Phật Học Online

Chùa miền Nam

TP. HỒ CHÍ MINH

CHÙA GIÁC LÂM

Vị trí bề thế, nhưng quy mô lại khiêm tốn, chùa Giác Lâm là một trong những ngôi chùa cổ nhất của thành phố Hồ Chí Minh đã được Bộ Văn hóa ra quyết định số 1288 VH/QĐ ngày 16 - 11 - 1988 công nhận là một di tích lịch sử - văn hóa. Chùa tọa lạc ở số 118 đường lạc Long Quân, phường 23, quận Tân Bình, trong vùng Phú Thọ Hòa.

Chùa vốn ở trên gò Cẩm Sơn, còn gọi là Cẩm Đệm và Sơn Can, do ông Lý Thụy Long, người Minh Hương, quyên tiền của xây dựng vào mùa xuân năm Giáp Tý (1744), đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức miêu tả khu vực này như sau : rộng ba dăm, cây cao như rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tuy nhỏ mà có nhã thú. Thi nhân du khách, mỗi dịp tết Thanh minh, Trùng cửu rảnh rỗi, kết bầy năm ba người đến mở tiệc thưởng hoa, chuốc chén ngâm vịnh, ngó xuống chợ búa rộn ràng xa cách ra ngoài tầm mắt…"

Năm 1772, Hòa thượng Viên Quang thuộc dòng Lâm tế tới trụ trì, từ đó mới đổi tên là Giác Lâm.

Chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu. Lần thứ nhất, vào khoảng năm 1799 - 1804, Hòa thượng Viên Quang cho xây lại ngôi chùa. Đến năm 1906 - 1909, Hòa thượng Hồng Hưng với sự giúp sức của Hòa thượng Như Phòng, đã cho tôn tạo lại ngôi chùa một lần nữa. Các sự kiện này được ghi lại trong đôi liễn mừng lạc thành, nay còn treo ở chánh điện.

Khuôn viên chùa khá rông, nằm lọt giữa phố phường đông đúc, chung quanh là những bức tường xây. Qua cổng chùa, ngay giữa sân có dựng tượng Bồ - tát Quan Thế Âm dưới bóng cây bồ đề tán lá xanh tốt. Đây là cây bồ đề do Đại đức Narada mang từ SriLanca sang trồng ngày 18-6-1953. Nhân dịp này Ngài cũng cúng cho chùa Xá-Lợi Phật Thích-ca.

Ngày 17 tháng 6 năm 1994, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức lễ khánh thánh Bảo tháp Xá-lợi và cung nghinh Xá-lợi Phật từ chùa Long Vân, Bình Thạnh về chùa Giác Lâm, tôn trí tại Bảo tháp (nguyên từ năm 1953, Xá-lợi Phật được đưa về tôn trí tại chính điện chùa Long Vân). Bảo tháp gồm 7 tầng, hình lục giác, mỗi tầng đều có mái ngói, cửa ra vào. Tháp được xây từ năm 1970 theo đồ án của kiến trúc sư Vĩnh Hoằng, đến năm 1975 thì tạm ngưng cho đến năm 1993 mới được tiếp tục. Tháp cao 32m, mặt hướng Đông, là một trong những bảo tháp lớn và nổi triếng nhất thành phố.

Ngôi chùa có hình chữ nhật, dài 65m, rộng 22m, gồm 3 lớp nhà chính: chánh điện, giảng đường và nhà trai, không kể các dãy nhà phụ. Chùa có tất cả 98 cột. Trên cột có khắc 86 câu đối dính liền, chữ thếp vàng, khung viền chung quanh được trạm trổ rất công phu. Các đầu kèo đều tạc hình đầu rồng. Các bàn thờ trong chánh điện đều được làm bằng gỗ quý nên rất chắc chắn. Gian giữa có ba tấm bao lam hình Tứ quí (mai, lan, cúc, trúc), Tứ linh (long, lân, qui, phụng) và Cửu Long.

Chùa có 113 pho tượng cổ, chủ yêu bằng danh mộc (gỗ mít nài) được sơn son thếp vàng. Ngoài ra có 7 pho tượng đồng. Toàn bộ tượng, bao lam, ghế bàn, bảo tháp đều được chạm khắc cực kỳ tinh xảo. Pho tượng Phật cổ nhất ở chùa là tượng đức Phật Thích-ca Mâu-ni ngồi trên tòa sen, bằng gỗ, cao 0,65m ; bề ngang hai gối 0,38m, được tôn trí ở giảng đường, có niên đại vào khoảng thế kỷ XVIII. Toà Cửu Long diễn tả sự tích đức Phật Thích-ca đản sinh, được đúc bằng đồng, tôn trí ở bàn thờ chánh điện. Khá đặc sắc về nghệ thuật tạc tượng là hai bộ Thập bát La-hán. Bộ La-hán nhỏ, mỗi pho tượng cao khoảng 0,57m (tượng cao 0.50m và đế cao 0.07m) được tạo tác vào đầu thế kỷ XIX ; bộ La-hán lớn, mỗi pho tượng cao khoảng 0.95m (tượng cao 0.80m và đế cao 0.15m) được tạo tác vào những năm đầu thế kỷ XX, đặt hai bên điện Phật ở chánh điện.

Bên trái khuôn viên chùa có khu mộ tháp của các vị Tổ đã trụ trì ở đây: Viên Quang, Hải Tịnh, Minh Vi, Minh Khiêm, Như Lợi, Như Phòng … Ở đây còn có cả tháp của Tổ Phật Ý, thầy của Tổ Viên Quang, trụ trì Sắc tứ Từ Ân, được dời về chùa Giác Lâm vào năm 1923.


CHÙA ẤN QUANG

Tổ đình Ấn Quang được xây dựng cách nay không lâu, nhưng lại giữ một vị trí rất đặc biệt trong lịch sử Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Nơi đây đã từng chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng trong những bước thăng trầm và phát triển của đạo Phật ở miền Nam. Chùa Ấn Quang đã là nơi đặt trụ sở của Phật học đường Nam Việt, Giáo hội Tăng già Nam Việt (1959-1963), văn phòng Viện Hóa Đạo và Viện Tăng Thống (1976 - 1980), nay là trụ sở Ban Trị sự Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam (từ năm 1982).

Chùa Ấn Quang hiện tọa lạc tại 243 Sư Vạn Hạnh, Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Chùa được Hòa thượng Thích Trí Hữu từ chùa Linh Ứng ở Ngũ Hành Sơn, Đà nẵng vào lập nên vào năm 1948. Lúc đầu đây chỉ là một ngôi Phật tự nhỏ bằng cây lợp lá, mang tên là Ứng Quang Tự.

Năm 1950, Hòa thượng Thích Thiện Hòa (1907 - 1978), thuộc dòng thiền Lâm Tế đời thứ 43, sau 10 năm tu học về đạo pháp và giới luật tại Tây Thiên Phật học đường, Báo Quốc Phật học đường và chùa Quán Sứ, trở về Sài Gòn. Ngài được Hòa thuợng Thích Trí Hữu giao cho quyền quản lý chùa Ứng Quang để hoằng dương Phật pháp. Với tư cách là Viện chủ, Hòa thượng Thích Thiện Hòa đã cho xây dựng ngôi chánh điện theo kiểu chùa Từ Đàm ở Huế. Từ đó trong suốt hơn một phần tư thế kỷ, Hòa thượng Thích Thiện Hòa đã hiến trọn tâm trí và công đức để tôn tạo ngôi chùa và thành lập trường Phật học để giáo dục và hoằng pháp.

Đầu năm 1951, Hòa thượng Thích Thiện Hòa đã vận động các trường Phật học Liên Hải, Mai Sơn, Sùng Đức và Ứng Quang hiệp nhất thành Phật học đường Nam Việt. Chùa Ứng Quang được đổi tên thành Ấn Quang và được chọn làm trụ sở của Phật học đường. Hòa thượng Thích Thiện Hòa được bầu làm Tổng giám đốc.

