Ông
bà mình có câu “Có đức mặc sức mà hưởng.” Lời nói này đã bày tỏ lòng
tin sâu vào luật nhân quả của nhà Phật, và có xuất xứ từ nhiều lời dạy
trong Kinh Phật.
Thời
gian qua, nhiều Phật Tử đã đóng góp trong các Phật sự như xây chùa
tháp, cung nghinh xá lợi Phật, chiêm bái Phật Ngọc Hòa Bình, dự lễ hội
hoa đăng, cúng dường trai tăng, vân vân... Một số người không hiểu đã
gọi như thế là tu kiểu hình tướng, không thật là tu trí tuệ giải thoát.
Lời phê bình đó chứa đầy ngộ nhận. Ngày xưa, khi Bồ Đề Đạt Ma nói việc
xây chùa của Lương Võ Đế là “không có công đức,” thực ra là nêu lời khai
ngộ, để thúc đẩy vua xa lìa cái chấp vào công đức đó thì mới có thể
giải thoát.
Công
đức -- tiếng Anh là merit -- là kết quả có từ những thân, khẩu, ý thiện
lành, sẽ trổ quả trong kiếp này và sẽ mang theo sang kiếp sau. Công đức
như thế sẽ giúp người tu trên đường giải thoát. Nếu không có đủ phước,
chắc chắn không thể nào tu nổi. Thí dụ, nếu sinh vào một bộ lạc trong
rừng sâu Châu Phi, tất không hề biết gì tới các tiện nghi xã hội văn
minh, và pháp Phật cũng khó gặp trong đời.
Thí dụ, nếu sống ở núi rừng Đắc Lắc, luyện được đôi chân leo núi, gỉỏi vác nặng và đi chạy nhanh
nhẹn. Nhưng cũng không thể nào bằng một cô gái yếu đuối ở Sài Gòn lái
chiếc xe máy hay xe hơi. Mới biết, dù tập luyện giỏi, cũng không bằng có
phước. Tương tự, kinh doanh giỏi, cuối đời có nhiều tàì sản, cũng không
bằng người sinh vào nhà hoàng tộc.
Người
có phước đức sẽ có nhiều nhân duyên dễ tu học hơn, bởi vì nếu phải lao
động ngày đêm mà vẫn không nuôi nổi gia đình, chuyện tu học tất nhiên
trở ngại. Đôi khi nhờ phước đức tới sớm, nghiệp dữ có thể hoãn được.
Cũng như một người dân ở Campuchia mang nợ hay làm tội, trốn sang Sài
Gòn sống, không ai biết quá khứ, sẽ được hưởng phước của một người dân
Sài Gòn, cho tới khi nào về lại Nam Vang mới bị đòi nợ.
Kinh Tăng Chi Bộ, bản do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt, nơi Chương VIII Tám Pháp
phần (VI) (36) Phước Nghiệp Sự, có viết, trích:
“1.- Này các Tỷ-kheo, có ba căn bản làm phước. Thế nào là ba?
2. Căn bản làm phước do bố thí, căn bản làm phước do giới đức, căn bản làm phước do tu tập.”(hết trích)
Chữ “tu tập” đó được hiểu là thiền định, có khi được hiểu là thiền tâm từ.
Nhiều
người thường chấp rằng tu theo Phật là cần phải tìm một gốc cây hay
hang núi để ngồi Thiền, còn mọi pháp khác chỉ là hình tướng không cần
thiết. Thực ra, nghĩ như thế là sai lầm lớn, khi tách biệt tướng với
tâm. Chỉ cần nhớ rằng, Ngài Mục Kiền Liên là đạị đệ tử của Phật, thần
thông đệ nhất, vẫn không cứu nổi mẹ khi bà cứ đưa cơm lên là thành lửa
cháy. Lúc đó, Phật mới dạy là cần gây dựng công đức, bằng cách cúng
dường trai tăng, mới cứu nổi mẹ.
Hòa thượng Thích Minh Châu trong tác phẩm “Đạo Đức Phật Giáo và Hạnh Phúc Con Người,” nơi chương 16, đã viết, trích:
“...
Tôn giả Mục-kiền-liên là một đệ tử lớn của đức Phật, và được suy tôn là
bậc thần thông đệ nhất. Sau khi chứng quả A-la-hán. Ngài dùng thiên
nhãn quan sát khắp các cõi sống thì thấy mẹ mình đang bị nạn đói khát
dày vò trong cõi sống quỷ đói. Tôn giả bèn cầm bát cơm xuống cõi quỷ đói
đưa cho mẹ. Mẹ cầm lấy bát cơm đưa vào miệng, thì cơm hóa thành than
hồng cháy đỏ không tài nào ăn được. Tôn giả Mục-kiền-liên không biết làm
sao được, bèn trở về xin Phật ra tay cứu giúp. Đức Phật nói: "Mẹ ông
bao nhiêu đời sống xan tham keo kiệt, nên phải chịu khổ báo là quỷ đói,
một mình ông không thể cứu nổi mẹ đâu. Phải nhân ngày rằm tháng bảy tổ
chức cúng dường đức Phật và chúng Thánh Tăng mười phương nhờ vào sức
mạnh chú nguyện của đức Phật và chúng Tăng mười phương thì mẹ ông mới có
thể siêu thóat được".
