Trong lĩnh vực thơ văn, ông có nhiều bài thơ đạt đến trình độ kiệt tác, mà Thiên Trường vãn vọng (Buổi chiều ở Thiên Trường nhìn ra xa); Nguyệt (Trăng) là những ví dụ tiêu biểu. Bài thơ Thiên Trường vãn vọngvới
bút pháp vừa thực vừa hư, vừa tĩnh vừa động đã giúp cho người đọc vừa
hiểu được cái cụ thể, lại vừa cảm nhận sâu xa hơn cái cụ thể. Trong
khung cảnh trời chiều nơi hành cung Thiên Trường, nhà vua - thiền sư
nhìn ra xa thấy cảnh quê hương với đồng ruộng, xóm thôn yên ả thanh
bình. Trên con đường làng, chú mục đồng ngồi vắt vẻo trên lưng trâu đang
thổi sáo dẫn trâu về chuồng; dưới cánh đồng, có đôi cò trắng bay song
song đáp xuống. Tác giả tự hỏi những thôn xóm trong màn sương mờ ảo kia
là có hay không? Cuối cùng là cái không lời tan biến vào cõi hư không
tịch mịch trong buổi chiều tàn. Bài thơ đạt đến mức “thi trung hữu họa”
được viết dưới ánh sáng của Mỹ học Thiền tông, bởi trạng thái chập chờn
giữa hưvà thực; giữa tĩnh với động; giữa hữu và vô. Còn bài thơ Nguyệt
như thi đề cho biết sẽ tả cảnh trăng, nhưng ba câu đầu không nói về
trăng, mà là cảnh đêm tịch tĩnh. Chỉ có giọt sương rơi khẽ khàng trước
sân cùng âm thanh của tiếng chày đập vải vang lên từ nơi nào, như là
tiếng đồng vọng, âm hưởng trong đêm. Đây là cảnh thực. Đến câu cuối cảnh
trăng mới xuất hiện, vừa thực lại vừa hư, tạo nên vẻ đẹp bừng sáng lung
linh bởi ánh trăng hội tụ trên chùm hoa mộc tê vừa hé nở: Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ (Trên chùm hoa mộc nguyệt lồng gương).
Nhưng rất tiếc, đây không phải là những thi phẩm viết về mùa xuân. Mười
lăm bài thơ trang nhã, diễm lệ trực tiếp tả cảnh mùa xuân bộc lộ tình
xuân như: Xuân
nhật yết Chiêu Lăng; Xuân hiểu; Xuân cảnh; Xuân vãn; Mai; Tảo mai; Quỹ
Trương Hiển Khanh xuân bính; Nhị nguyệt thập nhất dạ; hoặc gián tiếp vì có nhắc đến ý xuân, cảnh xuân, cảm xuân dù chỉ là bất chợt thoáng qua như: Khuê oán; Đăng Bảo Đài sơn; Động Thiên hồ thượng; Thiên Trường phủ; Sơn phòng mạn hứng; Đề Cổ Châu hương thôn tự; Tống Bắc sứ Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai.
(Để không phải chú thích dưới các trích dẫn, tất cả những thi phẩm
nguyên tác và bản dịch được trích trong bài viết này, chúng tôi rút từ Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển thượng, do Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989 từ trang 451 đến trang 472).
Trước hết, xin điểm qua những ý xuân, cảm xuân bất chợt trong thơ Trần Nhân Tông. Bài Khuê oán (Niềm oán hận của khuê phụ) là lời tâm sự của thiếu phụ trong phòng khuê nuối tiếc bâng quơ về thời gian sau khi thức giấc:
Thụy khởi câu liêm khán trụỵ hồng,
Hoàng ly bất ngữ oán Đông phong.
Vô đoan lạc nhất tây lâu ngoại,
Hoa ảnh chi đầu tận hướng Đông.
(Tỉnh giấc, rèm nâng, ngó rụng hồng,
Hoàng oanh im tiếng giận Đông phong.
Lầu Tây vô cớ, vầng dương lặn,
Cả bóng hoa cành ngả hướng Đông).
Sau
một giấc dài, thiếu phụ thức dậy, cuốn rèm mở cửa ngắm nhìn những cánh
hồng rụng rơi; trong khi chim hoàng oanh im bặt tiếng vì oán hận mùa
xuân đã qua, gió xuân không tới nữa. Chim hoàng oanh là biểu tượng của
mùa xuân; Đông phong là gió thổi từ phương Đông, theo Dịch học thì trong
Ngũ hành, phương Đông thuộc Mộc, mà Mộc chỉ mùa xuân, nên Đông phong là
gió xuân. Không có tiếng chim, chẳng có gió xuân, có lẽ lúc này tiết
trời đã cuối xuân hoặc mới sang hè. Tuổi trẻ bao giờ cũng gắn với mùa
xuân, nên nàng mới nuối tiếc thời gian chóng qua, đời người chóng già.
Một cảm thức đầy tính triết lý của tác giả về thời gian, nêu lên quy
luật khắc nghiệt của tuần hoàn, qua mấy vần thơ hàm súc, ý tại ngôn
ngoại.
