HÀ BẮC
Chùa DÂU (PHÁP VÂN TƯ)
Dù ai đi đâu về đâu,
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.
Mấy câu ca dao trên gợi lên nỗi nhớ về một ngôi chùa thuộc vào
loại cổ nhất nước ta, được xây dựng vào đầu thế kỷ III sau Công nguyên, nằm ở
trung tâm của cố đô Luy Lâu, nay thuộc thôn Khương Tự, xã Thanh Khương, huyện
Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, cách Hà Nội khoảng 30km. Đó là chùa Dâu hay Pháp Vân
Tự, đời Lý mang tên Cổ Châu, đời Trần mang tên Thiền Định, đời Lê mang tên Diên
Ứng.
Vào những thế kỷ đầu Công nguyên, chùa Dâu đã chứng kiến sự phát triển
của một khu buôn bán sầm uất nằm trên giao điểm những con đường lớn thời xưa mà
nay chỉ còn lại di tích đổ nát là thành Luy Lâu nằm ở ngã tư Thuận Thành (Hà
Bắc) giữa hai tỉnh lộ : một về phía Bắc đến Đông Triều - Phả Lại, một về phía
Nam đến Khoái Châu - Hải Hưng.
Lịch sử chùa Dâu gắn liền với huyền thoại Man Nương, người trinh nữ làng
Mãn Xá bên sông Đuống từ lúc 12 tuổi đã bỏ từ bờ Nam sang bờ Bắc để học đạo với
Thiền sư Khâu-đà-la người Thiên Trúc (Ấn Độ) ở chùa Linh Quang (xã Phật Tích,
Tiên Sơn). Khâu-đà-la là một Thiền sư đã kết hợp việc truyền giảng Phật giáo
Mật Tông với tín ngưỡng dân gian nên có ảnh hưởng rộng lớn trong cư dân Luy
Lâu. Nhưng con đường học đạo của Man Nương bị dở dang vì một hôm, đang lúc nàng
đang ngủ, Khâu-đà-la sau giờ hành lễ đã bước qua người nàng khiến nàng thụ
thai. Một năm hai tháng sau, nhằm ngày 8 tháng 4 âm lịch, Man Nương sinh một bé
gái và mang trả cho Thiền sư, Khâu-đà-la bồng đứa bé đến một cây đa cổ thụ ven
sông, niệm thần chú. Khi nhà sư dùng thiền trượng gõ vào, gốc cây nứt ra, đứa
bé được đặt vào, vết nứt liền khép lại và một mùi hương thơm ngát tỏa ra. Kỷ
vật cuối cùng mà Thiền sư trao cho Man Nương là cây thiền trượng. Theo lời dặn
của Khâu-đà-la, mỗi khi trời hạn hán, đất đai khô nẻ, mùa màng thất bát, Man
Nương lại cắm cây thiền trượng xuống đất, cất lời cầu nguyện, thì phép màu lại
hiện ra : trời đổ mưa. Một đêm mưa to gió lớn, cây đa cổ thụ nơi gởi xác đứa
con gái của Man Nương, bỗng đổ xuống sông và xuôi theo dòng nước trôi về làng
Dâu. Dân làng không ai khiêng nổi cây, may có Man Nương dùng dải yếm đào kéo
được cây lên bờ. Đêm ấy dân làng được thần nhân báo mộng khuyên nên đem cây tạc
tượng thờ. Từ đó ra đời 4 pho tượng thờ bốn vị nữ thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp :
Pháp Vân (tức bà Dâu, thờ ở chùa Thiền Định), Pháp Vũ (tức bà Đậu), thờ ở chùa
Thành Đạo), Pháp Lôi (tức bà Tướng, thờ ở chùa Phi Tướng), Pháp Điện (tức bà
Dàn, thờ ở chùa Phương Quang).
Huyền thoại Man Nương, người mẹ đồng trinh trở thành Phật Mẫu sinh ra Tứ
Pháp, đã khiến cho hàng năm vào ngày 8 tháng 4 âm lịch, các vị sư tăng và khách
thập phương về chùa Dâu mở hội như câu thơ trên kia đã nói. Hội chùa Dâu không
chỉ là dịp để các Phật tử hành hương về nơi cửa Phật mà còn để tham dự những
nghi thức văn hóa của cư dân nông nghiệp. Hội diễn ra khắp cả tổng với đám rước
tưng bừng (gồm rước chào, rước đón, rước đưa) thỉnh các tượng bà Đậu, bà Tướng,
bà Dàn về qui tụ với chị cả là bà Dâu ở chùa Diên Ứng. Sau lễ múc nước, dâng
nước và múa gậy, đám rước lại thỉnh 4 tượng về bái vọng Phật Mẫu Man Nương ở
chùa Tổ Mãn Xá. Vào ngày hội, trên bãi chùa Dâu người ta có thể xem múa sư tử,
múa hóa trang rùa và hạc, múa trống, đấu vật, đánh cờ người.
Nằm trên một khu đất rộng ven sông Dâu - một nhánh của sông Đuống - Chùa
Pháp Vân đã từng là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng cả nước. Chính đây là nơi
tu trì và thuyết pháp của các Thiền sư danh tiếng : Ti-ni-đa-lưu-chi
(Vinitaruci, người Nam Thiên Trúc sang Việt Nam năm 580, dịch bộ kinh Tổng Trì
Đại Thừa), Pháp Hiền, Quan Duyên, Trì Bát, Định Không, Thiện Hội … Sách Thiền
Uyển Tập Anh còn ghi lại cuộc hội ngộ và tâm truyền độc đáo giữa
Ti-ni-đa-lưu-chi và Pháp Hiền diễn ở chùa Dâu, đánh dấu sự xuất hiện của Thiền
trong đời sống văn hóa dân tộc.
Vốn là một ngôi đền mang tên Pháp Vân, chùa Dâu đã được sửa chữa và
trùng tu nhiều lần : giữa thế kỷ XIII vào đời Lý, cuối thế kỷ XIII và thế kỷ
XIV vào đời Trần, thế kỷ XVIII vào đời Lê, cuối thế kỷ XIX vào đời Nguyễn. Ngôi
chùa ngày nay còn mang nhiều dấu ấn của kiến trúc thời Hậu Lê. Ông Mạc Đĩnh Chi
đã đứng ra tổ chức trùng tu lớn ngôi chùa vào năm 1313 như Đại Nam Nhất Thống
Chí đã ghi lại : "Đời Trần, Mạc Đĩnh Chi dựng chùa trăm gian, tháp chín
tầng và cầu chín nhịp, nền cũ nay vẫn còn". Chùa làm theo kiểu "Nội
công ngoại quốc". Từ tiền đường, đi qua một sân gạch có tháp Hòa Phong ở
giữa, sẽ đến Đại bái đường và Phật điện, sau lưng là Hậu đường. Tất cả nằm giữa
bốn dãy nhà dài vây quanh theo hình chữ "Quốc". Trong Phật điện,
tượng bà Pháp Vân thờ ở gian giữa cao gần 2m ngồi trên tòa sen. Đặt liền hai
bên tượng bà Pháp Vân là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ cao 1,57m mang đặc trưng
phong cách nghệ thuật điêu khắc thế kỷ XVII - XVIII.
Nói đến kiến trúc chùa Dâu, không thể không nhắc đến ngọn tháp Hòa Phong
vượt trên mái ngói nâu nổi bật giữa màu xanh của nền trời và bóng che. Được
Thiền sư Pháp Hiền xây dựng vào cuối thế kỷ VI để giữ gìn các di tích xá lợi,
tháp Hòa Phong vốn có 9 tầng. Thời gian làm cho đổ nát, nay tháp chỉ còn 3
tầng, cao 17m, tầng chân tháp hình vuông mỗi cạnh 7m, tường dày, trổ 4 cửa vòm
cuốn. Hai cửa chính nhìn ra hướng Đông và hướng Tây có bậc cấp lên xuống. Hai
bên bậc cấp là hai con sóc đá trong tư thế nằm dài từ thềm xuống sân mang phong
cách rất gần với điêu khắc cổ Chăm-pa và điêu khắc thú tượng trưng trong kiến
trúc lăng mộ đời nhà Tùy. Tháp Hòa Phong được trùng tu vào năm 1737 vào đời Lê.
Trong tháp có chuông lớn đúc dưới triều Cảnh Thịnh và khánh lớn bằng đồng đúc
năm 1837 dưới triều Minh Mạng.
Được xây bằng gạch mộc to bản, sưa kia tháp Hòa Phong cao chót vót như
một thạch trụ chặn cản luồng gió nghiệp chướng từ cõi vô minh thổi tới.
Chùa PHẬT TÍCH (VẠN PHÚC TỰ)
Chùa Phật Tích có tên là Vạn Phúc Tự
- nguyên tên ban đầu là Thiên Phúc Tự - nằm trên sườn núi Lạn Kha, xã Phật
Tích, huyện Tiên Du ; nay là xã Phượng Hoàng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc.
Từ Hà Nội muốn đến thăm chùa, du khách có thể đi bằng ô tô hoặc các
phương tiện sẵn có theo hai đường : một đường theo tả ngạn sống Đuống, đi dọc
bờ đê chừng 15km, sau đó có lối rẽ trái 1km nữa thì đến chùa. Một đường chạy
qua núi Lim rẽ về bên phải đi khoảng 15km thì đến làng Phật Tích rồi vào chùa.
Chùa ở sát làng, nhìn ra sông Đuống, chỉ cách bờ đê 1km.
Theo văn bia Vạn Phúc Đại Thiền Tự Bi năm Chính Hòa thứ bảy (1686),
"Vua thứ ba triều Lý (tức Lý Thánh Tông) vào năm Long Thụy Thái Bình thứ
tư (1057) cất lên cây tháp quí ngàn trượng, lại dựng pho tượng mình vàng cao
sáu thước, cấp cho hơn trăm thửa ruộng, xây chùa hơn trăm tòa". Tấm bia
này còn ca ngợi vẻ đẹp của cảnh chùa : "Đoái trông danh thắng đất Tiên Du,
danh sơn Phật Tích, ứng thế ở Càn phương (hướng Nam) có núi Phượng Lĩnh bao bọc
… Phía tả Thanh Long nước chảy vòng quanh. Phía hữu Bạch Hổ núi ôm, trên đỉnh
nhà khai bàn đá …".
Năm 1071, vua Lý Thánh Tông đã đến thăm chùa, chính tay nhà vua viết chữ
"Phật" dài một trượng sáu thước và khắc vào bia đá để dựng trước
chùa. Sang đời Trần, chùa đổi tên là Vạn Phúc. Vua Trần Nghệ Tông cho dựng điện
Bảo Hòa và thư viện Lạn Kha ở gần chùa. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, năm 1384
Vua đã mở kỳ thi Thái học sinh ở chùa này.
Năm Chính Hòa thứ bảy đời vua Lê Hy Tông (1686), chùa được xây dựng lại
với qui mô đồ sộ và có giá trị nghệ thuật cao. Người có công trong việc xây
dựng này là Bà Chúa Trần Ngọc Am - đệ nhất cung tần của Chúa Thanh Đô Vương
Trịnh Tráng, khi Bà đã rời phủ Chúa về tu ở chùa này. Văn bia Vạn Phúc Đại
Thiền Tự Bi có ghi : "Trên đỉnh núi mở ra một tòa nhà đá, sáng như ngọc
lưu ly … Trên thềm đằng trước có bày mười con thú, phía sau có ao rộng. Gác cao
vẽ chim phượng và sao Ngưu Đẩu sáng lấp lánh. Lầu rộng, tay rồng với tới trời
sao, cung Quảng vẽ hoa nhụy hồng …".
Chùa xây theo kiểu "Nội công ngoại quốc", có đến hơn trăm
gian, trước chùa có ngọn "tháp dựa mây xanh vút vút tầng" như Nguyễn
Xướng đã miêu tả trong bài thơ Tiên Du Vạn Phúc Tự. Đằng sau chùa có long từ,
thạch thất có nơi giảng kinh. Bên cạnh chùa là miếu Tiên chúa thờ bà Trần Ngọc
Am, có câu đối "Đệ nhất cung thần quy Phật địa. Thập tam đình vũ thứ tiên
hương".
Trong chiến tranh chống Pháp, quân đội viễn chinh đã tàn phá chùa Vạn
Phúc. Ngày nay ngôi chùa cũ còn lại di tích là ba bậc nền bạt vào sườn núi,
hình chữ nhật, mỗi nền dài khoảng 60m, rộng khoảng 33m. Nơi đây những năm
1949-1941, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những viên gạch lớn ghi rõ niên hiệu
Long Thụy Thái Bình năm thứ tư (1057) và Chương Thánh Gia Khánh năm thứ bảy
(1065). Trong các tác phẩm điêu khắc cổ, còn lưu lại 5 cặp tượng sư tử, tê
giác, voi, trâu, ngựa nằm trên bệ hoa sen tạc bằng những phiến đá lớn, cao
khoảng 2m. Ngoài ra còn có đá ốp tường, đấu kê, chân tảng chạm khắc các hình
rồng, nhạc công, vũ nữ …
Tên chùa Phật Tích gắn liền với tượng Phật - một tác phẩm điêu khắc nổi
tiếng hiện được thờ phụng trong ngôi chùa nhỏ mới xây sau này. Tương truyền rằng
xưa kia có lần ngọn tháp của chùa bỗng đổ sụp, để lộ ra pho tượng này. Từ đó
xóm Hỏa Kê (gà lửa) cạnh chùa đổi tên thành thôn Phật Tích. Tượng Phật này bằng
đá cao 1,85m, cả bệ là 3m. Tượng tạng đức Phật đang ngồi thiền định trên tòa
sen, bệ tượng tạc hình rồng và hoa lá. Tượng có nét mặt thanh tú, dáng thanh
thoát từ bi, đường nét chạm rất tỉ mỉ và công phu.
Các địa danh Lạn Kha, Tiên Du còn gợi lên những huyền thoại người gặp
tiên được lưu truyền mấy ngàn năm nay. Lạn Kha có nghĩa là cán búa nát, ghi lại
tích Vương Chất lên núi đốn củi gặp hai vị tiên đánh cờ, mải mê xem không hay
rằng cán búa bị mục nát vì thời gian trên trần thế đã trôi qua đến bảy đời rồi.
Trên núi Lạn Kha này còn có tảng đá vuông, mặt phẳng lì gọi là bàn cờ tiên.
Còn Tiên Du nhắc nhở sự tích quan tri huyện Từ Thức đi xem hội hoa mẫu
đơn, gặp Giáng Tiên bị bắt trói vì tội hái trộm hoa. Từ Thức bèn cởi áo xin tha
cho tiên nữ. Sau Từ Thức từ quan đi du ngoạn các danh lam thắng cảnh, đến động
núi ở cửa biển Thần Phù gặp lại Giáng Tiên. Do tích này, trước đây chùa Phật
Tích mở hội Hoa Mẫu Đơn hàng năm vào ngày mồng bốn tháng giêng để nhân dân xem
hoa và các văn nhân thi sĩ bình thơ.
