Phàm tọa thiền thẳng khiến người mở
sáng tâm địa, an trụ chỗ bổn phận. Chỗ ấy gọi là “bản lai diện mục” (mặt
thật xưa nay), cũng gọi là “bản địa phong quang” (chỗ đất mát mẻ sáng
suốt). Thân tâm đều quên mất, ngồi nằm đồng xa lìa. Cho nên không nghĩ
thiện, không nghĩ ác, siêu cả phàm thánh, vượt khỏi xét bàn của mê ngộ,
rời bờ mé Phật và chúng sanh.
Thế nên, bỏ hết muôn việc, buông sạch
các duyên, tất cả không làm, sáu căn không tạo tác. Cái ấy là cái gì? –
Chưa từng biết tên, không phải thân, không phải tâm, muốn suy nghĩ thì
suy nghĩ bặt, muốn nói năng thì nói năng cùng, như ngu như ngây, núi cao
không bày đảnh, biển sâu không thấy đáy không đối duyên mà chiếu. Mắt
sáng ngó xuyên cả mây, không suy nghĩ mà thông, biết khắp mà không nói,
ngồi trong trời đất riêng bày toàn thân, không phải chỗ suy tính của đại
nhân, lặng lẽ tợ hồ người chết. Không có cái gì che lấp được mắt, không
một mảy bụi dính được chân, thì chỗ nào có bụi bặm ? Vật gì làm chướng
ngại ? Nước trong vốn không trên dưới, hư không trọn không trong ngoài,
trong trẻo sáng suốt, tự chiếu thần diệu, sắc không chưa phân, cảnh trí
đâu lập, từ xưa đến nay chung ở đã nhiều kiếp mà không có tên. Đức Tam
Tổ gọi là tâm, ngài Long Thọ gọi là thân. Nó biểu hiện tánh, tướng và
thể của chư Phật. Tướng mặt trăng tròn sáng này không thiếu khuyết,
không dư thừa. Tức tâm này là Phật, tự mình sáng chiếu thấu xưa suốt
nay, được cái biến tướng của ngài Long Thọ, thành Tam-muội của chư Phật.
Tâm vốn không hai tướng, thân lại có hình tướng khác. Duy tâm hay duy
thân, không nói khác hay đồng. Tâm biến thành thân, thân hiện bày tướng
phần của tâm. Một lượn sóng vừa khởi muôn lượn sóng tiếp dậy, tâm thức
vừa khởi muôn pháp đua nhau sanh. Bởi thế, tứ đại ngũ uẩn hòa hợp, tứ
chi ngũ căn hiện thành, cho đến ba mươi sáu vật, mười hai nhân duyên tạo
tác đổi dời lần lượt tiếp nối, chỉ do các pháp hợp thành mà có. Sở dĩ
tâm như nước biển, thân như sóng mòi, ngoài nước biển không có một lượn
sóng, ngoài sóng mòi không có một giọt nước. Nước và sóng không riêng,
động và tịnh không khác. Cho nên nói : “Chết sống đến đi người chân
thật, tứ đại ngũ uẩn thân không hoại”.
Nay tọa thiền chính là vào
biển Phật tánh, tức là nêu bày cái thể chư Phật, cái diệu tịnh minh tâm
saün có chóng hiện tiền. Một phần sáng suốt xưa nay được hoàn toàn viên
chiếu. Nước biển không thêm bớt, sóng mòi cũng không lui sụt. Chư Phật
vì một đại sự nhân duyên xuất hiện ra đời là chỉ thẳng chúng sanh khai
thị ngộ nhập tri kiến Phật, mà có diệu thuật tịch tĩnh vô lậu đó là tọa
thiền. Tọa thiền tức là cái Tam-muội chư Phật tự thọ dụng, cũng gọi là
Tam-muội vua Tam-muội. Nếu một khi an trụ trong Tam-muội này, liền mở
sáng tâm địa, khéo biết cửa chánh vào Phật đạo.
