MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM
 
 
            
Mười
điều tâm niệm trong "Luận Bảo Vương Tam 
Muội":  Điều 1 : Nghĩ đến thân thể thì đừng 
cầu 
không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sanh. Hãy lấy bệnh 
khổ làm 
thuốc thần. 
Điều 2 : Ở đời đừng cầu không hoạn 
nạn, vì 
không hoạn nạn thì   kiêu xa nổi dậy. Hãy lấy hoạn nạn làm giải thoát.
 
Điều 3 : Cứu xét tâm tánh thì đừng 
cầu 
không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo. Hãy lấy 
khúc 
mắc làm thú vị. 
Điều 4 : Xây dựng đạo hạnh thì đừng 
cầu 
không ma chướng, vì không ma chướng thì chí nguyện không kiên cường. 
Hãy lấy 
ma quân làm bạn đạo. 
 Điều 5 : Việc làm đừng mong dễ thành,
vì 
việc dễ thành thì lòng khinh thường kiêu ngạo. Hãy lấy khó khăn làm 
thích 
thú. 
Điều 6 : Giao tiếp thì đừng cầu lợi 
mình, 
vì lợi mình thì mất đạo nghĩa. Hãy lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ.
 Điều 7 : Với người thì đừng mong tất 
cả 
thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng. 
Hãy lấy 
người chống đối làm nơi giao du. 
 Điều 8 : Thi ân đừng cầu đền đáp, vì 
cầu 
đền đáp là thi ân có ý mưu đồ. Hãy coi thi ân như đôi dép bỏ. Điều 9 : Thấy lợi đừng nhúng vào, vì 
nhúng 
vào thì si mê phải động. Hãy lấy sự xả lợi làm vinh hoa.
 Điều 10 : Oan ức không cần biện bạch,
vì 
biện bạch là nhân ngã chưa xả. Hãy lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh.
Trên thế gian này, cuộc sống đầy dẫy 
những sự 
bất trắc, bất như ý, con người phải bon chen quanh năm suốt tháng để 
sống 
còn, phải tranh đấu một cách vất vả để vươn lên, để vượt qua những cơn 
sóng 
gió của cuộc đời, những bước thăng trầm của thế sự. Con người thường 
mang 
tâm trạng hoang mang, âu lo, sợ hãi khi hướng về tương lai, không biết 
rồi 
đây ngày mai mình sẽ ra sao, cuộc đời của mình sẽ như thế nào, chuyện 
gì sẽ 
xảy ra cho mình và người thân của mình?  Cho nên con người thường mong 
muốn 
mọi chuyện được bình yên, suông sẻ, may mắn, chuyện gì cũng đều tốt đẹp
như 
ý.  Lòng mong muốn cao độ đó thường dẫn tới sự cầu nguyện, van xin Trời
Phật 
ban cho những điều mơ ước vượt tầm tay, tưởng chừng như ngoài khả năng 
của 
con người. 
Chúng ta cần nên biết rằng: Đức Phật 
không 
phải là thần linh, không ban phước giáng hoạ cho bất kỳ một ai.  Cũng 
không 
có lý do nào Đức Phật ban phước lành cho riêng mình, mà không ban cho 
người 
khác.  Thực ra, đạo Phật giảng dạy nhiều phương pháp hành trì, gọi là 
"vô 
lượng pháp môn", để giúp con người tự lực, mạnh mẽ vượt lên trên mọi 
sóng 
gió phiền não, khổ đau của cuộc đời, bước ra khỏi vòng trầm luân sanh 
tử, tự 
tạo cuộc sống an lạc và hạnh phúc cho chính mình.  Trong Kinh Pháp Cú, 
Đức 
Phật có dạy:"Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên với Chánh Pháp". 
Nghĩa là chúng ta hãy tự thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ của chúng ta, bằng
cách 
học hiểu những lời dạy của Đức Phật, và đem áp dụng trong cuộc sống 
hằng 
ngày, để thấy được sự mầu nhiệm của Chánh Pháp, để tự cứu mình và giúp 
đỡ 
người khác. 
