Phật Học Online

Linh Thứu Sơn (Gijihakuta) Pháp hội Tam thừa
Thạc sĩ Thích Phước Tiến

Trong khoảnh khắc dừng chân ở tận đỉnh cao nơi hương thất của Phật, bốn bề gió lộng mênh mông, cảnh vật im lìm trong khoảng không bất tận...


Linh Thứu sơn tiếng Pāli là Gijjhakuta, nghĩa là ngọn núi kên kên (Vulture's Peak), tức trên đỉnh núi có hình dạng của con kên kên là loài chim rất phổ biến ở Ấn Độ, gần thành Vương Xá (Rājagaha). Từ trên đỉnh núi này, chúng ta có thể ngắm nhìn toàn cảnh thành Vương Xá: những rặng núi chạy dài bao bọc xung quanh, các đồng ruộng mênh mông bát ngát, các làng mạc và những phố xá nằm rải rác quanh vùng. Tại Linh Thứu sơn này, nhiều bài kinh quan trọng đã được đức Phật tuyên thuyết khi Ngài còn tại thế. Theo truyền thuyết của Đại thừa, tại núi này, đức Phật đã thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharmapundarika Sutta), là bộ kinh quan trọng của Đại thừa Phật giáo, là kim chỉ nam của hành giả Pháp Hoa tông. Cho nên vào đầu kinh chúng ta thấy câu xướng lễ: Nam mô Linh Sơn hội thượng Phật Bồ tát, chính là nói đến pháp hội Tam thừa quy nhất tại núi Linh Thứu, đức Phật khuyến hóa hàng Thánh giả Tam thừa (Thinh văn, Duyên giác và Bồ tát), nên hướng về Nhất thừa, tức là Phật thừa. Trong kinh này, đức Phật khẳng định Phật tính bình đẳng trong tất cả chúng sinh, không phân biệt nữ nam, quý tiện vì ai cũng có Phật tánh và sẽ thành Phật, thông qua lời tuyên ngôn của Phật: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Một điều đặc biệt không thể không nhắc đến, đó là hình thức chiếc y của các thầy Tỳ kheo, là một bảo vật, là tấm bùa hộ mạng luôn mang bên mình không được xa rời dù chỉ một đêm. Sở dĩ y của các thầy Tỳ kheo được gọi là áo ruộng phước (phước điền y) chính là lời dạy từ kim khẩu của đức Thế Tôn. Một hôm, đức Phật cùng với các môn đệ đứng trên núi Linh Thứu ngắm nhìn cảnh sinh hoạt của nông dân và những cánh đồng mênh mông dưới chân núi. Ngài thấy những thửa ruộng được chia thành từng luống cách ly với nhau, vừa để phân biệt quyền sở hữu của mỗi người đồng thời dễ canh tác, nhất là trong việc giữ nước. Từ hình ảnh này đức Phật liên tưởng đến các thầy Tỳ kheo. Đức Phật nghĩ rằng, các thầy Tỳ kheo như những ruộng phước để chúng sanh gieo trồng hạt giống Bồ đề; nếu các thầy tu tập giới đức thanh tịnh trang nghiêm, thì bản thân các thầy như mảnh ruộng tốt làm cho chúng sanh gieo giống được mùa. Bằng ngược lại, các thầy là mảnh đất cằn cỗi không đem lại nguồn sống tốt cho mọi người. Vì vậy, chiếc y các thầy Tỳ kheo, dù là y bá nạp hay cắt may đều phải thành từng ô vuông nho nhỏ kết lại mà không được mặc vải liền. Ý nghĩa y phước điền được xuất xứ từ ngày ấy.

Trước khi đến đỉnh núi Linh Thứu, chúng ta đi qua những địa điểm được đánh dấu là vị trí quan trọng. Khoảng nửa đoạn đường lên đỉnh được xác nhận nơi vua Tần Bà Sa La xuống kiệu để thân hành viếng thăm đức Phật. Qua đoạn đường dốc gần đến hương thất Phật ngự, chúng ta thấy hang động nhỏ, nằm bên tay phải lối đi, được cho là thạch thất của Tôn giả A Nan, vị thị giả suốt đời hầu cận trung thành bên đức Thế Tôn. Phía trước thạch thất này, có tảng đá lớn và nhiều mảnh vỡ được đánh dấu đó chính là tảng đá mà xưa kia Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), người anh em chú bác của Phật, lăn xuống để hại Phật, lúc Ngài đi ngang qua lối hẹp này. Nhờ oai thần của bậc đại giác, Đề Bà Đạt Đa đã không thực hiện thành công mưu đồ bất chính của mình. Phía trên thạch thất Tôn giả A Nan khoảng 15 bậc thềm thang, gần hương thất của Phật là thạch thất của Tôn giả Xá Lợi Phất (Sāriputta), vị tôn giả trí tuệ bậc nhất trong hàng môn đệ của Phật. Xung quanh khu vực này còn nhiều thạch thất khác của chư thánh đệ tử Phật như Tôn giả Ma Ha Ca Diếp, Mục Kiền Liên.... Trên cùng là hương thất của Phật, gần mỏm đá được cho là giống cái đầu con chim kên kên, nơi đức Phật thường ngự khi Ngài dừng chân tại Linh Thứu.  Đây là điểm cao nhất của ngọn núi này. Từ đây chúng ta có thể quan sát quanh khu vực này cho dù các cảnh vật rất xa. Hai chữ Hương thất là từ xưng tán công đức, giới hạnh của Phật tỏa ngát như hương thơm bay khắp bốn phương, làm cho mọi người phải ngưỡng mộ một cách say sưa. Trong kinh Pháp Cú phẩm Hoa, đức Phật dạy: “Trong các loài hoa, dù là hoa Chiên đàn, hoa Đa dà la hay hoa Mạc lợi, tuy thơm thật nhưng không thể bay ngược gió. Chỉ có mùi hương của người tu đức hạnh tuy ngược gió vẫn bay khắp muôn phương”. (PC - 54)

“Hương thơm hoa quý thua xa

Hương người đức hạnh chan hòa vượt trên

Xông lên mãi tận chư Thiên

Tỏa ra ngan ngát khắp miền trời cao”.

