Ý
Nghĩa và Duyên khởi
Sau
khi thành đạo, từ duới gốc cây Bồ-đề, đức Thế
Tôn đến vườn Nai, chuyển vận bánh xe chánh pháp
Tứ Thánh đế, độ năm anh em Kiều Trần Như, từ đó
Phật, Pháp và Tăng hiện hữu đầy đủ cả hai mặt lý
và sự trong thế gian, làm chỗ nương tựa phước
đức và trí tuệ cho hai thế giới nhân và thiên,
nhằm hướng đến đời sống giải thoát, giác ngộ.
Giới
luật hành trì đầu tiên của Tăng đoàn, theo Luật
Tứ Phần, trong mười hai năm đầu chỉ bao gồm
những lời dạy căn bản như sau:
“Khéo
phòng hộ lời nói,
tâm ý tự lắng trong,
thân không làm điều ác,
ba nghiệp đạo này tịnh,
thực hành được như thế,
là đạo đấng Đại Tiên”.
Và
sau mười hai năm, kể từ khi thành đạo, đức Thế
Tôn mới dạy nhiều về giới luật và pháp an cư cho
Tăng đoàn. Ngài dạy pháp an cư cho Tăng đoàn, vì
những lý do như sau:
- Do
một số cư sĩ than phiền nhóm sáu Tỳ-kheo luôn
luôn du hành trong dân gian, bất luận mùa nào,
giẫm đạp làm chết vô số côn trùng.
- Họ
còn than phiền rằng, những du sĩ ngoại đạo, một
năm còn có những tháng ở yên một chỗ để tịnh tu.
Ngay cả những loài vật, chúng cũng còn có những
mùa trú ẩn, huống nữa Tăng sĩ dòng họ Thích, tại
sao không có đời sống như vậy.
Do
duyên cớ trên, đức Phật quở trách nhóm sáu
Tỳ-kheo ấy. Và Ngài chế định pháp an cư cho Tăng
đoàn.
Song,
an cư của Tăng đoàn không phải chỉ để tránh giẫm
đạp sâu bọ hay cỏ non, khiến làm thương tổn lòng
từ bi đối với muôn vật hay vì tránh những gì
than phiền của hàng cư sĩ, mà còn có những ý
nghĩa và mục đích sâu sắc hơn nữa, đó là:
-
Nhằm trau dồi và nuôi lớn pháp Tam vô lậu học là
giới, định, tuệ, để xứng đáng là “Chúng Trung
Tôn” của bậc Trí Đức hoàn toàn.
-
Nhằm biểu lộ tinh thần thanh tịnh, hòa hợp và
đồng bộ của Tăng đoàn. Và khi nào Tăng đoàn biểu
lộ được tính chất ấy, thì chánh pháp của đức Thế
Tôn do Tăng đoàn tuyên dương mới có hiệu quả và
chứng nghiệm hiện thực.
- Và
nhằm củng cố niềm tin cho hàng đệ tử tại gia của
đức Thế Tôn, đối với ngôi vị thế gian trú trì
Tăng bảo.
- Và
an cư là pháp truyền thống để trau dồi
giới-định-tuệ của Tăng đoàn, đệ tử đức Thế Tôn
trong ba đời.
Ý
nghĩa pháp an cư như vậy, không phải chỉ được
thực hành bởi Thanh Văn Tăng mà còn phải thực
hành bởi Bồ-tát Tăng nữa.
Thanh
Văn Tăng là Tăng chỉ thọ và hành trì theo Biệt
giải thoát luật nghi, nhằm phòng hộ và giải
thoát theo từng đối tượng cá biệt của các loại
phiền não do duyên xúc và thọ, mà ái, thủ, hữu
sinh khởi hay do duyên vô minh và hành, mà phiền
não và các đối tượng của phiền não khởi sinh làm
vẩn đục đời sống giải thoát hay đời sống chánh
mạng vốn thiết lập trên nền tảng của Tứ thánh
chủng. Tứ thánh chủng là pháp hành của vị
Tỳ-kheo, pháp hành ấy đã được đức Thế Tôn cụ thể
hóa từ bản thể tịch diệt, thanh tịnh của Niết
bàn.
