Chùa
ra đời khi nào chưa tra khảo được. Theo Tu Tạo Linh Tiên Tự Bi (修造靈仙寺碑)
thì vào năm Hoằng Định 18 (1617), trụ trì chùa là Nguyễn Văn Tông阮文宗,
tự Huệ Nguyên 惠原 đứng ra vận động hai làng Linh Đường và Bằng Liệt trùng
tu chùa và cầu Bến Đại. Như thế thì biết chùa đã xây dựng trước năm
1617.
Trong khoảng thời gian này, chúng ta không được biết nhiều các hoạt động Phật sự của chùa. Đến năm Thịnh Đức 2 (1654[1],
chùa lại được trùng tu nhà thiêu hương, tiền đường do sự phát tâm của
hai vợ chồng ông Ngô Vĩnh Lăng, tự Chân Sinh và bà Lưu Thị Lý, hiệu Diệu
Minh, dưới sự chủ trì của Thiền sư Huệ Quảng (惠廣禪師). Tư liệu văn bia
chùa không cho biết nhiều, chỉ biết Thiền sư thế danh là Lê Khả Đắc,
người xã Ba Lăng, Thượng Phúc. Hai thí chủ được dân làng bầu hậu, ông
được bầu làm hậu Thần, bà được bầu làm hậu Phật, hằng năm qui định cúng
tế cho ông bà. Như thế, chùa Bằng trải qua mấy mươi năm đã được trùng tu
2 lần.
Vị Thiền sư kế thừa trụ trì mà chúng ta được biết là Thiền sư Như Liên Bất Trước Thủy (如蓮不著水禪師). Theo Kiến tính thành Phật[2],
trong danh sách những người được kế đăng của Thiền sư Chân Nguyên thì
Thiền sư Như Liên là vị thứ 2 trong bảng danh sách gồm 30 vị. Theo Quang
Ân Thiền Tự Thiên Đài Trụ Thạch[3]
do chính Thiền sư soạn và viết chữ vào năm Chính Hòa 25 (1704) thì ông
không những trụ trì chùa Bằng mà kiêm nhiệm chùa Quang Ân. Hiện chùa
Bằng còn một cái trống đá được làm năm Bảo Thái 4 (1723), trong đó Thiền
sư Như Liên cho soạn một bài văn ghi lại công đức của các thí chủ.
Thiền sư Như Liên xây dựng hai ngôi chùa Bằng và
Quang Ân trở thành những ngôi già lam qui mô. Thiền sư không những phát
triển cơ sở vật chất cho Phật giáo mà còn đặt nền móng bền vững cho các
thế hệ sau mình thuận tiện hơn trong việc hoằng hóa lợi sinh. Thiền sư
Như Liên viên tịch khoảng trước năm Bảo Thái 8 (1727). Vì lúc này Thiền
sư Tính Tuyên, người trụ trì kế tiếp đã đứng ra vận động thập phương tín
thí làm mới Thạch kiều và Quán đá[4].
Thiền sư Tính Tuyên và Thiền sư Như Liên có phải là
hai thầy trò hay không, hiện vẫn chưa được rõ. Chúng ta có thể nhận thấy
là hai vị trong cùng một dòng thiền Đông Đô. Thiền sư Tính Tuyên kế
đăng trụ trì hai chùa Quang Ân và Linh Tiên. Sư quê xã Ninh Vũ, huyện
Đông An, phủ Khoái Châu. Sư Tính Tuyên khi còn là Sa-di đã làm nhiều
Phật sự lớn như vận động tín thí xây hai cầu đá là cầu Quang Bằng và Cầu
Biêu mà văn bia ghi lại[5].
Trong vòng 10 năm, từ khi Thiền sư đứng ra vận động
xây dựng cầu đá ở xứ Cầu Hóp năm Bảo Thái 8 [1727] đến xây cầu Quang
Bằng năm Long Đức 3 [1734] và đến năm Vĩnh Hựu 3 [1737] cho xây cầu Biêu
thì thấy được vai trò rất lớn của Thiền sư Tính Tuyên. Phải nói rằng,
Thiền sư Tính Tuyên có uy tín lớn mạnh, thập phương tín thí mới dám bỏ
tiền ra ủng hộ nhiều được. Thiền sư Tính Tuyên xứng đáng để chúng ta tôn
xưng là tổ lập cầu.