Trong Ức Trai Thi Tập, Nguyễn Trãi có bài thơ vịnh cảnh chùa Phật Tích :
Đoản trạo hệ tà dương
Thông thông yết thượng phương
Vần quy thiền sáp lãnh
Hoa lạc giản lưu hương
Nhật mộ viên thanh cấp
Sơn không trúc ảnh trường
Có trung chân hữu ý
Dục ngữ hốt hoàn vương.
Nghĩa là :
Bóng xế thuyền con buộc
Vội lên lễ Phật đài
Mây về giường sãi lạnh
Hoa rụng suối hương trôi
Chiều tối vượn kêu rộn
Núi quang, trúc bóng dài
Ở trong dường có ý
Muốn nói bỗng quên rồi.
(Đào Duy Anh dịch)
Chùa BÚT
THÁP (NINH PHÚC TỰ)
Đi lối cầu Đuống theo đường đê hữu ngạn hoặc rẽ trái từ ga Phú Thụy trên
đường đi Hải Phòng, khoảng 15km, du khách sẽ đến xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành,
tỉnh Hà Bắc - trước kia là làng Á Lữ, xã Nhạn Tháp, huyện Siêu Loại - nơi có chùa
Bút Tháp nằm giữa cánh đầng nhìn về phía Nam.
Chùa có tên là Ninh Phúc Tự. Khi Thiền sư Huyền Quang đến tu tại đây,
ông đã cho xây tháp cao 9 tầng trang trí hình hoa sen , nhưng ngọn tháp đó ngày
nay không còn nữa. Tháp Báo Nghiêm mang hình dáng quản bút khổng lồ vươn lên
trời cao mà chúng ta thấy ngày nay được Thiền sư Minh Hành (1596-1659) dựng năm
1647. Năm 1876 tháp này được vua Tự Đức đặt tên là Tháp Bút, ngôi chùa từ đó
mang tên Bút Tháp. Tháp xây bằng đá ghép, có 5 tầng, hình 8 cạnh, cao 13,05m, đỉnh
tháp hình nậm rượu, giữa các tầng có gờ mái uốn cong. Bệ tháp mỗi bề rộng hơn
3m, có 2 lần tường bao bọc. Lòng bệ tháp đặt tượng Thiền sư Chuyết Công (1590 -
1644), người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, sang Việt Nam năm 1633 và trụ trì ở
chùa. Trước phút viên tịch, Thiền sư đọc cho đệ tử nghe bài kệ :
Tre gầy thông vót nước rơi thơm
Gió thoảng trăng non mát mát rờn
Nguyên Tây ai ở người nào biết ?
Mỗi chiều chuông nổi đuổi hoàng hôn.
(Thích Thanh Từ dịch)
Vua Lê Chân Tông đã sắc phong cho Hòa Thượng Chuyết Công hiệu "Minh
Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư".
Sau đó, Hoàng Thái Hậu Trịﮨ Thị Ngọc Trúc, hiệu Pháp Tánh,
người làng Á Lữ謠xin cha là Thanh Đô Vương Trịnh
Tráng cho trùng tu lại chùa Bút Tháp ở quê nhà. Bà đã cùng Thiền sư Minh Hành
chăm sóc việc trùng tu. Đến khi vua Lê Thần Tông băng hà, Bà đã về tu hẳn ở
chùa.
Phong cách kiến trúc đời Hậu Lê để lại rất rõ nét trên kiến trúc chùa
Bút Tháp. Được xây dưng theo kiểu "Nội công ngoại quốc" như chùa Dâu,
chùa Bút Tháp có một quần thể kiến trúc bao gồm : tam quan, gác chuông, tòa
thiêu hương, thượng điện, cầu đá, tòa Cửu phẩm Liên hoa (Tích thiện am), nhà
chung, phủ thờ, hậu đường. Tất cả gồm 10 tòa nhà, nằm trên một trục dài hơn
100m. Bên trái chùa là nhà tổ và tháp Báo Nghiêm. Lùi về phía sau có tháp Tôn
Đức. Xung quanh tòa thượng điện là hàng lan can đá gồm 36 phiến chạm trổ tinh
vi những cảnh đẹp của thiên nhiên đất nước với hình ảnh cò bay trên đầm sen, cá
lội, trẻ chăn trâu và một số điển tích khác như cá hóa rồng, tứ linh, tứ quí,
Đường Tăng sang Tây Trúc thỉnh kinh …
Bước vào tòa thượng điện, cảm xúc về cái trác tuyệt hiện lên khi ta đứng
trước tác phẩm điêu khắc nổi tiếng : tượng Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn.
Tượng Quan Âm cao 3,70m bằng gỗ phủ sơn được một nghệ nhân họ Trương tạc
vào năm 1656. Tượng có 11 khuôn mặt , 994 tay với 994 con mắt nằm trong lòng
mỗi bàn tay. Dưới chiếc mũ hoa sen, khuôn mặt chính diện trang nghiêm mà hiền
hòa, hai bên má còn có hai khuôn mặt khác. Lại thêm 8 đầu nhỏ xếp thành hình
tháp 3 tầng, trên đỉnh là một pho tượng nhỏ. Trước ngực hai tay chắp lại, sau
lưng 40 cánh tay vươn ra hài hòa như hình lá sen, phía ngoài là 952 cánh tay
nâng con mắt tạo thành một vòng hào quang. Trên đỉnh tượng là một đôi chim thần
đầu người xòe cánh rộng áp vào nhau. Tượng đặt trên tòa sen, do một con rồng
vươn lên mặt nước đội đỡ. Bốn góc là 4 pho tượng lực sĩ thân hình vạm vỡ ra sức
nâng bệ tượng.
Bao thế kỷ qua, Quan Âm vẫn ngồi đó, nghìn mắt để nhìn thấy mọi trầm
luân của trần gian và nghìn tay để sẵn sàng cứu vớt chúng sinh. Chiêm ngưỡng
pho tượng, ta có cảm giác như đức Phật nghe được tất cả những âm vang của cuộc
đời và truyền cho con người lòng nhân ái khoan dung cùng sự bình thản trong tâm
hồn.
HÀ NỘI
Chùa TRẤN QUỐC (TRẤN
BẮC TỰ)
Từ vườn Bách Thảo qua đường Hoàng Hoa Thám sẽ đến một trong những con
đường thơ mộng nhất của thủ đô Hà Nội : đường Cổ Ngư, ngày nay là đường Thanh
Niên, nằm giữa hai hàng cây và hai hồ nước xanh lặng sóng. Hai hồ này ngày xưa
chỉ là một với nhiều tên : Xác Cáo, Kim Ngưu (Trâu Vàng), Lãng Bạc (Sóng lớn),
Dâm Đàm (đầm Mù Sương). Cách đây 400 năm, người ta đắp con đường Cố Ngự (nghĩa
là cố giữ vững, sau đọc chệch thành Cổ Ngư) ngăn đôi hồ này : hồ nhỏ là Trúc
Bạch, hồ lớn là hồ Tây.
Với diện tích 466ha, chu vi 17km, chung quanh có nhiều đền chùa, thắng
cảnh, hồ Tây đã là nguồn cảm hứng của nhiều thi sĩ. Vào thế kỷ XVIII, Nguyễn
Đức Quý đã có thơ vịnh Tây Hồ :
Thuyền chứa nguyệt đài ngần ánh tuyết
Viện lồng hoa diệp biếc đầm sương
Sen xanh in trúc lung lay nguyệt
Vầng biếc hoa mai phảng phất hương.
Bài Phú tụng Tây Hồ của Nguyễn Huy Lượng là một áng văn nôm trác tuyệt
đậm đà bản sắc dân tộc, thi hứng ngợi ca hùng khí triều đại Tây Sơn hòa trong
cảm hứng trước vẻ đẹp hồ Tây.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong một chiều thu Hà Nội đã bắt gặp dưới ánh
hoàng hôn hồ Tây hình ảnh "mặt nước vàng lay bờ xa mờ gọi, màn sương
thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời" và đã sáng tác nên một ca
khúc thật đẹp.
Từ con đường Cổ Ngư có lối dẫn vào một doi đất nằm bên mép hồ Tây, hình
qui nên gọi là bãi Rùa, còn có tên là bãi Kim Ngư (Cá Vàng). Chính trên bãi đất
này các vua nhà Lý đã dựng cung Thúy Hoa làm nơi nghỉ mát, các vua nhà Trần dựng
điện Hàm Nguyên để ra vân cảnh. Nền cũ của cung và điện này ngày nay là vị trí
của ngôi chùa vào loại cổ nhất nước ta : chùa Trấn Quốc.
Chùa này nguyên trước là chùa Khai Quốc (Mở Nước) khai sáng từ triều Lý
Nam Đế (544 - 548) ở ngoài bãi sông Hồng, phía Đông Bắc phường Yên Hoa tức Yên
Phụ, gần cầu Long Biên bây giờ. Tại chùa Khai Quốc, dưới triều Lý Nhân Tông,
Thái hậu Ỷ Lan đã từng mở tiệc chay thết đãi các vị cao tăng. Bà cũng thường
lui tới chùa cùng chư tăng đàm đạo.
Đến đời Lê Thái Tông (1434 - 1442) chùa được đổi tên là chùa An Quốc.
Hàng năm nước sông Hồng lên to xói mòn làm lở bờ sông. Vì vậy, năm 1615, vào
đời vua Lê Kính Tông, dân làng Yên Phụ dời chùa vào gò đất Kim Ngư. Dưới triều
vua Lê Hy Tông (1676 - 1705) chùa mới được đổi tên là Trấn Quốc, bức hoành phi
mang chữ "Trấn Quốc Tự" treo ở gian nhà đại bái hiện nay được làm từ
lúc đó. Thời Lê-Trịnh, nơi đây được chọn làm hành cung Trấn Quốc dành cho vua
chúa nghỉ ngơi khi dạo chơi hồ Tây. Năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm chùa đổi tên
thành Trấn Bắc, nhưng nhân dân vẫn quen gọi tên cũ là chùa Trấn Quốc.
Chùa Trấn Quốc không chỉ tự hào về bề dày của lịch sử xây dựng mà còn về
các vị cao tăng và danh nhân đã gắn bó với ngôi chùa. Các Thiền sư và Pháp sư
Vân Phong, Khuông Việt, Thảo Đường, Thông Biện, Viên Học, Tịnh Không, Trần Tú
Uyên đều thụ giáo hoặc tu trì ở chùa này. Năm 580, Thiền sư Ti-ni-đa-lưu-chi từ
Ấn Độ sang Việt Nam cũng đã dừng chân tại đây một thời gian.
Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đem quân sang đánh Chiêm Thành, bắt cả vua
Chiêm là Chế Củ và một số tù nhân, trong đó có một vị sư rất am hiểu kinh pháp
đạo Phật. Truy nguyên ra mới biết đó là Thiền sư Thảo Đường. Lý Thánh Tông
phong Thảo Đường chức Quốc sư và mời Ngài trụ trì chùa Khai Quốc, từ đó mở ra
Thiền phái Thảo Đường ở nước ta. Chùa cũng là Tổ đình của Thiền phái Tào Động
truyền ở Việt Nam đời Hậu Lê.
Từ khi dời vào bãi Cá Vàng, chùa Trấn Quốc đã nhiều lần được kiến thiết
và trùng tu. Năm 1624, dưới triều vua Lê Thần Tông, tòa Tam bảo, tòa thiêu
hương và tiền đường được xây dựng. Đến năm 1639, xây thêm tam quan, hậu đường
và hành lang tả hữu. Ở hiên phải nhà đại bái hiện còn tấm bia ghi lại việc
trùng tu này do Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính lập.
Sau một thời gian bị chiến tranh tàn phá, theo nội dung tấm bia do Tiến
sĩ Phạm Quí Thích dựng năm 1815, thì từ năm 1813 đến năm 1815, chùa Trấn Quốc
lại được Sư trụ trì là Khoan Nhân tổ chức trùng tu lại chính điện, nhà thiêu
hương, tiền đường, hành lang, gác chuông, hậu đường, đồng thời đắp tượng Phật
và đúc chuông lớn. Chùa Trấn Quốc là một trong số rất ít những ngôi chùa ở miền
Bắc có pho tượng Thích-ca nhập niết bàn bằng gỗ thếp vàng rất đẹp.
Ngay cổng chùa có hai câu đối :
Vang tai xe ngựa qua đường tục
Mở mặt non sông tới cửa Thiền
Trước cửa chùa lại thêm hai câu đối trên hai cột :
-- Trải bao phen gió Á mưa Âu, trơ đá vững đồng,chót
vót cột trời chùa Trấn Quốc.
-- Riêng một thú hoa đàm đuốc tuệ, sớm chuông chiều
trống, thênh thang cửa Phật cảnh Tây Hồ.
Trong vườn chùa, cùng với những cây cổ thụ sum suê tỏa bóng mát, có một
cây bồ đề được chiết cành từ cội bồ đề, nơi 25 thế kỷ trước đức Phật Thích-ca
thành đạo, do Tổng thống Ấn Độ R. Prasat mang sang Việt Nam tặng năm 1958.
Cảnh thiên nhiên tĩnh mịch bao quanh chùa giữa mùa sen nở trắng, hồng
trên mặt nước hồ Tây dễ gợi lên cho con người không khí hoài cổ từng được lưu
giữ trong những dòng thơ của Bà Huyện Thanh Quan :
Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
Mấy tòa sen tỏa hơi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu !
Chùa MỘT CỘT
(DIÊN HỰU TỰ)
Chùa Một Cột nằm giữa lòng thủ đô Hà Nội, có nguồn gốc từ một giấc mơ
lành của vua Lý Thái Tông (1028 - 1054). Theo truyền thuyết, vào năm 1049, một
hôm nhà vua nằm mộng thấy Phật Quan Âm dắt Vua lên tòa sen. Tỉnh giấc, Vua đem
việc ấy hỏi các quần thần , trong đó có các nhà sư đạo cao đức trọng. Sư Thiền
Tuệ khuyên Vua xây chùa, dựng cột đá giữa ao, đặt tòa sen của Phật trên cột như
đã thấy trong chiêm bao.
