Dù
không phải là nơi thờ Nguyệt lão (ông tiên coi quản việc nhân duyên)
nhưng từ lâu chùa Hà đã được giới sinh viên truyền tụng là một nơi rất
linh nghiệm trong việc cầu duyên.
Mặc dù không ai biết truyền thống ấy bắt đầu từ khi nào, chỉ biết
rằng hầu như ngày nào cũng có những thiện nam, tín nữ đến đây cầu khấn
thần phật mong cho duyên vừa đẹp ý, sớm gặp người trong mộng. Đó là lý
do để chùa Hà trở thành một ngôi chùa đặc biệt, khác với những ngôi chùa
trên đất Hà thành.
|
Dù không phải là nơi thờ Nguyệt lão (ông tiên coi
việc nhân duyên) nhưng từ lâu chùa Hà đã được giới sinh viên truyền tụng
là một nơi rất linh nghiệm trong việc cầu duyên. |
Chùa
Hà có tên chữ là Thánh Đức Tự. Liên quan đến lịch sử hình thành ngôi
chùa này có hai truyền thuyết. Một nói chùa có từ thời vua Lý Nhân Tông.
Khi ấy nhà vua đã ngoài 40 tuổi mà chưa có con nên đi đến một ngôi chùa
trên vùng Dịch Vọng ngày nay để cầu tự. Ngôi chùa nhà vua đến sau đổi
tên thành chùa Thánh Chúa. Trên đường về nhà vua lại ghé thăm một ngôi
chùa khác và ban tiền để sửa chùa. Ngôi chùa này chính là chùa Hà, Và do
vậy mà chùa mang tên chữ là Thánh Đức tự.
Thuyết khác lại nói rằng ngôi chùa này dựng lên từ thời vua Lê Thánh
Tông để nhà vua tỏ lòng biết ơn đối với các đại thần Nguyễn Trãi, Nguyễn
Xí, Đinh Liệt vì đã phế bỏ Nghi Dân và giúp mình lên ngôi vua. Tuy vậy
đây cũng chỉ là những truyền thuyết dân quanh vùng truyền lại, chưa có
các nguồn tư liệu minh chứng cụ thể.
Chùa Hà ngày nay là một già lam theo đúng nghĩa vì đi qua tòa tam
quan uy nghi là thấy ngay một vùng cây cối râm mát. Bố trí kiến trúc của
chùa Hà cũng theo lối tiền phật hậu thần. Phía trước là điện thờ phật,
sau là phủ thờ Mẫu. Đa phần kiến trúc chùa là mới được xây dựng. Đáng kể
nhất về mặt niên đại lịch sử trong chùa có lẽ là chiếc chuông đúc thời
Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn treo trên nóc tòa tam quan uy nghi.
|
Bóng dáng của những nam thanh, nữ tú đứng ngồi
trầm tư. |
Qua khỏi vườn cây sẽ nhìn
thấy chùa với cây đa râm mát soi mình bên giếng nước sâu trước cửa tòa
tam bảo. Dưới bóng cây đa này thường thấy bóng dáng của những nam thanh
nữ tú đứng ngồi trầm tư.
Những thanh niên đến chùa này nhìn chung có thể xếp làm hai nhóm. Một
là những người chưa có mảnh tình nào vắt vai đến để cầu duyên. Và tốp
kia là những kẻ đang bị người yêu rời bỏ hoặc tình cảm rạn nứt nên đến
đây lễ để gọi tình. Đã có nhiều người ở nhóm thứ 2 khóc nức nở ngay giữa
tam bảo trong lúc khấn vái. Không phải vì thần thánh linh thiêng nhập
vào mà vì họ quá xúc động không kiềm chế được.
Và điểm chung là cả hai tốp họ thường ra ngoài cửa chùa, nơi có cây
đa to xòe bóng mát để nghỉ ngơi sau một hồi đứng chịu khói hương đến cay
mắt. Và biết đâu trong tâm tư họ đang chờ những điều kỳ diệu mà thần
linh giúp đỡ….
Ngoài sự nổi tiếng về những linh ứng trong việc se duyên như giới trẻ
vẫn đồn thì chùa Hà còn là một di tích lịch sử cách mạng. Ở nơi đây vào
tối ngày 15/8/1945, thành ủy Hà Nội đã triệu tập một cuộc họp để kiểm
điểm lực lượng của ta trong thành phố và bàn những công việc cấp bách
cần làm nhằm chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa.
Với lòng tin của giới sinh viên Thủ đô, chùa Hà từ lúc nào không hay
đã trở thành một “miếu thờ Nguyệt lão” trên đất Hà thành văn vật.
Vũ Tiến Đức (Đất Việt)