Năm 1747, Thiền sư Tính Tuyên in lại tác phẩm Ngũ
Chủng Bồ Đề Yếu Nghĩa của Chuyết Công Hòa thượng. Trong lần in này,
Thiền sư Tính Tuyên đã in thêm tác phẩm của Thiền sư Chân Nguyên là Tịnh
Độ Yếu Nghĩa như là phần phụ lục với nhan đề “Phụ hậu thiện ác báo ứng,
phả khuyến niệm Phật, lâm chung chính niệm” vào tác phẩm. Theo thầy Lê
Mạnh Thát[6], bài “Trùng San Ngũ Chủng Bồ Đề Yếu Nghĩa Tự Văn” là do Tính Tuyên viết.
Chúng tôi còn phát hiện một bản Ngũ Chủng Bồ Đề Yếu
Nghĩa nữa, bản in năm Bảo Thái 7 [1726] do Thiền sư Chân Nguyên trùng
san. Lúc này, Thiền sư Chân Nguyên đã 80 tuổi, giao phó cho sư Như Tùy
(1696 – 1733) trông nom khắc in. Như thế, Thiền sư Tính Tuyên có được
giao phó hay không thì chúng ta chưa dám chắc. Bởi sư Như Tùy là đệ tử
trực tiếp của Thiền sư Chân Nguyên, nên lời dặn dò là hợp lí. Thiền sư
Tính Tuyên hiện chưa thấy có tư liệu nào nói sư tham học với Thiền sư
Chân Nguyên, chính sư tự xưng là pháp tôn của Thiền sư Chân Nguyên. Liệu
sư Như Tùy và Thiền sư Tính Tuyên có quan hệ thầy trò chăng?
Từ tư liệu này mà chúng ta biết Thiền sư Tính Tuyên
đã thụ giới Tỳ-kheo như cuối tác phẩm ghi: “Lâm Tế thiền tông Nam Sơn
đạo mạch trụ trì Quang Ân tự sa môn tự Tính Tuyên”. Năm 1747, Tính Tuyên
đã giao chùa Linh Tiên cho Thiền sư Hải Dương mà sách ghi: “Nhất trụ
trì Linh Tiên thiền tự Chân Giác Sa di Hải Dương”.
Về năm tịch của Thiền sư Tính Tuyên, chúng ta có thể
suy ra được từ các nguồn tư liệu. Năm mà Thiền sư in tác phẩm trên là
vào ngày tốt giữa hạ năm Cảnh Hưng 8 [1747] và theo Quang Ân Tự Hậu Phật
Điền Bi Ký nói ngày 28 tháng 5 năm Đinh Mão [1747] dân làng mời Thiền
sư Như Tâm về trụ trì chùa Quang Ân. Như thế thì sau khi in lại sách
không lâu, Thiền sư Tính Tuyên đã viên tịch. Chúng tôi xác định ngày
mồng 6 tháng 5 năm 1747 là ngày Thiền sư viên tịch nhờ một văn bia chùa
Thiên Quang[7] ghi lại như sau:
南無金剛塔摩訶比丘不著水字如蓮禪師禪座下六月十五日正忌
南無靈光塔摩訶比丘字性宣禪師禪座下五月初六日正忌
南無圓光塔摩訶僧副比丘字海楊禪師禪座下六月初八日正忌
南無祥光塔圓融僧副比丘字寂燸禪師禪座下十二月初二日正忌
Nam mô Kim cương tháp ma ha Tỳ-kheo Bất Trước Thủy tự Như Liên Thiền sư thiền tọa hạ, lục nguyệt thập ngũ nhật chính kị.
Nam mô Linh Quang tháp ma ha Tỳ-kheo tự Tính Tuyên Thiền sư thiền tọa hạ, ngũ nguyệt sơ lục nhật chính kị.
Nam mô Viên Quang tháp ma ha Tăng phó Tỳ-kheo tự Hải Dương Thiền sư thiền tọa hạ, lục nguyệt sơ bát nhật chính kị.