* * * 
Trong kinh sách của Phật giáo, những lời
dạy 
quý báu có thể giúp đỡ chúng ta vượt qua những cơn sóng gió của cuộc 
đời, 
vượt qua những bước thăng trầm của thế sự, được ghi chép khắp nơi, 
chẳng hạn 
như trong "Luận Bảo Vương Tam Muội", chúng ta có "Mười Điều Tâm Niệm" 
cần 
nên thường xuyên chiêm nghiệm, suy tư, nghĩ tưởng luôn luôn, để mỗi khi
"bát 
phong" ập đến, nghĩa là sóng gió của cuộc đời dồn dập xảy ra, chúng ta 
có 
thể đối phó, ứng xử một cách dễ dàng hơn, không bị nhận chìm trong biển
nước 
mắt của phiền não và khổ đau. 
* 
Điều 1: 
Điều thứ nhứt trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Nghĩ đến thân thể 
thì 
đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sanh. Hãy 
lấy 
bệnh khổ làm thuốc thần".  Tại sao vậy?  Bởi vì khi nào con người còn 
mang 
tấm thân tứ đại, thì còn đau khổ vì bệnh tật.  Tấm thân tứ đại bao gồm 
các 
yếu tố đất, nước, gió, lửa, thường xuyên chống trái nhau, gây đau đớn, 
khổ 
sở cho con người. Người nào có phước nhiều thì ít bệnh.  Người nào ít 
phước, 
kém phước, bạc phước thì bệnh tật triền miên.  Cho đến khi hết duyên ở 
đời, 
con người phải ra đi, nhưng tấm thân tứ đại này thì để lại, tan rã và 
trở về 
với tứ đại trong trời đất.  Cát bụi lại trở về với cát bụi, thế thôi! 
Người 
nào tạo phước nhiều thì ra đi dễ dàng, nhẹ nhàng, êm thắm. Người nào 
tạo 
nghiệp nhiều thì ra đi khó khăn, hành hạ thân xác, khổ lụy người thân…
Con người không ai mong cầu bệnh khổ, 
cho dù 
cầu mong không bệnh khổ, nhưng bệnh khổ vẫn cứ đến. Nếu không có bệnh 
khổ, 
con người khỏe mạnh thường sinh dục vọng khó kềm chế. Thỏa mãn những 
dục 
vọng này, con người gây thêm biết bao nhiêu là ác nghiệp, để rồi phải 
đền 
trả, cho nên phải lăn lộn trong biết bao nhiêu kiếp luân hồi sanh tử, 
bao 
giờ mới có thể dứt, có thể thoát ra được?  Bởi vậy cho nên, Đức Phật 
dạy 
chúng ta đừng cầu không bệnh khổ, nên coi bệnh khổ như là món thuốc 
thần, là 
tiên dược để điều trị những dục vọng trong tâm thức của chúng ta.  Dục 
vọng 
càng nhiều chừng nào, con người càng phiền não và khổ đau chừng ấy.  
Đạo 
Phật là đạo cứu khổ nhân loại.  Phật Pháp có công năng điều trị tâm 
bệnh của 
chúng sanh.  Chúng sanh có muôn ngàn tâm bệnh thì Phật Pháp có tám muôn
bốn 
ngàn pháp môn đối trị. 
Chẳng hạn như người hay tham lam, bỏn 
xẻn thì 
pháp đối trị là hạnh bố thí.  Người nào hiểu được hạnh bố thí đem lại 
vô 
lượng vô biên phước báu và thực hành được hạnh bố thí hằng ngày thì tâm
tham 
lam, bỏn sẻn sẽ giảm đi nhiều.  Chẳng hạn như người hay nóng giận thì 
pháp 
đối trị là quán từ bi.  Con người tăng trưởng tâm từ bi được thì những 
cơn 
nóng giận sẽ giảm đi rất nhiều.  Cặp mắt của người có tâm từ bi, luôn 
luôn 
thương nhìn cuộc đời, cư xử nhẹ nhàng, dễ dãi với mọi người chung 
quanh, khó 
nổi cơn sân với những lỗi lầm, sai trái của người khác, không lợi dụng 
lòng 
từ bi của mọi người. Các bậc phụ huynh cần có tâm từ bi quảng đại mới 
có thể 
giữ gìn được hạnh phúc trong gia đình. Các nhà giáo cần có tâm từ bi 
quảng 
đại mới có thể thương yêu, dạy dỗ học sinh như con ruột của chính mình.
Các 
nhà tu cần có tâm từ bi quảng đại mới có thể thương xót chúng sanh đang
trầm 
luân đau khổ, phát nguyện tu hành tinh tấn để tự độ và độ tha, sẵn sàng
hy 
sinh, phục vụ nhân loại. Chẳng hạn như người hay cố chấp, sống để dạ 
chết 
mang theo những lời người khác nói mích lòng thì pháp đối trị là tâm hỷ
xả.  
