Hai mươi sáu thế kỷ qua đấng Đại giác đã xuất hiện trên quê
hương của đức tin nhiều huyền thoại, đánh thức vô số tri thức nhận chân
bản thể chân thật nơi mỗi người, không phải bằng huyền thoại siêu hình,
bằng đức tin thần khải, thần linh ban giáng, bằng bóng trôi hoa đóm ngự
trị nơi tâm tưởng mọi người một cách bất thực và truyền thống qua vô
tận tử sinh. Sự thị hiện của bậc Tỉnh thức đã thắp lên ngọn đuốc đầu
tiên giữa ba cõi để nối tiếp đi vào lòng nhân loại, soi sáng cho con
người nhận chân được căn bệnh mê mờ của thương đau truyền kiếp, nhân
loại đã và đang nối tiếp ánh đuốc thiêng liêng của ba ngôi thường trú.
Ánh đuốc mở đường đã ghi dấu
trong lòng người qua dòng chảy lịch sử, từng biến cố bể dâu càng tô đậm
tính chân lý, nét đẹp từ hòa và chiều hướng tâm linh vững chãi, mỗi bước
đường hoằng pháp lợi sinh và dòng chảy mầu nhiệm thấm đậm vào lòng nhân
loại, nối tiếp cao đẹp thiêng liêng.
Nơi xứ sở giàu niềm tin tôn giáo, được
gần gũi để tiếp nhận ánh sáng đạo đức đem lại, thực tế không như mơ ước
đơn thuần, con người cảm thấy bé nhỏ trước đức tin thưởng phạt, trước
cái nhìn miệt thị của niềm tin về giai cấp. Con người luôn chịu cảnh tủi
hờn về thân phận thấp hèn trong xã hội, đâu đó không ngớt tiếng kêu
thương cần có tự do về niềm tin để vượt qua lòng cuồng tín. Đức Phật đón
nhận tất cả thân phận lạc loài về bảo bọc dưới ánh sáng dân chủ, bình
đẳng và tự do cho tâm linh nên những thành trì xưa của truyền thống và
giáo điều lần hồi sụp đổ cho nguồn sáng tâm linh ngự trị.
Giáo đoàn thời Đức Phật còn tại thế là
biểu hiện của thực nghiệm và chuyển hóa đi vào lòng nhân loại. Chư Thánh
Tăng có mặt đó đây trên khắp lãnh thổ Á Đông, lan tỏa khắp châu lục với
mục đích đem ánh sáng giác ngộ hoằng hóa cho con người nhận chân được
con đường chuyển hóa mầu nhiệm, thân phận lạc loài của kiếp người đang
bị khóa chặt trong xiềng xích vô minh và chấp ngã. Nguyện lực đại bi
thiêng liêng tỏa sáng như vậy mà tín đồ Phật tử còn đắm chìm trong hơi
hướng của dục lạc đảo điên, hấp dẫn trong sự cầu đạo về thần giáo, vô
tình chôn vùi khả năng giác ngộ của chính mình như câu chuyện đứa con
hoang và gã cùng tử trong Kinh Pháp Hoa.
Chúng sinh có mặt là tiến trình của
nghiệp lực tạo nên, nhân duyên hiếm có để được làm người là phước báo
lớn, có cơ duyên gặp Phật Pháp là điều tối thắng. Trong Kinh Pháp Hoa ví
như rùa mù nỗi trên đại dương, gặp được bộng cây. Những người gặp
chánh pháp là phước báo không nhỏ, vậy phải hết lòng quy kính Tam Bảo.
Chúng ta tiếp nhận ngọn đuốc mầu nhiệm là giáo pháp để soi sáng nơi mê
trường tăm tối của chính mình, nói như lời Tổ: “Không ai chọn cho mình
nơi sinh ra nhưng phải hoàn thiện tư chất, đạo đức của mình.”
Một phần nào đó trong hàng Phật tử còn
mãi mê giáo điều ngoại đạo, chưa xác tín được nguyên lý nhân quả, chưa
rõ nguồn tâm, trôi theo dòng thế sự với niềm tin dân dã, nhãn hiệu Phật
tử, có lẽ còn lờ mờ về tám con đường chân chính của đạo. Chúng ta còn
hướng tâm cầu đảo thần linh, số mệnh, quan niệm linh hồn bất tử, bàu
pháp, quẻ số quan công .v.v... thì chúng ta đâu thể nói là chánh tín,
chánh niệm, chánh tư duy, chánh tinh tấn...
Ngày cuối năm con đốt vàng bạc nơi bàn
ngũ tự, đưa ông táo về tâu Ngọc Hoàng thượng đế thì chúng ta còn muốn
tìm về buổi hoang sơ của niềm tin dân dã, đâu phải là người quy kính
trước Tam bảo: Con về nương tựa Phật, con đương có hướng đi sáng đẹp
trong cuộc đời, về nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể
nhận được giác tánh, sớm mở lòng Bồ đề... và Pháp Tăng...
Trước ba ngôi Tam bảo sáng tỏ, chúng ta
không hết lòng nhận thức để chuyển hóa. Đâu đó số ít cửa chùa còn hiểu
lờ mờ nửa thật nửa giả, chưa gọi là chánh pháp, bổn phận Phật tử là
phải trạch pháp, đi con đường chân chánh. Hãy là cây đuốc của chính mình
để chúng ta thông cảm: Bối cảnh xã hội tạo nên từ hoàn cảnh chiến
tranh, điều kiện nhận thức có vướng vấp nhiều hệ lụy “Chữ tâm thì có chữ
tài thì không” hay trong mưu ý lợi dụng nào đó để đánh lừa hình thức,
có trường hợp vì đối tượng nhận thức còn phôi thai nên phải phương tiện
để dẫn dắt, nghĩa là dùng độc trị độc để họ khỏi lạc lối.
Tóm lại, dù hình thức nào, tình huống
nào hay bối cảnh hưng vong của xã hội ảnh hưởng đến sinh hoạt chung về
vận mệnh đất nước, Phật tử không vì thế sinh ra nhận thức lệch lạc về
con đường chuyển hóa, phải giữ đúng tinh thần “Tùy duyên bất biến”. Văn
hóa Phật giáo là tuệ giác ắt có không những đối với đời sống tâm linh để
hướng đến đích giác ngộ, liểu thoát sinh tử mà còn là chất liệu văn hóa
tốt đẹp tỏa sáng, đem lại hạnh phúc thanh bình cho xã hội, cần có trong
đời sống văn minh khoa học như hiện nay. Mọi Phật tử nên nhận thức chân
chánh theo tinh thần của tám điều giác ngộ và nên là “Ngọn đuốc của
chính mình”, không cầu khẩn sự ban bố của thần khải bên ngoài.
Tạp chí Đạo Phật Ngày Nay - số 05