GIỚI TRÍ THỨC
BÌNH LUẬN VỀ
ĐỨC PHẬT &
GIÁO LÝ CỦA NGÀI
THÍCH QUẢNG BẢO
Sưu tầm &
chuyển dịch
Lời giới
thiệu
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì
hạnh phúc và an lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ
nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ. Ngài không tranh luận với đời.
Ngài chỉ thuyết pháp, nêu bật sự kiện khổ đau ở đời và chỉ bày cho con người
cách thức đoạn trừ khổ đau.
Đức Phật không khuyến khích mọi
người theo Ngài chỉ vì niềm tin suông. Đọc lại lời khuyên của Ngài cho Sìha, vị
tướng quân người Licchavì, Upàli, vị gia chủ nổi tiếng của xứ sở Nalanda và
những lời dạy dành cho các vị Kàlàma xứ Kesaputta, chúng ta thấy rõ nhân cách
lớn của bậc đạo sư và tinh thần tự do tư tưởng hết sức cao cả của Giáo lý Ngài.
Chân lý không là đặc quyền của người nào. Chân lý không có ngã và ngã sở. Người
ta không nên khẳng quyết rằng chỉ có điều mình theo là đúng ngoài ra là hư
vọng. đức Phật không bao giờ nói hãy tin ta, nhưng Ngài bảo hãy đến để mà thấy
(Ehibhikkhu). "Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi" là khẩu hiệu
tự do thẩm sát chân lý trong đạo Phật. Sự thật thách thức khả năng tìm tòi,
khám phá của mỗi cá nhân chứ không yêu cầu lòng tin của mọi người.
Đức Phật là thế và giáo lý của
Ngài là thế. Lịch sử của loài người là lịch sử của sự tìm kiếm và thực nghiệm
sự thật. Hãy để cho sự thật tự hiển lộ trước mắt mọi người. Người con
Phật đứng giữa sự chỉ trích và tán thán hãy học theo cách của bậc đạo sư, không
giận giữ hay vui mừng mà hãy giữ tâm ý thật khách quan để tự thăng tiến tuệ
giác. Tập sách “Giới trí thức bình luận về đức Phật và giáo lý của Ngài”
do Tăng sinh Quảng Bảo sưu tầm và chuyển dịch có thể giúp cho người con Phật
thực tập thái độ khách quan khi đứng trước sự chỉ trích hay tán thán của người
khác. Việc làm này của Tăng sinh là một nỗ lực xứng đáng được tán thán và
khuyến khích.
Học viện Phật
giáo Việt Nam
tại Thành phố
Hồ Chí Minh
Hòa thượng
Thích Minh Châu.
Lời
nói đầu
hững ai xem việc thay đổi tôn
giáo hay chấp nhận một tôn giáo mới lần đầu tiên thì sẽ làm một điều gì đó có
thể có một ảnh hưởng sâu sắc về cuộc đời của họ. Đó không phải là một điều gì
phải được từ bỏ một cách hấp tấp, vội vã, hoặc là nó được từ bỏ dưới sự ảnh
hưởng của những cảm xúc tình cảm khi đạt đến tột đỉnh. Nếu chân lý phải được
khám phá, thì thời gian phải được diễn ra, tất cả những sự kiện phải được xem
xét, và vấn đề phải được chất vấn và những ý kiến khác nhau phải được xem xét,
thảo luận. Chúng ta cố gắng làm tất cả những điều này, trước khi đưa ra những
quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời của chúng ta, do vậy, tại sao chúng
ta không nên thực thi chúng trước khi đưa ra những quyết định quan trọng nhất
trong cuộc đời của chúng ta liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo của chính mình?
Chấp nhận ý kiến của người khác
một cách mù quáng và không thắc mắc sẽ là một sự ngu xuẩn, nhưng làm ngơ ý kiến
của họ cũng là một sự ngốc nghếch. Trí tuệ và kinh nghiệm của những người khác,
đặc biệt là bậc trí, có thể giúp chúng ta làm sâu sắc thêm sự hiểu biết của
chúng ta và đưa chúng ta đến một vị trí tốt hơn để chọn lựa một giải pháp đúng
hơn. Với sự truyền bá Phật giáo ở các nước Âu Mỹ trong khoảng hơn trăm năm qua,
một số đông giới trí thức phương Tây, kể cả nhiều vị lãnh giải Nobel hòa bình,
đã bày tỏ một sự quan tâm sâu sắc và ngưỡng mộ tôn giáo cổ đại này. Chỉ có một
số ít thực sự trở thành Phật tử. Họ trở thành Phật tử do bị ấn tượng về phương
pháp tư duy trong sáng và hợp lý của đạo Phật, số khác nhờ vào sự khoan dung độ
lượng nhã nhặn của tôn giáo này. Một số khác trở nên ngạc nhiên trong kính phục
do triết lý của tôn giáo này rất thích ứng (nếu không nói là rất giống) với
những phát minh của khoa học hiện đại. Trong khi đó, số khác thích Phật giáo
khi tiếp cận với những ý tưởng về đời sống luân lý đạo đức mà không cần tin vào
một đấng Thượng đế đầy quyền năng. Những lời trích dẫn được thu thập trong cuốn
sách nhỏ này thật sự đáng để quan tâm vì một số lý do sau:
Trước hết, những lời trích dẫn
này cho thấy sự hấp dẫn phổ quát của Phật giáo, mà đây lại là lời phát biểu của
những nhà tâm lý, nhà thơ, triết gia và nhà toán học trên khắp thế giới với
nhiều bối cảnh văn hoá và tôn giáo khác nhau. Có phải chăng lời dạy của một con
người đã sống từ lâu vẫn có thể thích hợp và có ý nghĩa đối với một nhà khoa
học lỗi lạc như Einstein, một nhà thơ như Eliot hoặc một triết gia như Rusell?
Lại nữa, những lời trích dẫn này nói nhiều về những người đã viết ra chúng như
họ đã làm gì cho chính đạo Phật.
Chúng ta đọc những gì mà một số
tư tưởng gia có đầu óc vĩ đại trong thời đại của chúng ta phải nói về quan điểm
của Phật giáo về ly tham, không chấp thủ và tình thương, về yếu tố duy lý trong
đạo Phật và về vai trò và địa vị của đức Phật trong lịch sử nhân loại. Họ so
sánh Phật giáo với những tôn giáo khác, làm nổi bật sự đề cao về yếu tố lý trí
của tôn giáo này và cho chúng ta biết được những ảnh hưởng lớn lao của nó đối
với nền tâm lý học hiện đại. Hy vọng rằng những gì được nói trong cuốn sách nhỏ
này sẽ làm cho độc giả có động cơ nhìn sâu hơn nữa về những lời dạy của đức
Phật, và nếu thoả mãn về mặt tâm linh hãy ứng dụng những nguyên tắc này vào đời
sống thực tiễn. Thiết nghĩ đây là một công trình có giá trị nghiên cứu và rất
hữu dụng đối với những ai khi nghiên cứu đạo Phật. Hơn nữa, những lời trích dẫn
trong tập cách này là những nguồn dẫn chứng quý giá đối với những ai muốn
nghiên cứu và viết lách về những đề tài liên quan đến Phật giáo và những lĩnh
vực khác.
Tuy nhiên, do đây là một tập sách
sưu tầm những nguồn tư liệu nằm rải rác trong các sách báo Anh ngữ, cũng như
một số tư liệu đã được dịch sang Việt ngữ, người dịch xin cáo lỗi cùng với quý
độc giả trong vấn đề sắp xếp những lời phát biểu theo thứ tự từng tác giả hay
theo từng chủ đề khác nhau liên quan đến giáo lý và cuộc đời của đức Phật. Ở
cuối phần tập sách nhỏ này, người dịch xin trích dẫn nguyên bản tác phẩm "Buddhism
in the Eyes of Intellectuals" của Đại lão Hoà thượng K. Sri
Dhammananda, một vị Hoà thượng người Tích Lan có công rất lớn trong công việc
hằng truyền Phật pháp tại Malaysia và cũng là một nhà Phật học có rất nhiều ảnh
hưởng đến giới nghiên cứu Phật học tân thời. Nhân đây, Người dịch xin bày tỏ
tấm lòng biết ơn đối với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu, người đã hy
sinh cả cuộc đời mình vì sự nghiệp giáo dục đàn hậu học chúng con. Thành kính
dâng lên Thượng tọa Bổn sư , người đã có công giáo dưỡng con nên người, thành
quả học tập này với tất cả tấm lòng quý kính của người đệ tử. Cuối cùng, xin
chân thành tri ân sự chỉ giáo của các bậc cao minh để tập sách nhỏ này ngày
càng hoàn chỉnh hơn.
Quảng Đức, Xuân Canh Thìn
Dịch giả Thích Quảng
Bảo
o đó, trong thời đại ngày nay,
hầu hết những tôn giáo khác thì mới và trẻ khi được so sánh với tôn giáo đáng
kính này [Phật giáo], một tôn giáo chứa đựng trong nó sự vô tận của niềm hy
vọng toàn cầu, sự bất tử của tình thương không bờ bến, một yếu tố bất hoại của
niềm tin về sự tuyệt mỹ, và sự quả quyết tự hào nhất về quyền tự do giải thoát
nhân loại.
Đây hoa nở rộ trên cây nhân loại
Đã bừng nở qua vô số năm
Làm thế giới chan hòa hương thơm
trí tuệ
Và mật ngọt tình thương.
Sir Edwin Arnold (1832-1904), Nhà
thơ, nhà báo người Anh, và tác giả cuốn "Ánh Sáng Á Châu"
Những lời dạy của thái tử người
Ấn Độ thực sự không có gì lay chuyển trước những phát minh hiện đại của khoa
học… Ngôn từ sẽ không làm cho tôi hiểu nếu tôi cố gắng bày tỏ sự cần thiết mà
tôi nghĩ tri thức của niềm tin và triết lý cao siêu của tôn giáo này làm cho
sinh động thêm chủ nghĩa vật chất của Tây phương… Đó là, trong bất kỳ tình
huống nào, một chân lý đã làm ảnh hưởng không chỉ đối với những tư tưởng gia vĩ
đại và hùng vĩ nhất của Hy Lạp và La Mã mà còn làm những cơ sở khởi đầu cho nền
tảng của tư tưởng Cơ đốc giáo-mà Phật giáo đã ra đời trước tôn giáo này khoảng
500 đến 600 năm. Tôn giáo này có thể tuyên bố kết bạn tốt đẹp cùng nguồn gốc
với những tôn giáo lớn, mà không có sự hành quyết và ép buộc những người thuộc
tôn giáo khác Phật giáo, và những lý do này có thể chứng kiến dễ dàng
trong chính giáo lý của tôn giáo này.
L. Adam Beck, một nhà lữ hành và
một học giả người Hoa Kỳ.
Đối với tín đồ Cơ đốc giáo, thì
tình yêu là đức tính tối thượng; nhưng đối với tín đồ Phật giáo, thì lại là trí
tuệ bởi vì họ cho rằng vô minh là nguồn gốc của tất cả những tội lỗi. Đồng
thời, tình yêu cũng được xếp lên hàng cao….Khoan dung và lòng từ, cả hai được
căn cứ tên cơ sở trí tuệ Phật giáo, có lẽ là nguyên nhân chính giải thích tại
sao con đường Trung đạo của đức Phật Cồ Đàm đã truyền bá từ thế hệ này sang thế
hệ khác hơn 2500 năm qua.
Sir Charles Bell KCIE, CMG
(1870-1945), nhà ngoại giao và nhà biên soạn từ điển người Anh.
Thông điệp của đức Phật về chân
lý, hòa bình, từ bi và khoan dung rất là thích hợp đối với xã hội ngày nay cũng
như nhiều thế kỷ trước đây. Thời gian trôi qua đã làm cho những ánh sáng càng
tỏa sáng hơn. Sự lan tràn của chủ nghĩa vật chất và sự theo đuổi những thành
đạt của cá nhân bất chấp mọi giá đã làm xói mòn những sợi dây thắt chặt tình
huynh đệ và tính cộng đồng. Trong những tình huống này, điều cần thiết và quan
trọng đối với chúng ta là nhớ lại và truyền bá thông điệp về từ bi và trí tuệ
của đức Phật để hận thù có thể được thay thế bằng tình thương, xung đột bằng
hòa bình an lạc, và sự cạnh tranh bằng hợp tác lẫn nhau.