Người nào hiểu được rằng chứa chấp càng nhiều trong tâm thức của mình 
thì 
càng bị trầm luân trong sanh tử luân hồi, trong phiền não và khổ đau, 
chẳng 
ích lợi gì, bèn cố gắng phát triển tâm hỷ xả, tự khắc sẽ cảm thấy khinh
an, 
nhẹ nhàng, mắt sẽ nhìn cuộc đời một cách lạc quan hơn, cuộc sống sẽ an 
lạc 
hơn. 
* 
Điều 2: 
Điều thứ hai trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Ở đời đừng cầu không
hoạn 
nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu xa nổi dậy. Hãy lấy hoạn nạn làm giải 
thoát".  Tại sao vậy?  Bởi vì van xin cầu khẩn thực sự có được gì đâu. 
Con 
người kiếp trước tạo ít phước báo, gây nhiều nghiệp báo, cho nên cuộc 
sống 
kiếp này mới gặp nhiều hoạn nạn, bất trắc, bất như ý. Muốn cuộc sống 
bớt 
hoạn nạn, vui nhiều hơn khổ, con người cần tích cực tu tâm dưỡng tánh, 
làm 
phước tạo phước kiếm phước nhiều hơn, đừng làm người khác đau khổ, dù 
bằng 
hành động, lời nói hay ngay cả trong ý nghĩ cũng vậy. Chúng ta nên nhớ 
rằng: 
chỉ có phước báo mới có thể che chở chúng ta qua những cơn hoạn nạn mà 
thôi.  Không có Trời Phật nào cứu chúng ta khi gặp hoạn nạn đâu. Cũng 
như 
chỉ có chiếc ghe mới có thể chở chúng ta qua sông mà không bị thấm nước
vậy. 
Con người không ai cầu mong hoạn nạn, 
cho dù 
mong cầu không hoạn nạn, nhưng hoạn nạn vẫn cứ tới, nguyên do là chúng 
ta 
phải đền trả những nghiệp báo đã tạo từ trước, không ai có thể tránh 
khỏi. 
Những người nào sống ở trên đời không gặp hoạn nạn, làm việc gì cũng 
thành 
công dễ dàng, người đó thường sanh tâm kiêu căng, ngạo mạn, phách lối, 
tiêu 
xài xa xỉ, khinh thường thế nhân, nghi kỵ mọi người, khiến mọi người xa
lánh, không ai muốn gần gũi, thân cận, vì chẳng ích lợi gì.  Khi gặp 
hoạn 
nạn, con người thường không còn tâm kiêu căng, vì kiêu căng thì gặp 
nạn, 
không còn xa hoa phung phí, tâm không còn duyên theo cảnh trần, không 
còn dễ 
nổi lòng tham lam, không còn dễ sân hận, không còn si mê lầm lẫn, bởi 
vì 
tham thì gặp nạn, sân thì gặp nạn, ngu thì gặp nạn. Nghĩa là hoạn nạn 
giúp 
cho con người sớm giải thoát khỏi những trói buộc của tham lam, sân 
hận, si 
mê, ngã mạn, nghi kỵ, chính là nghĩa đó vậy. 
Hơn nữa, trong cuộc sống phức tạp, nhiều
khi 
gặp hoạn nạn này, có thể chúng ta tránh được hoạn nạn khác lớn hơn. Thí
dụ 
như có người vì thua bạc nên mất vé tàu đi du lịch, cho nên thoát chết,
vì 
chuyến tàu đó bị chìm đắm ngoài biển khơi. Nghĩa là có khi trong hoạn 
nạn, 
chúng ta có thể tìm được sự may mắn, hay bài học, hoặc kinh nghiệm nào 
đó 
vậy. Không có chuyện gì  hoàn toàn xui xẻo, không có chuyện gì hoàn 
toàn may 
mắn cả. Chẳng hạn như trúng số độc đắc có thể giúp chúng ta mua nhà, 
tậu xe, 
làm ăn buôn bán, cũng có thể gây bất hòa trong gia đạo, làm cho gia 
đình tan 
nát, hay trộm cướp viếng thăm, hoặc mừng quá… tắt thở luôn! Chẳng hạn 
như tù 
tội gian khổ, đối với bậc thánh nhân phi phàm, là cơ hội tốt nhứt để 
rèn 
luyện tâm tánh, để suy tư sáng tác những tác phẩm để đời. Biết bao 
nhiêu bậc 
vĩ nhân, hiền triết trên thế giới, xuất thân từ ngục tù. Đối với kẻ hèn
yếu, 
hoạn nạn chính là địa ngục trần gian, nhận chìm họ trong biển khổ đau, 
phiền 
não! 