Nam mô Tường Quang tháp Viên Dung Tăng phó Tỳ-kheo tự Tịch Nhu Thiền sư thiền tọa hạ, thập nhị nguyệt sơ nhị nhật chính kỵ.
Văn bia ghi lại danh sách 4 vị sư trụ trì chùa Bằng
và các ngày kị giỗ. Sau khi Thiền sư mất, đệ tử xây tháp phụng thờ.
Chúng ta biết tháp Thiền sư tên là “Linh Quang”. Nhờ văn bia mà chúng ta
biết thêm vị kế đăng chùa Bằng là Thiền sư Tịch Nhu. Danh sách này được
Thiền sư Chiếu Tính, trụ trì chùa Thiên Quang cho ghi lại.
Chuyển qua giai đoạn đầu nhà Nguyễn, hiện biết Thiền
sư Phổ Siêu trụ trì chùa. Thiền sư cho đúc chuông triêu mộ vào năm Minh
Mệnh 18 [1837]. Nhân dân trong vùng thường ca ngợi như sau: “Chuông
Bằng, trống Lũ, mõ Định Công, cồng làng Sét”. Về vị Thiền sư này, hiện
chỉ biết được như thế.
Trước đây, trong Hà Nội Danh Lam Cổ Tự mục viết về
chùa Bằng, các tác giả đã cho Thiền sư Phổ Siêu trụ trì chùa sau Thiền
sư Chiếu Sửu Trí Điển, Phổ Tế Trí Tâm, Phổ Quang. Chúng tôi nhận thấy
như thế là làm đảo lộn trật tự thế hệ trụ trì chùa. Theo Toàn Tập Minh
Châu Hương Hải, phần nguyên bản tác phẩm Di Đà Kinh Thích Giải Hoa Ngôn
được in năm Minh Mệnh 14 [1833] có ghi lại danh sách những vị chứng san
như: 崇福寺智水大德 (Sùng Phúc Tự Trí Thủy Đại đức)[8]. Thiền sư Trí Thủy còn có tự là Tịch Tính, ngài là vị đệ tử của Thiền sư Từ Nghiêm Hải Thư, trụ trì chùa Sùng Phúc, Tam Huyền[9].
Thiền sư Trí Thủy lại là bản sư của Thiền sư Chiếu Sửu Trí Điển, trụ
trì chùa Bằng. Chúng ta thấy Thiền sư Phổ Siêu sống cùng thời hoặc có
thể lớn tuổi hơn Thiền sư Trí Thủy, thì làm gì lại trụ trì sau Thiền sư
Chiếu Sửu được. Do đó, Thiền sư Phổ Siêu là vị trụ trì trước thế hệ
Thiền sư Chiếu Sửu.
Theo Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, quyển hạ ghi:
河內三玄門崇福寺性泉湛公始祖下二傳慈嚴海書大師…下三傳盛光所福慶寺智鏡寂光大師…
二枝下三傳國賜刀牒智水寂性和尚…下四傳憑烈靈仙寺沙門照丑智典大師貫東澤棟巴村人姓劉十二出世師性本柔和真旨不忘笑語不辨是非日常禮誦為功案壽五十四歲
門下法嗣六人一日告疾面西而逝門人建塔像奉事本寺下五傳比丘普濟智心禪師貫上福養賢人姓黃氏十二出家師為人愨
謹少語通明正直凝重而有禮以大法自負行年四十八歸西下六傳比丘普光本社人十二出家師性少語以法律為先行事則循天理
“Hà Nội Tam Huyền Môn Sùng Phúc tự, Tính Tuyền Trạm
Công thủy tổ… Hạ nhị truyền Từ Nghiêm Hải Thư Đại sư… Hạ tam truyền
Thịnh Quang Sở Phúc Khánh tự Trí Kính Tịch Quang Đại sư… Nhị chi, hạ tam
truyền quốc tứ đao điệp Trí Thủy Tịch Tính Hòa thượng… Hạ tứ truyền
Bằng Liệt Linh Tiên tự Sa-môn Chiếu Sửu Trí Điển đại sư, quán Đông
Trạch, Đống Ba thôn nhân, tính Lưu. Thập nhị xuất thế, sư tính bản nhu
hòa, chân chỉ bất vong tiếu ngữ, bất biện thị phi, nhật thường lễ tụng
vi công án, thọ ngũ thập tứ tuế. Môn hạ pháp tự lục nhân. Nhất nhật cáo
tật diện Tây nhi thệ, môn nhân kiến tháp tượng, phụng sự bản tự. Hạ ngũ
truyền Tỳ-kheo Phổ Tế Trí Tâm Thiền sư, quán Thượng Phúc Dương Hiền nhân
tính Hoàng thị. Thập nhị xuất gia, sư vi nhân khác cẩn, thiểu ngữ thông
minh chính trực, ngưng trọng nhi hữu lễ dĩ đại pháp tự phụ, hành niên
tứ thập bát qui Tây. Hạ lục truyền Tỳ-kheo Phổ Quang bản xã nhân. Thập
nhị xuất gia, sư tính thiểu ngữ dĩ pháp luật vi tiên hành sự tắc tuần
thiên lí[10].