Người muốn mở sáng tâm địa phải buông bỏ những cái hiểu biết
tạp nhạp, ném quăng cả thế pháp và Phật pháp, chặt đứt tất cả vọng tình,
hiện thành một tâm chân thật, mây mê mờ quét sạch thì mặt trăng tâm mới
sáng soi. Phật nói : “Nghe (văn), suy nghĩ (tư) như ở ngoài cửa, tọa
thiền chính là trở về ngồi an ổn trong nhà”. Thật vậy, nếu nghe suy nghĩ
các kiến giải chưa dứt, tâm địa còn ràng buộc, cho nên như ở ngoài cửa;
chỉ có tọa thiền bỏ hết tất cả không còn chỗ nào chẳng thông, nên tợ
người trở về ngồi an ổn trong nhà. Ngũ cái phiền não là từ vô minh khởi,
vô minh là không rõ biết mình, mà tọa thiền là rõ biết mình. Mặc dù
đoạn ngũ cái mà chưa đoạn vô minh không phải là Phật Tổ; nếu muốn đoạn
vô minh, tu tập tọa thiền là bí quyết. Cổ nhân nói : “Vọng dứt thì tịch
sanh, tịch sanh thì trí hiện, trí hiện thì thấy chân”. Nếu muốn diệt tận
vọng tâm, phải thôi nghĩ thiện ác, lại tất cả công việc đều buông bỏ
hết, tâm không nghĩ, thân không việc, ấy là chỗ dụng tâm bậc nhất vậy.
Khi các vọng duyên hết thì vọng tâm cũng theo đó mà diệt. Vọng
tâm nếu diệt thì cái thể bất biến hiện bày, rõ ràng thường biết, không
phải pháp tịch diệt, không phải pháp động tác. Song, các thứ kỹ nghệ,
pháp thuật, thuốc thang, bói tướng đều phải xa lìa, huống là những việc
ca, múa, kỹ nhạc, tranh cãi, cười giỡn, danh tướng, lợi dưỡng ắt không
nên gần. Những thứ văn thơ thi phú, tuy nó là nhân duyên tịnh tâm, nhưng
chớ ham tạo tác. Văn chương bút nghiên đều ném đi không dùng. Ấy là lối
bậc nhất của người hành đạo, là pháp thiết yếu của người điều tâm.
Y phục đẹp và dơ đều không nên mặc. Mặc y phục đẹp thì sanh
tham, lại sợ trộm cướp, cho nên là chướng nạn của người hành đạo. Nếu đủ
nhân duyên có, hoặc được người cúng dường mà không thọ dụng, đó là cái
nếp đẹp của xưa nay. Giả sử đã saün có thì chớ quan tâm, trộm cướp có
lấy cũng không tìm kiếm hối tiếc. Y phục dơ và cũ phải giặt sạch vá lành
rồi sẽ mặc. Không giặt sạch đất mồ hôi đóng mà mặc thì thân phát bệnh
lạnh, lại là nhân duyên chướng đạo. Tuy nhiên không cần thân mạng, nhưng
mặc không đủ, ăn không đủ, ngủ không đủ, ba việc ấy không đủ đều là
nhân duyên lui sụt. Tất cả thức ăn, vật sống, vật cứng, vật tổn hại, vật
ô uế đều không nên ăn; nếu ăn ruột kêu, thân tâm nóng nảy, ngồi thiền
bứt rứt. Tất cả thức ăn ngon không nên ưa thích, không những thân tâm
phiền loạn, mà lại niệm tham khó dứt. Ăn chỉ để sống không nên đắm mê
mùi vị. Nếu ăn no ngồi thiền liền là nhân duyên phát bệnh. Sau bữa ăn
không nên ngồi liền, đợi qua một lúc rồi sẽ ngồi. Phàm Tỳ-kheo ắt phải
ăn có chừng mực tiết độ. Ăn có chừng mực tiết độ là ăn có phần hạn.
Trong ba phần chỉ ăn hai phần còn dư một phần. Tất cả thuốc phong, mè,
khoai mài v.v... nên thường uống. Đó là yếu thuật điều thân vậy.
Khi tọa thiền không nên nương dựa tường, vách, ghế và đồ ngăn
che, lại không nên ngồi chỗ gió mạnh, chỗ cao trống, các thứ đó đều là
nhân duyên phát bệnh. Nếu khi ngồi thân hoặc như nóng, lạnh, nhám, trơn,
cứng, mềm, nặng, nhẹ, hoặc biết kinh sợ đều là do hơi thở không điều
hòa. Phương pháp điều hòa hơi thở, tạm hả miệng ra tùy hơi thở dài cho
ra dài, hơi thở ngắn cho ra ngắn, dần dần điều nó, hơi hơi theo nó, khi
những cái xúc chạm đến tự nhiên điều hòa, sau rồi lỗ mũi thong thả thở.