Bồ-tát Tăng, là Tăng không những chỉ hành trì
đầy đủ Biệt giải thoát luật nghi như Thanh Văn
Tăng, mà còn thọ và hành trì Đại thừa Bồ-tát
giới, tức là giới làm lợi ích cho hết thảy muôn
loài, lấy Bồ-đề tâm làm bản thể và tác nhân, lấy
Bồ-đề quả làm định hướng cho Bồ-đề nguyện và
Bồ-đề hạnh.
Bất
cứ xứ sở nào, các Tỳ-kheo cùng nhau tu tập, cùng
nhau hòa hợp để an cư, sống bằng đời sống hòa
hợp và thanh tịnh, thì xứ sở ấy, xem như Phật,
Pháp, Tăng, có mặt một cách đúng ý nghĩa, làm
chứng cứ cho niềm tin của chư Thiên và loài
người đối với chánh pháp.
Nội
Dung Pháp An Cư
Các
Tỳ-kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu
mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A-la-hán.
Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn
chất liệu thanh tịnh, gồm:
-
Thanh tịnh về biệt giải thoát luật nghi: Ấy là
hành trì đầy đủ đối với các học giới của một vị
Tỳ-kheo mà pháp và luật đã quy định, khiến cho
ngay cả những học giới quy định những điều nhỏ
nhặt như trăm pháp chúng học, cần phải thực hành
bởi một Tỳ-kheo cũng không bị tỳ vết, rạn nứt và
sứt mẻ.
-
Thanh tịnh về các căn môn: Vị Tỳ-kheo có đầy đủ
giới hạnh, vị ấy luôn hành trì thanh tịnh đối
với các quan năng nhận thức, khiến cho các quan
năng nhận thức luôn luôn ở trong sự phòng hộ và
thanh tịnh. Chẳng hạn, khi mắt tiếp xúc với sắc,
vị Tỳ-kheo có đầy đủ giới hạnh, gồm có niệm và
giác, khiến cho sắc không thể khuấy động tâm ý
và tâm ý không khởi lên các cảm thọ thèm khát và
chiếm hữu. Cho đến tai nghe thanh trần, mũi ngửi
hương trần, lưỡi nếm vị trần, thân xúc với xúc
trần và ý tiếp xúc với pháp trần, đều luôn luôn
có niệm và giác, khiến cho các trần tướng ấy,
không thể khuấy động tâm thức qua các quan năng
nhận thức, khiến tâm thức luôn được an trú ở
trong sự thanh tịnh.
-
Thanh tịnh về mạng: Thanh tịnh về mạng, chính là
thanh tịnh về sự nuôi dưỡng đời sống, tức là
sống theo Bốn thánh chủng. Thánh chủng là dòng
giống cao quý của các bậc thánh hay của những
bậc giác ngộ.
Xã
hội Ấn độ bấy giờ có bốn giai cấp. Giai cấp
Bà-la-môn hay giáo sĩ là giai cấp nuôi dưỡng đời
sống bằng sự tế tự thần linh; giai cấp Vua chúa
nuôi dưỡng đời sống bằng những vũ khí quyền lực
và chính trị; giai cấp Phệ-xá hay thương gia,
nuôi dưỡng đời sống bằng sản xuất, buôn bán cạnh
tranh trao đổi hàng hóa; và giai cấp Thủ-đà-la
nuôi dưỡng đời sống bằng nghề làm thuê hay nô
lệ. Đời sống của các đệ tử Thế Tôn, nuôi thân
bằng một bình bát, khất thực ngày một bữa đúng
ngọ, ngủ nghỉ qua đêm dưới gốc cây, nơi rừng
vắng hay ở những hang động, che thân bằng ba y
phấn tảo, trị bệnh của thân bằng các dược liệu
của cỏ cây. Sống cuộc đời ít ham muốn, biết vừa
đủ để tinh cần đoạn trừ các dục lậu, hữu lậu và
vô minh lậu ở nơi tâm, và nuôi tâm bằng các pháp
vô lậu, nhằm hướng tới đời sống ly dục, tịch
tịnh tối thắng của Niết-bàn.