Năm 1955, chùa xây dựng thêm dãy lẫu nhà tổ và trai đưởng. Liên tục hai năm sau đó, xây nhà in Sen Vàng, xưởng nhang Bổ Đè, thư viên, nhà xuất bản, nhà phát hành Hương đạo. Năm 1959, xây lại dãy lầu giảng đường. Đến năm 1966, chánh điện được tôn tạo; năm sau lầu tăng xá, nhà trai được tái thiết. Kiến trúc chùa được xây dựng theo đồ án của kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thiện. Bên trong chùa ngoài tượng đức Bổn Sư Thích-ca và tượng các vị Phật được tôn trí trang nghiêm tại chánh điện, còn có tượng Tổ Sư Đạt ma (tạc bằng gỗ) và bộ tranh sơn mài Quan Âm, Văn-thù, Phổ Hiền do nghệ nhân Trương Văn Thanh (tức Đại đức Minh Tịnh) thực hiện.

Từ năm 1974, do Hòa thượng Thích Thiện Hòa lâm bệnh nặng, một Hội đồng Quản trị Tổ đình Ấn Quang gồm chín vị, do Hòa thượng Thích Huệ Hưng làm Tổng lý, đã được bầu ra để đảm đương Phật sự. Hòa thương Thích Thiện Hòa viên tịch năm 1978. Tên tuổi Hòa thương gắn liền không chỉ với sự nghiệp mở mang chùa Ấn Quang và còn với sự nghiệp đào tạo hàng trăm giảng sư và hàng nghìn Tăng Ni sinh làm sứ giả của Như Lai đi bổ xứ trụ trì các chùa ở các tỉnh miền Nam.


CHÙA XÁ LỢI

Chùa Xá Lợi nằm trên một khuôn viên rộng 2500m2, giữa một khu phố khá yên tĩnh, cổng chính nhìn ra đường Bà Huyện Thanh Quan, cổng phụ nhìn ra đường Sư Thiện Chiếu. Chùa được khởi công xây dựng vào ngày 5-8-1956 dưới sự quản đốc công trường của hai kỹ sư Dư Ngọc Ánh và Hà Tố Thuận, thi công theo họa đồ của hai kiến trúc sư Trần Văn Đường và Đỗ Bá Vinh. Chủa được khách thành vào các ngày 2-3-4 tháng 5 năm 1958. Có được kết quả này là nhờ vào sự đóng góp của Phật tử 21 tỉnh miền Nam lúc đó, dưới sự tổ chức xây dựng của Hội Phật học Việt Nam.

Tương truyền rằng trong quá trình xây cất, ở đây có biển đề "Công trình Chùa thờ Xá-lợi Phật". Do đó, nhân dân quen gọi là chùa Xá Lợi. Đến khi khánh thành, theo ý kiến Hòa thượng Khánh Anh, chùa đã lấy tên này như cách gọi của nhân dân.

Cấu trúc ngôi chùa gồm có : chánh điện, giảng đường, thư viện, văn phòng, phòng hội đồng, phòng họp, phòng khách, phòng tăng và vãn sinh đường. Chánh điện ở lầu một, dài 31m, rộng 15m. Trong lễ đường chỉ tôn trí một vị Phật là đức Thích-ca Mâu-ni. Tượng này do Trường Mỹ nghệ Biên Hòa thực hiện năm1958 bằng bột đá mầu hồng. Trên tường chánh điện có những bức tranh minh họa đời sống đức Phật Thích-ca từ lúc đản sinh cho đến khi nhập niết bàn. Các tác phẩm này do họa sĩ Nguyễn Văn Long thực hiện vào các năm 1959-1960.

Phía bên trái tam quan chùa trên đường Bà Huyện Thanh Quan có một tháp chuông cao 7 tầng, được khởi công xây dựng vào ngày 15-12-1960 và khánh thánh vào ngày 23-12-1961. Đại hồng chung đã phải đúc hai lần mới thành công và được đem lên tháp ngày 17-10-1961 với sự chứng minh của Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết.

Nếu chùa Ấn Quang gắn liền với sự ra đời và hoạt động của Phật học đường Nam Việt, thì chùa Xá Lợi lại có quan hệ mật thiết với lịch sử của Hội Phật học Nam Việt. Hội này thành lập năm 1951 tại Sài Gòn, do bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, thầy Quảng Minh và cụ Chánh Trí Mai thọ Truyền lần lượt làm Hội trưởng. Hội đã từng có chi nhánh ở hầu hết các tỉnh miền Nam trước đây với cơ quan ngôn luận là tạp chí Từ Quang. Chùa Xá Lợi từng được chọn làm trụ sở của Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo năm 1963 và là nơi tổ chức thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất họp từ ngày 30-12-1963 đến ngày 01-01-1964. Chùa cũng là nơi tổ chức lễ tiếp nhận và phát hành hai tập kinh đầu tiên Đại Tạng Kinh Việt Nam vào ngày 31-8-1991.

Từ năm 1981 đấn tháng 5 năm 1993, chùa đặt trụ sở Văn phòng II Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại phía Nam. Kể từ rằm tháng tư năm Quí Dâu - 1993, Văn phòng II được dời về Thiền Viện Quảng Đức ở 294 nam Kỳ khởi Nghĩa, Quận 3.

Do vị trí quan trọng và sự đóng góp lớn lao của chùa trong việc hoằng dương chánh pháp, chùa Xá Lợi đã nhiều lần đón các vị khách quốc tế và là nơi thường xuyên có nhiều du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái.


Chùa VĨNH NGHIÊM

Từ phi trường Tân Sơn Nhất đi về trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, trên đường Nam Kỳ Khở Nghĩa, qua khỏi cầu Công Lý, du khách sẽ thấy hiện lên sừng sững ngọn tháp của chùa Vĩnh Nghiêm.

Có thể nói đây là ngôi chùa có kiến trúc bề thế vào bậc nhất nước ta hiện nay. Chùa mang tên Vĩnh Nghiêm, một trung tâm Phật giáo thời Trần ở tỉnh Bắc Giang cũ, nay là Hà Bắc. Vĩnh Nghiêm còn là tên tôn xưng Sư tổ Thanh Hanh (1838 - 1936), một cao tăng được tấn tôn Thiền gia Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Bắc Kỳ. Trước năm 1975, Tăng Ni Phật tử miền Bắc sinh sống tại miền Nam tụ tập thành miền Vĩnh Nghiêm, mà trung tâm chính là ngôi chùa này.

Chùa được khởi công xây dựng từ năm 1964 và khánh thành năm 1971 do kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng thiết kế với sự cộng tác của hai kiến trúc sư Lê Tấn Chuyên và Cổ Văn Hậu. Chùa làm theo kiểu chữ "Công" hai lớp mái chồng diêm, mang dáng dấp kiến trúc cổ kính Á Đông.

Chùa gồm một tầng trệt và một tầng lầu. Tầng trệt có phòng đọc sách, giảng đường, văn phòng, phòng tăng chúng. Tầng lầu có sân thượng rộng khoảng 10m, bên trái là tháp Quan Âm với 7 tầng mái, bên phải có tháp chuông treo quả đại hồng chung do Giáo hội Phật giáo Nhật Bản hiến cúng. Bái điện là một tòa phạm vũ nguy nga, bề rộng 22m, dài 35m. Những công trình chạm khắc gỗ ở đây có bao hàm tứ linh, bao lam Cửu Long. Đặc biệt có phù điêu trên hương án chạm các ngôi chùa danh tiếng trong nước và các nước châu Á.

Bàn thờ Phật được thiết kế rất trang nghiêm. Ở bảo điện : chính giữa thờ dức Phật Thích-ca, hai bên là Bồ-tát Phổ Hiền tượng trưng cho đạo hạnh và Bồ-tát Văn-thù tượng trưng cho trí tuệ.