                                            (Tâm Minh)

Ngày hôm nay, hương thất này không còn nữa, chỉ được người đời sau xây dựng một nền gạch tưởng niệm khoảng 3 mét vuông để đánh dấu vị trí chỗ thường ngự của Phật hơn 2.500 năm về trước. Các đoàn hành hương thường làm lễ và cầu nguyện trong phạm vi hương thất này. Các bản kinh thường được dùng để tụng đó là kinh Phổ Môn, được trích từ kinh Pháp Hoa, phẩm Quan Thế Âm thứ 25.

Trong khoảnh khắc dừng chân ở tận đỉnh cao nơi hương thất của Phật, bốn bề gió lộng mênh mông, cảnh vật im lìm trong khoảng không bất tận, cho dù có người qua kẻ lại, nhưng ai cũng giữ chánh niệm, im lặng để cảm niệm hồng ân của đức Thế Tôn, lòng chúng tôi cảm thấy được an ủi đôi phần. Mặc dù không đủ duyên lành được sinh ra trong thời Phật còn tại thế để được dự phần trong Pháp hội Linh Sơn, nhưng cũng may mắn tận mắt chứng kiến, tưởng niệm và đảnh lễ những nơi đức Phật từng tu tập và giảng kinh thuyết pháp năm xưa, dù là trên đỉnh núi cao hay trong các hang động liên quan đến cuộc đời Ngài. Bốn mươi lăm năm hoằng hóa độ sanh với đôi chân trần bằng xương bằng thịt, đức Phật đã vân du khắp bốn phương trong xứ Ấn để hóa độ chúng sanh, cho dù là kẻ hạ tiện như Ni Đề, người làm nghề gánh phân, là công việc bẩn thỉu nhất hay những người kỹ nữ như Ambapali... đều được sự che chở, thương yêu bình đẳng như các thánh đệ tử của Ngài. Một tấm gương sáng chói, một đức hạnh cao vời, chỉ có một và chỉ một lần trong lịch sử xuất hiện đấng cứu thế trong hiền kiếp này. Bằng chút tấc lòng son, trọn đời chúng con quyết noi theo con đường của Phật, dẫu không đạt đạo cũng nguyện từ đời này đến vạn kiếp sau ghi khắc mãi trong tim những lời vàng ngọc của Người, không cô phụ một đời gian nan, khổ cực của đấng cha lành đã tìm ra ánh đạo quang minh, tìm ra con đường giải thoát khổ đau cho vạn loại hữu tình mà không có một con đường nào khác, một tôn giáo hay một học thuyết nào ngoài lời dạy của Phật có thể giải quyết tận gốc thảm kịch muôn đời của trần thế, tức giải thoát luân hồi tử sinh.

Bên phải Linh Thứu sơn là núi Sonagiri, trên đỉnh có một cái tháp cao màu trắng được gọi là tháp Hòa Bình của Phật giáo Nhật Bản, do Hòa thượng Nichidatshu Fuji, thuộc tông Thiên Thai, xây dựng với ước nguyện cầu cho thế giới hòa bình, chúng sanh an cư lạc nghiệp. Đây là một trong rất nhiều công trình được Hòa thượng xây dựng trên đất Phật, kể từ sau sự kiện hai quả bom nguyên tử ném xuống hai thành phố lớn trên xứ sở hoa anh đào của ngài: Hiroshima và Nagashaki vào tháng 8 năm 1945. Kiến trúc tất cả các tháp đều có kiểu dáng giống nhau, đều cấu trúc hình tròn và chóp nhọn ở đỉnh. Bốn mặt phân đều theo bốn hướng tôn trí 4 tượng Phật màu vàng, dựa trên bốn sự kiện trọng đại: Đản sanh, Thành đạo, Chuyển pháp luân và nhập Niết bàn.

 Các đoàn hành hương, thường hay nhầm lẫn giữa núi Linh Thứu và núi Sonagiri, nơi có tháp Hòa Bình Nhật Bản, nếu không được quý thầy cô thường dẫn đoàn hay những người hiểu biết về di tích hướng dẫn. Cũng là khu vực quanh núi Linh Thứu, nhưng đường lên tháp Hòa Bình rất dễ vì đi bằng cáp điện treo (chairlift), còn đường lên núi Linh Thứu thì đi bằng bậc tam cấp. Vì vậy chúng ta cần phải tìm hiểu kỹ càng hoặc tư vấn với những người đã từng đi một cách tường tận, chính xác để khỏi phải xảy ra những điều đáng tiếc như chúng tôi năm xưa hăm hở lên tận tháp Hòa Bình mà cho rằng mình đã đến đỉnh núi Linh Thứu, bởi vì mình chỉ biết trong kinh điển chớ không biết được địa điểm thực tế. Khi hiểu ra thì mọi việc đã trôi qua hơn hai năm rồi. Đúng là chuyện dở khóc dở cười!!!

Source: DPNN


© 2008 -2024  Phật Học Online | Homepage