-
Thanh tịnh về niệm: Thanh tịnh về niệm là thanh
tịnh về chánh niệm, tỉnh giác. Nghĩa là vị
Tỳ-kheo, luôn luôn có chánh niệm, tỉnh giác
trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Khi bước
tới hay bước lui, đứng lại, nằm hay ngồi, hoặc
mọi động tác co duỗi của thân thể, vị ấy đều có
chánh niệm tỉnh giác đối với chúng. Khi ăn, uống,
đi đứng, nằm ngồi, làm việc các cảm thọ, các
chủng tử tâm hành, nội pháp và ngoại pháp hiện
khởi và ẩn tàng như thế nào, vị Tỳ-kheo đều biết
rõ chúng đang diễn ra như thế ấy. Và do thực
tập niệm thanh tịnh, khiến cho đời sống của một
vị Tỳ-kheo đệ tử của Thế Tôn luôn luôn ở trong
sự thanh tịnh với đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám
muôn tế hạnh, có khả năng đoạn trừ tất cả những
loại phiền não thô phù và tinh tế, làm dẫn sinh
các thánh quả giải thoát.
Vậy,
pháp an cư của Tăng là cơ hội tốt để cho các
Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni, thực tập bốn sự thanh
tịnh nầy một cách miên mật ở trong chánh niệm
tỉnh giác hay ở trong thiền định.
Nói
cách khác, an cư là để cho các Tỳ-kheo và các
Tỳ-kheo ni an trú tại một trú xứ nhất định để
thực hành vững chãi đối với bốn sự thanh tịnh.
Nên,
kinh Chánh pháp Niệm xứ nói rằng: “Vào thời
kỳ an cư mùa mưa, các Tỳ-kheo ngoại trừ việc đi
đại tiện và tiểu tiện, còn tất cả đều ngồi kiết
già tại chỗ để tu tập thiền định”.
Kỳ
Hạn Thọ Và Xả Pháp An Cư
Kỳ
hạn an cư của Tăng đoàn đệ tử Thế Tôn, ngày nay
không nhất định, vì tùy theo khí hậu và lịch
biểu từng vùng.
Tăng
đoàn các nước Phật giáo Nam phương như Tích Lan,
Miến Điện, Thái Lan, Lào,… bắt đầu an cư vào
ngày mười sáu, tháng sáu, theo lịch Trung Quốc.
Và Tăng đoàn Phật giáo các nước Bắc phương như
Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam,… bắt
đầu an cư vào ngày mười sáu, tháng tư theo lịch
Trung quốc.
Tăng
đoàn Phật giáo Bắc phương an cư vào thời gian
trên, là do dựa vào bản kinh Vu Lan. Theo kinh
này, thì ngày rằm tháng bảy là ngày Tự tứ của
Tăng.
Theo
Luật tạng của Thanh Văn Tăng, chỉ qui định mỗi
năm vào mùa hạ là mùa an cư của Tăng và chỉ có
một ngày tự tứ cho Tăng, sau khi đã an cư mà
thôi và các Tỳ-kheo lấy tuổi hạ làm tuổi của
giới đức.
Có hai hạn kỳ an cư, gọi là tiền an cư và hậu an
cư. Tiền an cư là an cư vào phần đầu của mùa hạ,
tức là an cư vào ngày mười sáu tháng tư, theo
lịch Trung Quốc, cho Tăng đoàn Bắc phương. An cư
từ mười bảy tháng tư đến hết mười sáu tháng năm
theo lịch Trung Quốc gọi là thời kỳ hậu an cư.
