Với Ðạo Phật, tín ngưỡng bao hàm ý nghĩa đức tin, và đức
tin ở đây không phải là giáo điều, mang tính áp đặt trong quá
trình học và hành đạo. "Ðức Tin" ở đạo Phật bao hàm ý nghĩa trí tuệ
và phải được chứng thực qua quá trình kinh nghiệm. Danh từ Phật
Pháp như chúng ta đã biết, đó là cách thức, phương pháp, con đường
để đạt đến "Phật", một thuật ngữ chỉ có thể ra đời khi Ðạo sư
Gotama đã chứng ngộ trên đường hành đạo. Vì vậy, Phật pháp không
phải là một học thuyết mang tính lý luận, mà là tất cả những gì
thực tiễn con người có thể vận dụng một cách linh hoạt trong đời
sống hàng ngày. Ðiều này thể hiện rõ qua hình ảnh "bánh xe pháp
luân". Ðây chính là biểu tượng của tiến trình hành động để khẳng
định, chứng thực những điều Phật dạy qua nhân cách sống, và hệ
thống kinh điển Ngài để lại sau ngày nhập diệt.
Nghiên cứu giáo lý đạo Phật người ta thường cho rằng giáo lý Phật
giáo mang tính khế cơ. Ðiều này không phải ngẫu nhiên hoặc
không có cơ sở. Nền tảng vững chãi cho nhận định trên là tính thực
tiễn và ứng dụng của tiến bộ tâm thức và hành động hướng nội mà
mọi người có thể tự thực hành.
Thật vậy, toàn bộ giáo lý Phật giáo là khối lượng lớn những
phương pháp linh hoạt, thích hợp với nhiều mặt, nhiều lúc, nhiều
nơi, và nhất là những căn tánh khác nhau của con người có thể đi từ
tự giác, giác tha và cuối cùng đạt đến giác hạnh viên mãn. Qua
giáo lý mang tính khế cơ của đạo Phật, chúng ta thấy không có lời
dạy nào của Ngài mà không bao hàm hai điểm lớn: "Xây dựng trên
căn bản của con người" và " Dẫn đến giác ngộ tối thượng cho mỗi
nguời".
1- Duyên Khởi
2- Tứ thánh đế
3- Bát chánh đạo.
l. Duyên Khởi :
Giáo lý căn bản hàng đầu của Phật giáo, thể hiện vũ trụ quan, thế
giới quan, nhân sinh quan. Duyên khởi là sự nương tựa vào nhau
mà hình thành, phát triển, tồn tại lẫn hủy diệt. Quá trình ấy, duyên
là tiền đề, là điều kiện tiên quyết. Bất cứ hiện tượng nào
trong vũ trụ, vật chất hay tinh thần đều do tập hợp các nhân duyên
mà thành, nương tựa vào nhau để tồn tại, không có sự vật nào tự
mình sinh ra, độc lập tồn tại. Giáo lý duyên khởi được triển khai
thành bốn loại duyên căn bản :
- Nhân Duyên: Duyên gần gũi nhất, điều kiện
gần gũi nhất, làm cơ sở, cái này là tiền đề để sinh ra
cái khác. Chẳng hạn nguyên liệu và sản phẩm, hạt lúa và cây lúa,
tấm ván và cái bàn,....
- Tăng Thượng Duyên: Cái trợ lực cho nhân
duyên như nước, phân bón cho cây lúa, người thợ và dụng cụ để
tạo từ nguyên liệu tấm ván thành cái bàn.
- Sở Duyên Duyên: Những điều kiện làm đối tượng cho quá trình nhận thức, tức là cái có, cái hiện hữu: Cái bàn, Cây lúa.
- Vô Gián Duyên: Sự không gián đoạn cần
thiết cho mọi phát triển, trưởng thành và tồn tại của vật
chất, vũ trụ, nhân sinh.
Kinh A Hàm, Phật dạy: "Vì cái này có nên cái kia có, vì cái này
không nên cái kia không, vì cái này sinh nên cái kia sinh, vì
cái này diệt nên cái kia diệt". Luật Nhân quả trong quan niệm đạo
Phật cũng được quan sát theo góc độ nguyên tắc duyên sinh vừa nêu
trên.
2. Tứ Thánh Ðế:
Là giáo lý căn bản thứ hai của đạo Phật, đề cập trong nhiều kinh
điển, nhất là trong kinh Chuyển Pháp Luân. Giáo lý này được xác
lập trên cơ sở nhân quả với hình thức song đối trong quá trình biện
chứng tác thành của nó. Tìm hiểu Tứ Diệu Ðế chúng ta thấy nổi
bật hai phương diện lớn:
- Sự hiện diện khổ đau và nguyên nhân tạo thành đau khổ.
- Niềm an lạc khi khổ đau đã diệt và con đường dẫn đến an lạc.