Tiến sĩ Amadou-Mahta M'Bow-Chủ
tịch tổ chức UNESCO.
Chỉ có tôn giáo duy nhất trong
tất cả các tôn giáo trên thế giới hấp dẫn tôi nhất là Phật giáo. Đạo Phật, như
sự hiểu biết của tôi về tôn giáo này, đúng ra là một hệ thống triết học của thế
giới, và một triết lý sống đối với những người ưu tú được hình thành ở nơi tôn
giáo này (câu này tối nghĩa quá, dò lại nguyên tác), chứ không phải là một tôn
giáo xét theo ý nghĩa thông thường của ngôn từ.
CD Broad (1887-1971), triết gia
người Anh.
Cuộc cách mạng gần đây của con
người có lẽ bắt đầu với sự tiến bộ cao của chân tay, và sự lựa chọn một bộ não,
đặc biệt thông thạo thao tác của đôi bàn tay. Chúng ta cảm thấy vui mừng về
điều đó trong những hành động của mình, với kết quả là đối với giới nghệ thuật,
bàn tay là một biểu tượng chính yếu; chẳng hạn bàn tay của đức Phật ban tặng
cho con người món quà của lòng nhân đạo trong một tư thế tịch lặng, món quà của
sự vô uý.
J. Bronowski (1908-1974), một tác
giả và triết gia, khoa học gia người Hoa Kỳ.
Cho dù người phương Tây lần đầu
đến với giáo lý đạo Phật mà họ vốn dĩ quen với khoa học hiện đại, hay những
thuật ngữ chuyên môn của đạo Cơ đốc giáo, họ nên luôn luôn ghi nhớ rằng đức
Phật không quan tâm sự hiện hữu hay không hiện hữu của một đấng quyền năng tối
cao, hoặc là những mệnh đề triết học trừu tượng khác. Điều Ngài quan tâm duy
nhất là “con đường”, con đường thực tế, qua đó con người có thể chấm dứt những
khổ đau của mình trong kiếp này và mai sau.
Marie b. Byles (1900-1979), một
tác giả và nhà leo núi người Úc.
Thông điệp của đức Phật về từ bi
và sự tận tâm, nhiệt tình trong sự nghiệp phục vụ cho nhân loại càng thích hợp
hơn trong xã hội ngày nay hơn bao giờ hết trong lịch sử nhân loại. Hòa bình, sự
hiểu biết và một cách nhìn vượt khỏi những hạn chế thuần tuý trong phạm vi quốc
gia đã trở thành các vấn đề cấp bách hơn trong thời đại bất an, thiên về vũ khí
hạt nhân hôm nay.
Javier Perez De Cuellar, nhà
ngoại giao của Peru, và Tổng Thư ký của Liên Hợp Quốc.
Người ta không thể từ chối rằng
vẻ đẹp thực sự của Đông phương trong nhiều thành ngữ mà giới Phật tử sử dụng;
và rằng có cơ sở thực sự cho sự nhiệt tình khiến họ phát sinh. Chưa bao giờ
trong lịch sử của thế giới một kế hoạch như thế lại được vạch ra, quá tự do
thoát khỏi những tác nhân của một đấng siêu nhiên, quá độc lập, thậm chí rất
đối kháng với niềm tin về một linh hồn, niềm tin vào một Thượng đế, và hy vọng
một kiếp sống tương lai.
Cho dù những điều này là đúng hay
sai, đó là một điểm chuyển đổi trong lịch sử tôn giáo của con người khi mà một
nhà cải cách, hoàn toàn đầy đủ nhiệt tâm nhất vì những mục tiêu luân lý đạo đức
và được đào tạo trong tất cả nền văn hóa tri thức trong thời đại của vị ấy, đã
đưa ra một cách thận trọng, cân nhắc, và với một tri thức có những quan điểm
chống lại học thuyết của sự cứu rỗi được tìm thấy ở đây, ngay trong kiếp sống
này, trong một trái tim tâm hồn thay đổi bên trong.
Dù là Phật tử hay không phải, tôi
đã xem xét các hệ thống của tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới, và tôi không
tìm thấy tôn giáo nào có thể vượt qua cái đẹp và tính toàn diện của giáo lý Bát
thánh đạo và Tứ thánh đế của đức Phật. Tôi rất hài lòng xây dựng cuộc đời mình
trên con đường đó.
Giáo sư T.W. Rhys Davids
(1843-1922), thành lập hội Thánh Điển Pali, nhà biên tập từ điển Pali-Anh, dịch
giả Trường Bộ Kinh và là nhà biên tập của nhiều kinh sách Phật học.
Cũng như những bậc thầy khác cùng
thời đại Ngài, đức Phật giảng dạy thông qua những cuộc hội thoại, bài diễn
thuyết, và những hình ảnh ẩn dụ. Nếu so với đấng Christ vàø Socrates, Đức Phật
chẳng bao giờ có ý định đem học thuyết của Ngài viết thành văn bản. Ngài đã tóm
tắt những lời thuyết giảng ấy thành những bài kinh nhằm mục đích nhắc nhở cho
chúng ta ghi nhớ những gì Ngài dạy, như đã được chư vị đệ tử Ngài bảo tồn cho
chúng ta ngày nay. Những bài kinh này phác thảo cho chúng ta một nhân vật đặc
trưng nhất trong lịch sử Ấn Độ: một con người với ý chí và nghị lực mãnh liệt,
quyền uy và tự trọng, danh tiếng, nhưng có một nhân cách nhã nhặn tế nhị và ngôn
từ hiền hòa từ ái, và một lòng từ tâm vô biên. Ngài tuyên bố sự giác ngộ giải
thoát nhưng không có một sự khêu gợi; Ngài không bao giờ giả vờ rằng một vị
thiên thần đang nói chuyện với Ngài. Trong tranh luận, Ngài kiên nhẫn và trung
dung hơn bất kỳ những vị đạo sư khác của nhân loại.
Giống như Đức Khổng Phu Tử và
Christ, Ngài mong muốn chuyển hóa ác thành thiện, tình thương thay hận thù; và
Ngài hoàn toàn im lặng trước những sự hiểu lầm và nhục mạ của kẻ khác… Không
giống như hầu hết các bậc Thánh khác, đức Phật có một óc hài hước, và biết rằng
hiện tượng siêu hình học mà không có hành động là sự kêu căng (tối nghĩa và
không thuần Việt).
Will Durant (1885-1981), một sử
gia người Mỹ và người đoạt giải thưởng Pulitzer.
Nhưng sự cuốn hút của Eliot đến
với Phật giáo không chỉ đơn giản là do của hệ thống triết lý của tôn giáo này.
Niết-bàn là sự dập tắt hoàn toàn của tham, sân, si; sự đoạn diệt hoàn toàn tham
ái, tự do giải thoát khỏi sự chấp thủ…. Sự chuyên chế của đạo Phật thì rất
nghiêm khắc như những gì mà Eliot tìm thấy trong Maurras, và mặc dù có lẽ nhà
thơ này thích thú Phật giáo với nhiều lý do tương tự, tôn giáo phương Đông có
những sự gắn bó lãng mạn cho những ai muốn tách khỏi những sự ràng buộc của gia
đình.
Peter Ackrayd bình về nhà thơ
người Anh-T.S.Eliot (1888-1965).
Trong những tôn giáo vĩ đại nhất
trong lịch sử, tôi thích Phật giáo hơn, đặc biệt là Phật giáo Nguyên thuỷ, bởi
vì tôn giáo này không có những yếu tố ngược đãi, khủng bố. Phật giáo là một sự
kết hợp giữa nền triết lý tuyệt vời và khoa học. Phật giáo tán thành những
phương pháp khoa học và tiếp tục theo đuổi mục đích đó và có thể được gọi là
một tôn giáo lý trí. Trong tôn giáo này chúng ta tìm thấy câu trả lời cho những
câu hỏi như: "Danh và sắc là gì? Cái nào quan trọng hơn cái nào? Thế giới
và vũ trụ có chuyển động đến một mục tiêu nào đó hay không? Địa vị của con
người là gì ? Liệu có một đời sống thánh thiện hay không?" Phật giáo dìu
dắt con người đến những nơi mà khoa học không thể đưa đến, bởi vì những giới
hạn trong việc sử dụng những công cụ của khoa học. Những đòi hỏi đó chính
là yếu tố tâm.
Bản thân tôi
cảm thấy rằng dù làø trong vấn đề trí tuệ hay đức hạnh, Chúa cũng như một số
người được biết trong lịch sử không thể là những người đại diện cao nhất về 2
lĩnh vực này. Tôi nghĩ rằng tôi nên đặt đức Phật và Socrates lên trên Chúa đối
với những sự tôn kính này.
Bertrand Rusell (1872- 1970),
triết gia toán học và logic lỗi lạc nhất trong thế kỷ 20.
Con người đã từ bỏ sự vô minh
vọng tưởng về một đấng Thượng đế như là một người cha giúp đỡ- nhưng con người
cũng từ bỏ những mục đích chân thật của tất cả những tôn giáo lớn mang tính
nhân bản: vượt qua những sự giới hạn của một cái tự ngã ích kỷ, đạt được tình
thương, mục đích và sự khiêm nhường và tôn trọng sự sống để mà mục đích của
cuộc đời được sống, và con người trở lại với những tiềm năng ẩn chứa bên trong
anh ta.
Đây là những mục đích của các tôn
giáo lớn ở phương Tây, cũng như đây là những mục tiêu của các tôn giáo lớn ở
phương Đông. Tuy nhiên, phương Đông thì không bị đè nặng bởi ý niệm về một đấng
Thượng đế siêu nghiệm-một đấng cứu thế mà các tôn giáo nhất thần thường cho là
tài sản của riêng họ.
Đạo giáo và Phật giáo xét về mặt
lý trí và thực tiễn thì siêu việt hơn những tôn giáo phương Tây. Hai tôn giáo
này quan sát về con người một cách thiết thực và có mục đích, không một ai
ngoại trừ bậc giác ngộ có thể dẫn dắt con người và có thể được dẫn dắt chỉ
đường bởi vì mỗi người đều có trong mình khả năng giác ngộ và được giác ngộ.
Đây là lý do quý hiếm giải thích
tại sao tư tưởng Đong phương, Đạo giáo, Phật giáo và thiền Phật giáo đảm nhiệm
một vai trò quan trọng như thế trong xã hội phương Tây hiện nay. Thiền Phật
giáo giúp cho con người tìm ra những giải đáp cho vấn đề hiện hữu của con
người….
Nghịch lý thay, tư tưởng tôn giáo
Đong phương hóa ra thích hợp hơn đối với tư tưởng duy lý phương Tây hơn là
chính bản thân tư tưởng tôn giáo Tây Phương.
Erich Fromm (1900-1980), một
triết gia xã hội và nhà phân tâm học người Mỹ.
Có thể có một ý nghĩa lớn lao
trong sự kiện rằng triết gia Pythagoras tại Hy Lạp và đức Phật tại Phương Đông
xuất hiện cùng lúc vào thế kỷ thứ 6 B.C. Cả hai Ngài đều là những nhà tư tưởng
và nhà hoạt động tầm vóc và sâu sắc…
R.Buckminster Fuller (1895-1984),
một nhà phát minh, triết gia và kỹ sư người Mỹ.
Là một người nghiên cứu về tôn
giáo tỷ giảo, tôi tin rằng đạo Phật là đạo hoàn hảo nhất trên thế giới từ trước
tới giờ. Học thuyết tiến hóa và luân hồi cao đẹp hơn bất cứ niềm tin nào khác.
Không phải lịch sử tôn giáo cũng không phải là sự nghiên cứu triết học mà chính
nghề nghiệp chuyên môn của tôi như là một bác sĩ đã đưa tôi lần đầu tiên đến
thế giới tư tưởng Phật giáo. Công việc của tôi là chữa trị những khổ đau về mặt
tâm thần và chính điều này đã đưa đẩy tôi làm quen với quan điểm và phương pháp
của Bậc thầy vĩ đại của nhân loại, mà đề tài chính yếu là sự khổ đau triền
miên, già, bệnh và chết.