Tại chánh điện đât 6 bức phù điêu La-hán : Khuyến Học La-hán, Thuyết Pháp Văn Pháp La-hán, Đạo Sơn Địa Ngục Tiếp Hóa La-hán, Cúng Dàng La-hán, Cúng Dàng Bố Thí La-hán, Đại Hàn Địa Ngục Tiếp Hóa La-hán. Đó là những tác phẩm chạm khắc gỗ dựa vào bản chính của phái Tịnh độ Nhật Bản. Ở hàng hiên, trước lối vào chánh điện mỗi bên có một pho tượng Kim Cương lớn.

Các mái chùa đều uốn cong theo kiểu chùa miền Bắc, mái trước chồng diêm. Giữa đỉnh nóc có bánh xe pháp luân và các góc chạm hình đầu phượng.

Nói đến chùa Vĩnh Nghiêm, ngoài tháp chuông, không thể quên hai ngôi tháp đặc sắc là tháp Quan Âm và tháp Xá Lợi Cộng Đồng. Tháp Quan Âm dựng ở bên trái sân thượng trên một diện tích 200m2 . Tháp có 7 tầng mái, từ mặt đất lên đến đỉnh tháp cao 35m. Tháp xây hình vuông, mỗi cạnh ở tầng một dài 7m. hai bên cửa ra vào có hai pho tượng Kim Cương đắp nổi, cao 1,48m, ngang 0,74m. Ở 7 tầng của tháp, trên vách đắp nổi 25 tượng Thất Phật Thế Tôn và các vị Tổ, mỗi tượng có khung vuông, cạnh 1,05m.

Tháp Xá Lợi Cộng Đồng xây ở phía sau chùa về bên phải, khởi công năm 1982 và hoàn thành năm 1984. Tháp có 4 tầng, cao 25m, mang nét đặc trưng của kiến trúc Việt Nam. Tháp là nơi đặt thờ tro hài cốt của những người do gia đình ký gởi, trong đó có những văn nhân thi sĩ tên tuổi như Chế Lan Viên, Vũ Hoàng Chương …

Chùa Vĩnh Nghiêm hiện là nơi đặt trụ sở của trường Cơ bản Phật học thành phố Hồ Chí Minh.


Tịnh xá TRUNG TÂM

Tịnh xá Trung Tâm tọa lạc tại số 7 đường Nguyễn Trung Trực, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Đây là ngôi tịnh xá thuộc hệ phái Tăng già Khất sĩ Việt Nam. Hệ phái này do Tổ sư Minh Đăng Quang, thế danh là Nguyễn Thành Đạt, người làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long, sáng lập từ năm 1944 với hạnh nguyện mà cũng là danh nghĩa để sau này trở thành truyền thống :

"Nối truyền Thích-ca chánh pháp

Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam"

Ngài lập phương châm hành đạo với chủ trương : "Nên tập sống chung tu học" trong giới tăng đồ. Ngài cũng khuyến khích mọi người cùng chung xây dựng một cõi đời hạnh phúc, nhân đạo tại trần gian bằng cách :

Mỗi người phải biết chữ,

Mỗi người phải thuộc giới,

Mỗi người phải tránh ác,

Mỗi người phải (học đạo) làm thiện.

Ngài phát tâm thể hiện chí nguyện đi theo và tái tạo con đường phạm hạnh sa môn khất sĩ của chư Phật - Tăng xưa bằng hình ảnh :

Nhất bát thiên gia phạn

Cô thân vạn lý du

Dục cùng sanh tử lộ

Khất hóa dộ xuân thu

Nghĩa là :

Một bát cơm ngàn nhà

Thân đi muôn dặm xa

Muốn thoát đường sinh tử

Xin độ tháng ngày qua

Tịnh xá được bắt đầu xây dựng vào tháng 4 năm 1965 và kéo dài suốt 10 năm, trong một khuôn viên rộng 5490m2 do Bà Phán Nguyễn Văn Chà, pháp danh Diệu Kiến phát tâm cúng dường. Lúc đầu Tịnh xá bao gồm tòa chánh điện, nhà thờ Cửu huyền thất tổ, hai dãy nhà tăng và các cốc của chư tăng. Nơi đây trở thành trụ sở của Trung ương Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam từ năm 1966 đến năm 1980.

Từ tháng 11 năm 1980, Thượng tọa Giác Toàn (trụ trì) và Thượng tọa Giác Phúc (giáo phẩm hệ phái) đã tổ chức trùng tu Tịnh xá bao gồm tầng trệt và tầng lầu. Chánh điện xây pháp tháp kiểu bát giác, theo họa đồ của kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thiện. Phần tháp cao 4,40m, mỗi cạnh 2,25m. Ở nóc tháp có 13 tầng, tượng trưng cho 13 tầng nấc tiến hóa của chúng sinh (lục phàm, tứ thánh, tam tôn). Tháp được làm bằng gỗ giáng hương, chung quanh chạm nổi hình hoa sen. Phần trên là 12 bức chạm nổi minh họa cuộc đời đức Phật Thích-ca. Toàn bộ cấu trúc của tháp do ông Thiện Ngộ và nhóm thợ Trường Mỹ nghệ Long An thực hiện từ năm 1982 đến năm 1984.

Bên trong pháp tháp chánh điện tôn trí bảo tượng đức Phật Thích-ca. Chung quanh vách tường có 8 bức phù điêu, mỗi bức cao 2,20m, dài 4,50m, giới thiệu cuộc đời đức Phật. Đây là công trình của các điêu khắc gia Minh Dung và Hai Long.

Phía sau chánh điện là nơi thờ Cửu huyền thất tổ, giữa có tháp thờ Bồ-tát Địa Tạng. Ngoài sân trước có pho tượng Bồ-tát Quan Thế Âm cao 9m, đứng trên tòa sen cao 3m.

Trước năm1975, trên toàn miền Nam. Giáo hội Tăng già Khất sĩ có khoảng 300 tịnh xá, mà văn phòng trung ương là Tịnh xá Trung Tâm. Hội đồng lãnh đạo Giáo hội do ngài Trưởng lão Giác Chánh làm Tăng chủ và Thượng tọa Giác Nhiên làm Tổng trị sự trưởng tức Viện trưởng Viện Hành Đạo. Theo gương của Tôn sư Minh Đăng Quang, các đệ tử của Ngài đã thành lập nhiều đoàn du tăng khất sĩ, gồm 6 giáo đoàn chư tăng và 3 giáo đoàn ni giới. Với bộ y vàng, không nón mũ, giày dép, tay bưng bát, các nhà sư khất sĩ đã dấn bước trên khắp các thành phố và làng mạc miền Nam. Đi đến đâu họ cũng tổ chức thuyết pháp, xây cất tịnh xá, tích cực tham gia quyên góp cứu trợ đồng bào nạn nhân chiến tranh và thiên tai. Trên những nẻo đường hành đạo, nhà thơ Trần Quê Hương đã cảm tác thành những dòng thơ in trong tập Suối về Hoa Nghiêm :

Mỹ Tho thành phố quê hương mẹ

Gót trải đầu tiên bước nhịp nhàng

Bình bát ngàn nhà cơm gạo tẻ

Nhớ tình phụ mẫu, nhớ mang mang.

An Đức già lam dừng bước nghỉ

Bên con sông nhỏ nước êm đềm

Khi đêm dìu dịu hương lan lý

Say ngất mùi thiền, vượt cõi thiên.