* 
Điều 3: 
Điều thứ ba trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng:"Cứu xét tâm tánh thì 
đừng 
cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo. Hãy 
lấy 
khúc mắc làm thú vị". Tại sao vậy?  Bởi vì tâm tánh của chúng ta, vì 
duyên 
theo cảnh trần, cho nên không cố định, thường xuyên thay đổi. Gặp cảnh 
thuận 
lòng vừa ý, tâm trạng của chúng ta vui tươi, hớn hở, hỷ hạ, hân hoan, 
hài 
lòng.  Gặp cảnh trái tai gai mắt, tâm trạng của chúng ta nổi sóng gió 
ngay, 
nhẹ thì còn giữ được trong lòng, nặng thì phun ra miệng những cơn bực 
dọc, 
tức tối. Gặp đối phương biết nhẫn nhịn, thì mọi việc còn có thể êm 
xuôi, qua 
chuyện.  Gặp phải người cứng cổ, cang cường, ngoan cố, thì câu chuyện 
không 
biết sẽ kết thúc như thế nào?  Có thể người đi nhà thương hay vào nhà 
xác, 
còn người khác đi nhà tù. 
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có 
dạy: 
"Căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm. Căn bản của bồ đề niết bàn 
là 
chơn tâm".  Nghĩa là tâm tánh của chúng ta luôn luôn xao xuyến, loạn 
động, 
bất an, được gọi là "vọng tâm", tức là tâm vọng động vì duyên theo cảnh
trần. Lúc tâm trạng buồn thảm, thê lương, thì chúng ta cảm thấy cảnh 
vật 
chung quanh cũng chẳng có gì vui vẻ cả. Trái lại, khi trong lòng thấy 
vui, 
có niềm hoan hỷ, chúng ta cảm thấy cảnh vật chung quanh dường như đang 
chia 
xẻ niềm vui hân hoan đó với chúng ta. Chính vọng tâm là căn bản của 
sanh tử 
luân hồi. Tại sao vậy?  Bởi vì vọng tâm lúc vui lúc buồn, lúc thương 
lúc 
ghét, lúc tốt lúc xấu, lúc nghĩ chuyện đông lúc nghĩ chuyện tây, lúc 
nghĩ 
chuyện hiện tại, lúc nghĩ chuyện quá khứ, vị lai, lúc vầy lúc khác, lúc
có 
lúc không, lúc còn lúc mất, sanh diệt liên miên trong từng sát na, 
trong 
từng giây phút, ví như con ngựa chạy lung tung linh tinh lang tang khắp
chốn, ví như con vượn chuyền từ cành cây này sang cành cây khác khắp 
nơi 
vậy. 
"Vọng tâm" là động lực chính dẫn dắt 
chúng 
sanh tạo nghiệp trong vòng sanh tử luân hồi.  Muốn tâm được an, mỗi khi
vọng 
tâm khởi lên, chúng ta nhận biết ngay, dừng lại lập tức, đừng theo đuổi
nó, 
thì được giải thoát khỏi những hệ lụy ưu phiền sau đó, phiền não và khổ
đau 
sẽ không đến. Khi sống ở đời, tiếp xúc với mọi cảnh, mọi sự, mọi việc, 
vẫn 
sinh hoạt như bao nhiêu người khác, nhưng tâm vẫn như như, an định, 
không 
xao xuyến, không loạn động, tức là chúng ta đang sống trong cảnh giới 
niết 
bàn, an lạc, tịch diệt, nói cách khác, lúc đó chúng ta sống với "chơn 
tâm" 
đó vậy.  Chơn tâm ví như mặt biển yên lặng, phẳng lờ, rộng rãi, bao la 
bát 
ngát.  Vọng tâm ví như những ngọn sóng do gió thổi gây nên, gió nhẹ 
sóng 
nhỏ, gió mạnh sóng to.  Sách có câu: 
“Tâm buồn cảnh được vui sao,
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng 
an”. 
