Pháp
Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến:
Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này. Hán
dịch Pratīya là Duyên và Anh dịch là Condition.
Trong Māhyamika, Ngài Nāgārjuna giải thích chữ Pratīya như sau:
Utpadyate pratītyemān itīme pratyayaḥ kīla (1).
Nghĩa là, do làm điều kiện cho cái kia sinh khởi, những cái này người ta gọi là Duyên.
Samutpāda có nghĩa là tập khởi, đồng khởi, sinh khởi, tương khởi, cộng khởi…
Do
những ý nghĩa trên, mà Pratīya-samutpāda được các nhà Hán dịch là Duyên
khởi hay Duyên sinh, tức là sự khởi sinh của vạn pháp cần phải có điều
kiện (pratīya), nếu không có điều kiện, thì các pháp không thể sinh
khởi.
Trong
luận Thuận Chánh Lý, ngài Chúng Hiền đã giải thích ý nghĩa của Duyên
khởi là: “Thử hữu cố bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh, thị duyên khởi
nghĩa”.(2) Nghĩa là cái này hiện hữu thì cái kia hiện hữu; vì cái này
sinh khởi nên cái kia sinh khởi, đó là ý nghĩa của Duyên khởi.
Sự
sinh khởi của tất cả pháp, từ thế giới khách quan cho đến thế giới nội
tại đều do bốn duyên - hay chính do bốn duyên mà có sự sinh khởi của
tất cả pháp.
Bốn duyên ấy là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên.
Nhân
duyên (pratyayāhetu): Tất cả pháp từ thế giới nội tại cho đến thế giới
khách quan, không có sự sinh khởi nào độc lập ngoài quan hệ nhân duyên.
Nhân
(hetu) là năng lực tác động; duyên (pratīya) là điều kiện giúp đỡ, để
cho năng lực tác động ấy được sinh khởi và hình thành.
Đẳng
vô gián duyên (Anantara-pratīya): Hay còn gọi là thứ đệ duyên, nghĩa là
tất cả các pháp làm nhân, làm duyên cho nhau một cách liên tục, không
bị gián cách. Hay nói khác đi, pháp trước làm nhân cho pháp sau, pháp
sau làm duyên cho pháp trước, các pháp cứ tuần tự làm nhân, làm duyên
cho nhau như vậy mà sinh khởi liên tục. Do đó gọi là đẳng vô gián duyên
hay là thứ đệ duyên.
Sở
duyên duyên (Alambanapratītya): Nghĩa là duyên và sở duyên. Duyên là
pratītya và sở duyên là alambana. Alambana đi từ động từ căn là lam, có
nghĩa là leo, vin vào, dựa vào, nương vào, vướng vào.
Như
vậy, sở duyên hay alambana là đối tượng để cho cái khác dựa vào. Sở
duyên là ám chỉ cho cảnh vật được biến tợ bởi tâm và thức. Những cảnh
vật được biến tợ này lại làm duyên để cho tự thức khởi sinh. Do đó, gọi
là sở duyên duyên.
Lại
nữa, sở duyên (alambana) là chỉ cho đối tượng bị nhận thức hay thế giới
khách quan. Còn chữ duyên (pratītya) là ám chỉ cho chủ thể năng nhận
thức hay thế giới nội tại. Thế giới khách quan làm điều kiện để cho thế
giới nội tại khởi sự phân biệt.
Nói
tóm lại, cái nào có khả năng dẫn sinh sự phân biệt, và sự phân biệt ấy
mang ảnh tượng tương tợ với chúng thì cái ấy gọi là duyên và sở duyên,
hay gọi là sở duyên duyên (alampanapratītya).
Tăng thượng duyên (adhipapeyampratīya): Là duyên tăng thêm sự sinh khởi cho các pháp một cách nhanh chóng từ nhân đến quả.
Tăng thượng duyên gồm có thuận và nghịch.
Thuận duyên, là duyên hỗ trợ và tác động một cách tích cực để cho các pháp sinh khởi một cách nhanh chóng từ duyên đến quả.
Nghịch duyên, là duyên làm đối kháng sự sinh trưởng của nhân.
Mọi
pháp có thể sinh khởi, tồn tại hay hủy diệt đều lệ thuộc vào bốn duyên
này. Ở trong bốn duyên này thì sở duyên duyên, tăng thượng duyên, đẳng
vô gián duyên là biệt tướng, còn nhân duyên là tổng tướng.
Bởi vậy, chúng ta chỉ nói nhân duyên thì hàm đủ cả ba duyên kia.
Lại nữa, nhân duyên còn có ý nghĩa như Không tính (Śūnyata), giả danh (prajñāpir) và trung đạo (mādhyamā).
Không tính (śūnyata): Tất cả các pháp do duyên mà khởi, nên không có một pháp nào gọi là tự tánh hoặc có tự thể thực hữu.
Bởi
vậy, Không tính (śūnyata) là tính của các pháp không có tự thể thực
hữu. Hay nói cách khác, Không tính là tính duyên khởi của các pháp, và
tính duyên khởi của các pháp là Không tính (śūnyata). Không tính là
tính phổ biến của vạn pháp, không có pháp nào sinh khởi mà không mang
tính chất của Không tính.