Mỹ Tho cũng chính là nơi mà năm 1946, Tôn sư Đăng Minh Quang, sau một thời gian hơn 2 năm tu trì tại chùa Linh Bửu, đã bắt đầu dẫn đoàn du tăng đi hành đạo. Từ 1976 đến nay, những đệ tử của Ngài đã tiếp nối bước chân hoằng hóa bằng cách tĩnh tu và hành đạo tại những ngôi tịnh xá của hệ phái, dưới ánh sáng những lời giáo huấn và sự chứng giám của chân dung Tổ sư được tôn trí thờ phụng tại Tịnh xá Ngọc Viên (Tổ đình), Tịnh xá Trung Tâm và tịnh xá các nơi.


 Thiền viện VẠN HẠNH

Tại thành phố Hồ Chí Minh, trên đường từ Phú Nhuận đi Gò Vấp, đến số 716 đường Nguyễn Kiệm, du khách sẽ thấy hiện ra cổng tam quan bề thế của Thiền viện Vạn Hạnh.

Trước năm 1975 nơi đây là Phân khoa Khoa học ứng dụng thuộc Viện Đại học Vạn Hạnh do Hòa thượng Thích Minh Châu làm Viện trưởng. Năm 1976, Hòa thượng đã tạo lập thiền viện này làm nơi tu trì và nghiên cứu Phật học.

Thiền viện tọa lạc trên một diện tích khoảng 1 hecta, bao gồm ngôi chánh điện ; một nhà tổ ; các dãy nhà làm trụ sở trường Cao cấp Phật học Việt Nam, văn phòng Viện nghiên cứu Phật học, văn phòng Hội đồng phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam ; dãy nhà tăng và trai đường.

Cổng thiền viện được xây dựng năm 1990 theo kiểu kiến trúc cổ Phật giáo ở Huế do Đại đức Tâm Đoan và Đại đức Tịnh Quang đảm trách. Ngôi chánh điện gồm hai tầng. Ở tầng trệt, gian giữa thờ tượng đức Phật Thích-ca màu trắng ngà ngồi trên tòa sen, vẻ mặt đầy bao dung. Nơi đây bài trí đơn sơ nhưng rất nghiêm cẩn. Hai bên là phòng đọc sách của thư viện với nhiều sách quý. Tầng lầu là phòng khách và phòng làm việc của Hòa thượng Viện chủ.

Ngôi nhà Tổ cũng có hai tầng. Tầng lầu thờ Phật và thờ Tổ. Trên bàn thờ Tổ có chân dung cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trước đây. Tầng trệt là giảng đường, nơi thường tổ chức các buổi giảng kinh, thuyết pháp, nói chuyện chuyên đề, biểu diễn văn nghệ…

Thiền viện Vạn Hạnh giữ một vị trí rất quan trọng trong việc nghiên cứu và hoằng dương Phật pháp. Đây là nơi làm việc của Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam do Hòa thượng Thích Minh Châu, Tiến sĩ Triết học và Phật học, làm Viện trưởng. Cơ cấu của Viện gồm có : Ban Phật giáo Việt Nam, Ban Phật giáo quốc tế, Ban Phật giáo chuyên môn, Ban in ấn và xuất bản. Ngoài ra, ở đây còn đặt văn phòng Hội đồng phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hòa thượng Thích Minh Châu làm Chủ tịch. Trong bốn năm qua, Viện đã xuất bản nhiều bộ kinh trong Tam Tạng kinh điển như : Kinh Trường Bộ (2 tập), Kinh Trung Bộ (3 tập), Kinh Tương Ưng (5 bộ) … được Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ nguyên bản Pali ra tiếng Việt ; Kinh Trường A Hàm (2 tập), Trung A Hàm (3 tập), Tạp A Hàm (2 tập) … được các vị Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Thích Trị Siêu … dịch từ bản Hán tạng ra tiếng Việt. Đây là một sự kiện quan trọng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng như trong đời sống văn hóa dân tộc.

Thiền viện Vạn Hạnh còn là một trung tâm đào tạo tăng tài cho các tỉnh phía Nam. Nơi đây đặt trường Cao cấp Phật học Việt Nam. Ban Giám hiệu của Trường hiện nay (khóa III, nhiệm kỳ III, 1993 - 1997) gồm có :

Hiệu trưởng : Hòa thượng Thích Minh Châu

Phó Hiệu trưởng : Hòa thượng Thích Thiện Siêu

Phó Hiệu trưởng : Thượng tọa Thích Giác Toàn

Phó Hiệu trưởng : Cư sĩ Tống Hồ Cầm

Tổng Thư ký : Cư sĩ Trần Tuấn Mẫn

Chánh văn phòng : Đại đức Thích Đạt Đạo

Trường đào tạo theo phương thức tập trung thông qua một kỳ thi tuyển, mỗi khóa học kéo dài 4 năm, với văn bằng tương đương trình độ đại học. Từ năm 1984 đến nay, Trường đã mở được 3 khóa, đào tạo hơn 400 Tăng Ni sinh. Chương trình giảng dạy gồm phần nội điển do chư tôn túc giảng sư của Giáo hội phụ trách và phần ngoại điển do các giáo sư, giảng viên các trường Đại học đảm nhiệm.

Ngoài các trách vụ lãnh đạo Viện nghiên cứu Phật học và trường Cao cấp Phật học, Hòa thượng Thích Minh Châu còn đảm đương nhiệm vụ Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam kiêm Trưởng ban Phật giáo quốc tế, Phó Chủ tịch Hội Phật giáo Châu Á vì hòa bình (ABCP), Chủ tịch Trung tâm ABCP Việt Nam. Hòa thượng đã nhiều lần tham gia các diễn đàn, hội thảo, hội nghị về văn hóa Phật giáo ở nước ngoài.

Thiền viện Vạn Hạnh thường xuyên được vinh dự đón tiếp các đoàn đại biểu các Giáo hội Phật giáo trên thế giới và nhiều đoàn khách quốc tế đến làm việc, thăm viếng, cùng đông đảo du khách, Phật tử đến lễ bái, sinh hoạt, nhất là vào ngày lễ Phật đản, Vu lan …


ĐỒNG NAI

Chùa BỬU PHONG

Chùa Bửu Phong là một danh lam thắng cảnh không chỉ của tỉnh Đồng Nai mà còn của cả miền Nam. Chùa tọa lạc trên núi Bửu Long thuộc thôn Bình Điện, xã Tân Bửu, cách thành phố Biên Hòa 4km. Do địa danh ấy nên còn có tên là chùa Bình Điện.

Chùa được Hòa thượng Bửu Phong dựng vào khoảng thế kỷ XVII, lúc đầu chỉ là một am tranh nhỏ thờ Phật. Sách Đại Nam nhất thống chí viết rằng : "Núi Bửu Phong ở phía Nam huyện Phước Chánh 13 dặm, phía Tây trông xuống sông lớn, phía sau làm hộ vệ cho núi Long Ẩn. Trên núi có chùa Bửu Phong khói mây man mác, cây cối um tùm là thắng cảnh thứ nhất trên tỉnh hạt. Xưa có nhà sư là Hòa thượng Bửu Phong lập chùa trên núi, cho nên thường gọi tên là núi Bửu Phong".

Vào cuối thế kỷ XVIII, số người Hoa đến vùng đất này sinh sống ngày càng đông, trong đó có những người mộ đạo Phật đã xây cất lại ngôi chùa bằng gạch ngói. Họ đã mời Thiền sư Thành Trí, pháp danh Pháp Thông - Thiện Hỉ, thuộc Thiền phái Tào Động thế hệ thứ 36, đến trụ trì và tôn làm vị Tổ đầu tiên của chùa. Thiền sư Pháp Thông cũng là người có công khai sơn chùa Long Ẩn dựng trên núi Long Ẩn phía trước núi Bửu Long. Ngày nay tại chùa này còn tháp của Tổ sư Pháp Thông xây theo hình khối lục giác.

