Tuy nhiên, khi tiếp xúc trực tiếp với những
người đã dày công xây dựng công trình này mấy chục năm qua, với những
người bệnh đang trực tiếp điều trị, niềm tin của chúng tôi bắt đầu được
nhen nhóm. Đương nhiên, muốn khẳng định đây là một phát hiện có giá trị
khoa học và để áp dụng rộng rãi được trong cộng đồng thì công trình này
cần phải có thêm nhiều kết quả thực nghiệm ở mức độ cao hơn bởi các cơ
quan chức năng uy tín.
Cuộc gặp gỡ của hai người phụ nữ kỳ lạ
Bà Lê Thị Tâm có khuôn mặt đôn hậu, mái tóc bạc trắng.
Tuy đã ngót 80 tuổi nhưng dáng đi của bà vẫn còn rất nhanh nhẹn, trí tuệ
sắc sảo và mẫn tiệp. Nếu chỉ nhìn vào dáng vẻ bề ngoài của bà, khó ai
có thể tin rằng, bà đã không dưới một lần đối diện với tử thần vì bệnh
tật. Bà từng mắc đến 15 loại bệnh, trong đó có căn bệnh nan y: ung thư
cổ tử cung. Có đận, khối ung thư trong người vỡ ra, người nhà đã chuẩn
bị lo hậu sự nhưng chẳng hiểu có phép mầu gì mà bà lại vực lên được rồi
lần hồi tự chữa bệnh cho mình và đã khỏi được bệnh. Hỏi về bí quyết
chiến thắng nhiều cơn bạo bệnh, bà chỉ nói ngắn gọn: “Phật pháp nhiệm
mầu”.
Bà Lê Thị Tâm – người đã chiến thắng bệnh tật nhờ tụng kinh niệm Phật
Gần 30 năm trước, khi đang giữ chức Trưởng
ban giám sát điện năng của quận Hai Bà Trưng, Hà Nội thì bà Tâm bị bệnh
thiên đầu thống. Khi bệnh này còn chưa khỏi thì bà lại mắc thêm bệnh
máu nhiễm mỡ, viêm gan mãn tính, rồi bị ngã, xương sống bị sút, sau đó
thành bại liệt. Bệnh tật đã biến bà thành một phế nhân, chỉ nằm chờ
chết.
Trong những giải pháp cuối cùng để cứu vớt sự sống, bà Tâm tìm đến
chùa Quán Sứ để tĩnh tâm. Tại đây, bà đã gặp hòa thượng Thích Tâm Tịch
và được truyền thừa. Sau một thời gian vừa uống thuốc vừa kết hợp với
sám hối, ngồi thiền và tụng kinh niệm phật, bà tự giác ngộ rằng, căn
nguyên của tất cả là do cái nghiệp gây nên. Thật kỳ diệu, chỉ trong vòng
3 năm, mọi bệnh tật của bà bị đẩy lùi mà ngay cả đến các bác sĩ tại
nhiều bệnh viện lớn phải bất ngờ.
Từ niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh tinh thần, bà Tâm cho rằng, bệnh
tật là do nghiệp gây ra. Nếu tu dưỡng tốt, trì tụng kinh Phật có thể
thay đổi nghiệp, có thể nhiều bệnh sẽ khỏi. Từ suy nghĩ này, bà Tâm liều
lĩnh khẳng định có thể ứng dụng Phật pháp để hỗ trợ điều trị bệnh nhân
HIV/AIDS.
Bệnh nhân nhiễm HIV đầu tiên được bà Tâm đưa vào chữa trị là người
phụ nữ tên Hà, ở Đông Anh, Hà Nội. Hoàn cảnh của chị Hà hết sức éo le:
hai vợ chồng và đứa con duy nhất đều bị HIV, kinh tế gia đình khánh
kiệt, cả gia đình chị Hà chỉ nghĩ đến cái chết.
Bà Tâm bắt tay vào trị bệnh cho gia đình chị Hà bằng phương pháp
tương đối đơn giản. Trước tiên người bệnh phải gạt bỏ hết suy nghĩ tiêu
cực, hướng đến tương lai tươi sáng, bỏ qua suy nghĩ cũng như hành động
tàn ác để hướng đến điều thiện, làm việc thiện. Ngoài ra, trước mỗi buổi
ngồi thiền, nghe giảng đạo và tụng kinh, bệnh nhân cần phải tắm rửa, vệ
sinh sạch sẽ.