Bác sĩ Carl C. Jung (1875-1961),
nhà phân tâm học người Thụy Sĩ, học trò lôĩ lạc nhất của Freud và là người sáng
lập viện nghiên cứu về phân tâm học.
Lời giảng dạy căn bản của Ngài Cồ
Đàm, nghiên cứu từ cội gốc ngày nay đã trở nên rõ ràng và dễ hiểu và hoàn toàn
phù hợp với những tư tưởng tân tiến. Nó vượt khỏi tất cả những sự tranh chấp,
và là sự thành tựu của một trong những nguồn trí tuệ thể nhập tuyệt vời mà thế
giới đã từng biết đến.
Hơn hết mọi ảnh hưởng trong biên
niên sử nhân loại, đạo Phật đã đóng góp nhiều hơn cho những sự tiến bộ của nền
văn minh thế giới và nền văn hóa của nhân loại…
H.G. Wells (1866-1946).
Ta nhập thế bằng tình yêu bát
ngát, dù cuộc đời vẫn quằn quại thương đau. Bất cứ ai nếu chăm chú đọc một vài
bài thuyết pháp của đức Phật cũng sẽ nhận thấy sự nhịp nhàng, sự yên tĩnh của
tâm hồn, sự cao đẹp vui tươi, sự quyết tâm không mảy may lay chuyển, lòng yêu
thương dạt dào và sự kiên trì không bờ bến.
Nội dung trí tuệ những lời dạy
của Ngài chỉ là một phần sự nghiệp của Ngài, và nửa còn lại là cuộc đời của
Ngài, đời sống thực mà Ngài đã sống, một sự tu tập, sự tự tu tập tâm linh
cao nhất mà Ngài đã hoàn tất và đem ra giảng dạy ở nơi đây. Đức Phật đã hoàn
tất sự tu tập tâm linh cho chính mình và chư đệ tử của Ngài. Ngài đã đề xuất
một mục đích và đã đạt được những kết quả mà các nhà hành động chân chính nổi
danh của phương Tây đã phải ngã mũ kính phục.
Herman Hesse (1877-1962), người
đoạt giải thưởng Nobel văn chương.
Chẳng hạn nếu chúng ta thắc mắc
liệu vị trí của âm điện tử đứng yên, chúng ta phải trả lời là không; nếu chúng
ta hỏi liệu vị trí của âm điện tử có thay đổi cùng với thời gian hay không,
chúng ta phải trả lời là không; nếu chúng ta hỏi rằng liệu âm điện tử có yên
nghỉ hay không, chúng ta phải trả lời là không; nếu hỏi âm điện tử có di động
hay không, chúng ta phải trả lời là không. đức Phật cũng trả lời như vậy khi
được hỏi về những điều kiện về tự ngã của con người sau khi chết, nhưng
chúng không phải là những câu trả lời tương tự đối với truyền thống của nền
khoa học thế kỷ 17 và 18.
Robert Oppenheimer, nhà vật lý
học, cha đẻ của trái bom nguyên tử đầu tiên của Hoa Kỳ.
Chủ nghĩa bi quan yếm thế bày tỏ
thái độ tuyệt vọng đối với đời sống, một ý niệm tổng quát và mơ hồ rằng đời
sống đầy dẫy khổ đau và tội lỗi. Trong thực tế, giáo lý nguyên thủy của đức
Phật cũng lạc quan như bất cứ chủ nghĩa lạc quan nào khác ở phương Tây. Chủ trương
rằng Phật giáo là "bi quan" là chỉ áp dụng suông vào Phật giáo nguyên
tắc đặc cách của người phương Tây, theo đó không thể có hạnh phúc nếu không có
tự ngã. Người Phật tử chân chánh nhìn tương lai với tinh thần nhiệt thành hướng
về hạnh phúc trường cửu.
Encyclopaedia of Britannica.
Tính chất ôn hòa của dân tộc Ấn
biểu hiện trọn vẹn giáo lý của đức Phật. Phật giáo truyền bá tinh thần bất bạo
động, tức là lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sanh. Đối với người cư sĩ Phật
tử, chế tạo và buôn bán súng đạn, chất độc, chất say, giết hại cầm thú đều là
những nguyên tắc đạo đức không nên phạm.
Aldous Huxley.
Chắc chắn có những lý do để chủ
trương rằng cái "Tôi" ngày hôm nay và cái "Tôi" ngày hôm
qua là một, và để lấy một thí dụ hiển nhiên hơn nữa, nếu cùng một lúc, tôi thấy
một người và nghe người ấy nói thì rõ ràng là cái "Tôi" nghe và cái
"Tôi" thấy là một.
Bertrand Russell-Religion and
Science.
Thật không phải quá đáng khi quả
quyết rằng nhờ sự trung gian của người Ba Tư mà những người Hy Lạp hiếu kỳ đồng
thời với đức Phật..đã thâu nhập những kiến thức ít nhiều chính xác về thời kỳ
văn hóa cực thịnh của phương Đông.
Greek Thinkers- sử gia Garbe.
Những ai được ở trong một gia tộc
hoặc trong một làng nằm theo lưu vực sông Hằng (Ganges) thật là hữu phước, vì
nơi đây dân chúng sống trong tinh thần bác ái, an lành, trong tinh thần công lý
cao thượng, nơi đây dân chúng được hít thở một thứ không khí nhẹ nhàng, do
những lời giản dị chất phác tạo nên… Ta cũng có thể nói rằng những ai
sống trong một gia đình hoặc một làng nằm trong lưu vực sông Thames ngày nay
cũng không kém phần hữu phước, vì nơi đây giáo lý từ bi giữa người và người của
đức Phật đã thấm nhuần đời sống gia đình và xã hội và đã làm cho nền luân lý
vững chắc. Giáo lý đó vẫn còn rõ ràng, đầy đủ và thích hợp với người Anh hiện
nay, cũng như từ bao giờ, đã thích hợp với người Ấn.
Giáo sư Rhys Davids.
Đức Phật là sự hiện thân của tất
cả những đức hạnh mà Ngài thuyết giảng. Trong suốt cuộc hành trình 45 năm đầy
thành công và đáng ghi nhớ của Ngài, Ngài đã chuyển dịch tất cả những ngôn từ
của mình thành hành động; và không có chỗ nào mà Ngài không nói hết những khiếm
khuyết của con người hoặc là những sự đam mê hạ liệt thấp hèn. Nền tảng luân lý
đạo đức chủ yếu của đức Phật là hoàn hảo nhất mà thế giới đã từng biết đến.
Giáo sư Max Muller, nhà Ấn Độ học
người Đức.
Paul kết hợp tình yêu với lòng
tin và hy vọng, và quan điểm của ông về tình yêu liên quan đến niềm tin và hy
vọng: " Tình yêu, theo ôâng, là tin tưởng tất cả mọi thứ và hy vọng mọi
thứ." Theo tôi, tình yêu không có nghĩa là tin tưởng vào tất cả và
hy vọng tất cả. Tình yêu sống soát khi sự vỡ mộng, thất vọng bắt đầu và tiếp
tục ở sự thất vọng, buồn rầu. Tình yêu không phải là thứ tình thương ngưng hoạt
động khi không có niềm tin và hy vọng. Miễn là khi nào còn niềm tin và hy vọng
hỗ trợ tình yêu thì đó chỉ là một thứ tình yêu trẻ con. Rằng tình yêu là hạnh
phúc dễ chịu là một chuyện hoang đường mang tính chất thời trang. Đức Phật biết
rằng tình yêu mang lại "sự tổn thương và khổ đau, buồn rầu, thất vọng, áo
não"; và Ngài khuyên thái độ ly tham, không chấp thủ. Tình yêu mà tôi xem
như là một đức hạnh thì không phải là một thứ tình yêu mù quáng về người mình
yêu hoặc là người mình tin cậy, một tình yêu đầy hy vọng của Paul, nhưng tình
yêu mà biết những gì đức Phật đã biết và vẫn yêu, với đôi mắt mở rộng.
Giáo sư Walter Kaufmann, triết
gia người Mỹ.
Anh ta đọc nhiều sách và hiểu sâu
sắc về kinh điển Phật giáo, phiên dịch kinh điển sang Pháp ngữ, và thậm chí
viết tiểu sử của đức Phật. Nhưng căn nguyên sâu xa khiến cho anh ta quan tâm
thích thú đạo Phật là sự kiện mà anh ta cảm thấy Phật giáo đã mang lại cho anh
ta sự củng cố trực tiếp về tư tưởng triết học để giải tỏa những sự thất vọng
trong cuộc sống của anh ta…Jack tuân giữ giới thứ nhất trong đạo Phật hơn tất
cả những thứ khác và phát biểu rằng: "Tất cả đời là khổ đau".
Ann Charters.
Nếu tôi biết rằng đức Phật sẽ
thuyết giảng ở đây vào ngày mai, thì trên thế gian này không có một thứ gì có
thể ngăn cản việc tôi đi đến nghe Ngài thuyết giảng. Và tôi sẽ theo Ngài cho
đến cùng.
J.Krishnamurti, triết gia người
Ấn (1895-1986).
Người Ấn, người Aztec, và người
Mê-hi-cô xưa! Tất cả đều làm cho tôi thích thú và đã làm cho tôi thích thú
trong nhiều năm qua, có một sưc quyến rũ, và một phép thần diệu đối với tôi. Đó
chính là đức Phật. Đức Phật là một con người quá hoàn hảo và sung mãn đối với
tôi.
D. H. Lawrence (1885-1930), tiểu
thuyết gia người Anh.
Ngày nay khoa học đang thử thách
sự hạn chế của bộ não con người, một bộ não bao gồm khoảng 10.000 triệu tế bào
được kích thích xung điện đã được trù tính với những bản năng của lịch sử lâu
dài của chúng ta và dễ tiếp thu những ý kiến mới dù đúng hay sai. Tổng số những
tế bào này cung cấp cho chúng ta biết được cá tính luôn thay đổi của chúng ta
và sự loại bỏ từng phần bằng cách giải phẩu hay thay đổi nhịp bằng sự điều trị
bất ngờ thay đổi nhân cách của chúng ta…
Bạn thấy rõ ràng đức Phật là một
con người giản đơn, tận tuỵ, đơn chiếc, phấn đấu để đạt được ánh sáng trí tuệ,
một cá nhân mang bản chất con người sinh động, chứ không phải là một huyền
thoại. Trong số các truyền thuyết thần kỳ tôi cũng cảm thấy có một con người,
đó là đức Phật. Ngài đã gởi bức thông điệp tiêu biểu cho tính cách của tôn giáo
mình cho toàn thể nhân loại trên khắp toàn cầu. Nhiều tư tưởng hiện đại tuyệt
vời nhất của chúng ta ngày nay rất hài hòa với giáo lý của Ngài. Ngài dạy tất
cả những khổ đau và sự bất mãn trong cuộc sống là do ích kỷ. Ích kỷ có 3 hình
thức. Một là sự tham muốn nhằm thoả mãn những cảm giác của cá nhân; hai là sự
khát ái, hay muốn bất tử; ba là tham vọng được thành công về của cải vật chất
và thế gian trần tục. Trước khi một con người muốn trở nên thanh tịnh, anh ta
phải từ bỏ lối sống cho những nhu cầu dục vọng của chính mình. Sau đó, anh ta
mới có thể trở thành một bậc vĩ nhân. đức Phật, ra đời trước Đấng Christ, đã
dùng nhiều hình thức ngôn ngữ khác nhau để kêu gọi con người hãy sống với đức
tính vị tha. Xét về một số phương diện, Ngài rất gần gũi với chúng ta và những
nhu cầu của chúng ta. Ngài rất minh bạch hơn Chúa đối với tinh thần phục vụ con
người, và không mơ hồ về vấn đề bất tử của cá nhân.
H.G. Wells
Nếu chúng ta ao ước muốn nhìn
thấy con người thánh thiện nhất của nhân loại, hãy nhìn vị hoàng đế trong y
phục của một người hành khất; chính là Người với sự thánh thiện của Ngài được
xem là vĩ đại nhất trong nhân loại.