Tạm dịch: “Thủy tổ Tính Tuyền Trạm Công, chùa Sùng
Phúc, Tam Huyền môn… truyền xuống đời thứ 2 là Đại sư Từ Nghiêm Hải Thư…
Truyền xuống đời thứ 3 là Đại sư Trí Kính Tịch Quang, chùa Phúc Khánh,
sở Thịnh Quang… Chi thứ 2, truyền xuống đời thứ 3 là Hòa thượng Trí Thủy
Tịch Tính, ngài được ban giới đao và độ điệp… Truyền xuống đời thứ 4 là
Sa-môn Chiếu Sửu Trí Điển, chùa Linh Tiên, Bằng Liệt. Ngài quê thôn
Đống Ba, Đông Trạch, họ Lưu. Ngài xuất gia năm 12 tuổi, tính nhu hòa,
chân chất, ít nói cười, không tranh thị phi, thường nhật, tụng kinh bái
sám làm gia vụ, trụ thế 54 tuổi, học trò được 6 người. Một hôm cáo bệnh,
ngồi quay về hướng Tây mà hóa, đệ tử xây tháp tạo tượng thờ tại chùa.
Truyền xuống đời thứ năm là Tỳ-kheo Phố Tế Trí Tâm, quê Dưỡng
Hiền-Thượng Phúc, họ Hoàng. Ngài xuất gia năm 20 tuổi, đối với mọi người
đều cung kính, ít nói nhưng lại thông minh chính trực… lấy pháp lớn mà
tự mình dựa vào, tuổi 48 thì Tây qui. Truyền xuống đời thứ 6, Tỳ-kheo
Phổ Quang, người bản xã. Ngài xuất gia năm 20 tuổi, tính ít nói, mà đã
nói ra lời gì đều lấy pháp luật làm đầu, làm việc thì theo thiên lí”.
Ba vị Thiền sư kế đăng chùa Bằng thuộc chi hai pháp
phái chùa Sùng Phúc, Tam Huyền. Vị Tổ sư Tính Tuyền Trạm Công (1674 –
1744) là đệ tử lớn của Như Trừng Lân Giác (1696 – 1733). Thiền sư đã
từng du phương học đạo tận Trung Quốc, mang về rất nhiều kinh sách. Các
bản kinh sách này được tàng trữ tại chùa Càn An-Nam Đồng.
Ba vị thiền tổ này đã xây dựng chùa Bằng trong giai
đoạn Thiệu Trị, Tự Đức. Sau ba vị này mà chúng ta được biết là có Thiền
sư Thanh Bình, hiệu Thận Độc đến trụ trì. Thiền sư Thanh Bình cũng kiêm
trụ trì chùa Sùng An – Tựu Liệt. Thiền sư viên tịch năm 1926, sau đó Hòa
thượng Tường Vân (1906 – 1979) về trụ trì chùa. Năm 1954, Hòa thượng đã
cho trùng tu tòa chính điện có ông Nguyễn Văn Thanh, tỉnh trưởng Hà
Đông về dự lễ. Sau đó, Hòa thượng giao chùa cho thôn xã, về trụ trì chùa
Quang Minh cho đến ngày viên tịch.