Sau một thời gian ngồi thiền, kết hợp đọc và được nghe giảng kinh,
anh chị Hà thấy sức khỏe của mình tiến bộ đến không ngờ. Những cơn ho đã
giảm bớt, sắc mặt đã hồng hào hơn và quan trọng nhất, anh chị đã bớt
tuyệt vọng hơn vào cuộc sống.
Kết quả bước đầu trong hỗ trợ điều trị HIV/AIDS bằng tụng kinh niệm
Phật đã làm bà Tâm hết sức phấn khởi. Tuy nhiên, suy cho cùng, đó cũng
chỉ là cách chữa “mò” mà kết quả cũng như cách thức vẫn chưa được kiểm
chứng bằng khoa học hiện đại. Chỉ đến khi bà Lê Thị Tâm gặp GS Phan Thị
Phi Phi, nguyên giảng viên Đại học Y Hà Nội thì những vấn đề này mới bắt
đầu được gỡ rối. GS Phi là nhà khoa học, có cách nhìn nhận và luận giải
mọi vấn đề bằng tư duy khoa học. Từ niềm tin bước đầu, GS Phi kết hợp
với Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng con người, Viện Vệ sinh phòng dịch
Quân đội để xây dựng đề tài khoa học “Nghiên cứu ứng dụng Phật pháp
trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân HIV/AIDS”.
Tế bào miễn dịch tăng lên
GS Phan Thị Phi Phi cho biết, theo nhà thần kinh học S. Freud
(1856-1939) thì mọi căn bệnh mắc phải là do rối loạn và mất cân bằng
giữa ý thức, tiềm thức và bản năng. Trong số các bản năng của sinh vật
thì bản năng sống là một bản năng mạnh, mãnh liệt trong mọi giai đoạn
cuộc sống. Claude Bernard, nhà sinh lý học thiên tài và y học thực
nghiệm của Pháp thế kỷ XVIII, nhà khoa học đầu tiên gắn liền sự sống với
sự hằng định nội môi (homeostasis), yếu tố quyết định đến sự sống. Đến
đây, sự sống của sinh vật đã ổn định và tăng cường lên. Chính vì thế, áp
dụng lý thuyết này vào hỗ trợ điều trị bệnh nhân HIV/AIDS chắc chắn sẽ
có tác dụng.
Các bệnh nhân HIV đang tụng kinh niệm Phật tại chùa Văn Điển, Hà Nội
Trong khi đó, kinh Phật nói rằng: Bệnh tật, số phận con người là do
nghiệp gây ra. Nếu tu dưỡng tốt, trì tụng kinh Phật có thể thay đổi
nghiệp, có thể nhiều bệnh sẽ khỏi. Mục tiêu mà đề tài này hướng đến là:
Người bệnh hiểu và trình bày được luật nhân quả ba đời và 12 câu thần
chú dùng trong trì tụng hằng ngày tại nhà và tổ chức tập trung một lần
hằng tháng tại chùa Quang Văn Tự (người dân hay gọi là chùa Văn Điển),
Hà Nội. Trong quá trình đó, nhóm nghiên cứu sẽ tiến hành đánh giá sức đề
kháng HIV/AIDS trước và sau 6 tháng trì tụng, bằng số lượng các tế bào
TCD3, TCD4, TCD8, tỉ lệ TCD4/TCD8 và đặc biệt chú trọng số lượng TCD4 là
những tế bào miễn dịch chống HIV/AIDS.
Các bộ kinh được chọn giảng và hướng dẫn trì tụng là kinh Pháp Hoa –
giáo pháp về sự chuyển hóa của “Phật tính” và khả năng giải thoát, kinh
Dược Sư và kinh Bản Nguyện, kết hợp đọc Chú Lăng Nghiêm và Thập chú.
Đối tượng nghiên cứu là 28 người được chọn từ các bệnh nhân bị
HIV/AIDS đang sinh hoạt tại CLB Hoa Sen, chùa Văn Điển, Hà Nội. Họ đều
được đưa đi xét nghiệm đánh giá mức độ bệnh trước khi trì tụng, 6 tháng
đưa đi xét nghiệm một lần nữa để so sánh. Các chỉ số miễn dịch tế bào
được tiến hành ở các trung tâm phòng chống AIDS, Viện Vệ sinh phòng dịch
Quân đội, trên máy FACS count SW (Mỹ).