Abdul Atahiya thi nhân Hồi giáo.
Nếu bất kỳ vấn đề nào phải được
xem xét, thì vấn đề ấy phải được xem xét một cách hài hòa an lạc và dân chủ như
phương pháp mà đức Phật đã dạy.
J. Nehru, cựu
thủ tướng Ấn Độ
Sự khác biệt giữa đức Phật và một
chúng sanh tầm thường cũng giống như sự khác biệt giữa một người bình thường và
người điên khùng mất trí.
Một nhà văn.
Đức Phật thật xứng đáng được bầu
chọn là một nhân vật được đại đa số nhân loại tôn kính nhất.
Giáo sư Saunders, Tổng thư ký
hiệp hội thiên chúa giáo Y.M.C.A, Ấn Độ, Miến điện và Tích Lan.
Đức Phật vĩ đại hơn tất cả các
học thuyết và tín điều khác, và thông điệp vĩnh cửu của Ngài đã làm cho nhân
loại rung động qua nhiều thời đại. Có lẽ không thời điểm nào trong lịch sử quá
khứ nhân loại mà thông điệp về hòa bình của Ngài lại cần thiết hơn cho nhân
loại đang khổ đau và điên cuồng như thế giới hiện nay.
Nehru
Khi chúng ta đọc những bài pháp
của đức Phật, chúng ta bị cảm kích bởi tinh thần lý trí khoa học của Ngài. Con
đường đạo đức luân lý của Ngài, ngay trong những bước đầu tiên là những quan
điểm đúng đắn, một cái nhìn lý trí. Ngài nỗ lực nhằm xua tan tất cả những màng
nhện giăng mắc làm ảnh hưởng đến cái nhìn và định mệnh của nhân loại.
Tiến sĩ S. Radhakrishnan, Đức
Phật Cồ Đàm
Đặc điểm nổi bật đáng chú ý nhất
của đức Phật là sự kết hợp độc nhất vô nhị giữa một tinh thần khoa học trầm
tĩnh và sự thông cảm thâm uyên đầm ấm và từ tâm. Thế giới ngày nay ngày càng
hướng về đức Phật nhiều hơn vì chỉ có Ngài là người đại diện cho lương tâm của
nhân loại.
Moni Bagghee, "đức Phật Của
Chúng Ta".
Đức Phật là người tiên phong của
thương yêu nhân loại và là một triết gia siêu phàm kết hợp trong mình một cá
tính dũng cảm và sáng chói. Ngài có những điều để nói mà không một ai khó lòng
mà quên được là sau hơn 2500 năm hăng say, vội vã và thuyết giảng về nền tảng
của tri thức. Vĩ đại hơn là trí tuệ của Ngài là một tấm gương mà NGài đã đưa ra
làm chứng.
Moni Bagghee, Đức Phật của Chúng
Ta.
Đức Phật như là một bậc lương y.
Cũng như bác sĩ phải biết chẩn đoán nhiều căn bệnh khác nhau, nguyên nhân của
bệnh, thuốc giải độc và phương pháp chữa trị, và có thể áp dụng thuốc thích
hợp. Cũng vậy, đức Phật dạy cho chúng ta Bốn chân lý thánh thiện (Tứ Thánh Đế)
chỉ ra sự hiện hữu của khổ đau, nguyên nhân của khổ, sự đoạn diệt và con đường
đưa đến sự diệt tận của khổ đau.
Tiến sĩ Edward
Conze, "Phật giáo"
Đức Phật không phải là tài sản
của riêng cho giới Phật tử. Ngài là tài sản của toàn thể nhân loại. Giáo pháp
của Ngài dành cho tất cả mọi người. Mọi tôn giáo, được ra đời sau đức Phật, đã
mượn nhiều ý tưởng hay đẹp từ đức Phật.
Một học giả Hồi Giáo.
Đức Phật là một người cha nhìn
thấy đàn con của mình đang nô đùa, vui chơi trong ngọn lửa thế gian đầy nguy
hiểm và Ngài dùng mọi phương tiện thiện xảo để cứu các con mình ra khỏi nhà lửa
đang cháy này và đưa chúng đến nơi an lạc của Niết-bàn.
Giáo sư Lakshimi Narasu,
"Tinh Hoa Của Phật giáo"
Càng ngày tôi càng cảm thấy rằng
đức Phật Thích Ca Mâu Ni gần gũi nhất về các đức tính và thực nghiệm của Ngài.
Ngài là con đường, là chân lý, và là lẽ sống.
Giám mục Milman.
Đó chính là lúc tôi đang sinh
sống tại Oxford vào những năm đầu năm 1970 tôi bắt đầu quan tâm thích thú Phật
giáo. Cuộc đời của tôi thì đầy dẫy những bối rối và căng thẳng, và tôi tìm thấy
triết lý đạo Phật một phương pháp tư duy mà có thể làm say đắm tôi bởi sự thanh
tịnh vắng lặng và lối phân tích triệt để những tham dục, sự từ bỏ tất cả
những sức mạnh của một thế giới cảm xúc hư ảo mà tôi đang sống, và một sự hứa
hẹn của một sự thành thật mạnh mẽ không mang bản chất tình cảm.
Andrew Harvey tác giả người Anh
và nhà thơ của trường đại học Fellow of all Souls Oxford.
Tôi rời Ấn Độ và trở về Colombo,
nơi tôi làm một người khách của một gia đình sinh viên Tích Lan mà tôi
gặp anh ta tại Perth, Tây Úc. Họ đều là Phật tử, nhà của họ xung quanh một ngôi
chùa, và không khí ngôi nhà rất là yên tĩnh và ôn hòa. Tôi đàm luận rất nhiều
về Phật pháp với họ và họ đưa tôi đi đến một ngôi chùa nằm trên những ngọn đồi
tại Kandy, nơi mà tôi gặp những tu sĩ và tôi đối thoại rất nhiều về vị trụ trì
già của ngôi chùa, vị trụ trì này đã giải thích cho tôi rất nhiều về đạo Phật.
Tôi cảm thấy vô cùng thích thú về tôn giáo này.
Một nhà lữ hành
người Âu châu
Phật giáo là một hệ thống không
biết đến theo ý niệm cuả Tây phương; từ chối một sự hiện hữu của một linh hồn ở
nơi con người; coi đức tin vào sự bất tử là một sự sai lầm; từ chối bất cứ kết
quả nào của sự cầu nguyện và hy sinh dâng hiến thần linh. Đạo Phật còn là một
hệ thống khuyên con người không nên trông cậy vào đâu nhưng chỉ bằng nỗ lực của
chính bản thân để đạt được sự giải thoát, cứu rỗi cho chính mình; một hệ thống
mà sự thanh tịnh bản lai của nó không biết gì về những hạnh nguyện của sự phục
tùng và chưa bao giờ tìm sự cứu giúp của một cánh tay thế tục nào, nhưng đã
truyền bá khắp nhân loại.
Trong thế giới đầy bão tố và xung
đột, hận thù và bạo động, thông điệp của đức Phật toả sáng như một vầng thái
dương rực rỡ. Có lẽ không một thời điểm nào trong lịch sử nhân loại mà thông
điệp của Ngài lại cần hơn cho thế giới của những quả bon nguyên tử và khinh
khí. Hơn hai nghìn năm qua đã làm tăng thêm sức sống và sự thật của thông điệp này.
Chúng ta hãy nhớ lại bức thông điệp bất diệt đó và cố gắng uốn nắng tư duy và
hành động của chúng ta dựa trên ánh sáng của chân lý đó. Chúng ta có thể bình
thản đối diện với những sự kinh hoàng của thời đại bom nguyên tử và giúp một
phần nhỏ trong việc thúc đẩy con người tư duy và hành động đúng đắn.
Nehru
Đây là một hệ thống giáo lý mà
chúng ta có thể thực hành theo một cách tự tin. Liệu nơi nào trong thế giới các
tôn giáo, hệ thống thờ cúng tôn giáo và các tín ngưỡng, chúng ta có thể tìm
thấy một bậc đạo sư thông thái như thế? Trong chuỗi những vì sao sáng tỏ, Ngài
là vì tinh tú khổng lồ của những vì sao sáng nhất, vĩ đại nhất. Không có gì là
ngạc nhiên mấy khi mà các nhà khoa học, triết gia, và những con người có học
thức cao đã khẳng quyết rằng: "Ngài là con Người vĩ đại nhất chưa từng có
trong lịch sử nhân loại". Vầng hào quang toả sáng của bậc thầy vĩ đại này
rọi sáng khắp thế gian đau khổ và tối tăm, giống như ngọn hải đăng dẫn đường và
toả sáng cho nhân loại.
Một nhà văn Âu châu.
Những giáo lý như : Lịch thiệp,
thanh tịnh, từ bi và sự giải thoát khỏi những tham ái ích kỷ là những lời dạy
căn bản của đạo Phật- một tôn giáo vĩ đại của Phương Đông.
E.A. Burtt,
"đức Phật Từ Bi"
Phật pháp giống như một cái cầu
được khéo xây bằng những mảnh thép uyển chuyển, linh động, gió và nước
khó làm cho nó huỷ hoại được. Nó tự thích nghi với những hoàn cảnh thay đổi,
nhưng đồng thời nó cũng đã củng cố một cách chắc chắn những nền tảng và mở ra
một con đường an toàn đưa đến sự Bất Tử, Niết-bàn.
Tỳ-kheo
Khantipalo, "Khoan Dung"
Phương Đông huyền bí, quê hương
màu mỡ của các tôn giáo, chắc chắn đã cung cấp cho chúng ta một sự phát hiện
chân thật ở nơi đạo Phật, bởi vì đạo Phật giúp cho chúng ta biết được vẻ đẹp
của luân lý đạo đức và sự thanh tịnh vốn tiềm ẩn sâu xa trong bản chất của con
người mà không cần một đấng thần linh nào khác hơn là một đấng thần linh trú ẩn
trong tâm của con người để thức tỉnh họ sống một cuộc sống huy hoàng.
Charles T.
Gorham
Phật giáo là một tôn giáo
rất thiết thực bởi vì Phật giáo quan niệm về cuộc đời và thế giới một cách thực
tế. Phật giáo không lôi kéo chúng ta đến thiên đàng của những người vô trí một
cách sai lầm. Phật giáo cũng không đe doạ và làm cho chúng ta khổ sở bằng tất
cả những nỗi ám ảnh sợ hãi tưởng tượng và cảm giác tội lỗi. Tôn giáo này kêu
gọi chúng ta một cách chính xác và khách quan những gì chúng ta đang là và
những gì thế giới xung quanh chúng ta, và chỉ cho chúng ta con đường đưa đến tự
do giải thoát hoàn toàn, sự an lạc, hạnh phúc.
Hoà thượng Tiến sĩ
W.Rahula.
Sứ mệnh của đức Phật vô cùng độc
đáo tiêu biểu cho tính cách của Phật giáo. Và vì thế, sứ mệnh này đứng biệt lập
hẳn với các tôn giáo khác trên thế giới. Sứ mệnh của Ngài là mang lại những
loài chim lý tưởng bay trên không gian nhưng gần mặt đất hơn, bởi vì thức ăn
của chúng thuộc về trái đất.
Hazzat Inayat
Khan, "Thông điệp của Sufi"
Phật giáo đã cung ứng cho bước
tiến của nền văn minh thế giới và văn hóa thật sự, nhiều hơn bất luận ảnh hưởng
nào khác trong ký sự của nhân loại.
Sử gia
H.G.Wells
Văn minh Phật giáo vươn mình lên
vững vàng trước khi tất cả mọi người đến nằm trong ảnh hưởng của nó, một kiểu
mẫu của con người xứng đáng được kính trọng phải như vậy, một nhân vật lý tưởng
đáng nêu gương lành cho hàng vua chúa cũng như hạng cùng đinh…sản xuất tài sản
để sử dụng trong công tác xã hội thay vì lợi ích cá nhân, đo lường cá nhân bằng
giá trị đạo đức và trí tuệ, không phải bằng quyền lực kinh tế, và sự lớn mạnh
của quốc gia bằng tình trạng thanh bình thạnh vượng của dân trong nước chứ
không phải thăng bằng chỉ số chi thâu thương mãi. Đó là vài giá trị được cụ thể
hóa trong lý tưởng của người Phật tử.