Không hiểu sao trong nhiều bài thơ, Trần Nhân Tông hay nhắc đến gió xuân (Tống Bắc sứ Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai; Khuê oán; Mai; Tảo mai) hoặc cảnh xuân muộn, xuân tàn (Xuân vãn; Sơn phòng mạn hứng; Nhị nguyệt thập nhất dạ…),
có lẽ là bắt nguồn từ cảm thức về thời gian như trên. Nhìn cảnh hoa
rụng, mưa tạnh, thấy núi non tịch mịch, lại nghe một tiếng chim kêu nơi
biên cương, nhà thơ - thiền sư mới biết mùa xuân đã qua:Hoa tận, vũ tình, sơn tịch tịch; Nhất thanh đề điểu, hựu xuân tàn - Sơn phòng mạn hứng, bài 2 (Hoa tàn, mưa tạnh, non im lắng; Xuân cỗi còn dư một tiếng chim).
Cảnh xuân tàn ở đây có thể là hình ảnh biểu trưng cho tuổi già, cho con
người đã sang bên kia dốc của cuộc đời? Có lần, tác giả lên chơi núi
Bảo Đài, thấy cảnh núi mây như xa như gần; ngõ hoa nửa rợp nửa nắng, nhà
thơ cảm thức về thời gian cứ tuần hoàn trôi nên không cất lời mà chỉ
tựa lan can thổi sáo dưới ánh trăng sáng chan hòa trước ngực (Đăng Bảo Đài sơn).
Cuối cùng là cái vô ngôn. Bài thơ mang cảm thức Thiền, và có lẽ lúc này
nhà vua - thiền sư đang tu trên Yên Tử, bởi Bảo Đài là một ngọn núi
thuộc dãy Yên Tử ở Đông Triều, Quảng Ninh.
Tiếp
theo là những vần thơ trực tiếp tả cảnh mùa xuân bộc lộ tình xuân. Ngày
xuân, nhà vua về quê hương Thiên Trường viếng lăng mộ ông nội là Trần
Thái Tông, lại nghĩ đến một thời hào hùng oanh liệt với chiến tích chống
Nguyên Mông lần thứ nhất của dân tộc, làm nên hào khí Đông A bất diệt
(1258), vì thế mà người lính già đầu bạc tham gia kháng chiến ngày nào
giờ đang coi giữ lăng mộ vẫn mãi mãi kể chuyện về đời Nguyên Phong với
niềm tự hào lớn (Nguyên Phong là niên hiệu lần thứ ba (từ 1251 đến 1258)
của Trần Thái Tông (lên ngôi 1225 - nhường ngôi 1258) khi còn trị vì): Bạch đầu quân sĩ tại; Vãng vãng thuyết Nguyên Phong. (Lính bạc đầu còn đó; Chuyện Nguyên Phong kể hoài - Bài Xuân nhật yết Chiêu Lăng). Hay
như ngày cuối xuân trong tiết hàn thực mùng ba tháng ba, sau khi thưởng
thức các điệu múa cùng với sứ giả phương Bắc, nhà vua tặng bánh trôi,
bánh chay, bánh rau cho sứ giả và bảo rằng đây là phong tục riêng của
nước Nam. Lời thơ nói ít mà ý nhiều, thể hiện bản lĩnh vị hoàng đế nước
Nam cùng bộc lộ niềm tự hào về văn hóa, văn hiến phương Nam trước sứ
thần phương Bắc(Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính - Tặng bánh ngày xuân cho Trương Hiển Khanh). Hai bài thơ Mai và Tảo maingợi
ca vẻ đẹp thanh cao, cốt cách chịu đựng sương tuyết của loài hoa đứng
đầu trăm hoa, để trước gió xuân khoe sắc vàng rực rỡ, sắc trắng tinh
khôi và tỏa hương làm cho lòng người ngây ngất. Có khi tả hoa mai nở sớm
trong buổi đông tàn, để khi xuân sang chỉ còn loáng thoáng vài cánh
thơm nhẹ mà nhà thơ lại nghĩ đến chị Hằng. Ý thơ thật lạ, giàu liên
tưởng và sáng tạo: Hằng
(Thường) Nga nhược thức hoa giai xứ; Quế lãnh, Thiềm hàn chỉ má hưu.
(Hằng Nga như biết đây hoa đẹp; Quế lạnh, cung Thiềm há muốn ưa? - Tảo
mai, bài 2). Vì thế mà Hồ Nguyên Trừng trong tác phẩm Nam ông mộng lục viết vào đầu thế kỷ XV, tại câu chuyện thứ 19 có nhan đề Thi ý thanh tân đã hạ bút khen rằng: “Kỳ thanh tân hùng kiện quýnh xuất nhân biểu. Thiên thặng chi quân thú hứng như thử, thùy vị nhân cùng thi nãi công hồ?” (Cái
thanh tân hùng tráng vượt quá người thường. Thi hứng của vị vua một
nước có nghìn cỗ xe như vậy, ai dám bảo người ta khi khốn cùng thì mới
có thơ hay?).