Hội chứng suy giảm miễn dịch AIDS do virus HIV gây ra
lần đầu tiên được phát hiện ở Mỹ từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước và
nó đã nhanh chóng được tìm thấy mọi nơi trên thế giới, kể cả ở Việt
Nam. Trường hợp bị nhiễm HIV đầu tiên tại Việt Nam được phát hiện vào
tháng 2/1990. Kể từ đó số bệnh nhân ngày càng gia tăng trên toàn quốc.
Tính đến hết tháng 10/2011, tổng số bệnh nhân có HIV của cả nước đã lên
gần 246.000 người, trong đó 99.300 trường hợp đã chuyển sang giai đoạn
AIDS. Người mắc AIDS rất ít có dấu hiệu đặc trưng mà chủ yếu là triệu
chứng của những bệnh cơ hội do suy giảm số lượng, chất lượng của các tế
bào miễn dịch gây ra. Việc sản xuất vắcxin chống lại căn bệnh này là vô
cùng khó khăn bởi có quá nhiều các biến thể, các dạng tái tổ hợp mới của
virus đã được sinh ra trong thời gian ủ bệnh.
Năm 1987, CDC (Trung tâm Kiểm soát bệnh tật – Mỹ) đã phân loại giai
đoạn bệnh dựa vào số lượng tế bào Lympho TCD4. Người chuyển sang giai
đoạn AIDS là khi số lượng TCD4<200 tế bào /mm3 máu. Khi HIV vào cơ
thể, số lượng tế bào TCD4 bị giảm sút nhanh chóng, khó trở về mức bình
thường được nữa. Cùng với TCD4 giảm, tổng lượng lympho máu giảm, đặc
biệt TCD3.
Trở lại với công trình nghiên cứu của GS Phan Thị Phi Phi và các
cộng sự của mình, qua 6 tháng dùng Phật pháp trì tụng hỗ trợ điều trị
HIV, kết quả tổng hợp tất cả các bệnh nhân là vô cùng khả quan. Đa số
các bệnh nhân đều có tăng các thành phần miễn dịch tế bào, đặc biệt là
TCD4 (60,8% số trường hợp nghiên cứu) và tương tự tăng cả TCD3 và TCD8.
Mức độ tăng lần lượt là là 3,4; 11,4 và 89,1. Tỉ lệ TCD4/TCD8 cũng có
tăng 52,17% số trường hợp, tuy mức độ tăng rất ít, vì trước thời gian
trì tụng, chỉ số này cũng rất thấp. Đặc biệt, đối với 16 bệnh nhân đã
dùng thuốc chống virus ARV, số lượng cũng như mức độ tăng đều cao hơn so
với giá trị chung của cả nhóm và có nghĩa cũng cao hơn nhóm không sử
dụng ARV.
Đặc biệt, trong nhóm nghiên cứu có 3 bệnh nhân HIV giai đoạn muộn
(TCD4 từ 50-200), nhưng sau trì tụng thì 2 trong 3 trường hợp này đều có
tăng nhẹ TCD4 và một trường hợp giữ thấp như cũ.
Các bệnh nhân đều chưa thay đổi giai đoạn của bệnh (tức là chưa
chuyển sang giai đoạn bệnh nặng hơn hay có biểu hiện của bệnh cơ hội
AIDS).
Đây là kết quả vô cùng bất ngờ và đáng mừng, tốc độ phát triển của căn bệnh thế kỷ đang được làm chậm lại.
Cần các cơ quan hữu quan vào cuộc
Bà Lê Thị Tâm hay GS Phan Thị Phi Phi và những người trong nhóm
nghiên cứu đều có tâm thiện nguyện và niềm tin trong lành vào Phật pháp.
Họ đều khát khao muốn đưa Phật học, sức mạnh niềm tin vào để chữa bệnh,
không phải chỉ với HIV/AIDS mà còn với rất nhiều những bệnh nan y khác.
Đây là một ước mong chính đáng, vô cùng tốt đẹp.