Tôn
giả Mục-kiền-liên vâng lời đức Phật dạy, đến ngày rằm tháng bảy là ngày
tự tứ ra hạ của chư Tăng, đem thức ăn, đèn, sáp, hương hoa... đặt vào
chậu lớn, cúng dường trai Tăng. Bà mẹ của Tôn giả Mục-kiền-liên nương
nhờ vào uy lực của giới đức và phước đức của chư Tăng mười phương, và
cũng nương nhờ vào công đức bố thí và lòng chí thành của Tôn giả
Mục-kiền-liên, mà sớm thoát khỏi nỗi khổ của quỷ đói, nỗi khổ ví như nỗi
khổ của người bị treo ngược, siêu thăng lên các cõi lành...” (hết trích
-- nguồn: http://www.thuvienhoasen.org/daoducphatgiao-minhchau-04.htm)
Theo
báo Tibet Sun ngày 26-7-2010, Đức Đạt Lai Lạt Ma trong buổi lễ khánh
thành tượng Đức Di Lạc Bồ Tát (Maitreya) cao 100 feet (30.4 mét) tại Nubra Valley, Ấn Độ, với nhiều ngàn vị sư, quan chức và dân
chúng tham dự, đã cảm ơn ban tổ chức và những người xây tượng, nói, “Họ
đã làm được nhiều công đức... Người ta sẽ được công đức đi nhiễu quanh
tượng, và vì tượng cao nên có thể được ngắm từ xa, người nhìn ngắm tượng
cũng sẽ có công đức...”
Như thế, chúng ta hiểu được vì sao Phật Tử thành kính tham dự các lễ hội Phật Giáo.
Đức
Đạt Lai Lạt Ma viết trong cuốn “The Compassionate Life,” với các dòng
chữ sau này đưa vào sưu tập “Dalai Lama Quote of the Week” đã ghi rằng
khi những kẻ thù nghịch gây tổn thương chúng ta, chúng ta có thể mang ơn
họ vì đây là cơ hội để tu hạnh kham nhẫn của bồ tát, “bởi vì công đức
gây dựng từ pháp tu kham nhẫn chỉ có thể có cơ duyên cho mình tu là từ
kẻ thù nghịch gây ra, nói nghiêm khắc là, chúng ta nên hồi hướng công
đức của chúng ta để xin lợi ích cho kẻ đối nghịch.”
Theo truyền thống Phật Giáo Thái Lan, cụ thể có những cách vun trồng công đức như sau, theo thứ tự, trích:
“1. Xuất gia, thọ đại giới.
2. Góp tiền xây chùa.
3. Có một con trai đi tu, làm sư.
4. Hành hương các chùa Phật Giáo khắp Thái Lan.
5. Đóng góp sửa chùa.
6. Cúng thực phẩm hàng ngày cho các vị sư, và cho các ngày lễ linh thánh.
7. Trở thành một sa di.
8. Vào chùa tu các ngàỳ lễ quan trọng, và giữ bát quan trai giới các ngày này.
9.
Giữ 5 giới trong mọi thời.” (hết trích -- nguồn, sách “Monks and Magic”
của B.J. Terwiel, http://www.thaibuddhist.com/making-merit.html)
Đọc kỹ, các điều trên cũng tập trung vào ba căn bản: bố thí, giữ giới luật, tu tâm từ bi.
Tại
Quận Cam, Nam California, người viết có quen thân một vị cư sĩ, tác giả
nhiều sách nghiên cứu Phật Học. Vị này có một cậu con trai, đã tập cậu
bé từ nhỏ là mỗi khi vào chùa là rút ít tiền ra đưa vào thùng công đức và đọc lời nguyện, “Con nguyện xin mọi người được OK, hạnh phúc, khỏe mạnh và sẽ thành Phật.” Vị cư sĩ đó cũng đã dạy con tạo dựng công đức.
Giữ
giới là một công đức có đầy oai lực, không hình tướng, nhưng sẽ tác
động vào thế giới các cõi. Như khi Ngài Angulimala được Đức Phật chỉ dạy
cách chú nguyện để cứu một sản phụ. Ngài Angulimala là
kẻ đã giết nhiều người để tìm xâu 1.000 ngón tay làm tràng hoa, và đã
rượt theo Đức Phật để tìm giết người cho đủ số thì được Đức Phật cảm hóa
và cho theo thọ học giáo pháp. Tòan văn ghi trong Trung Bộ Kinh, kinh
thứ 86.