Tiến sĩ Richard
A. Gard
Duy nhất trong tất cả các tôn
giáo lớn thế giới, Phật giáo tiến hành trên con đường của mình mà không gây sát
hại, hành hạ, cấm đoán, kiểm duyệt hoặc tìm tòi soi bói.
Aldous Huxley
Tôn giáo của những tâm hồn cao cả
và toàn vẹn nhất có thể tồn tại chung mà hoàn toàn không có niềm tin khải thị
nào, trong ý nghĩa chân thật nhất của danh từ không có niềm tin nơi tinh chất
cốt yếu của đạo giáo thần khải, nơi có một thần linh vô ngã. Trong danh từ thần
linh vô ngã, tôi bao gồm tất cả những ý niệm về cái gọi là thần linh siêu nhân,
cùng một bản chất tinh thần và đạo đức như một người nhưng ở tầng lớp cao hơn,
hoặc một năng lực đạo đức siêu phàm.
Julian Huxley,
Relegion without Revelation
Bằng đức hy sinh rộng lớn mênh
mông của Ngài, bằng hạnh từ khước vĩ đại của Ngài, và bằng phẩm hạnh thanh tịnh
vô nhiễm của đời Ngài, Ngài đã ghi tạc lên trên Aán độ giáo những dấu vết không
bao giờ phai mờ, và đối với bậc thầy vĩ đại ấy, Aán độ giáo còn mang một mối nợ
phải được tri ân muôn đời.
Mahatma Gandhi
Tôi không biết cái chi trên thế
gian này vĩ đại hơn hình ảnh của đức Phật. Đó là sự hiện thân tuyệt hảo của tâm
linh trong lĩnh vực hữu hình.
Bá tước Kayserling "
The Travel Diary of a philosopher".
Đức Phật lúc nào cũng là nguồn
gợi cảm dồi dào cho tôi… chính phẩm cách cá nhân của Ngài đã lôi cuốn tôi.
Nehru
Phật giáo truyền dạy một lối
sống, không phải bằng cách thống trị mà bằng nguyên tắc, một lối sống tốt đẹp,
và đó là một tôn giáo khoan dung độ lượng. Đây là hệ thống từ thiện nhất dưới
mặt trời. Không bao giờ và không nơi nào có máu đổ trong sự nghiệp truyền bá.
Không bao giờ có sự hành hạ ngược đãi những ai không cùng theo một tín ngưỡng-
một bài học mà người Cơ đốc giáo vẫn còn phải học. đức Phật dạy cho con người
làm cho thế giới ngày càng tốt đẹp hơn và thánh thiện ngay trong đời sống hiện
tại.
Joseph Wain
Ta có thể nhận thấy trong giáo
huấn của đức Phật những điểm giống với học thuyết dân chủ hiện đại. Ngài khuyên
dạy lòng khoan dung đại lượng, ý niệm khơi dậy những cuộc thảo luận, quyền tự
do lựa chọn rộng rãi, bình đẳng bất bạo động, vô thường-mỗi ý niệm ấy đều đi
ngược dòng những tập tục thông thường vào thời của Ngài. Đó là những khái niệm
cách mạng mà đức Phật giới thiệu từ hơn 2500 năm trước đây. Đó là những cải
tiến tri thức trọng đại.. nhưng tất cả đều có tính cách dân chủ, trong nội dung
cũng như tác ý.
Giáo sư Ralps
Buultjens " Buddhism and Democracy"
Con đường của Phật giáo là con
đường trung đạo giữa hai cực đoan. Đây không phải là một sự thoả hiệp yếu đuối,
nhưng là một sự vừa phải hợp lý tránh sự cuồng tín và sự lười biếng giãi đãi,
và tiến lên một cách đều đều và có quyết tâm mà không có sự chần chừ đem lại sự
phản ứng riêng, mà luôn tiến không ngừng bước. Đức Phật gọi nó là Con Đường
Thánh Tám Ngành (Bát thánh đạo) đưa đến Niết-bàn, và con đường này có thể được
xem như là một cuộc hành trình tu tập tâm linh thánh thiện cao quý nhất, song
được biểu hiện ở một hình thức giản đơn.
Phật giáo cũng không bi quan hay
yếm thế. Phật giáo là một hệ thống tư duy, một tôn giáo, một khoa học tâm linh,
và một triết lý sống hợp lý, thiết thực và bao hàm tất cả. Hơn 2500 năm, Phật
giáo đã làm thoả mãn những nhu cầu tâm linh của hơn 1/3 nhân loại. Đạo Phật mời
gọi những ai đi tìm chân lý bởi vì Phật giáo là một tôn giáo không có giáo
điều, làm thoả mãn nhu cầu của lý trí cũng như con tim, nhấn mạnh tinh thần tự
tin, tự lập đi kèm với sự khoan dung đối với quan điểm của những người khác,
bao hàm cả khoa học, tôn giáo, triết học, tâm lý học, huyền thoại, đạo đức luân
lý và nghệ thuật. Đạo phật còn chỉ ra duy con người là đấng sáng tạo của kiếp
sống hiện tại của mình và là người thiết kế độc nhất toàn bộ sinh mệnh của anh
ta.
Christmas Humphreys (1901-1983),
thẩm phán nổi tiếng người Anh.
Tôi càng tu tập thiền chỉ, tôi
càng trở nên có ấn tượng với phương pháp này như là một hệ thống huấn luyện
tâm. Nó phù hợp với thái độ của tâm của người phương Tây chúng ta khi nghiên cứu
khoa học: không thành kiến, không thiên vị, khách quan và phân tích. Nó dựa
trên kinh nghiệm cá nhân và trực tiếp chứ không dựa vào ý kiến hay quan điểm
của một ai khác. Nó vô cùng đơn giản và tận dụng vừa phải sự chú ý một cách cơ
bản đơn giản như một cái nhìn được duy trì nhưng trong một sự chọn lựa cẩn thận
và hệ thống giới luật nghiêm khắc. Do đó, nó khám phá ra tất cả những sự phán
quyết hấp tấp, thiếu chính xác, tất cả những điều nói về nó, tất cả những tranh
luận, thảo luận, và một sự lãng phí thời gian như chúng ta thường đam mê trong
thế giới Tây Phương của chúng ta. Trên thực tế, nó giải thoát chúng ta ra khỏi
cuộc sống theo đường mòn và sự trói buộc của chính mình, những thành kiến của
chúng ta, những lời sáo, sự vô minh và sự bảo thủ cố chấp của chúng ta, nhằm
mục đích tạo cho chúng ta sự tự do nhìn thế giới và chứng minh thế giới chân
thật.
Tiến sĩ Graham Howe MB.BS. DPM,
nhà vật lý học nổi tiếng người Anh.
Quả thật chỉ có ánh sáng từ
phương Đông, từ những triết lý sống động, hài hòa và nhất là những huấn
thị sâu sắc và giáo lý độc nhất vô nhị của đức Phật sẽ là sự dàn trải và
khoả lấp những lỗ hổng, cũng như sự giải trừ các khủng hoảng cho đời sống hiện
đại của Tây phương-một đời sống mang danh là tiến hóa nhưng thực chất đang rơi
vào tha hóa.
Matthieu Ricard, nhà khoa học về
sinh học phân tử người Pháp.
Thực thể hay chân ngã là sự khẳng
định bao la, không có tính phủ định, sự cân bằng hóa giải hết mọi thứ quan hệ
dính mắc ràng buộc..chân tâm không bị ràng buộc bởi tất cả mọi giới hạn. Trong
con người nó luôn luôn được xác định như sự lạc quan, tích cực ngược lại với sự
bi quan tiêu cực…..Phật giáo là một triết thuyết siêu nghiệm, mọi hành vi tạo
tác dù thiện hay ác đều tạo ra quả và không vượt khỏi luật nhân quả.
Người tốùt lành hay thiện tri thức,
ngoài việc thấy biết về thiên quốc còn thấy được những điều tốt lành trên mặt
đất, thấy được những công cụ cao quý của những tâm hồn cao quý. Khi chúng ta
thấy các đường xe hoả, các nhà máy và các ngân hàng, chúng ta thương hại cho sự
nghèo khổ của những người Phật tử mơ mộng. Thực sự, tinh thần Phật giáo cũng
tạo ra một lực lượng sáng tạo tương tự, nhưng nó đem lại sự bình yên và hạnh
phúc thực sự cho toàn thể vũ trụ thay vì sự thụ hưởng trần tục qua việc ăn ngon
mặc đẹp và những ly rượu đắt tiền, nhưng phải trả giá bằng những khổ đau, bằng
chiến tranh bóc lột, bất công và bằng sa đoạ.
Ralph Waldo Emerson, nhà văn
người Mỹ.
Những lời Phật nói là chân lý tối
thượng mà người nghe có thể đạt đến chỗ đoạn diệt hoàn toàn mọi khổ đau; có thể
đi đến con đường tốt nhất để đạt được chân tính (Phật tính) và có thể thành
Phật. Con đường tốt nhất để đạt được Phật tính là con đường thiền định.
Tôi biết một số người nghĩ xấu về
tôi khi họ nghe tôi nói về đức Phật, vì họ kính yêu Chúa hơn Phật của tôi;
nhưng tôi cam đoan rằng tôi vẫn vui lòng vì lòng kính yêu là nguyên tắc chính
của lòng mộ đạo.
Henry David
Thoreau, nhà văn người Mỹ
Tôn giáo của tương lai sẽ là một
tôn giáo của toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn
giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản
của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực
trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo là tôn giáo duy nhất đáp ứng
đầy đủ các điều kiện đó.
Nếu có một tôn giáo nào đương đầu
với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần
xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học.
Phật giáo không cần từ bỏ những quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học,
vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khỏi khoa học.
Albert Einstein, nhà vật lý học
vĩ đại nhất của thế kỷ 20.
Phật giáo là một tôn giáo cao cả
nhất, và là một trong những tia sáng vĩ đại nhất không chỉ riêng cho Châu á mà
cho khắp toàn cầu.
Schopenhauer,
triết gia người Đức
Trong đạo Phật, không có thần
thánh nào có khả năng giải thoát con người. Chỉ có chính con người có khả năng
đó, hiện tại và ngay ở đây.
Sử gia Jean Marc.
Khoa học và đạo Phật có một nền
tảng chung về tương quan, tương duyên, và khái niệm vô thường. Mọi hiện tượng
đều được coi như một mấu trong mạng lưới của quan hệ nhân quả; vì thế nên nó
không có bản chất riêng biệt. Cách nhìn ấy ngược lại với những cách nhìn của
những tôn giáo lớn, tin nơi đấng Thần linh. Các tôn giáo này khẳng định sự tồn
tại của những thực thể bất di, bất dịch, vượt ngoài quy luật nhân quả, như có
Thượng đế, có Chúa, có linh hồn.
Francisco Varela, nhà sinh học
thần kinh, Giám đốc nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học toàn quốc,
Pháp.
Đức Phật với trí tuệ vĩ đại đã
chống lại các tập tục mê tín, các lễ nghi phiền toái, các Thầy tu Bà-la-môn thủ
đoạn và những đặc quyền đặc lợi dành cho giai cấp này. Ngài đã lên án những
quan niệm thần học và siêu hình học, các bùa phép, sự thiên khải và sự siêu
nhiên phản khoa học. Ngài chú trọng đến logic, lý trí và thực nghiệm. Ngài nhấn
mạnh đến các phương diện đạo đức và phương pháp của Ngài là sự phân tích mang
tính tâm lý học…
Jawaharlal Nehru.
Tất cả mọi người sống ở Á châu
đều có thể hãnh diện về một tôn giáo không những có trước tôn giáo Tây phương
cả hơn 500 năm mà còn có thể bành trướng và duy trì mà không cần dùng đến bạo
lực, và không hề bị hen ố bởi những cuộc chiến tranh tôn giáo và Thánh chiến.
Tiến sĩ Edward Conze-Buddhism.