Tục ngữ cũng có câu: "Dò sông dò biển dễ
dò. 
Đố ai lấy thước mà đo lòng người".  Nghĩa là tâm tánh của con người 
biến 
thiên không cùng, lòng dạ con người còn khó dò hơn sông hơn biển, cho 
nên 
khi cứu xét tâm tánh, chúng ta không thể nào tránh được những khúc mắc.
Chúng ta đừng nản lòng vì những khúc mắc đó. Bởi vì chính những khúc 
mắc đó 
giúp chúng ta thêm nhiều thú vị, hăng hái hơn trên bước đường tu tâm 
dưỡng 
tánh, xả bỏ những tạp niệm, vọng tâm, loạn tưởng.  Chúng ta luôn luôn 
thúc 
liễm thân tâm trong từng giây phút, đừng để vọng tâm dối gạt, nghĩ rằng
mình 
tu đã khá lắm rồi, đã hiền thiện lắm rồi, đã đạt được điều này điều nọ.
Có 
những lúc chúng ta làm những điều bất thiện, lợi mình hại người, kiện 
thưa 
người khác, đòi bồi thường bạc triệu, đó là lòng tham lam.  Chúng ta 
đem bố 
thí hay cúng chùa vài chục bạc, vọng tâm dối gạt mình: thế là xong, hết
tội 
rồi!  Trong thiền tông, chư Tổ dạy chúng ta phải "sống trong tỉnh 
thức", hay 
"sống trong chánh niệm", chính là nghĩa đó vậy. 
* 
Điều 4: 
Điều thứ tư trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng:"Xây dựng đạo hạnh thì 
đừng 
cầu không ma chướng, vì không ma chướng thì chí nguyện không kiên 
cường. Hãy 
lấy ma quân làm bạn đạo".  Tại sao vậy?  Bởi vì ma chướng ở đây có 
nghĩa là 
những lời khen tiếng chê, là danh thơm hay tiếng xấu.  Nếu chúng ta có 
thể 
coi những người khen chê như những người giúp đỡ chúng ta trên bước 
đường tu 
tập, rèn luyện tâm tánh, thì chính họ là bạn đạo, là thiện hữu tri 
thức, là 
Bồ-tát nghịch hạnh, là giám khảo trên đường đạo của chúng ta vậy.  Bởi 
vì ma 
chướng ở đây cũng có nghĩa là những sóng gió của cuộc đời, những chuyện
phiền não khổ đau, những chuyện thị phi phải quấy, những chuyện bất 
trắc bất 
như ý, những chuyện lăng xăng lộn xộn hằng ngày. Thông suốt được như 
vậy, 
chí nguyện của chúng ta mới kiên cường, không thoái chuyển, khi gặp lời
khen 
hay tiếng chê, danh thơm hay tiếng xấu, khi gặp bát phong của cuộc đời,
và 
tâm trí của chúng ta mới không bị dao động. 
Chúng ta không ai mong cầu ma chướng, 
cho dù 
cầu mong không ma chướng, nhưng ma chướng vẫn cứ tới đều đều.  Trên đời
này 
có thiếu gì những kẻ luôn luôn dòm ngó người khác, để vạch lá tìm sâu, 
để 
bới lông tìm vết, trong khi bản thân họ thì đủ thứ thói hư tật xấu. 
Trong 
Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Khi lên tiếng phê bình lỗi 
của 
người khác, thì lỗi của mình đã ở ngay bên chân rồi đó vậy". Tuy nhiên,
dù 
ma chướng có tới thường xuyên cỡ nào, nếu biết tu tâm dưỡng tánh, chúng
ta 
cũng có thể chấp nhận được, chịu đựng được, coi đó như là những thử 
thách 
cần thiết để nhắc nhở chúng ta rèn luyện tâm tánh, chuyển hóa cuộc sống
từ 
phiền não khổ đau thành an lạc hạnh phúc.  Sách có câu: "Ví phỏng đường
đời 
bằng phẳng cả. Anh hùng hào kiệt có hơn ai", chính là nghĩa đó vậy.