Phật pháp mang nặng giá trị tinh thần, niềm tin tâm linh nhưng HIV
lại là một căn bệnh có thật, hiển hiện trong cơ thể của hàng triệu người
bệnh đang khiến cả nền khoa học thế giới lùng sục tìm phương thuốc
chữa. Hai phạm trù này dường như chẳng có gì liên quan đến nhau, không
hề logic trong tư duy của nhiều người.
Chính vì thế, khi nghe đến câu chuyện nghiên cứu khoa học của họ đã
có người hồ nghi và đặt ra vô số câu hỏi: có động cơ gì ẩn sau việc làm
của họ đây? Liệu việc làm của họ có nhằm mục đích kinh doanh? Họ đã
chịu nỗi đau do chính căn bệnh HIV đem đến?
Trên thực tế, tất cả những nghi ngờ này đều là sai cả. Qua tìm
hiểu, chúng tôi biết được rằng, GS Phi, bà Tâm… đều mang một trái tim
thiện nguyện trong lành không hề vẩn đục. Họ đều đã lớn tuổi nhưng ngày
ngày vẫn cần mẫn làm việc giúp bệnh nhân mà không lấy tiền công. Họ kêu
gọi các nhà hảo tâm hỗ trợ tiền cho những bệnh nhân HIV, ít thì tiền tàu
xe đi lại, nhiều là tiền vốn để làm ăn.
Hiện tại, hằng tháng, những bệnh nhân HIV của CLB Hoa Sen đều sinh
hoạt tại chùa Quang Văn Tự, lập đạo tràng, tụng kinh niệm phật để mong
tâm mình thanh thản và được ngắm nhìn cuộc sống này lâu hơn nữa. Họ, có
người khi mắc HIV đã có ý định quyên sinh, trả thù đời nhưng từ khi đến
đây, được nghe giảng kinh, tụng kinh thì họ đã khác, bệnh tật với họ giờ
đây trở nên nhẹ nhàng, cuộc sống đã có niềm tin trở lại.
Chúng tôi thì cho rằng, việc tụng kinh niệm phật, nói lời tốt, sống
tốt, làm việc tốt thì đương nhiên từ ngàn đời nay chưa bao giờ là xấu
cả. Việc áp dụng tụng kinh niệm phật để hỗ trợ điều trị HIV đã có kết
quả khả quan bước đầu là rất đáng mừng. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu mới
chỉ dừng ở cấp độ của Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng con người, số bệnh
nhân được đưa vào thực nghiệm là không nhiều. Để phương pháp điều trị
này đi được vào cuộc sống, áp dụng được cho vô số những bệnh nhân có HIV
thì lại là một câu chuyện khác, cần nhiều trí tuệ hơn, nhiều công sức
hơn và nhiều trái tim thiện nguyện hơn nữa.
Sẽ có khoảng 60 triệu bệnh nhân AIDS tử
vong đến năm 2015. Bất chấp những nỗ lực từ các chính phủ, đại dịch thế
kỷ cũng sẽ gây ra những mất mát hết sức to lớn cho hầu hết mọi cộng
đồng. AIDS dễ dàng qua mặt trận dịch hạch Black Death vào thế kỷ XIV để
trở thành dịch bệnh giết người đáng sợ nhất trong lịch sử nhân loại. Cho
đến cuối năm 2007, ước tính có hơn 30 triệu người chết do AIDS và gấp
đôi ngần ấy nạn nhân đã bị nhiễm HIV…Cho đến lúc này, vẫn không có một
phương thuốc nào thực sự hữu hiệu để chữa trị AIDS ngoài một nhóm tác
nhân sinh dược, gồm cả những loại gây tác dụng phụ, nhưng chỉ có tác
dụng làm chậm lại tiến trình phát bệnh AIDS mà thôi. Để chữa trị AIDS,
các chuyên gia thường sử dụng kết hợp đồng thời một hỗn hợp gồm từ 3 hay
nhiều hơn các dạng sinh dược khác nhau, vì cách này sẽ giúp làm chậm
lại khả năng kháng thuốc của HIV. Tuy nhiên, virus này vẫn có khả năng
tiến hóa nhanh để vô hiệu hóa hầu hết các loại biệt dược, đặc biệt khi
chế độ chữa trị không được tuân thủ nghiêm khắc. |
(Báo Năng lượng Mới số 109, ra ngày 6/4/2012)