Nếu tâm hoặc như trầm, phù, mê, lanh, hoặc trông thấy ngoài
thất, hoặc thấy trong thân, hoặc thấy thân Phật, thân Bồ-tát, hoặc khởi
hiểu biết, hoặc rành rõ Kinh Luận, những thứ kỳ dị, những tướng lạ lùng
v.v... thảy đều là bệnh do niệm và hơi thở không điều hòa. Nếu khi bị
bệnh, ngồi an tâm trên hai bàn chân. Nếu khi tâm hôn trầm, an tâm trên
mé tóc, hoặc giữa chặng mày. Nếu khi tâm tán loạn, an tâm tại chót mũi,
hoặc tại đơn điền. Lúc bình thường tọa thiền an tâm trong lòng bàn tay
trái. Nếu tọa thiền đã thuần thục không cần an tâm mà tâm vẫn không tán
loạn. Lại những loại sách gia huấn của cổ nhân tuy chiếu sáng lòng
người, nhưng không nên xem nhiều, viết nhiều và học nhiều vì đều là nhân
duyên loạn tâm.
Phàm khi thân tâm nhọc nhằn mệt mỏi đều là nhân duyên phát
bệnh. Chỗ nạn lửa, nạn nước, nạn gió, nạn giặc và bên mé biển, bên quán
rượu, bên lầu xanh, chỗ đàn bà góa, thiếu nữ, bên kỹ nhạc đều chớ nên
ngồi. Quốc vương, đại thần, nhà quyền thế, người đa dục, người danh
vọng, người cãi giỡn cũng không nên gần. Phật sự lớn, kinh doanh to tuy
là rất thiện, người chuyên tọa thiền cũng không nên làm. Không nên ưa
thuyết pháp giáo hóa, vì tán tâm loạn niệm từ đó mà sanh. Không nên ưa
đông người, tham đệ tử, không nên làm việc nhiều, học nhiều. Chỗ rất
sáng, rất tối, rất lạnh, rất nóng, cho đến chỗ người dạo chơi, giỡn hớt
đều không nên ngồi.
Trong tòng lâm, chỗ thiện tri thức, núi sâu, hang thẳm nên
dừng ở. Mé nước, núi xanh là chỗ kinh hành. Bên dòng suối, dưới cội cây
là chỗ lóng tâm. Hằng quán vô thường là nhân duyên kích phát đạo tâm.
Nệm dày trải ngồi mới yên ổn. Đạo tràng phải thanh khiết, thường thắp
hương cúng hoa thì Hộ pháp, Thiện thần, Phật, Bồ-tát ảnh hưởng gia hộ.
Nếu thờ tượng Phật, Bồ-tát, La-hán thì tất cả ma quỉ không dám phá hại.
Thường trụ tâm nơi đại từ, đại bi, công đức tọa thiền vô lượng hồi hướng
cho tất cả chúng sanh. Chớ sanh cao mạn, ngã mạn, pháp mạn, đó là pháp
của ngoại đạo phàm phu. Nghĩ thệ đoạn phiền não và thệ chứng Bồ-đề. Chỉ
chuyên ngồi thiền tất cả đều không làm, ấy là yếu thuật tham thiền.
Thường nên rửa mắt và rửa chân, thân tâm nhàn tịnh, oai nghi
tề chỉnh. Nên bỏ thế tình, cũng đừng chấp đạo tình. Tuy không bỏn xẻn
giáo pháp, mà không thỉnh thì chớ nói. Giữ ba lần thỉnh, bốn lần từ,
mười lần muốn nói, chín lần thôi. Khóe miệng lên meo như chiếc quạt mùa
đông, như cái linh treo trên hư không mặc tình gió bốn phương thổi. Đó
là tác phong của kẻ đạo nhân vậy. Chỉ lấy pháp mà không tham người, dụng
đạo mà không cống cao mình, ấy là chỗ dụng tâm bậc nhất.
Tọa thiền không can hệ đến Giáo, Hạnh, Chứng mà gồm cả ba đức
này. Chứng là lấy đợi ngộ làm qui tắc, không phải tâm tọa thiền. Hạnh là
sự thực hành thật tiễn, không phải tâm tọa thiền. Giáo là đoạn ác tu
thiện, cũng không phải tâm tọa thiền. Trong thiền tuy có lập giáo mà
không phải giáo lý thường. Nghĩa là chỉ thẳng, truyền đạo riêng, hết
thảy toàn nói câu thoại đầu, nói không có chương cú, chỗ ý tận lý cùng.