Tất cả các tôn giáo Á Đông đều
phải biết ơn Phật giáo về giáo lý đạo đức nhất mà giá trị của tôn giáo này còn
hữu hiệu cho đến ngay bây giờ mà tột đỉnh của giáo lý này là lòng từ bi đối với
mọi chúng sanh, giáo lý của đấng Toàn Giác.
William Hunter- A Brief History
of The Indian People.
Phật giáo thực sự là làn gió xuân
thổi từ đầu này tới đầu kia của căn vườn Á châu và làm nở ra, không những chỉ
có những bông sen ở Ấn Độ, mà còn làm nở những bông hoa hồng ở Ba Tư, hoa đền
đài ở Tích Lan, hoa cúc ở Trung Hoa, hoa Anh đào ở Nhật Bản v.v…Toàn bộ văn hóa
Á châu là văn hóa Phật giáo. Không có nơi nào ngoài Đông phương mà tư tưởng
Phật giáo lại có thể thống nhất. Mỗi quốc gia đều có cách riêng để chấp nhận tư
tưởng Phật giáo theo nhu cầu địa phương, nhưng khi khối Đông phương phải đối
đầu với khối Tây Phương thì tư tưởng Phật giáo là lực nối kết những quốc gia
này lại với nhau.
Ơû đây chúng ta nhấn mạnh sự kiện
là, nếu lịch sử Phật giáo có cho thế gới bài học nào, thì đó là trong sự truyền
bá đạo Phật từ thung lũng sông Hằng đến Tích Lan ở miền nam, cho tới Cao Nguyên
Trung Á ở phía bắc, rồi tới các hải đảo Nhật Bản ở phía đông, Phật giáo, văn
hóa, văn minh và giáo dục là những bạn đồng hành không thể tách rời nhau được.
Giáo sư Bapat- 2500 Years of
Buddhism.
Toàn thể vũ trụ là một bãi chiến
trường bao la hùng vĩ. Nơi nơi đều diễn ra sự tranh đấu. Sự hiện hữu chỉ là một
sự tranh đấu vô hiệu chống lại những mầm mống của các loại bệnh khủng khiếp,
giữa các phân tử với các phân tử, các nguyên tử với các nguyên tử, các điện tử
với các điện tử. Tâm vẫn là một cảnh chiến trận. Sắc, thinh, hương, vị, v.v…là
những hậu quả của sự phản công và sự tham gia của các năng lực bên ngoài. Chính
sự hiện hữu của chiến tranh chứng minh rằng trên thế giới không có một quốc gia
hoàn toàn hòa bình và có một trạng thái hoàn toàn an lạc, hòa bình. Đó là những
gì chúng ta gọi là Thế giới Niết-bàn.
Hoà thượng Narada Thera- The
Bodhisatva Ideal.
Đức Phật không hận thù giận dữ
với thế gian. Ngài xem thế gian là vô thường và khổ đau hơn là đồi bại, tội
lỗi, thế gian là vô minh hơn là phiến loạn. Ngài không hề bày tỏ thái độ buồn
phiền về những người không nghe theo Ngài và cũng không bày tỏ sự khó chịu.
Giáo sư Elliot- Buddhism and
Hinduism.
Lần đầu tiên trong lịch sử nhân
loại, đức Phật đã khuyên nhủ, tha thiết yêu cầu, và kêu gọi nhân loại không nên
làm sát hại sanh mạng, không nên dâng hiến sự cầu nguyện hoặc là ca tụng hay hy
sinh sanh mạng dâng hiến cúng tế chư thần linh. Với tất cả tài hùng biện trong
những lời yêu cầu của Ngài, bậc giác ngộ đã quyết liệt tuyên bố rằng các vị
thần linh cũng là những vị hết sức cần sự cứu rỗi cho chính các vị.
Giáo sư Rhys Davids.
Ý niệm về tội lỗi của Phật giáo
có phần hơi khác về ý niệm của thiên chúa giáo. Theo người Phật tử, tội lỗi chỉ
là do vô minh hay không hiểu mà gây ra. Con người tội lỗi tồi bại là một con
người vô minh. Anh ta không cần sự trừng phạt và sự lên án mà cần được sự chỉ
giáo hướng dẫn. Anh ta không được xem như là một kẻ vi phạm những mệnh lệnh của
Thượng đế hoặc là như là một kẻ phải cầu xin lòng bi mẫn và sự tha thứ của
Thượng đế. Điều cần thiết hơn đối với những người bạn phạm tội như anh ta hãy
cho anh ta biết được lẽ phải của con người. Người Phật tử không tin người phạm
tội có thể thoát được những hậu quả đã gây ra bằng những nỗ lực cầu
nguyện để thương lượng với Thượng đế.
John Walters- Mind Unshaken.
Phật giáo và Kỳ na giáo chắc chắn
không phải là Ấn giáo hoặc là ngay cả giáo lý vệ đà. Nhưng cả hai tôn giáo này
đều phát sinh tại Ấn độ và là những bộ phận không thể thiếu được trong đời sống
của người dân Ấn, nền văn hóa và triết học Ấn. Tín đồ Phật giáo hay tín đồ Kỳ
na giáo tại Ấn hoàn toàn là sản phẩm của tư duy và văn hóa Ấn, song đó
không phải là tín ngưỡng của Ấn giáo. Đó là một sự nhầm lẫn khi đồng hóa nền
văn hóa Ấn Độ với nền văn hóa Ấn giáo.
Nehru -Dicovery Of India.
Với ý kiến cân nhắc thận trọng,
tôi cho rằng phần căn bản thiết yếu nhất của nền giáo lý đức Phật hình thành
nên một phần không thể thiếu được của Ấn giáo. Hiện nay người Ấn độ giáo tại Ấn
Độ không thể hồi tưởng lại những dấu vết của họ và đi đằng sau bước chân của
những sự cải cách vĩ đại mà đức Phật Cồ- đàm đã làm ảnh hưởng đến Ấn giáo. Bằng
sự hy sinh lớn lao, bằng sự xuất thế vĩ đại của Ngài, và sự thanh tịnh hoàn
toàn của cuộc đời Ngài, Ngài đã để lại một ấn tượng không thể nào tẩy xoá được
cho Ấn giáo, và Ấn giáo suốt đời nhớ ơn công lao vĩ đại của bậc thầy vĩ đại đó.
Thánh Mahatma Gandhi, Maha Bodhi.
Không có một tôn giáo nào tại Ấn
Độ thời tiền Phật giáo có thể được cho là tôn giáo thiết lập nên một hệ thống
luân lý đạo đức và tôn giáo mang giá trị phổ quát và bắt buộc cho toàn thể nhân
loại.
Tiến sĩ S.N Dasgupta.
Đức Phật không chỉ nhận ra sự
thực tối hậu mà Ngài còn trình bày một cách rõ ràng tri thức thâm uyên
của Ngài vượt khỏi những phạm trù của lĩnh vực tri thức của nhân loại và các
thần linh thoát khỏi những sự nguỵ trang huyền thoại và lớp vỏ hoang đường. Ơû
đây, tuy nhiên, tri thức của Ngài được trình bày theo một hình thức
thuyết phục và vững chắc để cho con người có thể theo Ngài mà hành trì những
lời dạy ấy một cách tích cực và tự tin. Vì chính lý do này, đức Phật không yêu
cầu bất kỳ một niềm tin nào, nhưng hứa hẹn một tri thức.
George Grimm, The Doctrine of The
Buddha.
Lần đầu tiên trong lịch sử nhân
loại, đức Phật tuyên bố một sự cứu rỗi mà mỗi người có thể tự mình đạt được và
bằng chính bản thân mình ngay trong kiếp sống hiện tại mà không cần đến sự giúp
đỡ tối thiểu của một Đấng Thiêng Liêng nào hay các vị thần linh. Ngài hoàn toàn
nhấn mạnh về giáo lý tự tin, tự thanh tịnh, thanh nhã, giác ngộ, an lạc, và tình
thương phổ quát. Ngài cũng nhấn mạnh sự cần thiết của tri thức, bởi vì không có
trí tuệ thì trí tuệ siêu việt không thể đạt được ngay trên cuộc đời này.
Giáo sư Elliot, Buddhism and
Hinduism.
Không phải chính đức Phật đã giải
thoát con người, nhưng Ngài dạy họ tự giải thoát cho chính mình. Họ chấp nhận
về giáo lý chân thật của Ngài không phải chỉ vì giáo lý đó là của Ngài, nhưng
vì sự thuyết phục các nhân Ngài, được thức tỉnh bởi những lời dạy của Ngài,
phát sinh từ ánh sáng trí tuệ của chính họ.
Tiến sĩ Oldenburg, một học giả
người Đức.
Khoa học không thể đưa ra lòng tự
tin trong trường hợp này. Nhưng Phật giáo có thể đương đầu với những thách thức
của nguyên tử bởi vì tri thức siêu thế của Phật giáo xuất phát từ điểm mà khoa
học kết thúc. Và điều này rõ ràng đối với những ai nghiên cứu đạo Phật. Bởi vì,
thông qua thiền định Phật giáo, những yếu tố cấu thành bổ khuyết cho vấn đề đã
được chứng minh và cảm nhận được, và sự khổ đau, buồn rầu hoặc
"Dukkha" của sự hiện hữu và diệt tận (Lý duyên khởi) đã tạo ra chính
nó với những gì chúng ta gọi là một "tự ngã" hay "linh
hồn"- sự vô minh về Sakkhayaditthi như đã được đề cập trong giáo lý của
đức Phật.
Egerton C. Baptist,
-Supreme Science of the Buddha.
Phật giáo giúp cho con người tự
đứng vững trên đôi bàn chân của chính mình và đánh thức sự tự tin và tự nỗ lực
trong mỗi người.
Hòa thượng Narada Thera-Buddhism in a Nutshell.
Con người vĩ đại hơn những sức
mạnh mù quáng của thiên nhiên bởi vì ngay cả anh ta bị che phủ bởi chúng anh ta
vẫn duy trì được sự vượt trội hơn về đức hạnh của sự hiểu biết của anh ta về
những hiện tượng ấy. Lại nữa, Phật giáo còn chuyển tải chân lý đi xa hơn nữa:
Phật giáo chỉ ra rằng bằng những phương tiện của sự hiểu biết, con người cũng
có thể điều khiển những hoàn cảnh, kiểm soát những vấn đề. Con người có thể
thoát ra khỏi sự che mờ của những hiện tượng sức mạnh ấy, và vận dụng nghững
quy luật của tự nhiên để tự mình vươn lên.
Pascal
Luật theo ý nghĩa khoa học là một
sản phẩm thiết yếu của tâm trí con người và không có một ý nghĩa gì khi tách ra
con người. Lại càng có ý nghĩa hơn khi tuyên bố rằng con người tạo ra những quy
luật của tự nhiên hơn là lập luận ngược lại rằng tự nhiên tạo ra cho con người
những quy luật.
Giáo sư Karl Pearson.
Con người ngày nay là kết quả của
sự lặp lại hàng triệu lần những tư duy và hành động của anh ta trong vô lượng
kiếp. Con người không phải là một thứ sản phẩm được làm sẵn; anh ta trở thành
và đang trở thành. Nhân cách anh ta do sự lựa chọn của chính anh ta đinh đoạt,
những tư duy và hành động mà anh ta chọn lấy cho riêng mình bằng thói quen hình
thành nên con người thực tại của anh ta.
Hoà thượng Piyadassi.
Phật giáo là một tôn giáo hoạt
động vì tinh thần dân chủ, đề cao tính dân chủ trong tôn giáo, tính dân chủ
trong xã hội, và tính dân chủ trong lĩnh vực chính trị.
Tiến sĩ Ambedkar, bộ trưởng Luật
Pháp đầu tiên của Ấn Độ sau khi độc lập khỏi Anh.
Trên thế giới này, đức Phật đã
trình bày những chân lý về những giá trị vĩnh cửu và sự tiến bộ về mặt luân lý
đạo đức không chỉ cho riêng một lãnh thổ Ấn Độ mà là cho toàn thể nhân loại.
Đức Phật là một trong những nhà đạo đức vĩ đại kỳ tài chưa từng được chứng kiến
trên thế gian này.
Albert Schweitzer, triết gia
phương Tây.