Từ năm 1954 đến năm 1996, chùa không có sư trụ trì.
Mọi việc đều do làng xã tổ chức. Năm 1996, chùa cung thỉnh Thượng tọa
Bảo Nghiêm về trụ trì. Thượng tọa Bảo Nghiêm đã cho trùng tu, sửa sang
nhiều hạng mục công trình đã xuống cấp. Lại cho xây dựng Pháp Đường để
có chỗ cho đạo tràng sinh hoạt. Hiện nay, chùa Bằng đang chuẩn bị hoàn
tất ngôi Bảo Tháp 13 tầng để kịp khánh thành đúng 1000 năm Thăng Long –
Hà Nội. Nơi đây hằng năm thường tổ chức nhiều lễ hội lớn, là trung tâm
điểm của Đạo tràng Pháp Hoa miền Bắc.
Nhìn lại lịch sử ngôi chùa, chúng ta thấy được chùa
đã hưng rồi phế nhiều lần. Hiện nay, chùa Bằng đã và đang đóng góp không
nhỏ vào sứ mệnh hoằng dương chánh pháp của Phật giáo Việt Nam.■
Ngô Quốc Trưởng
Nguồn: Tập san Pháp Luân số 64
[1].
Theo Linh Tiên Tự Bi, hiện còn lưu ở bản chùa. Chúng tôi tham khảo thêm
thác bản văn bia thuộc Thư viện Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, kí hiệu 722.
[2].
Thiền sư Chân Nguyên, Kiến tính thành Phật (1698), bản in lại năm Minh
Mệnh 6 (1825), bản lưu tại chùa Sùng Phúc-Gia Lâm. Thư viện Viện Nghiên
Cứu Hán Nôm, kí hiệu A. 2570. Danh sách này nằm trang cuối, tờ 104b.
[3].
Cây trụ đá này vẫn còn ở chùa Quang Ân, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì,
Hà Nội. Văn bia hiện giờ chữ vẫn còn tỏ nét. Chúng tôi tham khảo thêm
thác bản Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, kí hiệu 863/864/865/866.
[4]. Quang Ân Thiền Tự Thạch Quán Bi Ký, thác bản Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, kí hiệu 879/880.
[5].
Tham khảo Quang Bằng Kiều Bi Ký Tịnh Minh, kí hiệu 461/462/463/464 và
Quang Liệt xã Cầu Biêu Xứ Tạo Thạch Kiều Minh Bi Ký, kí hiệu
867/868/869/870.
[6]. Lê Mạnh Thát (1980), Chân Nguyên Thiền sư toàn tập, tập 1, Tu Thư Vạn Hạnh, Thành Phố Hồ Chí Minh, tr. 161.
[7].
Chùa Thiên Quang còn gọi là chùa Hòa Mã thuộc phố Phùng Khắc Khoan,
phường Ngô Thì Nhậm, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Hiện chùa còn văn bia
được lắp vào tường tháp phía phải chùa.
[8].
Lê Mạnh Thát, Toàn tập Minh Châu Hương Hải, NXB TP.HCM, 2000, tr.422.
Trong tác phẩm này, tác giả chưa khảo được những vị tôn túc chứng san
cũng như tài trợ cho tác phẩm ra đời. Nếu đối chiếu Thiền Uyển Truyền
Đăng Lục, quyển hạ, bản của Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, kí hiệu VHV 9 thì
sẽ tìm ra nhiều vị sư không những biết được tông tích mà còn khảo được
họ thuộc sơn môn nào, tiểu truyện của họ nữa.
[9]. Chùa Sùng Phúc còn gọi là chùa Tam Huyền thuộc phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
[10].
Hòa thượng Phúc Điền biên tập, Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, quyển hạ,
bản lưu tại Thư viện Hán Nôm, kí hiệu VHv 9, từ tờ 39a2 đến tờ 40a8. Một
số đoạn tiểu truyện không liên quan chúng tôi tỉnh lược, để ba chấm.
Nguồn: phapluanonline