Theo tài liệu của ông Nguyễn Hiền Đức in trong sách Thiền sư Việt Nam của Hòa thượng Thích Thanh Từ, thì Hòa thượng Pháp Thông không có đệ tử thay thế, nên Thiền sư Viên Quang là người Minh Hương thuộc Thiền phái Lâm Tế đời thứ 36 được cử về trụ trì chùa Bửu Phong. Năm 1760, Thiền sư Viên Quang đã trùng tu chùa này.

Đến năm Ký Sửu (1829) chùa được xây cất lại và mở rộng do Tham tướng Nguyễn Văn Hiệp và Hương bảo Nguyễn Văn Tâm pháp nguyện hiến cúng. Ngoài ra chùa còn được sửa chữa nhiều lần vào cuối thế kỷ XIX và những năm gần đây.

Đến thăm chùa Bửu Phong, sau khi leo lên 100 bậc cấp, du khách có ấn tượng sâu sắc khi đứng trước tòa kiến trúc này. Mặt tiền có ba cửa vòng cung lớn, hai bên lại có bốn ô cửa vòng cung nhỏ.

Bên trên mặt tiền trang trí các hoa văn đắp nổi bằng mảnh sành, mảnh sứ rất công phu và độc đáo. Trước chùa có tượng Bồ-tát Quan Thế Âm do Yết-ma Thiện Giáo dựng vào năm 1963. Hai câu đối ở hai cột chính nói lên ý nghĩa của tên chùa :

Bửu nhạc phối đề y Thứu Lĩnh

Phong sơn qún mỹ tự Kỳ Viên

Nghĩa là :

Bửu nhạc dịu dàng như Thứu Lĩnh

Phong sơn đẹp đẽ tựa Ký Viên

(Giản Chi dịch)

Bên trong chánh điện có tượng Phật Di-đà cổ. Điện Phật được trang hoàng rực rỡ. Xá-lợi Phật được tôn trí ở ngôi bảo tháp sau chánh điện.

Hiện nay vùng núi Bửu Long đã trở thành một quần thể di tích thắng cảnh du lịch của tỉnh Đồng Nai. Du khách đến Đồng Nai không thể không viếng chùa Bủu Phong nằm trong toàn cảnh núi Bửu Long hay núi Bình Điện và sông Trường Giang, tức sông Đồng Nai :

Phía sau Bình Điện ngăn phong lãnh

Mé trước Trường Giang nước chảy quanh

Chung quanh khu vực này còn có các ngôi tháp cổ và những pho tượng lộ thiên khá lớn như tượng đức Phật đản sinh, tượng đức Phật thiền định, tượng đức Phật nhập niết bàn


SÔNG BÉ

Chùa HỘI KHÁNH

Chùa Hội Khánh được Thiền sư Đại Ngạn (thuộc dòng Lâm Tế) khai sơn năm Cảnh Hưng thứ 2, đời Lê Hiển Tông, tức năm Tân Dậu (1741). Lúc đầu chùa được xây trên một ngọn đồi cao, nhưng đến năm thứ 14 đời Tự Đức, tức năm Tân Dậu (1861), chiến tranh đã thiêu hủy toàn bộ ngôi chùa. Bảy năm sau (1868), chùa được Hòa thượng Chánh Đắc cho xây dựng lại dưới chân đồi, cách vị trí chùa cũ khoảng 100m về phía Nam. Địa chỉ của chùa hiện nay là 35 đường Yersin, phường Phú Cường, thị xã Thủ Đầu Một, tỉnh Sông Bé, cách thành phố Hồ Chí Minh 25km về phía Nam.

Chùa nằm cách đường lộ 150m. Sau cổng tam quan cổ kính có chạm trổ rồng phượng là khuôn viên chùa yên tĩnh, với nhiều cây cao bóng cả, trong đó đặc biệt có bốn cây dầu cao chót vót , cành lá sum suê, được trồng lúc chùa mới bắt đầu xây dựng, nay tuổi cây đã trên một thế kỷ.

Chùa đã được tôn tạo và trùng tu nhiều lần , nhưng vẫn giữ được kiến trúc cổ mang màu sắc dân tộc. Giảng đường và Đông lang được xây lại năm 1917, Tây lang được xây lại năm 1984. Ngôi chánh điện được xây dựng trong hai năm 1990-1991. Và gần đây nhất , ngày 29-2-1992, Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Sông Bé đã tổ chức lễ lã==ạc thành trùng tu di tích chùa Hội Khánh.

Trong chùa, toàn bộ diện tích chánh điện, giảng đường, Đông lang và Tây lang rộng đến 700 m2. Ở chánh điện, các pho tượng Phật Thích-ca, Địa Tạng, Chuẩn Đề … đều được tạc bằng gỗ, sơn son thếp vàng. Ba tấm bao lam chạm khắc Tứ linh, Tứ quí, Cửu long và Thập bát La-hán rất tinh vi, có giá trị nghệ thuật cao. Hai bên tường của chánh điện có bộ tượng Thập điện Minh Vương và bộ Thập bát La-hán. Các tác phẩm chạm khắc gỗ này được tạc vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do nhóm thợ điêu khắc nổi tiếng ở Thủ Dầu Một lúc đó thực hiện.

Hơn 250 năm nay, chùa Hội Khánh lưu truyền kế vị đến 10 đời, trong đó có 9 vị đã viên tịch là : Đại Ngạn, Chân Kính, Chánh Đắc, Trí Tập, Thiện Quới, Từ Văn, Ấn Bửu - Thiện Quới, Thiện Hương, Quảng Viên. Trước sân chùa có những ngôi tháp của các vị trụ trì đã viên tịch. Hiện nay trụ trì chùa là Đại đức Thích Huệ Thông, Chánh Thư ký Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Sông Bé.

Chùa Hội Khánh là trung tâm Phật giáo Cổ truyền của cả vùng đất Bình An xưa kia. Đây cũng là trung tâm đào tạo tầng lớp sĩ phu của đất Bình An và đất Thủ Dầu Một sau này. Các nhà sư cũng chính là người dạy học chữ Hán. Chùa Hội Khánh đã góp phần đào tạo nhiều thế hệ tu sĩ để trụ trì các chùa khác trong vùng. Một trong những danh tăng xuất thân từ chùa là Hòa thượng Thích Từ Văn được xem là Tăng thống Phật giáo Nam Kỳ và được mời sang Marseille (Pháp) làm lễ cầu siêu và thuyết pháp vào năm 1920. Chính Ngài đã thỉnh tượng Phật và đưa thợ thủ công sang Pháp để xây dựng chùa Hội Khánh bên đó.

TRong những năm 1923 - 1926, ở chùa Hội Khánh có lập Hội Danh dự Yêu nước gồm các sĩ phu tham gia chữa bệnh, dạy học để truyền bá đạo lý. Cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã sống và hoạt động tại chùa trong thời gian này.

Sau năm 1945, chùa Hội Khánh là nơi qui tụ các Tăng Ni của 40 ngôi chùa khác trong tỉnh Thủ Dầu Một, lập ra Hội Phật giáo Cứu quốc do Thượng tọa Thích Minh Tịnh làm Chủ tịch.

Do bề dày lịch sử của chùa Hội Khánh, ngày nay nơi đây đã vinh dự được chọn đặt trụ sở Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Sông Bé và được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.


TIỀN GIANG

Chùa VĨNH TRÀNG

Du khách đến Mỹ Tho mà không thăm chùa Vĩnh Tràng là một điều thiếu sót. Đây là ngôi chùa cổ danh tiếng và là một công trình kiến trúc tiêu biểu ở Nam Bộ. Chùa tọa lạc trên mảnh vườn cây ăn trái rộng gần 2 hecta, thuộc làng Mỹ Hóa, nay là xã Mỹ Phong, bên con rạch Bảo Định hiền hòa nước ngọt quanh năm.

