng cao quí nhất trong thiên hạ” đã làm
chấn động và gây xôn xao cho tất cả người nghe với tất cả thành phần
trong xã hội. Câu tuyên ngôn này có mâu thuẫn chăng khi lập trường của
Phật giáo là Vô ngã (anatma hoặc nontheism)? Chúng ta không thể lý giải
theo quan niệm “tự tôn” với một trẻ vừa sơ sinh chưa có ý thức phân
biệt. Tất cả các nhà Phân tích đều đồng quan điểm rằng cái “Ta” trong
câu nói trên như là một sự xác tín về Chân ngã-Phật tính vốn chi phối và
điều động sự hiện hữu của thế giới. Cái “Ta” này biểu hiện dưới hình
thái con Người-chính là Thượng đế tôn quí nhất trong thiên hạ, nhưng con
người đã bỏ quên để rồi lang thang tìm cầu một Thượng đế xa xôi, vô
vọng và rồi tự chuốt thêm vọng tưởng khổ đau ! Một cách khác, câu nói
này cũng là lời tuyên cáo rằng chỉ có Đức Phật mới là Đấng Thượng đế
duy nhất bao hàm Trí tuệ và Từ bi viên mãn, Kokkali nói: "Trí tuệ của
Đức Phật rộng lớn như biển khơi, và Thánh linh của Ngài là đầy đủ đức
đại từ bi. Đức Phật không có hình thái cụ thể nhưng thể hiện chính mình
trong sự hoàn thiện và dẫn đắt chúng ta bằng cả tấm lòng từ bi của
ngài” (Buddha's Wisdom is broad as the ocean and His Spirit is full of
great compassion. Buddha has no form but manifests Himself in
Exquisiteness and leads us with His whole heart of Compassion) (5). Do
đó sự thị hiện của Đức Phật không ngoài mục đích tạo dựng một thế giới
của tình yêu thương và hòa bình trên căn bản của tuệ giác vô ngã vị tha.
Mỗi Tôn giáo đều gắn liền với huyền
thoại của Đấng giáo chủ của chính nó để được trãi dài theo thời gian như
một sư linh thiêng và huyền bí; cũng như những nhân vật nổi tiếng trên
thế giới đều có huyền thoại của riêng mình, như huyền thoại nhà sáng lập
Đế chế Mông Cổ Thành Cát Tư hãn, huyền thoại nhà lãnh đạo chính trị
cuộc cách mạng Pháp Napoleon, huyền thoại nữ hoàng Ai Cập Nefertiti,
huyền thoại thiên tài âm nhạc Mozart, huyền thoại họa sĩ nổi tiếng Van
Gogh, Huyền thoại thi sĩ Nguyễn Du, gần đây chúng ta có huyền thoại minh
tinh điện ảnh Marilyn Monroe, huyền thoại bóng đá với chân sút “phù
thủy” Maradona, huyền thoại vua nhạc Pop Michael Jackson… tất cả họ đã
đi vào dòng thời gian bất tuyệt xuyên qua huyền thoại của chính mình.
Các bậc chí sĩ thánh nhân thì có những huyền thoại phi phàm lãng tử
không thể suy lường, như huyền thoại Trang Tử nhập vào bướm, Lý Bạch ôm
trăng mà chết, Đức Jesu chịu đóng đinh trên cây Thập tự, Đức Bồ Đề Đạt
Ma quảy một chiếc hài đi về Thiên Trúc…Trên tất cả huyền thoại, huyền
thoại của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giàu chất thi ca và nghệ thuật nhất:
sinh giữa rừng hoa, thành đạo dưới gốc cây, thuyết pháp giữa rừng cây và
nhập diệt cũng giữa núi rừng tĩnh mặc; điều này đã nói lên rằng chỉ có
Đấng Điều ngự Thế Tôn mới thoát khỏi được ngôi nhà Tam giới, ngục tù của
vô minh và ảo tưởng.
Không hình ảnh nào tuyệt đẹp và thi vị
hơn hình ảnh đản sinh của Đức Thích Tôn nhẹ nhàng bước trên bảy đóa hoa
sen; không có lời nói nào tạo nên sự sửng sốt và bàng hoàng muôn thuở
như tuyên ngôn: “Ta là Đấng Tôn quí duy nhất trong thiên hạ.” Như là một
công án, câu nói nầy là một lời thôi thúc cho mọi người tìm hiểu học
thuyết Phật Đà, và “đến để mà thấy”. Huyền thoại đản sinh như là mệnh
đề dẫn nhập hay nhất cho toàn bộ nội dung chi tiết của Giáo pháp Phật Đà
băng qua trên mọi ngôn từ và lý luân giả tạo của trần gian.
TN. Tịnh Quang (DPNN)
Ghi chú
(1). Ibid, I. 130.9.
(2). Ibid, I.61.14
(3). Ibid, V.30.5
(4). Ibid, III. 34.2.
(5). The Teaching of Buddha", Bukkyo Dendo Kokkali (Buddhist Promotion Foundation)