Hậu an cư cũng có hai thời kỳ, gọi là trung an
cư và hậu an cư. Trung an cư bắt đầu từ ngày
mười bảy tháng tư, đến hết ngày mười lăm tháng
năm. Hậu an cư là bắt đầu ngày mười sáu tháng
năm.
Thời hạn tiền an cư theo truyền thống Tăng đoàn
Bắc phương là bắt đầu từ ngày mười sáu, tháng tư
và đến mười lăm tháng bảy, âm lịch là kết thúc.
Nếu hậu an cư, kể từ mười bảy tháng tư thì đến
ngày mười sáu tháng bảy âm lịch là kết thúc. Và
nếu an cư sau ngày mười bảy tháng tư, thì sau đó
phải tính đủ chín mươi ngày để kết thúc pháp an
cư.
Tác
Pháp An Cư
Các
chùa hay các tự viện của Tăng, phần nhiều đều có
tác pháp yết-ma kết cương giới của trú xứ, để
thuận tiện cho sự tu học và tiến hành các pháp
thuộc về tăng sự của trú xứ, thì khỏi phải tác
pháp yết-ma để kết đại giới của trú xứ an cư.
Nếu
trú xứ nào chưa có kết đại giới của trú xứ, thì
khi Tăng an cư phải tiến hành pháp yết-ma kết
đại giới của trú xứ an cư, trước khi tiến hành
pháp an cư của Tăng.
Nếu
cương giới trú xứ trước đó đã kết quá nhỏ, nay
lượng Tỳ-kheo an cư của Tăng trong trú xứ quá
lớn, cần nới rộng cương giới của trú xứ cho
thích hợp, thì Tăng phải tiến hành tác pháp giải
cương giới cũ, sau đó mới tiến hành tác pháp kết
lại cương giới mới rộng hơn.
Sau khi nhắc lại cương giới cũ của trú xứ hoặc
tiến hành tác pháp yết ma kết cương giới mới của
trú xứ, Tăng mới tiến hành tác pháp an cư như
sau:
Tăng
tiến hành tác pháp an cư có hai loại:
1.
Tác pháp an cư của hàng Thượng tọa: Tác pháp
hàng Thượng tọa không có y chỉ luật sư, vì hàng
Thượng tọa là bắt buộc phải thông hiểu luật và
phải trì luật để làm chỗ y chỉ cho các hàng
trung tọa và hạ tọa. Hàng Thượng tọa tác pháp
thọ an cư bằng đối thú. Nghĩa là vị thượng tọa
nầy đối diện với vị thượng tọa kia hoặc quỳ,
hoặc đứng để tác pháp thọ an cư. Văn tác bạch
thọ an cư của hàng Thượng tọa như sau: “Đại
đức nhất tâm niệm. Tôi Tỳ kheo,… nay y (tên
của trú xứ an cư) Tăng già-lam, an cư ba
tháng đầu của mùa hạ. Nếu phòng xá có hư hại, sẽ
tu bổ” (Bạch ba lần).
2.
Tác pháp an cư của hàng đại chúng: Tác pháp thọ
an cư của đại chúng là phải có vị luật sư cho
đại chúng y chỉ, để vị luật sư luôn nhắc nhở,
hướng dẫn cho những Tỳ-kheo ở trong đại chúng
chưa thông suốt luật, phải y luật hành trì đúng
theo pháp an cư và xử trị đối với các Tỳ-kheo an
cư không như pháp. Thọ an cư đại chúng theo thứ
tự lớn nhỏ, Tỳ-kheo có tuổi hạ lớn nhất trong
đại chúng tác bạch thọ an cư trước, tuần tự cho
đến vị Tỳ-kheo hạ tọa sau cùng. Vị thọ an cư
đảnh lễ Thượng tọa y chỉ luật sư một lạy, rồi
quỳ xuống tác bạch, văn tác bạch như sau: “Đại
đức nhất tâm niệm. Con Tỳ-kheo,… nay y nơi (nói
tên của trú xứ) Tăng già-lam an cư ba tháng
đầu của mùa hạ, nếu phòng xá có hư hại, sẽ tu bổ”.