Chùa xây chỉ có một gian gọi là Liên Hoa đài (đài hoa sen) nằm trên một
cột đá ở giữa hồ nhỏ gọi là Linh Chiểu tỉnh, nên được gọi là chùa Nhất Trụ (một
cột). Ở chùa Long Đọi (Nam Hà) có một tấm bia còn ghi lại sự tích này :
"Đào hồ Linh Chiểu, giữa hồ vươn lên một cột đá, đỉnh cột nở đóa hoa sen
nghìn cánh, trên sen dựng tòa điện màu xanh. Trong điện đặt pho tượng Quan Âm.
Vòng quanh hồ là dãy hành lang. Lại đào ao Bích Trì, mỗi bên đều bắc cầu vồng
để đi qua. Phía sân cầu đằng trước, hai bên tả hữu xây tháp lưu ly".
Chùa nằm trong khu vườn Tây Cấm thuộc thôn Thạch Bảo, huyện Vĩnh Thuận,
kinh thành Thăng Long. Khi chùa được khánh thành, các Sư chay đàn, tụng kinh
cầu cho Vua sống lâu. Vì thế chùa còn có tên là Diên Hựu (kéo dài cõi phúc).
Hằng năm cứ đến ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, nhà vua lại tới chùa làm lễ
tắm Phật. Các nhà sư và nhân dân kinh thành Thăng Long cùng dự lễ. Sau lễ tắm
Phật là lễ phóng sinh, Vua đứng trên một đài cao trước chùa thả một con chim
bay đi, rồi nhân dân cùng tung chim bay theo trong tiếng reo vui của một ngày
hội.
Đến năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho sửa ngôi chùa, trước sân dựng một
ngọn bảo tháp. Năm 1108. Ỷ Lan phu nhân sai đúc một cái chuông rất to, nặng một
vạn hai nnghìn cân, đặt tên là "Giác thế chung" (Quả chuông thức tỉnh
người đời). Đây được xem là một trong tứ đại khí - bốn công trình lớn của nước
ta thời đó - là : tháp Báo Thiên, chuông Qui Điền, vạc Phổ Minh và tượng Quỳnh
Lâm. Giác thế chung đúc xong nặng quá không treo lên được, để dưới mặt đất thì
đánh không kêu. Người ta đành bỏ chuông xuống một thửa ruộng sâu bên chùa Nhất
Trụ, ruộng này có nhiều rùa, do đó có tên Quy Điền chung (chuông ruộng rùa).
Đến thế kỷ XV, giặc Minh xâm lược nước ta, chiếm thành Đông Quan (Hà Nội). Năm
1426 Lê Lợi đem nghĩa quân Lam Sơn ra đánh, vây thành rất gấp. Quân Minh thiếu
vũ khí đạn dược, tướng Minh là Vương Thông bèn đem phá chuông Quy Điền lấy
đồng. Quân Minh thua, đất nước ta lại được hưởng nền thịnh trị thái bình nhưng
chuông Quy Điền thì không còn nữa.
Chùa Một Cột được trùng tu vào khoảng những năm 1840-1850 và vào năm
1922. Đài Liên Hoa chúng ta thấy hiện nay được làm lại năm 1955. Đài hình
vuông, chiều dài mỗi cạnh 3m, mái cong, dựng trên cột cao 4m, đường kính 1,20m
gồm 2 trụ đá ghép chồng lên nhau liền thành một khối. Tầng trên là là một khung
gỗ kiên cố đỡ ngôi đài với mái ngói, bốn góc uốn cong, trên có lưỡng long triều
nguyệt. Hình dáng ngôi chùa như một đóa hoa sen vươn thẳng lên khu ao hình
vuông được bao bọc bởi hàng lan can làm bằng những viên gạch sành tráng men
xanh. Đi qua ao theo lối nhỏ lát bằng gạch, ta sẽ đến một cầu thang dẫn lên
Phật đài có một tấm biển bằng chữ Hán đề trước cửa : Liên Hoa Đài.
Thiền sư Huyền Quang đã có thơ vịnh chùa Diên Hựu :
Đêm thu chùa thoảng tiếng chuông tàn
Phong đỏ, trăng ngời, sóng nguyệt tan
In ngược hình chim, gương nước lạnh
Sẫm đô bóng tháp, ngón tiêu hàn.
(Huệ Chi dịch)
Hoa sen lúc mới nở đã có "quả" lại có "nhân" tượng
trưng cho giáo lý nhà Phật. Hoa sen cũng là loài hoa tinh khiết, giữa trần gian
mà chẳng nhuốm mùi tục lụy. Chùa Một Cột, vì lẽ đó, là biểu tượng của cõi Thiền
"bất nhiễu", "vô ưu". Gắn liền với lịch sử thủ đô, đó cũng
là biểu tượng của Hà Nội ngàn năm văn vật.
Chùa LÁNG (CHIÊU THIỀN TỰ)
Sự tích chùa Láng gắn liền với truyền thuyết Thiền sư Từ Đạo Hạnh, một
vị cao tăng dưới đời Lý Nhân Tông. Đạo Hạnh tục danh làng Từ Lộ, con viên Tăng
quan Đô Án Từ Vinh. Hồi còn trẻ Từ Vinh trọ học ở làng Láng - tức là Yên Lãng,
huyện Từ Liêm, Hà Nội ngày nay - ông lấy bà Tăng Thị Loan và sinh ra Từ Lộ. Do
có sự bất đồng dẫn đến hiềm khích mà Diên Thành Hầu đã nhờ Pháp sư Đại Điên
đánh chết Từ Vinh. Quyết trả thù cho cha, Từ Lộ vào ẩn trong hang đá Trì Sơn,
tu luyện rồi sau đó đánh Đại Điên mang bệnh đến chết.
Cởi mối oan nghiệt, Từ Đạo Hạnh tập trung tu học pháp thiền. Ông có hai
người bạn đồng đạo gần gũi là Thiền sư Minh Không và Thiền sư Giác Hải, cả ba
đều biết nhiều pháp thuật. Sau Từ Đạo Hạnh về tu ở chùa Thiên Phúc tức chùa
Thầy ở núi Sài Sơn. Tương truyền rằng Từ Đạo Hạnh đã hóa thân và đầu thai làm
con trai của Sùng Hiền Hầu, em vua Lý Nhân Tông, tên là Dương Hoán. Vì vua Lý
Nhân Tông không có con, nên Dương Hoán được lập làm Đông Cung Thái Tử và trở
thành vua Lý Thần Tông (1128 - 1138). Về sau con của Lý Thần Tông là Lý Anh
Tông (1138 - 1175) đã cho dựng chùa Láng để thờ vua cha và tiền thân của cha là
Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Trong chùa, ngoài tượng Phật còn có tượng vua Lý Thần
Tông và tượng Thánh Từ Đạo Hạnh.
Chùa Láng có tên chữ là Chiêu Thiền Tự với ý nghĩa rằng : "Vì có
điều tốt rõ rệt nên gọi là Chiêu. Đây là nơi sinh ra Thiền sư Đại Thánh nên gọi
là Thiền". Ngày 7 tháng 3 âm lịch là ngày sinh của Thiền sư Từ Đạo Hạnh,
trở thành ngày hội chùa Láng.
Nhớ ngày mồng bảy tháng ba,
Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy
Chiêu Thiền Tự nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 7km về phía Tây.
Xưa kia chùa dựng trên một địa thế rất đẹp nằm giữa cánh đồng bao la, chung
quanh có những cây muỗm và cây đa cổ thụ khiến cho cảnh chùa thêm u tịch. Chùa
đã trải qua nhiều lần trùng tu, kiến trúc hiện nay là do lần trùng tu vào giữa
thế kỷ XIX với vẻ cổ kính vẫn còn giữ được của một danh lam từ tám thế kỷ
trước.
Nét độc đáo đầu tiên đập vào mắt du khách là cổng chùa hao hao giống
kiến trúc cổng ở cung vua phủ chúa ngày xưa : đó là một hàng bốn cột hoa kiểu
bằng gạch với ba mái cong thanh thoát. Ba mái này không phủ lên đỉnh cột mà gắn
vào sườn cột, mái giữa cao hơn hai mái bên . Sân chùa lát gạch Bát Tràng, nối
cổng chùa với cửa tam quan. Qua tam quan là một con đường rộng lát gạch, hai
bên có tường hoa dẫn tới Bát giác đình, nơi ngày hội đặt tượng Thánh cho dân
làng làm lễ dâng hoa. Trong cùng là chùa chính bao gồm tiền đường, tòa thiêu
hương, thượng điện, hành lang, nhà tổ, tăng phòng và các gian nhà phụ.
Vẻ bề thế của quần thể kiến trúc hài hòa, cân xứng với không gian thoáng
đãng khiến cho chùa Láng đã từng được coi là đệ nhất tùng lâm ở phía Tây kinh
thành Thăng Long xưa.
Chùa QUÁN SƯ
Chùa Quán Sứ được xây dựng vào thế kỷ XV nằm trên địa phận thôn An Tập,
phường Cổ Vũ, tổng Tiền Nghiêm (sau đổi là tổng Vĩnh Xương), huyện Thọ Xương ;
ngày nay là phố Quán Sứ, quận Hoàn Kiếm, thủ đô Hà Nội. Nguyên xưa ở phường này
chưa có chùa, chỉ có mấy gian nhà tranh ở phía Nam, dân làng dùng làm chỗ tế
thần cầu yên gọi là xóm An Tập. Theo sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí, vào thời vua
Lê Thế Tông, các nước Chiêm Thành, Ai Lao thường cử sứ giả sang triều cống nước
ta. Nhà vua cho dựng một tòa nhà gọi là Quán Sứ để tiếp đón các sứ thần đến
Thăng Long. Vì sứ thần các nước này đều sùng đạo Phật nên lại dựng thêm một
ngôi chùa cũng nằm trong khuôn viên Quán Sứ để họ có điều kiện hành lễ. Thời
gian đã xóa đi dấu khu nhà Quán Sứ nhưng ngôi chùa thì vẫn tồn tại.
Năm 1934, Tổng hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập, chùa Quán Sứ được chọn
làm trụ sở trung ương. Năm 1942 chùa đã được xây dựng lại theo bản thiết kế của
hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng do chính Tổ Vĩnh Nghiêm
duyệt. Nghệ thuật kiến trúc và trang trí kết hợp tất cả tinh hoa các đại già
lam miền Bắc. Chùa Quán Sứ có lẽ là một trong rất ít ngôi chùa ở nước ta mà tên
chùa cũng như nhiều câu đối đều được viết bằng chữ quốc ngữ. Phải chăng vì ngôi
chùa được xây dựng lại vào giữa thế kỷ XX và vì chùa đã trở thành trụ sở trung
tâm của Tổng hội Phật giáo Bắc Việt, nay là của Giáo hội Phật giáo Việt Nam,
ngôi Quốc tự chung của các thiện nam tín nữ trên đất Việt.
Tam quan chùa có ba tầng mái, ở giữa là lầu chuông. Đi qua một sân gạch
nhỏ, bước lên 11 bậc thềm là tới chánh điện. Điện Phật được bài trí trang
nghiêm, các pho tượng đều khá lớn và thếp vàng lộng lẫy. Phía trong cùng, thờ
ba vị Tam Thế Phật trên bậc cao nhất. Bậc kế tiếp thờ tượng Phật A-di-đà ở
giữa, hai bên có tượng Quan Thế Âm và Đại Thế Chí. Bậc dưới đó, ở giữa thờ Phật
Thích-ca, hai bên là A-nan-đà và Ca-diếp. Bậc thấp nhất , ở ngoài cùng có tòa
Cửu Long đứng giữa tượng Quan Âm và Địa Tạng. Gian bên phải chánh điện thờ Lý
Quốc Sư (tức Thiền sư Minh Không) với hai thị giả, gian bên trái thờ tượng Đức
Ông và tượng Châu Sương, Quan Bình.
Các nhà chính và nhà phụ chùa Quán Sứ đều rộng rãi. Nơi đây từng là trụ
sở báo Đuốc Tuệ và văn phòng Tổng hội Phật giáo Bắc Kỳ. Hiện nay chùa có giảng
đường, thư viện, là nơi đặt văn phòng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam và
văn phòng tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa bình (ở Việt Nam).
Nửa thế kỷ nay, chùa Quán Sứ đã chứng kiến nhiều hoạt động quan trọng
của Phật giáo Việt Nam, trong đó có sự thống nhất tổ chức Phật giáo trong cả
nước và sự hòa nhập của Phật giáo Việt Nam với Phật giáo thế giới. Chính nơi
đây vào ngày 13-5-1951 (mồng 8-4 năm Tân Mão) lần đầu tiên lá cờ Phật giáo thế
giới do Thượng tọa Tố Liên mang về từ Colombo đã xuất hiện trên bầu trời Hà
Nội.
Chùa KIM LIÊN
(ĐẠI BI TỰ)
Chùa Kim Liên được dựng trên một dải đất ven hồ Tây về phía Bắc, sát
chân đê Yên Phụ, nước hồ bao quanh, tựa như một hòn đảo. Từ phía xa, đi trên
mặt đê ta đã trông thấy mái chùa màu xám rêu và những ngọn tháp vươn lên giữa
những bụi tre xanh thấp thoáng quanh chùa. Hai trăm năm trước, cảnh quan này đã
được Phạm Đình Hổ ghi lại trong Tang Thương ngẫu lục : "Chùa xoay lưng ra
sông Nhị Hà, Hồ Tây diễu quanh ở trước mặt, khói sóng man mác, trời nước một
màu … Đằng phía tả có mấy cái gò, xen lẫn vào trong khoảng nước hồ, tháp gạch
xây ở trên, khóm trúc cội tùng phơ phất …".
Chùa nằm trên địa phận huyện Nghi Tàm, xã Quảng An, huyện Từ Liêm, thành
phố Hà Nội, nên còn được gọi là chùa Nghi Tàm. Xưa kia đây nguyên là chùa Đống
Long, dựng từ thời nhà Trần (1225 - 1413) trên nền cũ của cung Từ Hoa có từ
thời nhà Lý. Tương truyền rằng Công chúa Từ Hoa con vua Lý Thần Tông (1128 -
1138) đã đem cung nữ đến mảnh đất này trồng dâu nuôi tằm, mở ra trại Tàm Tang,
sau đổi tên thành Tích Ma, rồi phường Nghi Tàm. Năm 1639, dưới triều vua Lê
Thần Tông, chùa được tu sửa lại, gọi là chùa Đại Bi. Một bia dựng bên tả sân
chùa do Ngô Độn Phu soạn có khắc năm chữ to : Trùng tu Đại Bi Tự. Một tấm bia
dựng ở bên tả trong tiền đường do Bùi Huy Cận soạn cũng khẳng định chùa vốn tên
là Đại Bi. Đến thời vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Bảo Thái (1720 - 1728) có vị Hòa
thượng tên là Huệ, nguyên là nội thị của Chúa Trịnh Uy Vương, đến tu tại đây.