Bản văn của Ngài Walpola Piyananda Thera như sau, trích dịch:
“Ngài
Angulimala không an tâm, bởi vì ngay cả khi thiền định đơn độc ngài vẫn
thường nhớ tới quá khứ và những tiếng kêu khóc thảm thương của các nạn
nhân của ngài. Vì ảnh hưởng nghiệp dữ của ngài, trong khi đi khất thực
trên đường ngài vẫn cứ trở thành mục tiêu cho dân chúng chọi đá và đánh
gậy, và rồi ngài trở về tu viện Jetavana với đầu thương tích, máu chảy,
mình đầy vết cắt, vết bầm, và được Phật nhắc nhở: “Con ta, Angulimala.
Con đã xa lìa các ác pháp rồi. Hãy kiên nhẫn. Đây là ảnh hưởng các ác
pháp con đã làm trong kiếp này. Nghiệp dữ của con lý ra sẽ làm con đau
khổ xuyên qua vô lượng kiếp, nếu ta không gặp con.”
Một
buổi sáng, trong khi đi khất thực tại Savatthi, ngài Angulimala nghe có
người khóc đau đớn. Tới gần, ngài thấy một sản phụ đang lên cơn đau sản
nạn, và gặp trở ngại khi sinh nở, thì ngài mới phản ánh rằng tất cả
chúng sinh đều chịu khổ cả. Xúc động vì lòng từ bi, ngài tới gặp Đức
Phật và kể về cơn đau của phụ nữ tội nghiệp kia. Đức Phật mới khuyên
ngài đọc tụng các lời sự thực sau đây, và sau này các lời này được gọi
là Angulimala Paritta (Hộ Kinh Angulimala). Tới trứơc người phụ nữ đang
đau đớn kia, ngài ngồi trên một chỗ cách biệt sản phụ bởi một bức màn,
và nói lên những lời sau này:
“Chị ơi, từ ngày tôi trở thành một a la hán,
Tôi đã không cố ý hủy diệt
Sinh mạng của bất kỳ chúng sinh nào.
Với sự thật này, xin nguyện cho chị an lành,
Và xin nguyện cho em bé chưa sanh của chị an lành.”
Ngay
tức khắc, sản phụ sinh ra bé sơ sinh dễ dàng. Cả mẹ và con đều an lành
và khỏe mạnh. Ngay cho tới bây giờ, nhiều vị vẫn còn đọc hộ kinh này,
như tụng đọc thần chú.
Ngài Angulimala ưa thích sống trong đơn độc và ẩn dật. Về sau, ngài viên tịch bình an. Là một bậc a la hán, ngài đã thể nhập đại bát niết bàn. (hết trích dịch)
Như thế, công đức giữ giới có oai lực như thế.
Đặc biệt, tạo dựng công đức cần nhất là tâm thành. Như Đại Sư Sogyal Rinpoche đã
kể trong cuốn “The Tibetan Book of Living and Dying” (Tạng Thư Sống
Chết), kể về thời Đức Phật, có một bà cụ ăn mày thường nhìn thấy các
vua, hoàng tử, dân chúng cúng dường Phật và chư tăng, nhưng bà cụ không
có gì để cúng. Tới khi ăn xin đủ để có một đồng chì, mới mang ra người
bán dầu để mua dầu cúng Phật. Người bán nói là tiền này không đủ mua gì
cả, nhưng khi nghe nói bà cụ sẽ cúng Phật, người bán mới tặng bà cụ số
dầu cần thiết. Bà cụ mang dầu về tự viện, thắp ngọn đèn, đặt trước Đức
Phật và phát nguyện, “Con không có gì để cúng trừ chiếc đèn nhỏ này. Qua
lễ cúng dường, trong tương lai con nguyện tỉnh thức mãi với đèn trí
tuệ, cho con cứu tất cả chúng sinh ra khỏi nơi tối tăm. Con nguyện cứu
họ ra khỏi mọi trở ngại, và đưa họ sang bờ giảỉ thoát.”
Đêm
đó, dầu tất cả các đèn khác cạn và tắt. Nhưng ngọn đèn của bà cụ xin ăn
vẫn cháy vào lúc bình minh, khi đệ tử Phật là ngài Maudgalyayana vào để
dọn tất cả đèn. Khi ngài thấy chỉ có một ngọn đèn còn sáng, với dầu
đầy, mới tìm cách làm tắt hoàì mà không được, dù là thổi hay lấy tay
dập. Đức Phật mới nói rằng Maudgalyayana không tắt nổi đèn nàỳ, dù là
lấy tất cả nước ở đại dương cũng không dập tắt nổi, vì đèn này được cúng với tâm ý thanh tịnh.
Như thế, hãy suy nghĩ: với
tâm thành, chỉ cúng một ngọn đèn, mà đã có cơ duyên để đời đời tu học
thành tựu trí tuệ, huống gì là với tâm thành để cúng dường trong lễ hội
hoa đăng.
Như thế, tu thiền tới mức đại thần thông như ngài Mục Kiền Liên, khi cứu mẹ phải nhờ vào oai lực của pháp cúng dường trai tăng.
Như
thế, những pháp mà người khác tưởng như là lễ hội chấp theo hình tướng
thực ra lại là cơ duyên giải thoát vô biên. Chỉ cần với tâm chí thành,
thanh tịnh.
Cư sĩ Nguyên Giác