* 
Điều 5: 
Điều thứ năm trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Việc làm đừng mong 
dễ 
thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường kiêu ngạo. Hãy lấy khó 
khăn 
làm thích thú".  Tại sao vậy?  Bởi vì việc làm nào càng khó khăn, càng 
gian 
khổ bao nhiêu, mà chúng ta có thể vượt qua, đạt được thành công, thắng 
lợi, 
thì việc làm đó càng vinh quang, hiển hách bấy nhiêu.  Chẳng hạn như 
bài 
toán càng khó khăn bao nhiêu, khi giải được, tìm được kết quả, càng 
thích 
thú bấy nhiêu.  Việc làm nào dễ thành chỉ là những việc làm tầm thường,
không có giá trị cao, hoặc người thực hiện có thừa khả năng, cho nên dễ
sanh 
ra khinh thường mọi việc, kiêu ngạo, coi trời bằng nắp vung.
Ở trên thế gian có nhiều việc rất khó 
khăn, 
ít người thành đạt, chẳng hạn như thi đậu bằng cấp này, bằng cấp kia, 
tìm ra 
món thuốc điều trị mới, phát minh ra máy móc hiện đại, tối tân, sáng 
chế ra 
cách thức làm việc khoa học hơn, đem lại năng suất cao hơn. Các bậc anh
hùng 
cứu quốc, có thể đem lại độc lập, tự do, no ấm cho một dân tộc, không 
phải 
ai ai cũng có thể làm được một cách dễ dàng.  Trên phương diện xuất thế
gian, việc tu tâm dưỡng tánh cũng vậy, nếu ai ai tu tập sơ sài, cũng có
thể 
thành Phật được, thì quả vị Phật đâu còn giá trị bao nhiêu.  Một vị 
Phật ra 
đời đem lại phước báu, ích lợi cho biết bao nhiêu chúng sanh, trong 
biết bao 
nhiêu đời, bao nhiêu kiếp, không thể nghĩ bàn.  
* 
Điều 6: 
Điều thứ sáu trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Giao tiếp thì đừng 
cầu 
lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa. Hãy lấy kẻ tệ bạc làm người 
giúp 
đỡ".  Tại sao vậy?  Bởi vì những mối lợi, dù nhỏ dù lớn, trên thế gian,
cũng 
đều là những mục tiêu tranh giành, chiếm đoạt của bao nhiêu người. 
Người đời 
thường không ngại dùng đủ mọi thủ đoạn, để tranh danh đoạt lợi, cho nên
bất 
chấp đạo nghĩa, luân lý, tình thương, quan hệ.  Con người sẵn sàng 
thượng 
đội hạ đạp, chà đạp mọi người chung quanh, chỉ vì chút danh lợi nhỏ 
nhoi.  
Danh lợi ở đời ví như những miếng mồi câu cá.  Cá nhỏ tới ăn miếng mồi 
liền 
bị cá lớn đớp gọn. Cá lớn đớp cá nhỏ xong, thì bị lưới lên ghe ngay tức
thì… 
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Khi
tới ngã ba đường, nếu thấy cái cây đầy trái chín mọng, không ai hái ăn,
thì 
nên hiểu rằng đó là trái độc".  Nghĩa là ở đời không có mối lợi
lớn 
nhỏ nào dành sẵn cho mình hưởng, hay người khác đem dâng tặng mình, mà 
không 
có cái bẫy rập độc hại bên trong, bên dưới, hay phía sau, chờ đợi người
tham 
lam, mê muội, thiếu suy nghĩ. Người đời thường thả con tép để bắt con 
tôm. 
Người nào tham lợi lớn, ham lời nhiều, thường hay bị lợi dụng, bị sập 
bẫy 
một cách dễ dàng, ví như cá thường hay cắn câu vậy. Cũng như những 
người 
không cố gắng tu tâm dưỡng tánh, không chịu học hiểu Chánh Pháp, không 
làm 
lợi ích gì cho chúng sanh, cho đạo pháp, chỉ tham danh lợi, thích sự 
sung 
sướng, thì quả báo, nghiệp báo tới liền sau đó. 
Trong phạm vi gia đình, nếu vợ chồng con
cái 
giao tiếp với nhau hằng ngày mà không biết thương yêu nhau, không biết 
nghĩ 
đến nhau, không biết hy sinh cho nhau, người nào cũng chỉ nghĩ đến 
quyền lợi 
riêng mình, chỉ nghĩ đến sự sung sướng bản thân, thì còn gì là đạo 
nghĩa vợ 
chồng, còn gì là tình cha con, còn gì là mẫu tử tình thâm, còn gì gọi 
là 
hạnh phúc gia đình? 