Năm 1771 Chúa Trịnh Sâm sai dỡ chùa Bảo Lâm về tu bổ chùa này và đổi tên là Kim
Liên. Việc này được ghi lại trong tấm bia do quan Đại học sĩ Phan Trọng Phiên
lập. Vào năm 1792 chùa lại được đại tu. mang dấu ấn nghệ thuật kiến trúc thời
Tây Sơn. Lần tu sửa gần đây nhất kéo dài từ năm 1983 đến năm 1987 đã phục hồi lại
diện mạo ngôi chùa 200 năm trước đây.
Chùa KIm Liên gồm ba nếp nhà : chùa hạ, chùa trung và chùa thượng, xếp
song song theo kiểu chữ "Tam". Cột xà kiên cố, chạm khắc tinh vi,
tường xây gạch cổ dày, không trát vữa. Mỗi nếp nhà có hai tầng mái, kiểu chồng
diêm, lớp ngói cổ, với bốn góc đao uốn cong có gắn đầu phượng. Cổng tam quan là
một kiến trúc độc đáo bằng gỗ, đượm dáng vẻ cung đình, với những bức chạm nổi
trên mặt gỗ hình rồng, hoa văn hết sức tinh xảo.
Trong chùa còn lưu giữ đủ các tượng Phật và tượng Bồ-tát. Đặc biệt có
pho tượng tạc hình một người trung niên, râu ba chòm, mặc áo văn lĩnh, đầu đội
mũ miện, tay cầm hốt ở tư thế đứng. Theo Phạm Đình Hổ, thì tương truyền rằng đó
là tượng chân dung Uy Nam Vương Trịnh Giang.
HÀ TÂY
Chùa THẦY (THIÊN PHÚC TỰ)
Nếu chùa Láng gắn liền với giai đoạn đầu của cuộc đời ngài Từ Đạo
Hạnh thì chùa Thầy lại chứng kiến quãng đời sau cùng cho đến ngày thoát xác của
vị sư thế hệ thứ 12 thuộc dòng Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi này.
Chùa Thầy dựa vào sườn Tây Nam một ngọn núi đá vôi có nhiều hang động là
núi Thầy tức núi Sài Sơn thuộc làng Hoàng Xá, xã Phượng Cách, huyện Quốc Oai,
tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội khoảng 30km. Trong một bài ký ghi trên vách núi, Chúa
Trịnh Căn đã phác họa cảnh chùa Thầy "như viên ngọc nổi lên giữa đám sỏi
đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả bốn mùa. Động trên hệt như cõi thanh hư, bên vách
còn in mây ráng. Ao rồng thông sang bến siêu độ, cầu tiên Nhật Nguyệt đôi vầng.
Hình tựa bình phong, sông như dải lụa".
Ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi Thiền sư Từ
Đạo Hạnh tu trì. Vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại gồm hai cụm chùa : chùa
Cao (Đỉnh Sơn Tự) trên núi và chùa Dưới (tức chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc
Tự). Đầu thế kỷ XVII, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu , xây
dựng điện Phật, điện Thánh ; sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Theo
thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Phía trước
chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn.
Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ
rộng mang tên Long Chiểu hay Long Trì (ao Rồng). Sân có hàm rồng. Thủy đình mọc
lên giữa Long Chiểu, nơi thường diễn trò rối nước đặc sắc, chính là viên ngọc ở
đầu rồng. Hai giếng là hai mắt rồng. Hai cầu cổ có mái ngói do Trạng Bùng Phùng
Khắc Khoan xây dựng năm 1602 là hai răng nanh của miệng rồng : Cầu Nhật Tiên ở
bên trái trông vào đền Tam Phủ xây trên một đảo nhỏ giữa ao. Cầu Nguyệt Tiên ở
bên phải dẫn vào đường lên chùa Cao trên núi.
Đối diện với thủy đình là chùa Cả được xây dựng theo kiểu chữ
"Tam" gồm 3 nếp nhà dựng trên nền cao bó đá hộc xanh. Nếp ngoài là
nhà tiền tế, nếp giữa thờ Phật, nếp trong cùng thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Trong
chùa có đặt 3 pho tượng diễn tả 3 "kiếp" của Thiền sư Từ Đạo Hạnh :
Tăng, Phật và Đế Vương. Bên trái là tượng toàn thân Thiền sư bằng gỗ bạch đàn
lắp máy tự động có thể đứng lên ngồi xuống được, nhắc nhở thời kỳ Ngài đi tu ở
Hương Hải am đã làm thuốc trị bệnh cứu người và dày công sáng tạo môn nghệ
thuật múa rối nước cổ truyền để cho dân giải trí. Chính giữa là tượng Thiền sư
khi đã thành Phật, đội mũ hoa sen, tay chắp trước ngực, khoác áo cà sa vóc
vàng. Bên phải là tượng Thiền sư sau khi đã hóa, đầu thai làm con trai của Sùng
Hiền Hầu và trở thành nhà vua Lý Thần Tông (1) . Tượng Lý Thần Tông
đầu đội mũ bình thiên, mình khoác long bào, ngồi trên ngai vàng.
Trong chùa còn có tượng ông Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan là cha mẹ Từ Đạo
Hạnh và hai bạn đồng đạo thân thiết của Ngài là Thiền sư Minh Không và Thiền sư
Giác Hải. Hai bên chùa là hành lang dài thờ mười tám vị La Hán.
Đường qua cầu Nguyệt Tiên dẫn đến những bậc đá đi lên núi, nơi có chùa
Cao vốn là Hiển Thụy am, còn có tên là Đỉnh Sơn Tự. Trên vách chùa còn khắc
những bài thơ tức cảnh của Nguyễn Trực và Nguyễn Thượng Hiền. Tương truyền rằng
động Phật Tích ở sau chùa là nơi Ngài Từ Đạo Hạnh thoát xác, nên còn gọi là
hang Thánh Hóa.
Phía trên chùa Cao có một mặt bằng gọi là chợ Trời với nhiều tảng đá
hình bàn ghế, kệ bày hàng, ly rượu … trong đó có một phiến đá nhẵn lì được gọi
là bàn cờ tiên. Có lẽ nơi đây ngày xưa các bậc trích tiên vẫn ngồi chơi cờ,
uống rượu, thưởng trăng và ngâm thơ giữa thiên nhiên khoáng đạt như hình ảnh trong
bài thơ của Nguyễn Khuyến :
Hóa công xây đắp biết bao đời
Nọ cảnh Sài Sơn có chợ Trời
Buổi sớm gió tuôn, trưa nắng gắt
Ban chiều mây họp tối trăng chơi
Bày hàng hoa quả tư mùa sẵn
Giãi thủ giang sơn bốn mặt ngồi
Bán lợi mua danh nào những kẻ
Chẳng lên mặc cả một đôi lời.
Theo lối mòn ven núi, leo lên vài chục bậc đá nữa sẽ đến hang Cắc Cớ,
nơi tình tự của trai gái ngày xưa trong những ngày hội hè, như ca dao đã ghi
lại :
Gái chưa chồng nhớ hang Cắc Cớ,
Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy.
Từ hang Cắc Cớ, một con đường có nhiều cây đại thụ dẫn lên đền Thượng.
Gần đền Thượng có hang Bụt Mọc với nhiều tảng đá được thời gian bào mòn trông
như tượng Phật. Tiếp đó là hang Bò với lối vào âm u và hang Gió với những ngọn
gió thổi thông thốc cả hai đầu.
Ở chân núi Thầy, về phía Tây có chùa Bối Am còn gọi là chùa Một Mái, vì
chùa chỉ có một mái lợp bằng ngói, còn mái kia chính là vòm hang.
Nét độc đáo của thắng cảnh chùa Thầy là ở sự kết hợp giữa những con
đường, những mái chùa vươn lên tầm cao, với những vẻ đẹp của hồ nước trải rộng
và những bí ẩn trong chiều sâu lòng đất. Cả ba chiều không gian đó kết tụ lại
trong một quần thể thiên nhiên đa dạng về kiến trúc và màu sắc. Hội chùa Thầy
diễn ra từ ngày mùng 5 đến ngày mùng 7 tháng ba âm lịch hàng năm, là dịp để con
người chiêm bái danh lam thắng cảnh này. Trong ngày hội, nhiều Tăng Ni từ các
nơi khác trong vùng cùng về đây dự lễ trong những bộ cà-sa trang trọng, tay cầm
gậy hoa, miệng tụng kinh trong tiếng mõ trầm đều. Lễ cúng Phật và trai đàn -
một diễn xướng có tính chất tôn giáo - được thực hiện có sự phối hợp của các
nhạc cụ dân tộc.
Nhưng hội chùa Thầy không chỉ có những nghi thức tôn giáo. Ở đây còn có
trò múa rối nước mang đậm sắc thái dân gian mà ngày nay có tiếng vang ở cả nước
ngoài. Trai thanh gái lịch gần xa tìm đến hội chùa Thầy còn để thỏa mãn tính
mạo hiểm khi leo núi và khao khát bày tỏ tình yêu trong một khung cảnh thiên
nhiên rộng mở :
Rủ nhau lên núi Sài Sơn
Ai làm đá ướt đường trơn hỡi mình ?
Hỏi non, non những làm thinh
Phải rằng non đã vô tình với ai ?
Nước non ví chẳng chiều đời
Mắt xanh đâu lẽ phụ người tình chung ?
Yêu nhau ta dắt nhau cùng
Non bao nhiêu đá nặng lòng bấy nhiêu.
(Á Nam Trần Tuấn Khải)
HÀ TÂY
Chùa TRĂM GIAN (QUẢNG NGHIÊM TỰ)
Trên miền Bắc nước ta có hai ngôi chùa mang tên chùa Trăm Gian :
một ở Hà Bắc, một ở Hà Tây. Cả hai ngôi chùa đều nằm trên đỉnh núi, có những
sắc thái kiến trúc và phong cảnh độc đáo. Riêng chùa Trăm Gian ở Hà Tây thì gắn
liền với truyền thuyết về một vị cao tăng tên là Nguyễn Lữ (hoặc Nhữ) hiệu là
Bình An, quê ở Bối Khê, huyện Thanh Oai, Hà Tây, được người đời gọi là đức
Thánh Bối.
Truyền thuyết kể rằng vào đời Trần, ở làng Bối Khê có một người phụ nữ
nằm mộng thấy đức Phật giáng sinh, rồi có mang, sinh ra một con trai. Năm lên 6
tuổi, cha mẹ mất, người con phải đi chăn trâu, nhưng rất mộ đạo Phật, thường
làm bàn thờ cúng lễ. Đến năm 9 tuổi, người con trai ấy bỏ nhà vào tu ở chùa Đại
Bi trong làng. Lên 15 tuổi, đi vân du khắp nơi, đến thôn Tiên Lữ, xã Tiên
Phương, huyện Hoài Đức, Hà Tây ngày nay, thấy cảnh đẹp, Người xin yết kiến và
theo học kinh kệ với vị trưởng lão tu tại ngôi chùa trên núi. Mười năm học đạo,
người thanh niên đó hiểu thấu mọi phép linh thông. Vua Trần nghe tiếng, sắc
phong là Hòa Thượng, đặt đạo hiệu là Đức Minh rồi mời về tu ở chùa trong kinh
đô.
Sau khi vị trưởng lão ở chùa Tiên Lữ viên tịch, Hòa Thượng Đức Minh xin
về làng dựng ngôi chùa mới. Tương truyền rằng Ngài có phép hóa cỗ bàn cơm chay,
thợ xây chùa ăn mãi không hết. Khi chùa dựng xong, Hòa thượng mang guốc gỗ đi
qua đi lại trên kèo như đi trên mặt đất, ai nấy đều bái phục vái lạy phép thần
thông của Ngài. Năm 95 tuổi, Ngài ngồi vào một cái khám gỗ, từ biệt đệ tử rồi
siêu thoát. Một trăm ngày sau, đệ tử mở cửa khám, kim quang Ngài bay mùi thơm
nức, ngào ngạt gần xa. Dân làng và đệ tử xây tháp để gìn giữ kim thân và tôn
thờ là đức Thánh Bối.
Sách Lĩnh Nam chích quái cũng có ghi sự tích đức Thánh Bối có thể làm
mưa, gọi gió. Truyền thuyết còn kể rằng vào đầu thế kỷ XV, quân Minh xâm lược
nước ta, có một toán giặc nghe nói chùa Tiên Lữ rất thiêng, bèn phóng hỏa đốt
chùa, phá tượng. Đức Thánh Bối nổi giận hóa phép làm ra một trận mưa kéo dài ba
ngày ba đêm, nước đỏ như máu, dâng cao tới ba thước dìm chết hết lũ giặc bạo
ngược kia. Sau đó một đám mây năm sắc hiện lên nền trời, cuộc sống thanh bình
trở lại, ngôi chùa vẫn nguyên như cũ. Dân làng quanh năm hương khói, mỗi khi
gặp đại hạn, làm lễ cầu mưa tại chùa, rất được linh ứng. Các triều vua sau đều
phong đức Thánh Bối là "Thượng đẳng tối linh Đại Thánh".
Trên đây là sự tích chùa Trăm Gian ở làng Tiên Lữ, còn có tên là Quảng
Nghiêm Tự. Nhiều tài liệu ghi rằng chùa được lập năm 1185 đời vua Lý Cao Tông.
Đây vốn là ngôi chùa một gian hai trái nằm trên một quả núi cao 50m gọi là núi
Mã, xung quanh có nhiều cây cổ thụ tuổi khoảng vài thế kỷ như trám, trắc,
thông, tàn lá xòe rộng tỏa bóng mát che rợp mái chùa.
Qua nhiều lần trùng tu, ngôi chùa hiện nay bao gồm ba cụm kiến trúc
chính, với tất cả 104 gian.
Cụm thứ nhất ở lối ra vào gồm có hai trụ cột cao với hai quán ở hai bên,
trước đây là nơi đánh cờ người trong ngày hội. Tiếp đó là nhà Giá Ngự nhìn ra
hồ sen, nơi đặt kiệu Thánh để xem trò múa rối nước.
Cụm thứ hai nằm trên một độ cao hơn một trăm bậc gạch xây. Tại đây có
gác chuông cao 2 tầng 8 mái tách hẳn lên phía trước mang dấu ấn nghệ thuật kiến
trúc và chạm khắc thế kỷ XVI - XVII. Quả chuông đúc năm 1794 có khắc một bài
minh của Phan Huy Ích.
Muốn lên cụm thứ ba, phải leo 25 bậc đá xanh đến sân trên, rồi lại leo 9
bậc đá có lan can chạm hình rồng cuộn khúc. Đây là chùa chính gồm nhà bái
đường, tòa thiêu hương, thượng điện, hai dãy hành lang, nhà tổ và lầu trống.