Vào nửa đầu thế kỷ XIX, chùa vốn là một thảo am do ông Tri Huyện Bùi Công Đạt phát nguyện xây cất để di dưỡng tinh thần sau khi về hưu. Ông thỉnh Hòa thượng Từ Lâm ở chùa Bửu Lâm về trụ trì. Sau khi ông Bùi Công Đạt qua đời, Hòa thượng Huệ Đăng dã vận động tín đồ xây dựng thành ngôi đại tự với tên Vĩnh Tran2g, hoàn thành vào mùa hè năm Canh Tuất (1850).

Khi thực dân Pháp đánh chiếm Định Tường, chùa Vĩnh Tràng bị hư hại khá nặng. Người kế vị Hòa thượng Huệ Đăng là Hòa thượng Thiện Đề, sư đệ của Ngài, nối tiếp công việc trùng tu ngôi chùa. Sau khi Hòa thượng Thiện Đề viên tịch, chùa Vĩnh Tràng hương tàn khói lạnh. Năm 1890 tín đồ đã đến chùa Sắc tứ Linh Thứu thỉnh Hòa thượng Trà Chánh Hậu về trụ trì. Ngài quê ổ Mỹ Tho, là đệ tử Hòa thượng Minh Phước gốc Tổ đình Bửu Lâm. Năm 1895 Hòa thượng Chánh Hậu cùng bổn đạo trùng tu toàn bộ ngôi chùa. Đến năm 1904, do một trận bão lớn, chùa lại bị tàn phá, vì vậy mà 3 năm sau (1907), chùa Vĩnh Tràng được trùng tu một lần nữa. Hòa thượng Chánh Hậu trụ trì 33 năm (1890 - 1923) thì qua đời, Kế tục sự nghiệp của Ngài , Hòa thượng Minh Đàn, pháp danh Tâm Liễu, cho xây dựng cổng tam quan, mặt tiền, chánh điện và nhà thờ tổ.

Trước cửa chùa có tam quan tráng lệ do tốp thợ người Huế thực hiện năm 1933, với sự tài trợ về kinh phí của hai ông Huỳnh Trí Phú và Lý Văn Quang. Chiếc cổng giữa bằng sắt lâu nay vẫn đóng kín. Hai cổng bên bằng bê-tông cốt thép vươn cao như hai tòa lâu đài cổ. Nét độc đáo của tam quan chùa Vĩnh Tràng thể hiện ở nghệ thuật ghép mảnh sành, mảnh sứ để tạo nên những bức tranh với màu sắc hài hòa, minh họa những sự tích nhà Phật, những truyện tích dân gian và những đề tài Tứ quí, Tứ linh, hoa lá … Tầng lầu thượng của cổng tam quan có vòm cửa rộng, bên phải đặt tượng Hòa thượng Chánh Hậu, bên trái đặt tượng Hòa thượng Minh Đàn. Cả hai tượng này đều đắp bằng xi măng giống như người thật, do điêu khắc gia Nguyễn Phi Hoanh thực hiện.

Mặt tiền chùa Vĩnh Tràng trang trí theo kiểu kết hợp đặc điểm kiến trúc cả Á lẫn Âu. Ở đây có những hoa văn theo kiểu thời Phục Hưng, vòm cửa theo kiểu La Mã, bông sắt của Pháp, gạch men của Nhật Bản … Chữ Hán viết theo lối chữ triện cổ kính , còn chữ quốc ngữ lại viết theo lối chữ gô-tích. Từ xa trông vào, du khách có thể hình dung ngôi chùa như đền Ăng-co có năm tháp. Theo lời truyền tụng của nhân dân địa phương, thì Hòa thượng Minh Đàn và ông Huỳnh Trí Phú đã từng du lịch sang xứ Chùa Tháp nên tiếp thu được cái đẹp trong kiến trúc ngôi chùa bên đó, kết hợp với kiến trúc phương Tây.

Ở chánh điện có các bao lam được chạm trổ công phu, trong đó có bộ phù điêu Bát Tiên cỡi thú do các nghệ nhân tại địa phương thực hiện vào khoảng năm 1907 - 1908. Trên bàn thờ có nhiều pho tượng Phật như A-di-đà, Thích-ca, La-hán và tượng các vị Bồ-tát. Hai bên bàn thờ là tượng chân dung Hòa thượng Chánh Hậu và người kế pháp là Hòa thượng Minh Đàn. Các Hòa thượng Huệ Đăng, Chánh Hậu, Minh Đàn đều thuộc Thiền phái Lâm Tế.

Bộ tượng cổ nhất ở chùa Vĩnh Tràng là bộ Tam Tôn (Di-đà, Quan Âm, Thế Chí) bằng đồng. Tiếc rằng tượng Quan Âm đã bị thất lạc từ lâu. Sau này Hòa thượng Chánh Hậu phải thuê thợ làm tượng khác bằng gỗ thế vào cho đủ bộ. Tượng Ngọc Hoàng cũng bằng đồng, to gần bằng người thật, cùng phong cách với tượng Già Lam, Đạt-ma ở chùa Bửu Lâm. Khác với thông lệ xưa nay, Ngọc Hoàng ở đây không có Nam Tào, Bắc Đẩu cầm sổ sinh tử đứng hầu hai bên. Thay vào chỗ đó là Ông Thiện và Ông Ác.

Hai bên tường chánh điện là bàn thờ Thập điện Minh Vương. Đặc biệt ở đây có bộ Thập bát La-hán là những tác phẩm chạm khắc gỗ độc đáo mà một số nghệ nhân ở Nam Bộ đã tạc vào năm 1907 theo sự chỉ đạo của Hòa thượng Chánh Hậu. Bộ tượng này bằng danh mộc, mỗi tượng cao khoảng 0,80m, bề ngang 0,58m, được đặt hai bên điện Phật gọi là sáu căn : mắt, tai, lưỡi, mũi, thân và ý ; ở ba thời : quá khứ, hiện tại và vị lai. Các tượng La-hán này được tạo hình cân đối, sinh động, cỡi trên các con thú như trâu, bò, ngựa, lạc đà, hà mã, tê giác v.v…

Trong khuôn viên chùa Vĩnh Tràng có nhiều chậu cây cảnh, hòn non bộ được chăm sóc thường xuyên. Dưới bóng cây, tháp Hòa thượng Chánh Hậu và gia đình được xây dựng bề thế có tường rào bao bọc.

Nhìn chung, vẻ đẹp của chùa Vĩnh Tràng tập trung ở nghệ thuật tạo hình. Có ý kiến cho rằng có thể xem chùa Vĩnh Tràng là một bản tổng kết lịch sử mỹ thuật của đất Tiền Giang.

Hiện chùa Vĩnh Tràng l2 nơi đặt văn phòng Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo và trường Cơ bản Phật học tỉnh Tiền Giang. Chùa đã trở thành điểm du lịch và hành hương của tỉnh, thu hút du khách và Phật tử hàng ngày. Tết Tân Dậu (1982) nhà thơ Xuân Thủy đã đến viếng chùa và viết tặng một bài thơ :

Đức Phật giàu tình thương

Nên chùa tên Vĩnh Tràng

Nhà sư vốn yên nước

Lòng như sông Tiền Giang


SÓC TRĂNG

Chùa KH’LEANG

Thị xã Sóc Trăng có khá nhiều ngôi chùa, trong đó Kh’Leang là ngôi chùa cổ nhất. Bên cạnh những ngôi chùa Việt mà chúng ta thường thấy, đây là một công trình kiến trúc khá độc đáo mang đậm dấu ấn của văn hóa Khmer.

Tọa lạc trên một khuôn viên rộng 3,5 hecta với nhiều cây cao bóng cả, lúc đầu đây chỉ là một ngôi chùa làm bằng gỗ lợp la, sau mới sửa lại bằng gỗ lợp ngói. Từ khi xây dựng (năm 1533) đến nay, chùa đã được trùng tu nhiều lần, lần trùng tu gần nhất cách nay cũng đã trên 80 năm. Tính từ vị tổ đầu tiên là Đại đức Thạch Sóc cho đến Đại đức Tăng Nô trụ trì hiện nay, chùa Kh’Leang đã trải qua 21 đời truyền thừa.

