Vào thời kỳ Vương triều Han, nhiều tu sĩ Phật giáo của Ấn Độ và Trung Á
đã du hành sang Trung Hoa để truyền bá Giáo Pháp.
Nhiều người trong họ đã đi
bằng đường thủy và đặt chân đầu tiên trên đất Việt Nam ở đấy họ đã khởi
đầu một trung tâm thiền học Phật giáo nổi tiếng tại thủ phủ Luy Lâu,
nơi những nhà sư du hóa có thể tu hoc, dạy thiền, và học tiếng Hoa trước
khi vào Trung Hoa. Một luận thuyết đầu tiên bằng tiếng Hoa (Lý Hoặc
Luận) đã được viết ở Việt Nam vào thế kỷ thứ nhất bởi một người Hoa lưu
lạc tên là Mâu Tử
Thiền tông của Việt Nam được giới thiệu ở Việt Nam vào thế kỷ thứ ba
bởi Thiền sư Tăng Hội, người gốc Khương Cư, Trung Á, người đã dạy thiền
và chuyển dịch nhiều kinh điển sang tiếng Hoa trước khi du hóa sang
Trung Hoa vào năm 255. Theo Cao Sinh Chuẩn (Kao Seng Chuan), ngôi chùa
đầu tiên ở vương quốc Ngô (trong tam quốc: Ngụy, Thục, Ngô) được xây
dựng cho Tăng Hội, và giới đàn đầu tiên được Ngài tổ chức ở đấy. Bài
viết kết luận, “Sau khi Tăng Hội đến, Phật Pháp bắt đầu phát triển ở
phía Nam sông Dương Tử.”
Hai trăm năm sau, trước khi Tổ Đạt Ma đến Trung Hoa, một vị tăng Ấn
Độ tên Đạt Ma Đề Bà (Dharmadeva) đã đến Việt Nam để dạy thiền Phật
giáo. Bắt đầu thế kỷ thứ sáu, sáu trường phái quan trọng của Phật giáo
đã được hình thành ở Việt Nam. Ngày nay, tịnh độ và thiền tông là những
tông phái quan trọng ở Việt Nam; thêm nữa, do bởi tiếp xúc với Lào và
Cam-pu-chia, nên cũng có Phật giáo Theravada hay Phật giáo Nguyên thủy.
Nhất Hạnh Thiền sư sinh ở miền trung Việt Nam vào giữa những năm
1920 trong thời kỳ của chủ nghĩa thực dân Pháp. Ngài xuất gia ở ngôi
chùa xinh đẹp Từ Hiếu ở Huế vào tuổi 16. Lúc là một tu sĩ trẻ, Ngài đã
viết nhiều quyển sách, kể cả một tập thơ, Tiếng Sáo Mùa Thu (1949); Sự
Thực Hành Trong Gia Đình (1952); Thực Tập Đạo Phật Như Thế Nào (1952);
và Luận Lý Học Phật Giáo (1952). Ngài cũng đã viết nhiều bài báo, chủ
nhiệm hai tạp chí, đặt ra thuật ngữ ‘Đạo Phật Dẫn Thân’ (engaged
Buddhism), và hỗ trợ việc thành lập trung tâm tu học quan trọng nhất của
Phật giáo miền Nam, Phật Học Đường Ấn Quang, tất cả những việc trên đều
diễn ra trước khi Ngài bước vào tuổi ba mươi.
Năm 1960, Thích Nhất Hạnh đến U.S. để học về tôn giáo tại Đại Học
Princeton, và sau đó Ngài được bổ nhiệm diễn giảng về Phật học tại
Columbia. Vào năm 1963, Ngài trở về Việt Nam để tham gia cùng với Phật
giáo VN trong những nổ lực bất bạo động nhầm chấm dứt chiến tranh. Năm
ấy, tất cả các truyền thống Đại thừa và Nguyên thủy ở Việt Nam đã tập
họp cùng nhau thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (1964).
Trong năm 1964-65, Thích Nhất Hạnh thành lập trường Thanh Niên Phụng
Sự Xã Hội, hướng dẫn tăng, ni, sinh viên trẻ tuổi đi về thôn quê dựng
trường học và trạm xá, và sau đó tái xây dựng làng mạc bị bom đạn tàn
phá. Nhà in Lá Bối, một nhà xuất bản Phật giáo có uy tín; Đại học Phật
giáo Vạn Hạnh; và dòng tu Tiếp. Hiện hướng dẫn mười bốn điều thực tập
tỉnh thức (giới) về Phật giáo dấn thân. Ngài tiếp tục công việc viết
lách phong phú của Ngài và làm chủ bút cho tạp chính thức của Giáo Hội
Phật Giáo Thống Nhất.
Năm 1967, Nhất Hạnh Thiền sư được mời sang U.S. để hướng dẫn một hội
nghị chuyên đề về Phật giáo Việt Nam tại Đại học Cornell và cũng truyền
đạt đến người Hoa Kỳ về những khổ đau của nông dân Việt Nam do chiến
tranh. Khi Ngài kêu gọi một cuộc ngưng bắn đơn phương cùng sự rút lui
của quân đội U.S., Ngài bị chính quyền Nam Việt Nam lên án và không thể
trở về quê hương. (Chính quyền Sài Gòn cho Ngài là cộng sản, trong khi
Hà Nội gọi Ngài là C.I.A.)
Năm 1967, Mục sư Luther King, đề nghị Ngài lãnh giải Nobel Hòa bình,
nói rằng, “Cá nhân tôi không biết bất cứ người nào xứng đáng cho [giải
thưởng này] hơn vị tu sĩ đức hạnh đến từ Việt Nam này. Ý tưởng của Ngài
về hòa bình, nếu áp dụng, sẽ xây dựng một công trình bất hủ để thúc đẩy
sự thống nhất, đến tình huynh đệ thế giới, đến nhân loại.” Thích Nhất
Hạnh được cho cư trú tại Pháp quốc, và trong thời kỳ Hòa đàm Ba Lê, Ngài
đã phục vụ như thủ tọa của Phái đoàn Phật giáo Hòa bình.
Năm 1982, Nhất Hạnh Thiền sư và cộng sự viên lâu năm là sư cô Chơn
Không, thành lập Làng Mai, một tu viện ở Tây Nam Pháp quốc. Khi được
yêu cầu để diễn tả chính mình, Sư ông Nhất Hạnh thường nói rằng, “Tôi là
một thầy tu làm biếng.”
Hai trăm cộng đồng và những nhóm nhỏ khắp thế giới tu tập theo
phương pháp tỉnh thức được Thiền sư Nhất Hạnh chỉ dạy. Vào tháng Mười
một, 1997, Nhất Hạnh Thiền sư thành lập tu viện Rừng Phong tại Vermont,
và những đệ tử của Ngài đang tìm đất để bắt đầu cho những tu viện và
trung tâm tu học ở Hoa Kỳ. Những quyển sách của Ngài đã bán được hơn
1,5 triệu bản và những buổi hướng dẫn và thuyết giảng của Ngài đã lôi
cuốn hàng nghìn người tham dự. Nhiều người cảm thấy, sự trình bày của
Ngài chuyển tải cốt lõi thiết yếu của Phật Pháp, ngôn ngữ của Ngài giản
dị, và trực tiếp, truyền đạt những lời dạy của Đức Phật trong một cung
cách mà bất cứ ai cũng có thể thấu hiểu.
Tuệ
Uyển chuyển ngữ 06-02-2010