Chùa có 3 gian thờ chính : gian thờ Phật ; gian thờ Thánh ; gian thờ Quan Âm,
gia đình Đô đốc Đặng Tiến Đông, một tướng lĩnh của vua Quang Trung, là người có
công trùng tu ngôi chùa.
Trong 153 pho tượng ở chùa mà hầu hết làm bằng gỗ, đáng chú ý nhất về
mặt lịch sử là tượng Đô đốc Đặng Tiến Đông và tượng đức Thánh Bối, cốt đan bằng
mây, ngoài bọc vải sơn, đặt trong khám gỗ. Ngoài ra, tượng Tuyết Sơn, tượng
Quan Âm, bộ Thập bát La-hán … cũng là những công trình điêu khắc độc đáo.
Chùa MÍA (SÙNG NGHIÊM TỰ)
Vào thế kỷ XVII ở làng Mía, nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, tỉnh
Hà Tây, có bà Nguyễn Thị Dong tức Nguyễn Thị Ngọc Diệu là vợ của Chúa Thanh Đo
Vương Trịnh Tráng, nên còn được gọi là Bà Chúa Mía. Một trong những công đức mà
Bà Chúa Mía để lại cho quê hương là đã đứng ra hưng công đại trùng tu ngôi chùa
Mía, tức Sùng Nghiêm Tự (nguyên được dựng từ đời Trần) vào năm 1632.
Nằm trên một ngọn đồi đá ong, lúc đầu chùa Mía chỉ có` cổng và hai tòa
thượng điện, hậu đường, mỗi tòa 7 gian dựng song song. Chùa được tu bổ và hoàn
chỉnh dần vào thế kỷ XVII và XIX.
Khuôn viên chùa được chia làm ba khu tương đối tách bạch nhau : ngoài
cùng là cửa tam quan trông ra một bãi đất rộng bên cạnh là chợ Mía. Trên gác có
treo một chuông đồng đúc năm 1743 và một khánh đồng đúc năm 1846.
Qua khỏi tam quan là hai khoảng sân liên tiếp, cách nhau bởi một cổng
gạch giữa bức tường hoa cánh gà. Ở góc phải sân thứ nhất có một cây đa khoảng
vài trăm tuổi, kế cây đa là Liên Đài bảo tháp cao 13,5m. Sân thứ hai có những
bồn hoa và hòn non bộ. Phía bên trái có dãy nhà tổ và nhà trai.
Nằm trên độ cao cách sân 7 bậc thềm là khu chùa chính gồm : tiền đường,
trung điện, nhà thiêu hương, hành lang và hậu điện. Tiền đường gồm 5 gian 2
chái, gian bên trái có một tấm bia dựng năm 1632 đặt trên lưng rùa, nội dung
ghi lại sự tích Bà Chúa Mía xây chùa. Trung điện và hậu điện được nối với nhau
bởi hai dãy hành lang quanh nhà thiêu hương. Trung điện và nhà thiêu hương nối
vào nhau theo kiểu chuôi vồ.
Nghệ thuật điêu khắc ở chùa Mía nổi bật ở những đường nét chạm trổ tinh
vi trên tòa gác chuông với các góc mái đều gắn đao triện, ở các hàng lan can,
các ván long, xà nách … Nhưng di sản đáng quí nhất ở chùa là 287 pho tượng lớn
nhỏ, trong đó một nửa tạc bằng gỗ, một nửa bằng đất luyện, sơn son thếp vàng.
Tiêu biểu là tượng hai vị Hộ Pháp cao gần tới nóc nhà, tượng Bát bộ Kim Cương
bằng đất luyện khắc họa những nét điển hình về ngoại hình, dung mạo của những con
người giàu tinh thần thượng võ, sẵn sàng bảo vệ chính pháp. Chùa có tôn trí
tượng Tuyết Sơn, biểu hiện đức Phật Thích-ca thời kỳ tu khổ hạnh, thân thể gầy
gò đến mức tất cả xương cốt đều lộ ra, nhưng thần sắc của tư duy thì vẫn tồn
tại. Chùa Mía còn có một tuyệt tác về điêu khắc là pho tượng Quan Âm tống tử,
thường gọi là tượng Bà Thị Kính. Với đường nét chạm khắc mềm mại và sinh động,
pho tượng này tái hiện hình ảnh một người phụ nữ Việt Nam hiền hòa, tay ẫm đứa
bé bụ bẫm, vẻ mặt đượm buồn, mắt nhìn xuống đầy vẻ chịu đựng và bao dung.
Người làng Mía tự hào về photượng là điều dễ hiểu :
Nổi danh chùa Mít làng ta,
Có pho Tống Tử Phật Bà Quan Âm.
Và có lẽ đó là niềm tự hào không chỉ của riêng người làng Mía.
Chùa
HƯƠNG
Ngày trước có một người con gái mùa
xuân theo cha mẹ đi trẩy hội chùa Hương đã phải lòng một chàng trai tài hoa
phong nhã. Tâm tình của cô gái ấy với những lời lẽ e ấp vụng dại đã được nhà
thơ Nguyễn Nhược Pháp ghi lại qua một thiên ký sự bằng thể thơ năm chữ nổi
tiếng trên đất Việt hơn nửa thế kỷ qua. Ngày nay cảnh vật Hương Sơn có khác đi
ít nhiều, nhưng hành trình đến chùa Hương vẫn là một cuộc hành trình trở về
thiên nhiên và cội nguồn. Chúng ta hãy lần theo dấu chân cô gái ngày trước mà
tìm đến với "Nam thiên đệ nhất động" (Động đẹp nhất trời Nam).
Chùa Hương nằm trên địa bàn xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây,
cách Hà Nội 60km. Thật ra chùa Hương không phải là một ngôi chùa mà là một hệ
thống chùa chiền, đền thờ và hang động nằm trong khu vực có những ngọn núi đá
vôi và rừng nhiệt đới, diện tích tất cả khoảng chừng 6km2.
Theo truyền thuyết, vùng núi có hang động này được tìm thấy cách đây hơn
hai nghìn năm và đã được đặt tên Hương Sơn - lấy tên một ngọn núi ở phía Bắc
Tuyết Sơn trong dãy Himalaya (Ấn Độ), nơi đức Phật đã ngồi tu khổ hạnh suốt 6
năm ròng rã. Đời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã có am thờ Phật dựng trên mảnh
dất chùa Thiên Trù. Theo sách Hương Sơn Thiên Trù thiên phú thì chùa Hương được
xây dựng từ đời Lê Huy Tông niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1705). Bia tại chùa
Thiên Trù có ghi rằng việc xây dựng nền đất, bậc đá và tôn tạo Kim Dung bảo
điện của chùa được thực hiện vào năm 1686 ; còn pho tượng chính trong chùa -
tượng Bồ-tát Quan Âm - xưa kia vốn bằng đồng được đúc năm 1767.
Hàng năm, hội chùa Hương mở từ ngày mồng sáu tháng giêng đến rằm tháng
ba âm lịch , trải dài trên ba tuyến chính : tuyến động Hương Tích, tuyến chùa
Tuyết và tuyến chùa Long Vân. Trên thực tế, suốt trong tháng giêng và tháng
hai, cảnh chùa luôn luôn đông vui tấp nập và khách thập phương chủ yếu vãn cảnh
chùa theo tuyến động Hương Tích.
Từ Hà Nội, đi xe vào thị xã Hà Đông, lên thị trấn Vân Đình, qua gần 20km
nữa là tới Bến Đục, nằm bên bờ sông Đáy. Đây là cửa ngõ vào khu danh lam thắng
cảnh, thuyền đò chen chúc. Từ Bến Đục, khách đi bộ gần 1km sẽ đến bến đò để lên
thuyền xuôi theo một dòng suối có tên là Yến Vĩ (đuôi con chim én).
Thuyền đi, Bến Đục qua.
Mỗi lúc gặp người ra,
Thẹn thùng em không nói :
Nam mô A-di đà !.
Thuyền đưa du khách lướt bên những ngọn núi đá nên thơ như núi Voi, núi
Rồng … cùng với nhịp cầu ở phía xa gợi lên khung cảnh non Tiên nước Phật :
Réo rắt suối đưa quanh
Ven bờ, ngọn núi xanh
Dịp cầu xanh nho nhỏ
Cảnh đẹp gần như tranh
Đến đền Trình, thuyền ghé vào để du khách "trình diện" với sơn
thần sở tại trước khi đặt chân lên cõi Phật. Đền nằm dưới chân một quả núi dựng
lên năm ngọn nên được đặt tên là Ngũ Nhạc. Đền còn có tên Quan Lớn, thờ một bộ
tướng của vua Hùng.
Rời đền Trình, du khách tiếp tục cuộc hành trình bằng đường thủy ngắm
cảnh hai bên dòng suối :
Sau núi Oản, Gà, Xôi
Bao nhiêu là khỉ ngồi
Tới núi con Voi phục
Có đủ cả đầu đuôi.
Thuyền dừng ở Bến Trò cho du khách bước lên khu vực chùa Thiên Trù (Bếp
Trời), tức là chùa Ngoài. Ngày xưa, chùa được xây khuất trong bốn vách núi, có
đến vài chục gian, nhưng đã bị tàn phá trong chiến tranh. Nam Thiên môn được
xây dựng dưới triều vua Gia Long (năm 1809) cũng bị phá hủy. Một kiến trúc cổ
còn lại là Viên Công bảo tháp được xây dựng từ thế kỷ XVII, nơi đặt xá lợi
Thiền sư Viên Quang, người có công trùng tu chùa Hương sau nhiền năm hoang phế.
Nhìn từ xa, tháp như cây bút hồng ngọn vút cao lên trời. Ở đây còn có Thiên
Thủy tháp là một mỏm đá mọc ngược thành một cây tháp thiên tạo, nước mưa trên núi
theo tháp chảy xuống. Năm 1986, chùa Thiên Trù đã được phục dựng lại gác chuông
và đến năm 1989 thì xây xong nhà Tam bảo hai tầng theo kiểu chữ
"Đinh". Đầu năm 1994, chùa đã xây dựng lại Nam Thiên môn (cửa trời
Nam) theo nguyên mẫu.
Từ khu vực chùa Ngoài, du khách l;ần theo con đường dốc trên các sườn
núi đá để ghé thăm chùa Tiên Sơn xây trong động giữa lòng một quả núi, có bốn
pho tượng quí bằng hồng thạch. Tiếp đó là chùa Giải Oan, nơi có giếng nước
trong vắt gọi là "Thiên nhiên thanh trì" hay còn gọi là giếng Long
Tuyền. Trước chùa có suối chín nguồn gọi là suối Giải Oan. Gần chùa là động
Tuyết Kinh và am Phật Tích, nơi có tảng đá tương truyền lưu dấu chân Quan Âm
Bồ-tát. Cách đó không bao xa, du khách bước chân đến núi Chấn Song để thăm
viếng cửa Võng.
Đích xa nhất mà du khách vãn cảnh chùa muốn đạt đến là động Hương Tích
nằm sâu ở phía trong. Du khách bước qua một cổng lớn ở phía trên, rồi theo
những bậc đá rộng đi xuống động. Cửa động trông như hàm rồng, phía trong có năm
chữ Hán "Nam Thiên đệ nhất động", tạc vào đá, tương truyền là bút
tích của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm khắc vào năm 1770. Hai hàng cây cổ thụ tầng
cao bóng cả chen cành kết lá phủ lên cửa động. Ánh nắng lọt qua lá cây tạo nên
một thứ ánh sáng mờ ảo trải trên các bậc đá, cộng với khói hương từ lòng động
bay lên tạo thành một không gian huyền diệu như lời ca trong bài hát Chùa Hương
của Nhạc sĩ Hoàng Quý : "Chùa Hương khói trầm ngút bay những khi nắng tàn,
phút giây chìm đắm trong mơ màng".
Vào trong động, du khách chiêm ngưỡng tượng Bà Chúa Ba (Bồ-tát Quan Thế
Âm) cùng nhiều tượng Phật, Bồ-tát … Trên vách động thạch nhũ rũ xuống muôn hình
muôn vẻ, màu sắc biến ảo : hình Đụn Gạo, Đụn Tiền, Cây Vàng, Cây Bạc, Buồng
Tằm, Nong Kén, Hòn Cậu, Hòn Cô … Trên trần động thạch nhũ còn nhô ra thành hình
chín đầu rồng sinh động gọi là tòa Cửu Long. Ngắm nhìn những dáng hình kỳ tú đó
của thiên nhiên, cô gái trong thơ Nguyễn Nhược Pháp đã thốt lên :
Ôi ! Chùa Trong đây rồi !
Động thắm bóng xanh ngời
Gấm thêu trần thạch nhũ
Ngọc nhốm hương trần rơi.
Còn nhà thơ Chu Mạnh Trinh ở thế kỷ trước thì cảm tác thành bài Thú
Hương Sơn nổi tiếng :
Bầu trời cảnh bụt
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây
"Đệ nhất động" hỏi rằng đây có phải !
Nhác trông lên ai khéo họa hình
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây …
Như trên đã nói, ngoài động Hương Tích, du khách còn có thể rẽ qua rừng
mơ thăm chùa Hinh Bồng, theo suối Tuyết vào đền Mẫu Hạ rồi đến núi Thuyền Rồng,
núi Con Phượng, hòn Đầu Sư Tử, vách đá Kỳ Sơn Tú Thủy và sau đó đến bến Tuyết
Sơn vào chùa Bảo Đài. Leo núi đến Bạch Tuyết môn, vào điện Cô, du khách tới
thăm chùa Tuyết Sơn còn có tên là Ngọc Long động. Nơi đây, vào năm 1770, Trịnh
Sâm có làm bài thơ Đăng Tuyết sơn hữu hứng.
Ở hướng khác, một nhánh của dòng suối Yến đưa du khách qua núi Ông Sư Bà
Vãi, lên thuyền vào thăm chùa Long Vân, leo núi thăm chùa Cây Khế, và hang Sũng
Sàm, một di chỉ khảo cổ ghi dấu tích người xưa.
Giã từ cảnh đẹp Hương Sơn, du khách có thể mang về làm kỷ vật một gậy
trúc đã chống trên đường hành hương, vài mảnh gốc mơ già để pha nước uống,
những quả mơ dày cùi nhỏ hạt và mấy mớ rau đắng nấu canh hương vị thơm ngon.
Nhưng cái quí nhất mà người đi chùa Hương có được là một tâm hồn như đã tẩy
sạch bụi trần, lâng lâng một niềm vui thoát tục với những ấn tượng không phai
mờ bề một chốn Thiên Thai ngay trên trần gian như ca dao đã miêu tả :
Một vùng non nước bao la
Rằng đây Lạc quốc hay là Đào nguyên
Hương Sơn là chốn non tiên
Bồng lai mà thấy ở miền trần gian.