Có hai lối đi vào chùa : cổng chính ở số 71 đường Mậu Thân, cổng phụ ở đường Nguyễn Chí Thanh. Nền chùa cao hơn mặt đường khoảng 1m có ba bậc sân, mỗi bậc được bao bọc bởi một tường rào xây bằng gạch. Có bốn cửa ra vào mở theo theo bốn hướng. Cữ==ửa ngoài cùng xây rất công phu, gần như cổng chính.

Ở trung tâm nền chùa, ngôi chánh điện vươn cao lên nền trời, với diện tích gần 200 m2 (chiều rộng (,20m, chiều dài 20,80m). Bộ khung mái gồm ba cấp, chia thành 9 nếp, làm toàn bằng gỗ. Mái được đỡ bằng 12 cây cột to, xây theo kiểu corinthien của Hy Lạp, có chu vi tới 1,10m, phủ sơn đen bóng và có vẽ hình rồng, hình cá uốn lượn màu vàng lộng lẫy. Trước bàn thờ có một tấm bao lam cao tới mái, được sơn son thếp vàng. Ở chính giữa tôn trí pho tượng đức Phật Thích-ca chiều cao 6,80m, phần tượng cao 2,70m. Tấm bia bằng chữ Khmer phía sau pho tượng cho biết L "Đại đức Liêu Đuông, đời truyền thừa thứ 17, đã đứng ra lập tượng Phật vào năm Phật lịch 2460 với sự cúng dường của gia đình ông Lum Sum".

Nói đến kiến trúc đặc biệt của chùa Kh’Leang, cần lưu ý các khái niệm và hình tượng có liên quan đến văn hóa Khmer sau đây :

- Hô Cheang là tên gọi hai đầu hồi được các nghệ nhân Khmer chạm trổ rất công phu với các họa tiết trang trí và theo phép đối xứng.

- Krud hay Garuda là hình tượng một loại chim thần có mình người ; đầu, chân và hai cánh của chim, mỏ ngậm một viên hồng ngọc. Loài chim này là kẻ thù truyền kiếp của rắn. Cho nên, nếu hình tượng khúc đuôi rắn dài và cong vút được đắp trên đầu các góc mái chùa, thì hình tượng Krud được án ngữ ở chỗ tiếp giáp đầu cột với đuôi mái chùa.

- Yeak (Chằn) trong các chuyện cổ Khmer là nhân vật tượng trưng cho cái Ác, thường gieo điều dữ cho con người. Hình tượng Yeakcó dáng vẻ của một người mang bộ mặt dữ tợn, miệng to, răng nanh dài, mắt lồi, lông mày xếch. Mình Yeak mặc áo giáp, đầu đội mũ nhọn và tay cầm cái chày dài. Trong nghệ thuật trang trí chùa Khmer, Yeak đã được đức Phật cải hóa và đặt đứng hai bên bậc thềm ở phía trước chánh điện nhằm mục đích bảo vệ ngôi chùa.

- Reach Cha Sei là con vật mà Tiên nữ và Yeak đứng trên đó khi giao đấu với nhau. Hình tượng này được chạm trổ trên hai cánh cửa ra vào chánh điện.

- Teahu là hình tượng người có bộ mặt hung dữ, hai tay bưng mặt trời hay mặt trăng chuẩn bị nuốt vào bụng. Hình tượng này cũng được trang trí tren khung cửa ra vào.

- Sala là dãy nhà sàn rộng rãi, thông thoáng được xây bên cạnh chánh điện, dùng làm chỗ cử hành lễ dâng cơm cho sư sãi và nơi hội họp của các Phật tử trong các ngày lễ hội.

Trong khuôn viên chùa có sáu tháp để cốt của các sư sãi và Phật tử đã qua đời. Chùa Kh’Leang đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 27-4-1990. Đợt trùng tu mới nhất của chùa được hoàn thành vào cuối năm 1994.


AN GIANG

Chùa TÂY AN

Chùa Tây An là một trong những ngôi chùa cổ nổi tiếng ở Nam bộ, có giá trị về mặt lịch sử và kiến trúc. Chùa do Tổng đốc tỉnh An Giang là Doãn Uẩn xây dựng năm 1847, tọa lạc ở ngã ba Núi Sam, cách thị xã Châu Đốc 5km. Sách Đại Nam nhất thống chí đã giới thiệu: "Chùa ở định phận thôn Vĩnh Tế, huyện Tây Xuyên, nguyên Tổng đốc mưu lược tướng Trung Tĩnh Tử Doãn Uẩn kiến trúc năm Thiệu Trị thứ 7 (1847). Chùa đứng trên núi, mặt trước trông ra tỉnh thành, phía sau dựa theo vòm núi, tiếng người lặng vắng , cổ thụ âm u, cũng một thắng cảnh thiền lâm vậy".

Gần 150 năm qua, chùa Tây An đã được sữa chữa nhiều lần. Hai lần sửa chữa lớn nhất là: Năm 1861, Hòa thượng Nhất Thừa trùng tu lại chánh điện và hậu tổ. Đến năm 1958, Hòa thượng Bửu Thọ đứng ra vận động dân góp tiền của, công sức xây dựng ba ngôi lầu cổ, mặt chính của chùa và sữa chữa ngôi chính điện. Kiến trúc chùa mang phong cách nghệ thuật Ấn Độ và Hồi giáo kết hợp với kiến trúc cổ dân tộc.

Nơi cổng tam quan có bức tượng Quan Âm Thị Kính bế con Thị Mầu. Trước thềm chùa có hai con voi - một con màu đen hai ngà, một con màu trắng sáu ngà - đứng chầu. Bên trong chánh điện có khoảng 200 pho tượng Phật, Bồ-tát, La-hán, Thần và Tiên… đa số bằng danh mộc, mang ý nghĩa triết lý Phật giáo và có giá trị nghệ thuật cao. Sinh động nhất là bộ tượng Tứ Thiên Vương (Đông Thiên Vương, Tây Thiên Vương, Nam Thiên Vương, Bắc Thiên Vương) và bộ tượng Bát bộ Kim Cương.

Chùa còn có nhiều câu đối và hoành phi trạm trổ rất công phu. Tất cả công trình được tạo tác bởi bàn tay điêu luyện của các nghệ nhân An Giang, Đồng Tháp vào thế kỷ XIX.

Phía sau chùa có nhiều tháp mộ, Trong đó đáng chú ý nhất là mộ Phật Thầy Tây An. Thầy tên là Đoàn Minh Huyên quê ở Tòng Sơn (Sa Đéc), sinh năm Đinh Mão (1807), mất năm Bính Thìn (1856). Là người có tinh thần cải cách tôn giáo, Từ năm 1849, Thầy đã đi truyền đạo nhiều nơi và chữa bệnh cho nhiều người nên có uy tín lớn trong nhân dân. Sau đó Thầy về tu tại chùa Tây An. Nhân dân kính trọng tài năng và đức độ của thầy nên đã tôn xưng là Phật Thầy Tây an.

Hằng năm, chùa Tây An có các ngày lễ chính: rằm tháng giêng (thượng nguyên), rằm tháng mười (hạ nguyên) và 12 tháng 8 âm lịch (giỗ thầy Tây An). Vào các ngày lễ ấy và các tháng lễ hội núi Sam, Châu Đốc (từ tháng 1 đến hết tháng 4 âm lịch hàng năm), khách hàng hương các nơi đến chùa chiêm bái rất đông.