Một lời nói trùm hết mười phương, không mảy may nào chưa bày hiện. Thế
thì, không phải giáo lý chân chánh của Phật Tổ sao ? Hoặc tuy nói Hạnh
lại là cái hạnh vô vi. Nghĩa là thân không làm, miệng không thầm tụng,
tâm không suy xét, sáu căn tự thanh tịnh, tất cả không ô nhiễm, không
phải mười sáu hạnh của Thanh văn, không phải mười hai hạnh của Duyên
giác, không phải lục độ vạn hạnh của Bồ-tát, tất cả không làm, cho nên
gọi là Phật. Chỉ an trụ trong Tam-muội chư Phật tự thọ dụng, dong chơi
bốn hạnh an lạc của Bồ-tát, đâu không phải cái hạnh thâm diệu của Phật
Tổ ư ? Hoặc tuy nói chứng, không chứng mà chứng, là Tam-muội vua của
Tam-muội, Tam-muội vô sanh trí phát hiện, Tam-muội nhất thiết trí phát
hiện, Tam-muội tự nhiên trí phát hiện, là cửa sáng mở bày trí tuệ của
Như Lai, là pháp môn phát xuất hạnh đại an lạc, vượt khỏi cách thức
Thánh và phàm, ra ngoài sự xét lường mê ngộ, đâu không phải chứng cái
bản hữu Đại giác sao ?
Tọa thiền không can hệ đến giới, định, tuệ, mà gồm cả ba môn
học này. Giới là ngừa quấy ngăn ác. Tọa thiền quán toàn thể không hai,
buông hết muôn việc, thôi bỏ các duyên, không quan tâm đến Phật pháp và
thế pháp, sự quyến luyến của đạo tình và thế tình đều quên sạch, không
phải quấy, không thiện ác, đâu còn có cái gì mà phải ngăn ngừa ? Đây là
giới tâm địa vô tướng vậy. Định là quán tưởng. Tọa thiền thì quên cả
thân tâm, xa lìa mê ngộ, không biến không động, không làm không mê muội,
như ngu như ngây, như núi như biển, hai tướng động và tịnh hoàn toàn
không sanh, định mà không có tướng định, không có tướng định nên gọi là
đại định. Tuệ là giản trạch hiểu biết. Tọa thiền thì cái hiểu biết tự
diệt, hằng quên tâm thức, khắp thân là mắt tuệ, không có giản trạch hiểu
biết, thấy rõ Phật tánh vốn không mê lầm, ngồi dứt ý căn liền được rỗng
rang thấu suốt, ấy là tuệ mà không có tướng tuệ, không có tướng tuệ nên
gọi là đại tuệ. Những giáo pháp một đời đức Phật nói đều thu gồm trong
giới, định, tuệ; nay tọa thiền không giới nào mà chẳng giữ, không định
nào mà chẳng tu, không tuệ nào mà chẳng thông. Hàng ma, thành đạo,
chuyển pháp luân, nhập Niết-bàn đều nương thần lực tọa thiền. Thần
thông, diệu dụng, phóng quang, thuyết pháp trọn do tọa thiền vậy. Tham
thiền cũng là tọa thiền.
Muốn tọa thiền trước nên chọn chỗ yên tịnh, đệm hoặc nệm lót
ngồi phải dày, trải chỗ không có gió, khói vào và mưa mù lọt vô, gìn giữ
bao bọc hai đầu gối, chỗ ngồi phải thanh khiết. Tuy xưa có nhiều vị
ngồi trên tòa Kim cang hay trên bàn thạch, nhưng đều có vật lót ngồi.
Chỗ tọa thiền nên ban ngày không sáng lắm, ban đêm không tối lắm, mùa
đông thì ấm, mùa hạ thì mát, ấy là diệu thuật vậy. Buông bỏ tâm ý thức,
dứt hết niệm tưởng quán, chớ mong làm Phật, đừng nghĩ thị phi, khéo gìn
giữ quí tiếc ngày giờ như cứu lửa cháy đầu. Như Lai ngồi thẳng, Đạt-ma
ngồi xây mặt vào vách tại chùa Thiếu Lâm nhồi thành một khối đều không
việc gì khác. Ngài Thạch Sương toan làm cây khô bị Thái Bạch trách là
ngồi ngủ. Không dùng thắp hương, lễ bái, niệm Phật, tu sám, xem kinh,
trì tụng, chỉ chú trọng tọa thiền mới được.