Chùa TÂY PHƯƠNG
(SÙNG PHÚC TỰ)
Cách Hà Nội 37km về hướng Tây, ở thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch
Thất, tỉnh Hà Tây có một quả núi cao khoảng 50m nằm trên một địa thế rất đẹp :
giữa một rừng cây cối tre trúc xanh rờn che kín những mái nhà tranh ẩn trên
sườn núi.
Đó là núi Câu Lậu. Có tài liệu cho rằng sở dĩ ngọn núi này có tên như
vậy vì hình nó cong cong như chiếc lưỡi câu. Nhưng xét về từ nguyên học, thì
tên núi theo âm cổ vốn là "Klâu", nghĩa là núi Trâu, về sau có sách
vở ghi theo âm chữ Hán là Câu Lậu. Người ta sẽ hiểu được điều này khi đứng từ
xa nhìn ngọn núi này kết hợp với các ngọn đồi vùng Kim Quan tạo thành một dãy
núi đồi chạy dài từ Ba Vì xuống giữa đồng bằng, trông chẳng khác nào một đàn
trâu mà núi Câu Lậu là con trâu mẹ đang quay đầu nhìn lại đàn con.
Từ chân núi Câu Lậu, leo lên 239 bậc đá ong, chúng ta sẽ đứng trước cổng
danh lam thuộc loại tiêu biểu về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc ở nước ta :
Chùa Tây Phương, tên chữ là Sùng Phúc Tự, còn có tên khác là Hoành Sơn Thiếu
Lâm Tự.
Năm 1632, vào đời vua Lê Thần Tông, chùa xây dựng thượng điện 3 gian và
hậu cung cùng hành lang 20 gian. Khoảng những năm 1657 - 1682, Tây Đô Vương
Trịnh Tạc lại cho phá chùa cũ, xây lại chùa mới và tam quan. Đến năm 1794 dưới
thời Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với tên mới là "Tây Phương Cổ
Tự" và hình dáng kiến trúc còn để lại như ngày nay.
Bia chùa Tây Phương lập năm 1924 có ghi lại sự việc "Sadi Thiết Tử,
tên tự là Thanh Ngọc, quê làng Cao Xá, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông, xuất gia
từ nhỏ, đến năm 1893 đến ở chùa Sùng Phúc tức chùa Tây Phương núi Câu Lậu. Vùng
núi này là nơi danh lam thắng cảnh tích phát anh tài, hương thiền phảng phất.
Vì vậy các thân hào kỳ lý trong xã họp lại nhất trí tu tạo và sửa sang 3 tòa tự
vũ, nhiều lần chấn chỉnh, đồng thời tạc tượng Quan Âm trăm tay cùng tượng Thiện
Tài Long Nữ. Cũng trong thời gian này còn tạc thêm tượng Bát bộ Kim Cương, Thập
bát La-hán vàng son lộng lẫy …".
Chùa gồm 3 nếp nhà làm bằng gỗ lim rắn chắc xếp theo hình chữ
"Tam" : tòa bái đường, tòa chính điện và tòa hậu cung. Ba tòa nhà này
cách nhau 1,60m, tạo nên một nhịp điệu kiến trúc độc đáo. Hệ thống cửa sổ hứng
lấy ánh sáng lung linh từ bên ngoài, tạo cho nội thất một khung cảnh thoát tục,
phù hợp với triết lý sắc sắc không không của nhà Phật.
Mỗi nếp chùa có hai tầng mái kiểu chồng diêm, tám mái và tám góc là các
đầu đao vươn lên cong vút với những đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng,
phượng. Vật liệu xây chùa chủ yếu là gạch Bát Tràng để trần, các cột gỗ đều kê
trên tảng đá xanh tròn khắc hình cánh sen. Mái lợp gồm hai lớp ngói : lớp trên
là ngói đầu mũi đúc hình lá đề nổi, lớp dưới là ngói lót hình vuông sơn ngũ
sắc. Xung quanh diềm mái của ba tòa nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện
cuốn, trên mái gắn nhiều con giống bằng đất nung.
Khắp chùa hầu như chỗ nào có gỗ là có chạm trổ những hình tượng trang
trí quen thuộc của dân tộc ta : hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng,
phượng, hổ phù … rất tinh xảo.
Du khách đến thăm chùa Tây Phương chưa hết bàng hoàng trước vẻ đẹp hoành
tráng của kiến trúc thì lại càng sửng sốt khi chiêm ngưỡng thế giới sinh động
của 72 pho tượng gỗ sơn son thếp vàng. Trên đất nước ta không ở đâu có được một
phòng triển lãm tuyệt vời và độc đáo như thế với nghệ thuật điêu khắc tôn giáo
nhưng lại phản ánh những đặc điểm dân tộc của con người Việt Nam. 72 pho tượng
gỗ của chùa Tây Phương là 72 công trình nghệ thuật đích thực, mỗi pho tượng
biểu hiện không chỉ cuộc đời, tính cách mà cả thế giới tâm linh của các vị
Phật, Bồ-tát và La-hán…
Hệ thống tượng ở chùa Tây Phương gồm :
1- Bộ tượng Tam Thế với ba pho tượng Phật : Quá khứ, Hiện tại, Vị lai
(còn gọi là Tam thân : Pháp thân, Ứng thân và Hóa thân) ngồi ở tư thế tọa
thiền, y phục gập nếp đơn giản phủ kín cơ thể.
2- Bộ tượng Di-đà Tam Tôn : gồm tượng đức Phật A-di-đà, đứng hai bên là
Bồ-tát Quan Âm và Bồ-tát Thế Chí.
3- Tượng Tuyết Sơn miêu tả đức Phật Thích-ca trong thời kỳ tu khổ hạnh :
mỗi ngày ăn một hạt kê, một hạt vừng, tự hành xác để vươn lên thế giới tinh
thần sáng láng. Tượng màu đen thẫm khoác áo cà sa mỏng, tay chân gầy khẳng
khiu, xương nổi lên trước ngực. Toàn bộ cơ thể chìm trong suy tưởng, mắt trũng
sâu, hướng về nội tâm.
4- Tượng đức Phật Di-lặc tượng trưng cho vị Phật của thế giới cực lạc
tương lai. Người mập mạp, ngồi hơi ngả về phía sau, toàn thân toát ra sự thỏa
mãn, sung sướng.
5- Tượng Bồ-tát Văn-thù : đứng chắp tay, chân đi đất, các ngón chân bấm
móng xuống mặt bệ.
6- Tượng Bồ-tát Phổ Hiền : chắp tay trước ngực, khuôn mặt sáng rộng nổi
lên trên tấm thân phủ đầy y phục.
7- Tượng Bát bộ Kim Cương, thể hiện trình độ rất cao về nghệ thuật lắp
ghép gỗ và cách bố cục, chuyển động của một thân thể mang giáp trụ trong các
thế võ.
8- Mười sáu pho tượng Tổ với phong cách hiện thực : Đó là Ưu-ba-cầu-đa,
Đê-đa-ca, Di-trà-ca, Ba-tu-mật, Phật-đà Nan-đề, Phục-đa-mật-đa, Hiếp Tôn giả,
Phương Nam Hòa Tu, Mã Minh, Ca-tỳ-ma-la, Long Thụ Tôn giả, La-hầu-la-đà,
Tăng-già Nan-đề, Già-gia-xá-đa, Cưu-ma-la-đa, Chà-dạ-đa.
Thế giới tượng trong nội thất chùa Tây Phương đã từng là nguồn cảm hứng
cho nhiều văn nhân, nghệ sĩ . Năm 1960, nhà thơ Huy Cận đến thăm chùa, đã làm
những câu thơ rất sống động và gợi cảm về hình tượng những con người đắc đạo mà
lòng vẫn trầm ngâm suy tưởng về những khổ đau quần quại của chúng sinh. Những
pho tượng sống động này phản ánh những sự tích của nhà Phật, đồng thời biểu
hiện thế giới tinh thần của những nghệ nhân đã sáng tạo ra. Tất cả những bộ
phận trên cơ thể đều mang dấu vết của nỗi đau trần thế : mắt giương, mày nhíu
xệch, trán như nổi sóng, môi cong chua chát, bàn tay cân vặn, đôi tai rộng dài
ngang gối nghe đủ chuyện buồn vui của đời người. Tất cả các giác quan của con
người như đều căng lên trong từng thớ gỗ :
Các vị ngồi đây trong lặng yên
Mà nghe giông bão nổ trăm miền
Như từ vực thẳm đời nhân loại
Bóng tối đùn ra trận gió đen.
Từ những biểu hiện sinh động đó của nỗi đau đời thương người, nhà thơ
rút ra một nét đặc trưng chung của các vị : niềm băn khoăn, day dứt trước lẽ tử
sinh, ý nghĩa và hướng đi của cuộc đời. Câu hỏi đè nặng tâm hồn các vị không
tìm lấy sự giải thoát cho riêng mình mà tìm sự giải thoát cho cả chúng sinh.
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
Câu hỏi đó không chỉ ám ảnh những con người sống trong buổi hoàng hôn
của một thế kỷ chìm trong đau thương, mà vẫn còn là nỗi băn khoăn day dứt khôn
nguôi của con người trên con đường đến Chân - Thiện - Mỹ.
HẢI HƯNG
Chùa
CÔN SƠN (TƯ PHÚC TỰ)
Thời nhà Trần, nước ta có các trung tâm Phật giáo lớn là Yên Tử, Côn
Sơn, Quỳnh Lâm và Vĩnh Nghiêm. Nhà tổ ổ Côn Sơn còn thờ tượng Trúc Lâm tam Tổ
(ba vị Tổ phái Thiền Trúc Lâm) là Trần Nhân Tông (1258 - 1308), Thiền sư Pháp
Loa (1284 - 1330) và Thiền sư Huyền Quang (1254 - 1334).
Không phải ngẫu nhiên mà Thiền sư Pháp Loa đã dựng am Bạch Vân ở Côn Sơn
và Thiền sư Huyền Quang đã chọn nơi đây tu hành vào những năm tháng cuối đời.
Côn Sơn (cách thị xã Hải Dương 15km, nay thuộc xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh,
tỉnh Hải Hưng, vốn là tên một ngọn núi cao khoảng 200m so với mặt biển, có ba
nhóm nhô lên như một con kỳ lân phủ phục, nên còn tên là Lân Sơn. Leo khỏi 600
bậc đá, đứng trên đỉnh núi nhìn khắp chung quanh sẽ thấy hiện ra "Một vùng
cây cỏ tận hưởng niềm vui thưởng thức, sông núi bao la thu vào tầm mắt ngóng
trông" (Nhật thiên thảo mộc cùng ngu hưởng. Bất tận giang sơn nhập chỉ
huy) như vua Lê Thánh Tông đã viết.
Và không phải ngẫu nhiên mà vua Trần Nghệ Tông đã đặt tên cho mấy nếp
nhà bên suối dưới khe núi Côn Sơn, với thạch bàn giữa thiên nhiên đầy cỏ hoa và
khóm trúc, trên đầu non khói tỏa là Thanh Hư động : nơi ở thanh tịnh vắng vẻ
như động tiên giữa chốn hư không. Khi trụ trì ở đây, Thiền sư Pháp Loa đã cảm
hứng giữa đất trời tao nhã :
Sự đời quên cả chẳng lôi thôi
Chiếc chõng quanh năm bó gối ngồi
Ngày tháng chẳng còn sờ đến lịch
Thấy hoa cúc nở đoán thu rồi.
(Nguyễn Trọng Thuật dịch)
Nằm ở chân núi phía Nam, chùa Côn Sơn, tên chữ là Tư Phúc Tự, được xây
dựng từ thời Lý, dân gian thường gọi là chùa Hun (nơi đốt than). Tương truyền
rằng vua Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã từng đến thăm chùa. Vào đời Lê, lúc
Thiền sư Mai Trí Bản hiệu Pháp Nhãn trụ trì, chùa được trùng tu và mở rộng, có
đến 83 gian, bao gồm tam quan, thượng hạ điện, tả hữu vu, lầu chuông, gác trống
… Bị chiến tranh tàn phá, ngày nay chùa Hun chỉ còn là một ngôi chùa nép mình
dưới tàn lá xanh của những cây cổ thụ : thông, đại và hương bài.
Phía trước, ngay lối đi vào chùa có một tấm bia đá đặt trên lưng rùa
khắc ba chữ "Thanh Hư Động", bút tích của vua Trần Nghệ Tông. Bên
trái là nhà bia cũ dựng năm 1608, có tấm bia ghi bài minh nhan đề "Côn Sơn
Tư Phúc Thiền Tự Bi" nói về việc trùng tu chùa.
Bên đường dẫn lên đỉnh núi rợp bóng cây phía sau chùa là khu mộ tháp,
nổi bật là Đăng Minh bảo tháp dựng bằng đá xanh, cao 3 tầng, trong đặt xá lợi
và tượng Thiền sư Huyền Quang.
Chùa Côn Sơn đã chứng kiến một chặng đường đời và bi kịch của người anh
hùng dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi. Thanh Hư động chính là nơi Băng Hồ
tướng công Trần Nguyên Đán, ông ngoại nhà thơ, ẩn dật. Mấy gốc thông già trải
qua sương nắng hơn sáu thế kỷ còn đứng đó là do chính tay Trần Nguyên Đán
trồng, như thơ của Băng Hồ tướng công đã ghi lại :
Xuân nhật tảo di hoa ảnh động
Thu phong vãn tống hạc thanh lai
Lưu Quang điện hạ tùng thiên thụ
Tận thị kình thiên nhất thủ tài.
Nghĩa là :
Nắng xuân sớm động bóng hoa
Gió thu hiu hắt chiều tà hạc kêu
Lưu Quang thềm điện xanh rêu
Chống trời thu biếc do đều một tay.
Một phần tuổi thơ của mình, từ lúc 5 tuổi đến lúc 10 tuổi, Nguyễn Trãi
sống với ông ngoại. Sau những năm tham gia triều chính, Nguyễn Trãi lui về Côn
Sơn. Dòng suối Côn Sơn đã in bóng nhà thơ ngồi trên thạch bàn những ngày ẩn
dật. Cảnh đẹp Côn Sơn đã gợi nên cảm hứng để Nguyễn Trãi sáng tác nhiều bài thơ
trong Quốc Âm thi tập :
Côn Sơn có suối rì rầm
Ta nghe tiếng suối như cầm bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm …
Nhưng bi kịch của lịch sử đã không để cho nhà thơ được yên nghỉ tuổi già
dưới bóng thông và ngâm thơ nhàn. Vụ án Lệ Chi Viên với cái chết đột tử của Lê
Thái Tông vào tháng 9 năm 1442 đã dẫn đến hình phạt tru di tam tộc đối với Khai
quốc công thần Nguyễn Trãi. Học trò Nguyễn Trãi đã đưa thi hài nhà thơ về mai
táng trên núi Giáp Sơn, phía Đông Bắc núi Côn Sơn. Gần đó, trên đỉnh núi Tam
Tiên là ngôi mộ Nguyễn Phi Khanh, thân sinh Nguyễn Trãi.