Phật giáo đã đóng góp nhiều cho
sự tiến bộ của những nền văn minh thế giới và nền văn hóa chính đáng hơn là
những sự ảnh hưởng khác trong những biên niên sử của nhân loại.
H.G. Wells.
Không một trang sử Phật giáo nào
đã từng bị nhạt màu đi bởi ánh sáng của những ngọn lửa của toà án dị giáo, hoặc
là bị làm đen tối bởi làn khói của những người ủng hộ dị giáo hoặc là các thành
thị của những người dân theo tà đạo nóng bỏng, hay bị nhuộm đỏ bởi máu của
những tội nhân vô tội vì sự hận thù tôn giáo. Đạo Phật chỉ nắm và sử dụng một
thanh gươm duy nhất - thanh gươm của trí tuệ, và chỉ nhận ra một kẻ thù duy
nhất- đó là vô minh. Đó là một bằng chứng trong lịch sử, và người ta không thể
chối cãi được.
Giáo sư V.P. Bapat, 2500 years of
Buddhism.
Đó là một sự huy hoàng của Phật
giáo mà nó đã tạo ra sự giác ngộ về mặt tâm linh như là một điều kiện cần thiết
cho sự cứu rỗi, giải thoát. Trong Phật giáo, sự giác ngộ về mặt luân lý đạo đức
và tâm linh là hai nhân tố không thể chia cách nhau được. Trong khi luân lý đạo
đức hình thành nên cơ sở cho một đời sống cao thượng hơn, tri thức và trí tuệ
làm hoàn hảo đời sống đó. Không có một sự hiểu biết hoàn toàn về quy luật duyên
khởi và chuyển hóa, thì không một ai có thể được cho là sống có đạo đức thực sự
nếu anh ta không có một trí tuệ nội quán và tri thức cần thiết. Xét về phương
diện này, Phật giáo khác so với tất cả những tôn giáo khác. Tất cả các tôn giáo
thuộc nhất Thần giáo khởi đầu với một vài giả định nào đó, và khi những giả
định này tương phản với sự phát triển của tri thức, thì sự buồn rầu, khổ đau
càng tăng trưởng. Nhưng Phật giáo không bắt đầu bằng những giả định. Phật giáo
đứng trên tảng đá vững chắc của những sự kiện, và cho nên không bao giờ lánh xa
ánh sáng của tri thức.
Giáo sư Lakhsmi Narasu, The
Essence of Buddhism.
Đức Phật Cồ Đàm bác bỏ ngay cả
cái bóng dáng của sự hiện hữu thường hằng bằng một sức mạnh siêu hình hữu ích
lớn lao cho những người nghiên cứu triết học, vì xét thấy điều đó chỉ cung cấp
một nửa nhu cầu cho các lời tranh luận nổi tiếng thuộc chủ nghĩa lý tưởng
của Giám Mục Berkeley. Thật là một dấu hiệu đáng kể về sự suy đoán tế nhị của
Người Ấn rằng đức Phật phải được nhìn nhận sâu sắc hơn các nhà theo chủ nghĩa
lý tưởng hiện đại. Ngày nay trên khắp thế giới tất cả nhân loại đều có khuynh
hướng tư duy giác ngộ không thiên về tư duy thần học, mà thiên về tư duy triết
học và tâm lý học. Học thuyết nhị nguyên thần học đang bị trôi dạt vào sự hiểm
nguy. Những nguyên lý cơ bản của tiến hóa và nhất nguyên luận đang được các nhà
tư tưởng thế giới chấp nhận.
Giáo sư Huxley, Evolution and
Ethics.
Tại Ấn Độ 25 thế ký trước đây,
người ta đã chứng kiến một cuộc cách mạng về tâm linh và tôn giáo cuối cùng đã
lật đổ được chủ nghĩa độc thần và giới tu sĩ ích kỷ, và thiết lập nên một tôn
giáo tổng hợp, một hệ thống trí tuệ và tư tưởng có thể được gọi là Dhamma (Giáo
Pháp)- một Triết Học Tôn Giáo.
Anagarika Dharmapala, nhà chấn
hưng Phật giáo Ấn Độ cận đại, The World's Debt to Buddha.
Phật giáo là một sự chuẩn bị cho
cuộc sống theo một cách mà có thể mang lại những lợi ích cao nhất cho cuộc đời.
Phật giáo là một tôn giáo của trí tuệ mà ở đó tri thức và khả năng lý trí hoàn
toàn chiếm ưu thế. đức Phật không thuyết giảng để mà giáo hóa nhân loại về tôn
giáo của mình mà để làm cho hàng thính giả nghe và giác ngộ giáo lý của Ngài.
Một nhà văn Tây phương.
Phật giáo luôn luôn là một vấn đề
của thấy và biết, chứ không phải là vấn đề của tin tưởng và cầu nguyện. Giáo
Pháp của đức Phật được đánh giá như là một hệ thống giáo lý mời bạn đến để mà
thấy, chứ không phải đến để mà tin.
Hoà thượng tiến sĩ W.Rahula, What
the Buddha Taught.
Phật giáo sẽ trường tồn cho đến
khi nào mặt trời và mặt trăng không còn hiện hữu nữa, và cho đến khi nào nhân
loại không còn tồn tại trên thế gian này nữa, bởi vì Phật giáo là một tôn giáo
của con người cũng như của chung cho tất cả nhân loại.
Bandaranaike, cựu Thủ tướng Tích
Lan.
Người Phật tử không phải là một
kẻ nô lệ cho kinh sách hoặc cho bất cứ người nào. Anh ta cũng không dâng hiến
sự tự do tư tưởng của mình bằng cách trở thành đệ tử của đức Phật. Anh ta có
thể hành động theo ý chí chí tự do của mình và phát triển tri thức của anh ta
đến mức độ có thể tự mình chứng thành quả vị Phật bởi vì tất cả mọi người đều
có thể thành Phật.
Hoà thượng Narada Maha Thera,
What is Buddhism.
Đạo Phật dạy một cách sống không
phải là theo luật lệ mà là theo nguyên lý, một lối sống cao đẹp; và kết quả là,
Phật giáo là một tôn giáo của từ bi khoan dung. Phật giáo là một hệ thống nhân
từ nhất trên thế gian này.
Giáo sĩ Joseph Wain.
Đọc một ít kiến thức về Phật giáo
giúp chúng ta nhận thức rằng hơn 2500 năm trước đây, đạo Phật biết nhiều
hơn về vấn đề tâm lý hiện đại của chúng ta hơn là nhân loại đã biết đến. Những
tín đồ đạo Phật đã nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và cũng đã tìm ra những
giải Pháp cho vấn đề.
Tiến sĩ Graham Howe.
Hiện nay, chúng ta nghe thấy
nhiều về sức mạnh của tư duy, song Phật giáo là một hệ thống huấn luyện tâm
hoàn hảo nhất và hiệu quả nhất đã được trình bày trước thế giới.
Dudley Wright.
Đức Phật đã tạo ra một tân thế hệ
nhân loại, một thế hệ của những anh hùng luân lý đạo đức, một thế hệ giải phóng
những người công nhân lao động, một thế hệ của các vị Phật.
Manmatha Nath Sastri.
Phật giáo là một tôn giáo sứ mệnh
đầu tiên trong lịch sử nhân loại với một thông điệp toàn cầu về sự cứu rỗi,
giải thoát cho tất cả nhân loại. Sau khi giác ngộ vô thượng Chánh Giác, đức
Phật đã phái 62 vị đệ tử đầu tiên đi vào đời truyền bá giáo pháp của NGài theo
nhiều hướng khác nhau, yêu cầu các vị này hãy truyền bá chánh Pháp vì lợi ích
và hạnh phúc cho quấn sanh.
Ở đây, điều cần thiết là lưu ý
đến một đặc trưng độc nhất của tôn giáo của đức Phật, chính là đó là một tôn
giáo của bất kỳ một vị đạo sư nào, mà kết quả là một nền triết học nhất quán
cho chúng ta biết về những chân lý tối hậu của sự hiện hữu và thực tại. Tôn giáo
của đức Phật là một triết lý sống do sự chấp nhận một quan điểm sống được cho
là thực tại. Triết lý của đức Phật không phải là không đề cập đến bản chất của
tri thức.
Tiến sĩ K.N. Jayatilleke,
Buddhism and Peace.
Chỉ nói về Phật giáo thôi, người
ta có thể khẳng định đó là một tôn giáo không có sự cuồng tín. Mục đích của
Phật giáo là nhằm tạo ra một sự chuyển hóa từ bên trong của mỗi cá nhân bằng
cách tự chinh phục và chiến thắng mình, cho dù những sức mạnh của tiền bạc vật
chất hay sự thuyết phục để ảnh hưởng đến sự chuyển hóa đi nữa. đức Phật chỉ chỉ
ra con đường duy nhất đưa đến sự giải thoát, và con đường đó được để lại cho
mỗi cá nhân để tự mình quyết định nếu mình muốn đi theo con đường đó.
Giáo sư Lakshmi Narasu, Essence
of Buddhism.
Đạo Phật giống như một lòng bàn
tay và các tôn giáo khác giống như những ngón tay trong lòng bàn tay.
The Great Khan Mongka.
Một số người nghĩ rằng Phật giáo
là một tôn giáo đen tối và buồn chán. Đó là một sự nhận xét sai lầm; Phật giáo
sẽ làm cho tín đồ của mình sáng lạng và vui tươi. Khi chúng ta đọc những mẫu
chuyện tiền sinh của các vị Bồ tát, các vị Phật tương lai, chúng ta biết được
hạnh nguyện tu tập về sự hoàn hảo của các đức tính kiên nhẫn và khoan dung độ
lượng như thế nào. Phật giáo sẽ giúp cho chúng ta được vui tươi ngay cả trong
những tình huống khó khăn lớn và lấy làm vui mừng trong những lợi ích khác.
Thượng tọa Gnanatiloka, một học
giả Phật học người Đức.
Hãy trở về với Phật giáo và bạn
sẽ đọc được những gì mà vị Hoàng đế A Dục không chỉ tuyên thuyết một nền luân
lý đạo đức cao thượng mà còn sử dụng quyền uy của một bậc đế vương theo một
phương cách khiến cho các vị đế vương hiện đại cuả các niềm tin khác phải hổ
thẹn.
Geoffrey Mortiner, một nhà văn
Tây Phương.
Thậm chí cho đến ngày nay không
thể xem rằng Phật giáo đã bị mai một, suy yếu bởi vì Phật giáo được bám chặt
trên những nguyên lý cố định không bao giờ được sửa đổi. Gertrude Garatt.
Tất cả những lời dạy của đức Phật
có thể được tóm gọn lại trong một thuật ngữ: " Dhamma" (Pháp- Chân
Lý). Pháp này chân thật, hiện hữu không chỉ ở nơi tâm trí của con người mà còn
hiện hữu ở khắp nơi trên vũ trụ này. Tất cả vũ trụ là một sự hiện thân tiết lộ
của Pháp. Quy luật của tự nhiên mà giới khoa học ngày nay đã khám phá là sự
biểu hiện của Pháp- Chân lý.
Nếu mặt trăng lên và lặng xuống,
thì đó là bởi vì Pháp, bởi vì Pháp là quy luật trú ngụ trong vũ trụ khiến
phát sinh ra những hoạt động theo những phương cách được nghiên cứu trong vật
lý học, hóa học, động vật học, thực vật học và thiên văn học. Pháp hiện hữu
trong vũ trụ chỉ vì Pháp hiện hữu trong tâm trí của con người. Nếu con người
sống theo đúng với chánh Pháp, thì anh ta sẽ thoát khỏi khổ đau và chứng đắc
Niết-bàn, an lạc.
Thượng tọa A. Mahinda.
Mặc dù ngay từ đầu người ta có
thể bị thu hút bởi sự khóang đạt của tôn giáo này, người ta có thể tán dương
chân giá trị của Phật giáo chỉ khi người ta phán xét Phật giáo thông qua kết
quả mà nó đã phát sinh trong chính cuộc sống hằng ngày của chính mình.