Tôi xin giới thiệu ở đây ba bài thơ đặc sắc về mùa xuân: Xuân hiểu; Xuân cảnh và Xuân vãn.
Xuân
hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên,
thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được
viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ, rất trẻ, đang yêu đời, lòng tràn trề
lạc quan nên ý tứ trong bài dạt dào sức xuân, đầy tình yêu cuộc sống
thông qua hình ảnh đôi bướm trắng tung tăng bay tới cành hoa mơn mởn tỏa
nhụy thơm hương:
Xuân hiểu
(Buổi sớm mùa xuân)
Thụy khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ quy.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách sấn hoa phi.
(Ngủ dậy, ngỏ song mây,
Xuân về, vẫn chửa hay.
Song song đôi bướm trắng,
Phấp phới sấn hoa bay).
Còn bài Xuân cảnh có
lẽ được viết khi Trần Nhân Tông đã nhường ngôi cho con là Trần Thuyên -
Trần Anh Tông (1293 - 1314) để lên núi Yên Tử tu Thiền và sáng lập
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt tả cảnh mùa xuân
nơi am thanh chiều vắng, có hoa dương liễu trổ dày, có tiếng chim kêu
nhẩn nha chậm rãi; trên bầu trời thì có áng mây chiều đang lướt bay nhẹ
nhàng. Trong cảnh tịch tĩnh yên ắng ấy, có vị khách đến thăm, chẳng hỏi
chuyện nhân gian, thế sự, cũng không tham vấn về Thiền mà chỉ đứng tựa
lan can bên thềm hoa cùng với Thiền sư nhìn ngắm màu xanh nhạt nhòa mờ
mịt ở nơi chân trời xa. Cảnh hiện thực trong buổi tà dương đến đây đã
biến thành tâm cảnh. Chủ và khách cùng im lặng. Cảnh vật và lòng người
như hòa làm một. Chủ cũng thế mà khách cũng thế. Cái vô ngôn ở cuối bài
thơ như thể hiện ý vị Thiền đạo, đạt đến chỗ giải thoát:
Xuân cảnh
(Cảnh mùa xuân)
Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì,
Họa đường thiềm ảnh, mộ vân phi.
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thuý vi.
(Chim nhẩn nha kêu, liễu trổ dày,
Thềm hoa chiều rợp, bóng mây bay.
Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế,
Cùng tựa lan can ngắm núi mây).
Và bài thơ Xuân vãn có
lẽ cũng được viết khi Trần Nhân Tông đã là vị Tổ của Thiền phái Trúc
Lâm. Lúc này tuổi đã cao, công phu Thiền định đạt chỗ liễu ngộ giải
thoát, rõ lẽ “sắc” và “không” của kinh văn Bát nhã nên thiền sư nhìn
cuộc đời như như tự tại, thản nhiên. Thiền sư có dịp hồi tưởng một thời
tuổi trẻ của mình, lúc ấy mỗi khi xuân về thì lòng rộn ràng gởi ở trăm
hoa. Còn bây giờ đã hiểu được, ngộ ra, tức khám phá được bộ mặt của chúa
xuân (Đông hoàng diện), tức cũng có thể là thấy rõ chân như, tự tính,
bản tâm thanh tịnh, bản lai diện mục nên dù đang ngồi Thiền, ngắm cảnh
hoa rụng mà lòng vẫn nhất như, không xao động. Cái tâm thanh tịnh tuyệt
đối. Tâm và Pháp đến đây nhất như, hòa làm một, không phân biệt nội giới
với ngoại cảnh. Bài thơ thể hiện tư tưởng Thiền học uyên áo, uyên
nguyên, uẩn súc, chỉ có thể cảm nhận bằng trực cảm tâm linh chứ không
thể luận bình:
Xuân vãn
(Xuân muộn)
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung.
Như kim khám phá Đông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán trụỵ hồng.
(Tuổi trẻ chưa tường lẽ sắc không,
Xuân sang, hoa nở, rộn tơ lòng.
Chúa xuân nay đã thành quen mặt,
Nệm cỏ ngồi Thiền ngó rụng hồng).
Thơ là tiếng lòng, là tiếng nói cảm xúc của thi nhân trước hiện thực. Phan Phu Tiên trong lời tựa Việt âm thi tập(1433) có viết: “Tâm hữu sở chi, tất hình ư ngôn. Cố thi dĩ ngôn chí dã”. (Trong lòng có điều gì, tất thể hiện ra lời nói. Cho nên, thơ là để nói cái chí vậy).
Chí ở đây cũng là tâm, là cảm xúc, là tấm lòng. Cảm hứng mùa xuân trong
thơ của nhà vua - thi nhân - thiền sư - vị Phật hoàng Trần Nhân Tông là
như thế. Do khuôn khổ của một bài báo, tôi không thể viết dài và có thể
chưa nói được, nói hết cái hay, cái sâu sắc trong thơ mùa xuân của vị
thi nhân - thiền sư này. Nhưng thiết nghĩ, đây cũng là cách góp vui cho
quý vị lúc nhàn rỗi trong buổi xuân về tết đến.
PGS.TS. NGUYỄN CÔNG LÝ ( Hoa vô ưu)