Một lần về Côn Sơn, nhà thơ Trần Đăng Khoa chợt thức giấc lúc nửa đêm và
cảm nhận được hồn thiêng của Ức Trai còn hòa lẫn với thiên nhiên cảnh vật :
Ngang trời kêu một tiếng chuông
Rừng xưa nổi gió, suối tuôn ào ào.
Đồi thông sáng dưới trăng cao
Như hồn Nguyễn Trãi năm nào về thăm.
HẢI PHÒNG
Chùa DƯ
HÀNG (PHÚC LÂM TỰ)
Tọa lạc ở phố Dư Hàng, phường Hồ Nam, quận Lê Chân, đây là ngôi chùa cổ
nổi tiếng ở thành phố Hải Phòng. Chùa có tên chữ là Phúc Lâm Tự, lúc đầu chỉ
dựng bằng tre lá. Tương truyền vào đời Trần, Giác Hoàng Điều Ngự Trần Nhân Tông
và Thiền sư Huyền Quang vẫn thường đến dây thuyết giảng đạo pháp. Đến đời Lê
Gia Tông, năm 1672, quan Đô úy Nguyễn Đình Sách từ quan xuất gia, lấy đạo hiệu
là Chân Huyền, thấy cảnh chùa đổ nát, mới đứng ra vận động nhân dân sửa chùa.
Đến đời vua Thành Thái, Hòa thượng Thông Hạnh tự Phúc Nguyên thuộc phái Vĩnh
Nghiêm đã trùng tu mở rộng chùa, xây gác chuông. Năm 1917 chùa lại được sửa
sang một lần nữa với quy mô như ngày nay.
Chùa Dư Hàng được xây dựng theo kiểu "Đinh", có cổng tam quan
ba tầng mái cao vút. Một chuông lớn được treo trên gác chuông năm gian hai
tầng, mái cong. Qua gác chuông là một sân rộng có đặt một đỉnh lớn và tượng
Bồ-tát Quán Thế Âm. Tiền đường gồm bảy gian dựng theo kiểu vì kèo giá chiêng ;
bên phải là năm gian nhà tổ, nhà trai và nhà ngang ; còn bên trái là năm gian
nhà hậu. Năm gian thượng điện cũng được dựng bằng gỗ có những vì kèo được chạm
trổ tinh tế.
Chính điện có nhiều tượng được chạm khắc tinh xảo, như tượng Phật, tượng
Hộ Pháp, tượng Trúc Lâm tam Tổ và câu đối chạm khắc theo phong cách nghệ thuật
triều Nguyễn. Bức chạm lộng sơn son thếp vàng rực rỡ ở chánh điện do các nghệ
nhân Hà Nam Ninh tạc vào đầu thế kỷ XIX. Chùa còn giữ được nhiều di vật quý như
đỉnh đồng, khánh đồng, bát hương, tủ chạm.
Ngoài vườn chùa có 9 tháp mộ, trong đó có nhóm tháp "Trúc Lâm tam
Tổ", tháp của Thiền sư Chân Huyền Nguyễn Đình Sách và các vị cao tăng từng
trụ trì ở chùa.
Phúc Lâm Tự xứng đáng là một di tích kiến trúc cổ kính, một danh lam nơi
đất cảng Hải Phòng.
NAM HÀ
Chùa
THÁP (PHỔ MINH TỰ)
Nhà Trần là một triều đại làm vẻ vang cho lịch sử dân tộc Việt Nam với
ba lần đại thắng quân Nguyên xâm lược vào thế kỷ XIII. Tổ tiên nhà Trần vốn làm
nghề chài lưới trên sông Châu chảy qua đất Nam Định . Ở hữu ngạn sông Châu đã
hình thành hương Tức Mạc, nay thuộc xã Lộc Vượng, cách thành phố Nam Định
khoảng 5km về phía Bắc, là nơi sinh của người anh hùng Trần Quốc Tuấn và cũng
là đất tổ của nhà Trần.
Khi vừa lên ngôi, Trần Thái Tông đã biến quê hương Tức Mạc của mình
thành một công trường lớn. Từ năm 1239 thợ thuyền được tuyển chọn cùng với phu
lính làm việc ròng rã mấy chục năm liền để xây dựng những lâu đài, cung điện,
đền miếu, dinh thự, chùa chiền trên mảnh đất này. Mùa xuân năm 1262 Trần Thánh
Tông về hành cung Tức Mạc ban yến lớn, hậu thưởng các hương lão và đổi hương
Tức Mạc thành phủ Thiên Trường. Trong phủ Thiên Trường có hai cung điện được
xây cất nguy nga lộng lẫy là cung Trùng Quang và cung Trùng Hoa để vua nối ngôi
ở khi về chầu. Ngày nay hai cung điện đó đã bị chiến tranh tàn phá nhưng các
địa danh ở đây đều gắn liền với những sự tích xa xưa : cảnh nội cung trước kia
là sân trong phủ, cánh đồng cũ xưa là nơi giam giữ tù nhân dùng vào việc xây
cất cung điện. Các xóm làng ở quanh phủ như Liễu Nhai xưa là vườn liễu ; làng
Lựu Phố xưa là vườn lựu ; trường giảng văn, bình thơ ; làng Phường Bông xưa là
nơi diễn ca múa nhạc của hoàng tộc.
Nằm ở phía Tây cung Trùng Quang, chùa Phổ Minh vốn được xây dựng từ thời
Lý. Đến thời Trần, chùa đã được trùng tu và mở rộng cho tương xứng với vị trí
tôn quý của phủ Thiên Trường. Kiến trúc chính của chùa bao gồm chín gian tiền
đường, ba gian thiêu hương và tòa thượng điện, xếp theo hình chữ
"Công". Gian giữa nhà tiền đường có bộ cửa gồm 4 cánh bằng gỗ lim,
chạm rồng, sóng nước, hoa lá và hoa văn hình học. Hai cánh ở giữa chạm đôi rồng
lớn chầu mặt trời là tác phẩm điêu khắc gỗ đời Trần còn lưu lại cho đến ngày
nay.
Tam quan chùa có ba gian bằng gỗ, tường xây gạch, mái lợp ngói cổ, trên
cửa có bốn chữ "Đại hùng bảo điện", dưới thềm đá ba cấp làm thành bậc
ở gian giữa, hai bên có đôi sấu đá chầu. Một con đường nhỏ chạy thẳng giữa một
ao tròn, dẫn đến bức tường "bình phong" rồi đến sân trước chùa và hai
nhà bia. Bia đá bên phải đề dòng chữ "Phổ Minh Thiền Tự" khắc năm Mậu
Thân 1668. Bia đá bên trái có dòng chữ "Phổ Minh Bảo Tháp Từ Bi" khắc
năm Bính Thìn 1916.
Trong chùa ngoài hệ thống tượng Phật, Bồ-tát … được thờ ở chánh điện, có
thờ tượng Trần Nhân Tông nhập niết bàn, tượng Thiền sư Pháp Loa, Thiền sư Huyền
Quang ở hậu điện. Chuông lớn của chùa có khắc bản văn "Phổ Minh Đỉnh
Tự" đúc năm Cảnh Thịnh thứ tư (1796). Ngoài ra, xưa kia chùa còn có một
vạc lớn được xem là một trong "Tứ đại khí" của nước ta.
Sau thượng điện, cách một khoảng sân hẹp là tòa nhà mười một gian kéo
dài theo hình chữ "Nhất". Giữa là năm gian nhà tổ, bên trái là ba
gian nhà tăng, bên phải là ba gian điện thờ. Trong nhà tổ có pho tượng Bà Chúa
Mạc, người từng về tu ở chùa, tạc bằng đá trắng ngồi trên tòa sen, dựa lưng vào
bức nền có trang trí vòng ánh sáng với ba chữ "Thường tịch quang".
Hai dãy hành lang nối liền nhà tiền đường và tòa nhà 11 gian tạo thành vòng
ngoài của chữ "Quốc". Phía sau nhà tổ là vườn tháp, có tháp Bà Chúa
Mạc bằng đất nung.
Công trình kiến trúc quý giá mang phong cách đời Trần còn được bảo tồn
khá nguyên vẹn cho đến ngày nay là tháp Phổ Minh. Do công trình này mà chùa Phổ
Minh còn được gọi là chùa Tháp. Tháp dựng vào khoảng năm 1305, niên hiệu Hưng
Long thứ mười ba, đời vua Trần Anh Tông. Tháp cao khoảng 21m, gồm 14 tầng, xây
trên 12 bậc gạch, càng lên cao càng thu hẹp dần và kết thúc bằng một chỏm nhọn
hình bầu rượu có nhiều cạnh. Tầng trên đều trổ bốn cửa cuốn tò vò ra bốn phía.
Lúc đầu 13 tầng trên được xây bằng gạch trần màu đỏ sơn son, về sau một tín chủ
đã bỏ tiền trát vữa. Bệ thờ đặt trong lòng tầng tháp thứ nhất. Trang trí trên
tháp đơn giản song rất mỹ quan : các lớp cánh sen và những hoa văn dây uốn lượn
quanh cửa tháp cùng với hình rồng uốn khúc, vờn mây khắc họa trên các viên gạch
ốp mặt ngoài trông rất ngoạn mục.
Nằm giữa vùng chiêm trũng với mái chùa cổ kính, cây cổ thụ sum sê, toàn
bộ tòa tháp Phổ Minh nặng tới 700 tấn, gần 7 thế kỷ vẫn đứng vững, góp phần tạo
nên phong cảnh uy nghiêm, siêu thoát. Giác Hoàng Điều Ngự Trần Nhân Tông đã ca
ngợi thắng cảnh này như một "tiên châu" trong những tiên châu tươi
đẹp của đất nước :
Sư về trong viện câu kinh vắng
Quán ở bên sông bóng nguyệt treo
Ba chục cung tiên cây tháp đặt
Trăm ngàn cõi Phật tiếng triều reo.
(Thiên Trường hành cung)
Tương truyền rằng trong tháp Phổ Minh có tàng trữ xá lợi vua Trần Nhân
Tông. Mười bốn vua nhà Trần được thờ phụng ở đền Thiên Trường, còn gọi là đền
Trần, gần chùa Phổ Minh. Bên cạnh đền Thiên Trường là đền Cố Trạch thờ anh hùng
dân tộc Trần Hưng Đạo. Sự kết hợp hài hòa giữa đạo và đời trên mảnh đất tổ của
một dòng họ danh tiếng minh chứng cho lời khẳng định của câu ca dao cổ :
Đất Tức Mạc, phủ Thiên Trường
Từ xưa vốn dĩ danh hương lưu truyền
Nhà thờ Bùi Huy Bích (1744 -1818) đã viết bài thơ Du Phổ Minh Tự (Thăm
chùa Phổ Minh) như sau :
Loạn hậu trùng tầm đáo Phổ Minh
Nhàn hoa dã thảo mãn nham quynh
Bi văn tước lạc hòa yên bích
Phật nhãn thê lương chiếu dạ thanh
Pháp giới dữ đồng thiên quảng đại
Thổ nhân do thuyết địa anh linh
Liêu liêu cổ đỉnh kim hà tại
Thức đắc vô hình thắng hữu hình
Nghĩa là :
Sau loạn tìm về đến Phổ Minh
Hoa đồng có nội ngút trời xanh
Văn bia sứt mẻ nhòe mây khói
Mắt Phật âu sầu dõi ngũ canh
Cõi phép cùng trời bao rộng lớn
Người đây vẫn nói đất linh thiêng
Nao lòng đỉnh cổ rày đâu tá ?
Mới biết vô hình thắng hữu hình.
(Ngô Đức Thô dịch)
Chùa CỔ LỄà(THẦN
QUANG TỰ)
Cách thành phố Nam Định 15km về hướng Đông, thị trấn Cổ Lễ được nối liền
với trung tâm tỉnh lỵ Nam Hà bằng con đường số 21. Cổ Lễ vốn là tên một làng
trước đây thuộc xã Trực Nghĩa, huyện Nam Ninh ; đồng thời cũng là tên một ngôi
chùa có từ lâu đời và đã trở thành một di tích lịch sử - văn hóa của tỉnh Nam
Hà.
Tương truyền rằng chùa Cổ Lễ được sáng lập năm 1109 do Thiền sư Minh
Không, tên thật là Nguyễn Chí Thành, sinh năm 1076 tại làng Loại Trì, huyện
Chân Định, tỉnh Nam Định. Thiền sư Minh Không đã có công sang Trung Quốc xin
vua Tống cấp đồng để về nước đúc "An Nam Tứ Khí" (tượng Quỳnh Lâm,
chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, vạc Phổ Minh). Ông cũng chính là vị y sư đã
chữa cho vua Lý Thần Tông (1128 - 1138) khỏi bệnh "hóa hổ" nên được
vua phong làm Đại Pháp Thiền Sư kiêm Quốc sư. Sư viên tịch năm 1154, thọ 78
tuổi.
Kiến trúc chùa Cổ Lễ hiện nay là do Hòa thượng Phạm Quang Tuyên hạ giải
ba ngôi chùa nhỏ ở làng Cổ Lễ và lập thành vào năm 1920. Hòa thượng Phạm Quang
Tuyên là một cao tăng có kiến thức uyên bác. Chính Ngài đã thiết kế và trông
coi việc xây dựng ngôi chùa. Vật liệu xây dựng không phải là xi măng, sắt thép
mà là gạch, vôi vữa, mật mía, giấy bản tạo nên độ cố kết vững bền của toàn bộ
kiến trúc ngôi chùa.
Đứng trước chùa, vươn lên nền trời giữa những cây cổ thụ bốn mùa xanh
tươi là tháp Cửu Phẩm Liên Hoa rất độc đáo. Tháp được xây dựng những năm 1926 -
1927, có 12 tầng và một tầng đế tháp đặt trên lưng một con rùa lớn đầu hướng
vào chùa. Tháp cao 32m, có 8 mặt, các cạnh tháp đều đắp hình rồng, mái cong.
Trong lòng tháp có 62 bậc dẫn lên bàn thờ Phật trên đỉnh theo đường xoáy trôn ốc.
Tháp đứng giữa một hồ vuông, bốn góc là bốn hòn giả sơn.