Thượng tọa nói: “Vậy, hãy cẩn thận chớ buông
lung”. Người thọ, đáp: “Y giáo phụng hành”.
Thượng tọa hỏi tiếp: “Y vị nào làm luật sư?”.
Người thọ đáp: “Y (nói hiệu của vị luật
sư y chỉ) làm luật sư”. Thượng tọa nói: “Có
điều gì nghi ngờ, nên đến hỏi”. Người thọ
đáp: “Kính vâng”. Và lễ Thượng tọa ba lễ,
lui về chỗ cũ, đợi những vị khác thọ xong và
cùng hồi hướng.
Trong
trường hợp có những trú xứ chỉ một Tỳ-kheo,
không có ai để y chỉ, Tỳ-kheo ấy được phép tác
pháp tâm niệm an cư. Vị ấy đến trước hình tượng
của đức Phật hay chánh điện, kính lễ như pháp và
tác bạch như sau: “Con Tỳ-kheo,…nay y nơi
(nói tên trú xứ) an cư ba tháng đầu của mùa
hạ” (tác bạch ba lần).
Cảm
Nhận và Kế Thừa
Ở
trên trời và dưới đất hay bất cứ ở đâu trên thế
gian này, không thể có một ai trồng quýt mà lại
gặt hái kết quả của cam. Cũng vậy, ở trên trời
và dưới đất không một ai có quyền cho ta hạnh
phúc, khi mà ta đã gieo nhân bất thiện và không
một ai có quyền làm cho ta đau khổ, khi ta đã
gieo xuống mảnh đất tâm của ta những hạt giống
lành của Bồ-đề và đại nguyện. Hạnh phúc của ta
thực sự chỉ có mặt, khi thân ta hành thiện,
miệng ta nói thiện và tâm ta luôn luôn an trú ở
trong điều thiện của Bồ-đề và đại nguyện ấy.
Giới
luật, uy nghi và các pháp hành khác của Tăng như
Bố-tát, an cư, tự tứ cũng vậy, chúng có tác dụng
giúp cho các Tỳ-kheo thực hành đời sống xuất gia
và sinh khởi các thiện pháp giải thoát cho họ.
Trong Tăng đoàn có nhiều Tỳ-kheo thành tựu được
tâm giải thoát và tuệ giải thoát là Tăng đoàn
vững mạnh, làm chỗ quy tín cho hàng cư sĩ tại
gia và khiến cho ma quân chuyển đổi tà tâm, khởi
sinh chánh tín đối với Tăng.
Vì
vậy, ở trú xứ nào có các Tỳ-kheo bố-tát, an cư
và tự tứ đúng pháp, đúng luật, đúng thời, thì ở
trú xứ đó có Tăng Bảo thường trú, nhằm khẳng
định sự có mặt của chánh pháp một cách hiện thực,
làm ngọn đuốc soi đường cho thế gian trong đêm
dài tăm tối.
Nên,
pháp an cư của Tăng không phải mang một ý nghĩa
hình thức, mà đó là một pháp hành, chuyển tải
một nội dung thanh tịnh và trong sáng, đầy đủ
các chất liệu của Giới, Định và Tuệ mà phận sự
của các Tỳ-kheo phải miên mật hành trì, để kế
thừa dòng mạch tâm linh cao cả của chánh pháp,
khiến cho dòng chảy ấy không bao giờ bị đứt đoạn
giữa thế gian này.
THÍCH THÁI HÒA