Đại để khi tọa thiền nên đắp ca-sa. Bồ đoàn không phải trùm
hết bàn ngồi mà chỉ phân nửa ở sau xương cùng và cái mông, đó là pháp
Phật Tổ đã ngồi. Hoặc ngồi bán già hoặc ngồi toàn già. Cách ngồi toàn
già, trước kéo chân mặt để lên đùi trái, kéo chân trái để lên đùi mặt,
nới rộng dây lưng cổ áo, gìn giữ cho tề chỉnh. Kế lấy tay mặt để lên bàn
chân trái, tay trái để lên bàn chân mặt, hai đầu ngón tay cái ngay nhau
và tay sát vào thân, chỗ đối đầu hai ngón tay cái nên ngay rún. Ngồi
thân ngay thẳng không được nghiêng bên trái hay bên phải và cong tới
trước hay ễnh lại sau. Lỗ tai và bả vai, chót mũi và rún nhất định ngay
nhau. Lưỡi để lên ổ gà, hơi thở thông hai lỗ mũi, môi và răng vừa khít,
mắt nên mở rõ không to, không híp lại. Như thế điều thân rồi, kế đến
điều hơi thở. Phải hả miệng thở hơi một vài lần. Kế ngồi yên chuyển thân
bảy tám lần, từ thô đến tế ngay thẳng mà ngồi. Bấy giờ suy nghĩ cái tột
cùng không suy nghĩ. Suy nghĩ thế nào ? Nghĩa là không suy nghĩ, đó là
yếu pháp tọa thiền. Thẳng phá dẹp phiền não thân chứng Bồ-đề.
Nếu muốn xuất định, trước lấy hai bàn tay vẫn để ngửa, để lên
hai đầu gối, động thân bảy tám lần từ tế đến thô, hả miệng thở hơi, duỗi
hai tay chống đất nhẹ nhẹ đứng dậy, bước đi chậm chậm, nên chuyển phía
thuận và đi theo phía thuận.
Trong lúc ngồi, nếu có hôn trầm đến, thường nên động thân,
hoặc mở mắt to, hoặc an tâm trên đảnh, nơi mé tóc, giữa chặng mày. Nếu
chưa tỉnh, lấy tay xoa áp vào hai mắt, hoặc xoa khắp thân; vẫn chưa
tỉnh, đứng dậy đi kinh hành, cần phải đi phía thuận, kinh hành khoảng
trăm bước hôn trầm ắt phải tỉnh. Phương pháp đi kinh hành, một hơi hít
vô thở ra bước một bước, đi mà như không đi, vắng lặng không động. Đi
kinh hành như thế nếu chưa tỉnh, lấy nước rửa hai con mắt và vỗ trên
đảnh, hoặc tụng bài tựa Bồ-tát giới, dùng các phương tiện cho hết buồn
ngủ. Phải quán sự sanh tử là trọng đại, vô thường mau gấp, đạo nhãn chưa
sáng ngủ nghỉ làm gì ? Hôn trầm vừa đến nên phát nguyện : “Nghiệp tập
đã dày nên nay bị hôn trầm che đậy, mờ mịt này đến bao giờ tỉnh ? Nguyện
Phật Tổ duỗi lòng đại bi nhổ cái khổ mê muội nặng nề cho con !”
Nếu khi tâm tán loạn, an tâm nơi chót mũi và đơn điền, đếm
hơi thở ra vào. Vẫn còn chưa hết, đề khởi chiếu cố công án. Như “Ấy vật
gì ở đâu đến”, “Con chó không có Phật tánh”, “Hòn núi Tu Di ở Vân Môn”,
“Cây bá của Triệu Châu” v.v... không cần thấm nhuần hương vị của câu
nói, thế là thích hợp. Vẫn còn tán loạn, tưởng mình khi tắt thở, hai mắt
nhắm nghiền, người cứng đờ, lấy đó làm công phu tọa thiền. Hoặc tưởng
khi còn trong bào thai chưa sanh, trước khi chưa khởi một niệm, lấy đó
làm công phu thực tập. Hai cái không này được sanh thì tán loạn ắt dứt.
Sau khi xuất định, không để ý mà vẫn hiện oai nghi, được vậy
tức thành công án; không cố tâm xoay lại mà thành tu chứng, công án
được thành; đó là tin tức báo điềm trước, là nhân duyên bờ mé kia của
không kiếp. Cái then chốt thiết yếu máy linh của Phật Tổ chỉ một việc
này. Cần phải thôi đi, dứt đi, mát lạnh rười rượi đi, một niệm ngàn năm
đi, tro lạnh cây khô đi, lò hương miếu cổ đi, một mảnh lụa trắng đi. Rất
mong ! Rất mong