Một cầu cong ba nhịp, mặt cầu lát gạch, nối liền khu tháp với một tòa
kiến trúc mái vòm cao : đó là Phật giáo hội quán. Bên trái hội quán là dãy nhà
ba gian thờ Trần Hưng Đạo và hai danh sĩ đời Trần quê ở Cổ Lễ là Bảng nhãn Đào
Sư Mỗ và Tiến sĩ đệ tam giáp Đào Toàn Mỗ.
Sau khu Hội quán Phật giáo là một khoảng sân rộng. Giữa sân chùa đặt một
quả đại hồng chung cao 4,20m, đường kính 2,20m, nặng 9 tấn, do Hòa thượng Thích
Thế Long cho đúc vào năm 1936. Chùa chính có cấu trúc mái vòm, bên trong thờ
Phật và Thiền sư Minh Không. Sau thượng điện là nhà khách và nhà tổ.
Nhờ kết hợp tinh hoa kiến trúc cổ truyền Việt Nam với các yếu tố của
phong cách kiến trúc phương Tây, chùa Cổ Lễ đã trở thành một danh lam ở vùng
đồng bằng sông Hồng.
QUẢNG NINH
Chùa
HOA YÊN (HOA YÊN TỰ)
Ở Việt Nam không hiếm các nhà vua am hiểu sâu sắc Phật học và có những
cống hiến lớn lao cho sự phát triển của Phật giáo. Nhưng làm vua mà hai lần
lãnh đạo nhân dân đánh đuổi giặc Nguyên, đuổi xong giặc lại chuyên tâm với kinh
Phật, rồi tìm nơi tu luyện, lập ra cả một Thiền phái, thì chỉ có vua Trần Nhân
Tông (1258 - 1308) mà thôi. Thật ra thì ngay từ khi còn là Thái tử, ngài đã
từng trốn khỏi thành, định vào tu ở núi Yên Tử, nhưng vua cha là Trần Thánh
Tông đã cho người gọi về. Sau những năm tháng tham gia triều chính, Trần Nhân
Tông nhường ngôi cho con và đến năm 1299, Ngài thanh thản trở lại Yên Tử.
Đây không phải là lần đầu Yên Tử đón một vị vua đến trụ trì. 63 năm
trước, đau khổ vì vận nước và ray rứt vì chuyện riêng, vua Trần Thái Tông - vị
vua sáng lập nhà Trần - đã từ bỏ ngai vàng trốn lên Yên Tử, nhưng lần đó chuyện
xuất gia không thành vì Trần Thủ Độ cho các quan lên núi đón vua về lại kinh
đô.
Có lẽ phải có một lòng quyết chí lớn lắm và một nhân duyên đặc biệt
người ta mới đến được với Yên Tử. Nằm ở giáp giới 3 tỉnh Hải Dương, Bắc Giang
và Quảng Yên (cũ), cách thị xã Uông Bí (Quảng Ninh) khoảng 15km về phía Tây
Bắc, Yên Tử là ngọn núi cao nhất (1068m) và hiểm trở nhất miền Hải Đông xưa.
Đỉnh núi thường có mây bao phủ nên ngày trước có tên là Bạch Vân Sơn. Nhìn từ
xa núi giống hình một con voi nên lại có tên là Tượng Sơn. Tương truyền vào thế
kỷ X có một đạo sĩ là Yên Kỳ Sinh tới núi này tu hành, sau hóa thành đá. Tượng
đá đó cao 2,50m bây giờ vẫn còn đứng bên đường lên đỉnh núi (ở độ cao 824m) khi
qua khỏi Cửa Trời. Núi mang tên Yên Tử có lẽ là do truyền thuyết đó.
Nói đến Yên Tử là nói đến một hệ thống chùa và những thắng cảnh trên con
đường hành hương từ chân núi lên đỉnh núi cao chót vót. Ở chân núi bên suối Cấm
có chùa Cấm Thực còn có tên là Linh Nhâm Tự ; bên suối Lân có chùa Lân còn mang
tên là Long Động Tự. Nằm bên suối Giải Oan, tên cũ là Hồ Khê, có chùa Giải Oan.
Có truyền thuyết kể rằng khi Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông vào núi, vua Trần
Anh Tông sai cung nữ theo mời về, nhưng Ngài quyết chí tu hành nên đã cự tuyệt.
Các cung nữ nhảy xuống suối này trầm mình. Một số được cứu sống, ở lại sinh cơ
lập nghiệp phía ngoài chùa. Còn số chết, vua cho lập đàn cầu siêu, dựng chùa
Giải Oan, trong có thờ tượng các cung nữ.
Qua dốc Voi Xô thì đến núi Hạ Kiệu, nơi các vua nhà Trần đến yết kiến
Trần Nhân Tông phải xuống kiệu đi bộ. Trên con đường rợp bóng cổ tùng gồm thanh
tùng, thủy tùng và xích tùng, ta sẽ gặp Hòn Ngọc, rồi Huệ Quang Kim Tháp. Đây
là khu mộ tháp gồm tháp Tổ thờ ngài Điều Ngự Giác Hoàng (Trần Nhân Tông) làm
bằng đá cao 10m có 6 tầng ; phía ngoài tường gạch quây quần 44 ngôi tháp, là
nơi tôn trí hài cốt của các vị sư tu hành ở đây.
Nằm trên lưng chừng núi ở độ cao 516m, chùa Hoa Yên là ngôi chùa to nhất
và đẹp nhất nên còn gọi là chùa Cả. Chùa này vốn được dựng từ đời Lý, tên là
Phù Vân ; tới đời Trần đổi tên là Vân Yên : vào đời Lê, vua Lê Thánh Tông ngự
du thăm chùa, thấy hoa cỏ xanh tươi, mới đặt tên là Hoa Yên.
Con đường quanh co dẫn lên đỉnh núi nối liền chùa Hoa Yên với chùa Một
Mái, chùa Bảo Sái, chùa Vân Tiêu và chùa Thiên Trúc tức chùa Đồng (độ cao
1068m). Chùa Đồng trước đây đã bị hư hại, nay đã được sửa sang lại. Ở đây, còn
một bia đá cao 3m, mặt trước khắc ba chữ "Thiên Trúc Tự", mặt sau
khắc chữ "Phật".
Không gian quanh chùa Hoa Yên gây ấn tượng sâu sắc trước hết ở những cây
đại già và những hàng tùng sống qua 5-7 thế kỷ nay. Hình ảnh bóng trăng lồng
vào những cành cây cổ thụ đã hơn một lần đi vào thơ Huyền Quang :
Hơi đêm phả lạnh bức rèm lan
Xào xạc cây sân thu đã sang
Quên đến trúc đường hương lựu tắt
Cành thông ngời khắp lưới trăng đan
(Ngô Linh Ngọc dịch)
Còn Nguyễn Trãi khi đến thăm chùa thì lại bắt gặp cái thời khắc giao
tiếp giữa bóng đêm vừa tan và ánh ngày đã ló rạng :
Trên non Yên Tử chòm cao nhất
Trời mới canh năm đã sáng tinh
Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả
Nói cười người ở giữa mây xanh
Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa
Bao dải tua châu đá rũ mành
Dấu cũ Nhân Tông vẫn còn đấy.
Mặt rồng thấy giữa ánh quang minh
(Đề chùa Hoa Yên núi Yên Tử)
Vâng, dấu cũ Nhân Tông vẫn còn đó ! Còn nơi chùa Thiền Định, chỗ vua
Trần xưa đọc kinh niệm Phật. Còn nơi chùa Một Mái, chỗ vua Trần đọc sách nghiên
cứu đạo Thiền.
Chùa Hoa Yên cùng với toàn bộ hệ thống chùa Yên Tử nằm hài hòa giữa
thiên nhiên hùng vĩ là một dẫn chứng rõ nét về sự dung hợp hai quan niệm đạo và
đời của dân tộc ta.
THÁI BÌNH
Chùa
KEO (THẦN QUANG TỰ)
Hằng năm vào ngày mùng bốn tháng giêng âm lịch, nhân dân làng Keo xã Duy
Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình lại mở hội xuân ngay ở ngôi chùa mang tên
làng.
Hơn chín tháng sau, vào các ngày 13, 14, 15 tháng 9 âm lịch, chùa Keo
lại mở hội mùa thu. Đây là hội chính, kỷ niệm 100 ngày Thiền sư Không Lộ (1016
- 1094), người sáng lập ngôi chùa, qua đời (Ngài qua đời ngày 3 tháng 6 âm
lịch). Trong ngày hội, người ta tổ chức lễ rước kiệu, hương án, long đình,
thuyền rồng và tiểu đỉnh. Trên con sông Trà Linh ngang trước chùa chảy ra sông
Hồng, người đi hội đổ về xem cuộc thi bơi trải, thi kèn trống, thi bơi thuyền
và biểu diễn các điệu múa cổ. Trong chùa thì có cuộc thi diễn xướng về đề tài
lục cúng : hương, đăng, hoa, trà, quả, thực, thật sinh động.
Dù cho cha đánh mẹ treo,
Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.
Nếu có dịp về thăm chùa Keo, thì du khách hãy đến vào hội mùa thu. Từ
thành phố Nam Định, qua phà Tân Đệ, rẽ phải, theo đê sông Hồng đi khoảng 10km
là đến chùa. Nằm ở chân đê sông Hồng giữa vùng đồng bằng không một bóng núi
non, chùa Keo với gác chuông như một hoa sen vươn lên giữa biển lúa xanh rờn
được vun bón bởi phù sa sông Hồng do nước sông Trà Linh bồi đắp.
Chùa Keo có tên chữ là Thần Quang Tự, được xây dựng từ năm 1630 đến năm
1632 theo phong cách kiến trúc thời Lê, nhờ sự vận động của bà Lại Thị Ngọc, vợ
Tuần Thọ Hầu Hoàng Nhân Dũng và Đông Cung Vương phi Trịnh Thị Ngọc Thọ.
Nhưng lịch sử của ngôi chùa thì có bề dày đến hơn 9 thế kỷ. Theo sách
Không Lộ Thiền Sư ký ngữ lục, năm 1061, Không Lộ dựng chùa Nghiêm Quang tại
làng Giao Thủy (tên nôm là làng Keo) bên hữu ngạn sông Hồng. Sau khi Thiền sư
Không Lộ qua đời, chùa Nghiêm Quang được đổi tên là Thần Quang Tự. Theo thời
gian, nước sông Hồng xói mòn dần nền chùa và đến năm 1611, một trận lũ lớn đã
cuốn trôi cả làng mạc lẫn ngôi chùa. Dân làng Keo phải bỏ quê cha đất tổ ra đi
: một nửa dời về Đông Nam hữu ngạn sông Hồng, về sau dựng nên chùa Keo - Hành
Thiện (nay thuộc tỉnh Nam Hà) ; một nửa vượt sông đến định cư ở phía Đông Bắc
tả ngạn sông Hồng, về sau dựng nên chùa Keo - Thái Bình này.
Văn bia và địa bạ chùa Keo còn ghi lại diện tích toàn khu kiến trúc chùa
rộng đến 58.000 m2. Hiện nay toàn bộ kiến trúc chùa còn lại 17 ông
trình gồm 128 gian xây dựng theo kiểu "Nội công ngoại quốc". Từ cột
cờ bằng gỗ chò thẳng tắp cao 25m ở ngoài cùng, đi qua một sân lát đá, khách sẽ
đến tam quan ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh cửa chạm rồng chầu thế kỷ
XVI. Sau đó là chùa thờ Phật, gồm 3 ngôi nhà nối vào nhau. Trong cùng là tòa
gác chuông, nhà tổ và khu tăng xá.
Gác chuông chùa Keo là một công trình nghệ thuật bằng gỗ độc đáo, tiêu
biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam thời Hậu Lê. Được dựng trên một nền gạch xây
vuông vắn, gác chuông cao 11,04m gồm 3 tầng mái, kết cấu bằng những con sơn
chồng lên nhau. Bộ khung gác chuông làm bằng gỗ liên kết với nhau bằng mộng
ngậm, nâng bổng 12 mái ngói với 12 đao loan uốn cong dáng vẻ thanh thoát, nhẹ
nhàng. Tầng trên treo khánh đá 1,20m và chuông đồng cao 1,30m, đường kính 1m
đúc vào đời Lê Hy Tông (1686) ; hai tầng trên treo chuông nhỏ cao 0,62m, đường
kính 0,69m đúc vào năm1796.
Đứng soi mình xuống hồ nước phẳng lặng giữa một không gian thoáng đãng,
chùa Keo không chỉ lưu giữ nhiều di vật quý giá mà còn chứa đựng những điều
huyền bí gắn liền với cuộc đời Thiền sư Không Lộ. Theo sách Trùng san Thần
Quang Tự Phật tổ bản hành thiền uyển ngữ lục tập yếu, Thiền sư Không Lộ vốn họ
Dương, sinh ra trong một gia đình ngư phủ, xuất gia theo Thiền sư Lôi Hà Trạch.
Sau đây là một bài thơ Thiền của Không Lộ có đề tài ngư nhàn :
Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên
Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên
Ngư ông thụy trước vô nhân hoán
Quá ngọ tinh lai tuyết mãn thuyền
Nghĩa là :
Bát ngát sông xanh, bát ngát trời
Một thôn mây khói, một dâu gai
Ông chài ngủ tít không người gọi
Tỉnh dậy thuyền trưa ngập tuyết rơi.
(Ngọc Liễn dịch)
Tương truyền rằng từ khi đắc đạo, Thiền sư Không Lộ có khả năng bay lên
không, đi trên mặt nước và thuần phục được rắn, hổ. Truyền thuyết còn kể rằng
trước khi viên tịch, Ngài hóa thành khúc gỗ trầm hương, lấy áo đắp lên và khúc
gỗ biến thành tượng, Thánh tượng này nay còn lưu giữ trong hậu cung quanh năm
khóa kín cửa.
Cứ 12 năm một lần, làng Keo lại cử ra một người hội chủ và bốn viên chấp
sự để làm lễ trang hoàng tượng Thánh. Những người này phải ăn chay, mặc quần áo
mới, họ rước Thánh tượng từ cấm cung ra rồi dùng nước dừa pha tinh bưởi để tắm
và tô son lại cho tượng Thánh. Công việc này phải làm theo một nghi thức được
qui định rất nghiêm ngặt, những người chấp sự phải tuyệt đối giữ kín những gì
đã thấy trong khi trang hoàng tượng Thánh.
Đến thăm chùa, khách có thể nhìn thấy những đồ thờ quý giá tương truyền
là đồ dùng của Thiền sư Không Lộ như bộ tràng hạt bằng ngà, một bình vôi to và
ba vỏ ốc lóng lánh như dát vàng mà người ta kể lại rằng chính do Không Lộ nhặt
được thuở còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước trong những năm tháng
tu hành.