Tiến sĩ Edward Conze, học giả và
dịch giả của các kinh điển hệ Bát-nhã
Nếu không có những thú vui nhục
dục, thì liệu cuộc sống có thể nào chịu đựng được? Không có một niềm tin vào sự
vĩnh hằng bất tử, thì liệu con người có thể sóng có luân lý đạo đức? Không có
sự sùng bái, cầu nguyện một đấng Thần linh, Thượng đế thì liệu con người có thể
tiến đến một cuộc sống Thánh thiện, Chân chánh? Vâng, có thể, đức Phật trả lời.
Những mục đích này có thể đạt được bằng trí tuệ, tri kiến; chính tri thức, trí
tuệ là chìa khóa đưa đến đạo lộ cao thượng hơn, một đạo lộ đáng được theo đuổi
trong cuộc sống; tri kiến, trí tuệ mang lại cho chúng ta sự an lạc và hạnh phúc
trong cuộc sống, giúp chúng ta không dao động trước những cơn bão tố của thế
giới hiện tượng.
Giáo sư Karl Pearson.
Những vị đệ tử khiêm nhường của
đức Phật thật là may mắn biết bao! Họ không có thừa hưởng lối nguỵ biện về tính
không thể sai lầm của bất cứ những sách khải huyền ngay từ lúc khởi đầu.
Thượng toạ tiến sĩ Ananda
Kaushalyayana.
Do vậy, Phật giáo là một tôn giáo
dành riêng cho cá nhân của mỗi người, và không có lý do để hình thành nên hình
thức lễ nghi cúng bái trong tôn giáo này. Một hành động được thực thi với một ý
tưởng phục vụ cho điều kiện riêng của cá nhân thì không phải là một hình thức
lễ nghi. Khi chúng ta nhìn bề ngoài của hầu hết những hình thức dường như là lễ
nghi của đạo Phật ngày nay, thì không nên vội kết luận đạo Phật là đạo mang bản
chất lễ nghi tôn giáo, mà thực sự đó không phải là hình thức lễ nghi.
Tiến sĩ W.F. Jayasuriya, the
Psychology and Philosophy of Buddhism.
Nếu đức Phật phải được gọi là một
"Bậc cứu thế" thì đó chỉ là dựa trên ý nghĩa ngôn từ rằng Ngài đã
khám phá và chỉ ra Con Đường đưa đến sự giải thoát, Niết-bàn. Song chính
chúng ta phải thực hành con đường.
Hoà thượng tiến sĩ W.Rahula, What
the Buddha taught.
Tạo áp lực cho chính mình tin vào
và chấp nhận một điều gì mà không có sự hiểu biết đúng đắn thì đó là một thái
độ chính trị chứ không phải là thái độ tâm linh hay tri thức.
Hoà thượng tiến sĩ W.Rahula, What
the Buddha taught.
Chúng ta không nên chỉ tôn trọng
tôn giáo của mình và chê bai đã phá tôn giáo của những người khác, nhưng chúng
ta nên tôn trọng ton giáo của những người khác vì lý do này hay lý do khác. Làm
như vậy, chúng ta giúp cho tôn giáo của mình phát triển và cũng giúp ích cho
các tôn giáo khác cũng phát triển như tôn giáo mình. Khi hành động khác đi với
tinh thần trên, thì chúng ta tự mình đào mồ chôn tôn giáo của chính mình và còn
làm hại các tôn giáo khác. Bất cứ ai kính trọng tôn giáo của mình và chỉ trích
chê bai tôn giáo của người khác, tưởng rằng thực sự làm như vậy là tận tuỵ với
tôn giáo của mình và nghĩ rằng "Tôi sẽ làm rạng danh tôn giáo của
mình." Song trên thực tế lại ngược lại, khi làm như vậy là anh ta làm tổn
thương tôn giáo của mình ngày càng trầm trọng thêm. Do vậy, nên hài hòa là tốt
hơn: Tất cả hãy cùng nhau lắng nghe và sẵn sàng lắng nghe giáo lý của những
người khác tôn giáo mình.
Đại Đế A Dục (Asoka)
Một tôn giáo của triết lý sống
được đánh giá không chỉ bằng chân lý mà tôn giáo này đã tuyên thuyết mà còn
bằng những sự chuyển hóa, đổi thay mà tôn giáo này đã mang lại trong cuộc sống
của những tín đồ của tôn giáo đó. Từ trước đến nay, sự kiểm nghiệm này liên
quan đến Phật giáo, đã đạt được một kỷ lục về những thành tựu mà chúng ta có
thể lấy làm hãnh diện thực sự.
D. Valisinha, Tổng Thư ký Hội
Maha Bodhi, Buddhist Way of Life.
Người ta cũng có thể nói rằng Ấn
Độ đã khám phá ra vô thức sớm hơn các nhà tâm lý học Tây phương. Đối với họ, vô
thức bao gồm tổng thể những cảm giác tiềm tàng trong cá nhân như là sự thừa
hưởng từ kiếp sống trước. Kỹ thuật thiền định của đạo Phật, đề cập đến những
nguồn năng lực tiềm ẩn bên trong, là một người đi trước so với lối phân tích
tâm lý hiện đại, cũng như sự huấn luyện tinh thần mang tính tự sinh v.v…
Giáo sư Von Glasenapp, một học
giả người Đức.
Phật giáo là một tôn giáo lớn duy
nhất trên thế giới được hình thành trên cơ sở ý thức và chân thực, căn cứ trên
một hệ thống phân tích hợp lý về những vấn đề trắc trở của cuộc sống và giải
pháp để giải quyết những khó khăn ấy.
Moni Baghee, Our Buddha.
Không có những gì mà chúng ta có
thể gọi là tín điều trong giáo lý của đức Phật. Với một quan điểm khóang đạt
hiếm có trong thời đại của Ngài và không mấy phổ biến trong thời đại của chúng
ta, Ngài đã từ chối kiềm chế đàn áp sự phê bình chỉ trích. Đối với Ngài, thiếu
khoan dung độ lượng dường như là kẻ thù vĩ đại nhất của tôn giáo.
Tiến sĩ K.Radhakrishnan, Gautama
the Buddha.
Hầu hết những người mới vào đạo
của các tôn giáo khác được điều khiển bởi những vị trưởng giáo của họ và bị
ngăn cấm không cho đọc những kinh sách, giáo lý, học thuyết, tạp chí,
sách bỏ túi hay những cuốn tiểu luận của các tôn giáo khác. Thái độ này dường
như không thấy xảy ra trong đạo Phật.
Tỳ-kheo Khantipalo, Tolerance.
Năm giới này chỉ ra năm hướng
chính quan trọng mà một người Phật tử tự kiểm soát mình phải thực thi. Do vậy,
giới thứ nhất khuyên răng người Phật tử kiềm chế lòng tham dục của sự giận dữ;
giới thứ hai giúp họ kiềm chế những tham đắm về của cải vật chất; giới thứ ba
kiềm chế về nhục dục; giớ thứ tư giúp chế ngự sự khiếp nhược, hèn nhát và ác
tâm muốn hại tha nhân (nguyên nhân của tính không trung thực); và giới thứ năm
giúp chế ngự lòng tham ái đối với những thích thú tiêu cực, bất thiện.
Edmond Holmes, The Creed of
Buddha.
Một trong những học giả đầu tiên
bắt đầu công việc chuyển dịch hệ văn học Pàli sang Anh ngữ, là con trai
của một Mục Sư nổi tiếng. Mục đích của vị ấy khi thực thi công việc này
là để chứng minh sự vượt trội của Cơ đốc giáo so với Phật giáo. Tuy ông ta thất
bại trong nhiệm vụ lớn lao này, song đạt được một sự chiến thắng vĩ đại hơn ông
ta mong đợi. Kết quả là ông ta trở thành một Phật tử. Chúng ta không bao giờ
quên được cái cơ duyên may mắn hạnh phúc đã thúc đẩy ông ta thực hiện công việc
này và do đó mang lại giáo Pháp quí giá này cho hàng nghìn người dân tại Tây phương.
Danh xưng của vị học giả vĩ đại này là Tiến sĩ Rhys Davids.
Thượng toạ A.Mahinda, Blue Print
of Happiness.
Có thể rằng khuynh hướng hướng
đến một chính quyền tự trị được làm bằng chứng bởi những hình thức đa dạng của
những hoạt động phối tác được nhận lấy từ hình thức phôi thai đầu tiên của Phật
giáo, từ bỏ thế lực quyền hành của giai cấp, tầng lớp tu sĩ tăng lữ và đi xa
hơn nữa là bằng học thuyết về sự bình đẳng công bằng như đã được chứng minh qua
sự xoá tan hệ thống giai cấp đặc quyền. Quả nhiên, chính nhờ vào những kinh
sách đạo Phật mà chúng ta phải trở về để thừa nhận rằng sự kiện xã hội có tổ
chức của những mô hình gương mẫu đầu tiên của những đại diện thể chế tự trị
được thực thi. Nhiều người hơi ngạc nhiên khi biết rằng những cuộc kiết tập kinh
điển của chư vị đệ tử đức Phật tại Ấn Độ cách đây 2500 năm và về trước
nữa lại được tìm thấy những nguyên lý mà chúng ta đang thực thi ngày nay tại
nghị trường.
Cấp bậc của hội chúng được bảo vệ
bởi sự chỉ định của viên chức đặc biệt-là phôi thai của "Mr Speaker"
(ông Chủ tọa) trong Hạ Nghị viện của chúng ta ngày nay. Một viên chức thứ hai
được bổ nhiệm để kiểm tra xem xét số đại biểu cần thiết theo quy định được đảm
bảo- nguyên mẫu của một Trưởng quan chức có quyền duy trì kỷ luật trong các
thành viên của Đảng chính trị đang cầm quyền trong Nghị viện trong hệ thống của
chúng ta ngày nay.
Hầu tước của Zetland, nguyên phó
vương của Ấn Độ.
Trong 25 thế kỷ qua, Phật giáo đã
hội nhập với các niềm tin cổ truyền và các tôn giáo của nhiều vùng đất, hài hòa
chúng với bản chất thanh khiết của nền triết học Phật giáo. Cùng một lúc, Phật
giáo đã nẩy nở trên khắp Á Châu. Cho đến nay, Phật giáo vẫn là tôn giáo chính
của các dân tộc Thái Lan, Tích Lan, Miến Điện, Tây Tạng, Lào, Campuchia, Đài
Loan, Việt Nam, Đại Hàn, Trung Quốc, Mông Cổ và một số nước Trung Á như Bhutan,
Siberia v.v… Cũng còn nhiều cộng đồng Phật tử lớn ở Mã Lai, Tân Gia Ba và Ấn
Độ, cũng như ở các nước Tây phương như Anh Quốc, Hoa Kỳ, Thụy Sĩ, Đức, Pháp,
các nước Bắc Âu và Úc.
Ngày nay, ta thấy có sự chú ý
nhiều đến Phật giáo hơn trước ở Tây phương. Nhiều học giả đã tiên đoán rằng
trong thế kỷ tới, Phật giáo có thể trở thành một tôn giáo chính ở Tây phương.
Kalinga Senevirathne, A Brief History Of Buddhism.
Phật giáo đã đạt được nền tảng to
lớn ở Tây phương trong vòng hai mươi năm qua. Mới đây, Phật giáo đã được đón
nhận như là tôn giáo phát triển nhanh nhất ở Anh quốc. Đã có trên 100 nghìn
đoàn thể Phật giáo và các trung tâm được thiết lập ở nước này hiện nay, ở Hoa
Kỳ còn nhiều hơn, và con số lại gia tăng ở âu Châu nữa. Đó là từng chỉ dấu cho
thấy sự chú ý đến Phật giáo sẽ còn tiếp tục lớn mạnh, vì Phật giáo rõ ràng cung
ứn được một số nhu cầu sâu xa về tinh thần cho con người của thế giới Tây
phương mà các tôn giáo truyền thống của họ đã thất bại hoàn toàn. Người ta có
thể hỏi: "Phật giáo có gì đặc biệt giá trị và hữu ích vậy?
John Snelling, The Buddhist
Handbook.
Hiện tại càng rõ ràng là Phật
giáo đang đóng một vai trò sinh động trong việc quốc tế hóa thế giới của chúng
ta.
Rich Fields, How The Swans Came
to The Lake.