Do đó, tính không của vạn pháp là siêu việt không gian và thời gian.
Giả
danh (prajñāptir): Tất cả các pháp do duyên mà khởi, nên tự chúng không
có tên gọi. Sở dĩ gọi bằng tên này hay tên khác chỉ là do sự giả định,
sự quy ước, do sự gợi lên của nhận thức.
Lại
nữa, gọi là giả danh vì tên gọi của các pháp chỉ là do nhận thức áp đặt
và giả định. Các pháp đã là do duyên khởi thì tự chúng là sinh động vô
thường, nên bảo rằng các pháp là thực hữu cũng không chính xác; mà bảo
rằng các pháp không thực hữu cũng không chính xác; bảo rằng các pháp là
đoạn diệt cũng không chính xác; bảo rằng các pháp là thường hằng cũng
không chính xác.
Do đó, các pháp được gọi tên chỉ là theo giả định, nghĩa là chúng được gọi tên do sự gợi lên của nhận thức (prajñāptir).
Trung
đạo (mādhyamā): Là con đường xa rời những cực đoan của sự nhận thức đối
với các pháp. Vì các pháp do duyên mà khởi, nên không thể gọi chúng là
thường, bởi lẽ chúng luôn luôn sinh diệt; cũng không thể bảo chúng là
đoạn diệt, bởi lẽ pháp này diệt thì pháp khác liền sinh, cứ như vậy
chúng sinh khởi liên tục, cũng không thể bảo chúng là thực hữu, vì
chúng chỉ là một tập hợp không tự thể; cũng không thể bảo chúng là vô,
vì chúng tạm thời đang hiện hữu.
Bởi
lẽ, các pháp do duyên khởi, nên không thể bảo chúng là thường hay đoạn,
hữu hay vô, đồng nhất hay dị biệt, nhận thức chân thật như thế gọi là
Trung đạo.
Sở dĩ gọi đó là Trung đạo, vì Trung đạo là siêu việt, hữu, vô, thường, đoạn, lai, khứ, đồng nhất và dị biệt…
Về
mặt giải thoát thì Trung đạo là con đường đi đến Niết-bàn, nhưng tự
thân nó không phải là Niết-bàn. Trung đạo là con đường đi đến Niết-bàn,
vì không bị vướng mắc bởi bất cứ cực đoan nào.
Về
mặt giác ngộ thì Trung đạo tự nó không phải là giác ngộ, mà là con
đường của nhận thức, hiểu biết chân thật để đi đến giác ngộ, không bị
vướng mắc bởi những quan điểm cho rằng các pháp là thường hay đoạn, là
hữu hay vô, là đồng nhất hay dị biệt…
Nói
tóm lại, Trung đạo là con đường đi đến Niết-bàn vì không bị vướng mắc
vào những nhận thức cực đoan; và là con đường đi đến giác ngộ vì không
bị vướng mắc bởi những nhận thức phiến diện.
Trong kinh Đức Phật dạy cho Kaccāyana như sau:
“Tất
cả là có, này Kaccāyana, là một cực đoan. Tất cả là không, là cực đoan
thứ hai. Xa lìa hai cực đoan ấy, này Kaccāyana, Như Lai thuyết pháp
theo Trung đạo”.
Như
Lai thuyết pháp theo Trung đạo, là thuyết pháp không bị vướng mắc vào
những quan điểm của nhị nguyên thường tình. Nghĩa là Như Lai chỉ thuyết
pháp dựa vào sự giác ngộ lý duyên khởi mà thôi.
Trong
Madhyamikā, ngài Nāgārjuna đã phát biểu thẳng ý nghĩa duyên khởi như
sau: “Tôi tuyên bố rằng: Pháp nào mà duyên khởi, thì pháp ấy là Không
tính, pháp ấy cũng là giả danh, pháp ấy cũng là Trung đạo. (yaḥ pratītya samutpādaḥ śūnyatām tām pracaksmahe, śaprajñāptir upādāyapratipat saiva madhyamā)”. (3)
Như
vậy, ý nghĩa của Duyên khởi cũng là ý nghĩa của Không tính, Giả danh và
Trung đạo. Và ý nghĩa ấy cũng đã được khai triển tùy theo sự nhận thức
về giác ngộ của từng trường phái Phật giáo.
Tuy
nhiên, dù ý nghĩa duyên khởi có khai triển sâu rộng đến mức nào đi nữa,
thì ý nghĩa căn bản của duyên khởi, có tính nhất quán trong các trường
phái Phật giáo vẫn là: “Cái này hiện hữu thì cái kia hiện hữu, cái này
không hiện hữu thì cái kia không hiện hữu”.
Chú thích:
1*Mādhyamika-prātyaya-parīksa gāphas.
2*Thuận Chánh Lý Luận- quyển 25, trang 481b. Đại Tạng Kinh 29.
3*Mādhyamika-āriyasatya-pariksā.