Theo luật nhân quả cuả đạo Phật, 4 chân lý: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo
không phải lả giáo điều siêu hình, mà là một nguyên lý có thể
kiểm nghiệm trong bất cứ trường hợp nào - hoặc cảnh ngộ riêng tư xảy
ra trong thực tế đời thường của cuộc sống. Chẳng hạn đói nghèo
và nguyên nhân của đói nghèo, niềm vui khi cuộc sống hạnh phúc, đủ
đầy và con đường đạt đến niềm vui ấy. Trong lần thuyết giảng đầu
tiên tại vườn Lộc Uyển nhằm độ 5 vị Tỳ Kheo, Phật dạy: "Ðây là Khổ
cần phải biết. Ðây là Tập cần phải đoạn. Ðây là Diệt cần phải
chứng. Ðây là Ðạo cần phải tu". Lời dạy trên tất yếu phải được
triển khai chi tiết, cụ thể , và điểm xuất phát của nó cũng được xây
dựng trên cơ sở Bát Chánh Ðạo, mà chánh tri kiến là 1 trong 8
nguyên tắc của hành động chân chính. Thâm hiểu Tứ Ðế bằng tri thức,
con người sẽ xác định cho mình một quan điểm sống. Về mặt này con
người không nên tự cho phép tâm mình dẫn dắt hành động trong mơ hồ
của thế giới lý luận suông, mà phải đặt tâm đối diện với sự thực
để đoạn trừ cái nguyên nhân khổ đau bằng con đường tu tập (đạo),
nhằm đạt đến mục đích tối hậu - Giải thoát.
3. Bát Chánh Ðạo:
Giáo lý căn bản thứ ba của Phật giáo. Ðó là con đường của 8
nguyên tắc hành động chân chính, 8 nguyên tắc nầy tồn tại trong
mối quan hệ nhân quả và gắn bó mật thiết với đời sống tu tập hàng
ngày :
1. Thấy đúng.
2. Nghĩ đúng.
3. Nói đúng.
4. Hành động đúng.
5. Sống nghề nghiệp chân chính.
6. Cần mẫn và nỗ lực chân chính.
7. Khởi niệm chân chính.
8. Thiền định chân chính.
Nếu đem 8 nguyên tắc hành động chân chính trên vận dụng vào đời
sống hàng ngày, chúng ta thấy chúng được xác lập trên cơ sở luật
nhân quả, hỗ tương; nguyên tắc nầy vừa là kết quả, đồng thời là
nguyên nhân tạo nên nguyên tắc khác. Ðiều quan trọng nhất khi tìm
hiểu giáo lý này, là làm thế nào để thông hiểu nó - tức là nhận
biết được cái "đúng", cái "chân chính" của mỗi một nguyên tắc.
Theo lời Phật dạy: Tất cả không phải chỉ có thể đạt được trên mặt
lý thuyết, sách vở, hay phương pháp suy luận bằng tri thức vốn có,
mà cần phải thực hành trong quá trình sống vẹn toàn của chữ tâm. Ba
đạo lý căn bản của đạo Phật được tỉnh lược nêu trên, chính là
nền tảng cho tất cả tông phái Phật giáo Nguyên thủy cũng như Ðại
thừa ở Việt Nam, cũng như các nước trên thế giới. Có thể xem đó
là cỗ xe lớn dẫn đường cho quá trình hành động và cứu độ bản thân và
kẻ khác. Xây dựng bản thân tư giác ngộ chân lý, đem chân lý ấy
giác ngộ cho kẻ khác, và cuối cùng đạt đến sự nghiệp giác ngộ tràn
đầy. Việc làm ấy phù hơp với tinh thần đạo Phật - lấy con người làm
gốc, mọi nỗ lực phấn đấu đều nhằm đạt tới mục đích cuối cùng
phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của con người. Ðọc những mẩu
chuyện tiền thân của Ðức Phật, chúng ta tìm về con người trần
thế của Ngài, và sẽ hiểu hơn về nguồn cội. Sinh thời ngài không
bao giờ tự cho mình là đấng thần minh, hay một vị cứu tinh siêu phàm
nào, mà chỉ là người trần thế đơn thuần đã giác ngộ. Chính nhân
cách sống trong cuộc đời trần thế của Ngài dạy trong kinh điển.
Ðạo Phật chủ trương: Con người hoàn toàn chịu trách nhiệm về bản
thân và xã hội mình đang sống, và có thể thay đổi về bản thân và
hoàn cảnh sống theo ý muốn. Ðức Phật dạy: "Con người phải tự cứu
lấy mình" và con đường tự cứu là "Tự mình thắp đuốc lên mà đi."
Thực hành đạo Phật là thực hành về nhân cách sống và thâm hiểu
kinh điển, giáo lý, nhằm đạt đến nhận thức đầy đủ những điều
trong đời sống thực tại, xây dựng cho mình một lối sống tốt đẹp lấy
tình thương làm nguyên tắc cao nhất của đaọ làm người, và cuối
cùng rèn luyện ý chí để thành tựu đại nguyện giúp đời, xây dựng đất
nước.