KIÊN GIANG

Chùa SẮC TỨ TAM BẢO

Tỉnh Kiên Giang có hai ngôi chùa nổi tiếng đều tên là Tam Bảo : một chùa ở Rạch Giá, một chùa ở Hà Tiên. Chùa Tam Bảo ở Rạch Giá vốn là nơi tu hành của bà Dương Thị Cán tục gọi là bà Hoặng. Bà là ân nhân đã giúp đỡ Nguyễn Ánh lúc còn bôn ba, nên sau khi vua Gia Long lên ngôi, chùa này được Vua sắc tứ để tạ ơn.

Chùa tọa lạc tại số 6 đường Thích Thiện Ân, thị xã Rạch Giá . Từ trên đường Nguyễn Trung Trực, du khách đã thấy tấm bản đề "Sắc tứ Tam Bảo Tự". Ngôi chánh điện của chùa kiến trúc theo kiểu thượng lầu hạ hiên. Ở mặt tiền bên trên hàng hiên là ngọn bảo tháp ba tầng tượng trưng Cửu phẩm Liên hoa. Chánh điện có chiều ngang 14,50m, chiều dọc 22m. Năm bao lam ở các bàn thờ được chạm trổ công phu, thếp vàng rực rỡ. Các tượng Phật Di-đà, Thích-ca và các vị Bồ-tát được bài trí trang nghiêm.

Đông lang được dùng làm phòng khách và phòng làm việc của Hòa thượng trụ trì. Tây lang và giảng đường của chùa được dùng làm Tuệ Tĩnh đường, nơi chữa bệnh miễn phí cho đồng bào.

Lịch sử chùa Sắc tứ Tam Bảo gắn liền với tên tuổi Hòa thượng Thích Trí Thiền, thế danh là Nguyễn Văn Đồng, sinh năm 1882, tịch năm 1943. Chính Ngài đã chăm lo việc trùng kiến ngôi chùa như ta thấy hiện nay vào năm 1917. Hòa thượng Trí Thiền cũng là người có công sáng lập Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học vào năm 1931. Hội này đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn, số 149 đường Douaumont (nay là Cô Giang), Saigon. Hội xuất bản tạp chí Từ Bi Âm để truyền bá giáo lý, lập Pháp Bảo phường, thỉnh Tam Tạng Kinh làm tài liệu nghiên cứu.

Sau đó Hòa thượng Trí Thiền và sư Thiện Chiếu trở về Rạch Giá lập Phật giáo Kiêm Tế Hội, chủ trương vừa truyền bá giáo lý nhà Phật, vừa vận động tín đồ làm công tác xã hội. Sau Nam Kỳ khởi nghĩa, một số cán bộ mượn chùa Tam Bảo làm nơi chế tạc đạn, chuẩn bị nổi dậy chống Pháp. Nhưng công việc bị phát hiện, Hòa thượng Trí Thiền can đảm nhận trách nhiệm nên bị thực dân Pháp bắt đầy ra Côn Đảo và hi sinh tại đó năm 1943. Một đệ tử của Ngài là nhà sư trẻ Thiện Ân, lúc bị địch bắt, đã dũng cảm hi sinh bằng cách cho tạc đạn nổ để tiêu diệt bọn mật thám. Tấm lòng ưu dân ái quốc của các vị sư ở chùa Tam Bảo đã được Hòa thượng Thích Bổn Châu, nhắc tới trong tập thơ Việt Nam anh kiệt.

Ngày nay, chùa đặt văn phòng Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Kiên Giang . Chùa đã được Bộ Văn Hóa ra quyết định công nhận di tích lịch sử - văn hóa vào ngày 23-3-1988.


VŨNG TÀU

THÍCH CA PHẬT ĐÀI

Du khách đến thăm thành phố biển Vũng Tàu đừng quên viếng Thích Ca Phật đài, một danh lam thắng cảnh nổi tiếng nằm ở Tây Bắc sườn núi Lớn. Đây là công trình do hệ phái Phật giáo Nam tông xây dựng năm 1961 và hoàn thành năm 1963.

Khu vực này rộng khoảng 5 hecta, gồm Thiền Lâm Tự phía dưới và Thích-ca Phật đài phía trên. Thiền Lâm Tự vốn là một ngôi chùa nhỏ bằng gạch do một công chức hồi hưu quê quán ở Vũng Tàu xây dựng từ năm 1957. Đến năm 1961, Giáo hội Phật giáo Nguyên thủy đã tổ chức trùng tu ngôi chùa bên dưới và xây cất Thích-ca Phật đài trên núi. Cạnh đó còn xây một nhà tạm trú dành cho Phật tử từ xa đến hành hương.

Đến Vũng Tàu, từ chợ Bến Đình rẽ trái đi hơn 1km là tới chân núi Lớn. Tại đây, sát bên đường đi xuất hiện một cổng tam quan khá to với 4 cây cột vươn lên vững chắc nhưng thanh thoát. Qua khỏi tam quan, bước trên từng bậc đá men sườn núi, du khách sẽ đi dần lên núi theo một con đường khá đẹp : một bên vách

núi nhẵn nhụi như tường thành, một bên là vũng sâu soải dài ra phía biển. Gần đến đỉnh, du khách như bước vào một khu rừng thưa, có tiếng chim ríu rít trong các tàn cây.

Theo con đường làm bằng những bậc đá, rải rác trên sườn núi, du khách sẽ chiêm ngưỡng các pho tượng minh họa sự tích đức Phật : Thích-ca đản sinh,Thích-ca xuất gia, Thích-ca thành đạo, Thích-ca chuyển pháp luân, Thích-ca nhập niết bàn, voi và khỉ dâng quả. Bên cạnh đó là một khu vườn với nhiều chậu cảnh, hoa nở suốt bốn mùa, bao quanh một ngôi nhà hình bát giác, tượng trưng vườn Lộc (vườn Nai), nơi đức Phật giảng kinh cho năm đệ tử đầu tiên của Ngài là chư tôn giả Kiều Trần NHư, Ác-bệ, Bà-phả, Ma-ha-nam, Bạc-đề. Trên đường lên núi còn có một cây bồ đề xanh tươi do ngài Trưởng lão Narada Maha Thera cung thỉnh một nhánh của cây bồ đề từ Tích Lan trồng tại đây ngày 2-11-1960. Đường lên Thích-ca Phật đài được nối dài bằng hệ thống bậc thang lớn, hai bên có 6 con rồng uốn mình. Trên cao, ở phía đuôi rồng là hai con sư tử lớn, tượng trưng cho Đại Hùng và Đại Lực. Kế đó là một cái sân rộng lát đá, ở giữa xây tháp Xá Lợi hình bát giác cao 19m bốn phía đặt bốn đỉnh lớn. Các đỉnh này chứa dất mang về từ bốn Thánh địa ở Ấn Độ là vườn Lâm-tỳ-ni, nơi đức Phật đản sinh; Bồ-đề Đạo tràng, nơi dức Phật thành đạo ; vườn Lộc Uyển, nơi đức Phật chuyển pháp luân và rừng Sala Song Thọ tại Kusinara, nơi đức Phật nhập diệt.

Nhìn về bên phải , du khách sẽ thấy hiện ra tượng đức Phật Thích-ca ngồi kiết guià trên một tòa sen. Tượng này cao 10,20m, đường kính bệ dài 6m, khánh thành ngày 10-3-1963. Tượng Phật Thích-ca và tháp Xá-lợi đều màu trắng nổi bật trên màu xanh của nền trời và lá cây.

Từ vị trí của Thích-ca Phật đài, nhìn chung quanh sườn núi lớn, biển hiện ra ở cả 3 phía. Từ đây có thể thu vào tầm mắt mũi Cần Giờ, đảo Long Sơn và tổ hợp giàn khoan dầu khí ngoài khơi xa. Do địa thế thiên nhiên và cảnh quan hùng vĩ, khu vực Thích-ca Phật đài đã trở thành điểm du lịch - văn hóa nổi tiếng có sức thu hút đông đảo du khách đến tham quan Vũng Tàu.  

Nguon: daophatngaynay


© 2008 -2024  Phật Học Online | Homepage