Trong phạm vi xã hội, trong lúc giao 
thiệp 
tiếp xúc hằng ngày, người nào chỉ nghĩ đến, chỉ mong cầu lợi mình, bất 
chấp 
hại người, người đó làm sao sống hòa thuận, yên ổn, vui vẻ với những 
người 
chung quanh?  Người quá ích kỷ như vậy làm sao kết bạn được với ai, làm
sao 
sống cuộc đời hạnh phúc?  Hạnh phúc thực sự chỉ có với những người biết
hai 
chữ "hy sinh" mà thôi. Trong cuộc đời, những kẻ ích kỷ, tệ bạc, chỉ 
biết lợi 
mình, bất chấp hại người, chẳng kể nhân tình, chẳng màng đạo nghĩa, 
nhiều 
không biết bao nhiêu mà kể cho xiết. Nhưng chính những người như vậy 
lại là 
kẻ giúp đỡ người biết tu tâm dưỡng tánh, để rèn luyện tâm tánh của 
mình. Có 
gặp những kẻ tệ bạc như vậy mà tâm trí của chúng ta vẫn như như, bất 
động, 
bình tĩnh, thản nhiên, mới biết được công phu tu tập của mình đến đâu. 
Nếu 
tất cả mọi người đều tốt, đều hiền thiện, đều biết đạo nghĩa, thì chúng
ta 
đâu biết tâm mình ra sao?  Bởi vậy cho nên, người nào thực sự muốn phát
tâm 
tu học, thì ngay cuộc đời này, ngay cõi ta-bà ngũ trược ác thế này, 
chính là 
trường tu tốt nhứt vậy, không cần phải đợi vãng sanh Tây phương cực lạc
mới 
chịu bắt đầu tu. Tại sao vậy?  Bởi vì cõi Tây phương cực lạc, như Đức 
Phật 
Thích Ca Mâu Ni dạy trong Kinh A Di Đà, là nơi chỉ toàn bậc Thánh nhơn,
chư 
thượng thiện nhơn câu hội, đâu cần phải tu làm gì nữa, đâu có chỗ chứa 
hạng 
phàm phu không chịu tu. 
* 
Điều 7: 
Điều thứ bảy trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng:"Với người thì đừng 
mong 
tất cả thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu 
căng. 
Hãy lấy người chống đối làm nơi giao du".  Tại sao vậy?  Bởi vì sách có
câu 
"năm người mười ý", đâu ai có ý kiến giống ai, mỗi người thường có ít 
nhứt 
hai ý kiến trong cùng một vấn đề, nay vầy mai khác, thì làm sao bắt 
buộc 
người khác phải thuận theo ý mình?  Tại sao mình lại không thuận theo ý
người khác?  Con người vì sự cố chấp, chấp chặt như vậy cho nên phiền 
não và 
khổ đau dài dài! 
Trong gia đình, nếu người chồng hay 
người vợ 
cố chấp, bảo thủ ý kiến của riêng mình, thì làm sao gia đình đó có hạnh
phúc 
được?  Cái gì của mình cũng đúng, cũng hay, cũng nhứt cả, thì làm sao 
chịu 
nghe ý kiến của người khác?  Cha mẹ và con cái thuộc hai thế hệ khác 
nhau, 
thì tức nhiên ý kiến, suy nghĩ, hoàn cảnh, môi trường sinh hoạt, tất cả
đều 
khác nhau, không thể khai trừ nhau, cho nên phải tùy thuận nhau mà 
sống, mới 
có được hạnh phúc trong gia đình.  Trong thập đại nguyện của Bồ Tát Phổ
Hiền, điều thứ chín dạy: "Hằng thuận chúng sanh", chính là nghĩa đó 
vậy.  
Tuy nhiên, tùy thuận chúng sanh không có nghĩa là một người trong gia 
đình 
có lòng tham lam, xúi giục cả gia đình tham lam theo, bất chấp thủ 
đoạn, lợi 
mình hại người. 
Trong phạm vi xuất thế gian, người tu 
theo 
pháp môn này chê bai pháp môn khác cũng đều không đúng. Tại sao vậy?  
Bởi vì 
đạo Phật có nhiều pháp môn tương ứng, thích hợp, tùy theo căn cơ, trình
độ, 
hoàn cảnh, sở thích của mỗi người, để mọi người đều có thể tu tập 
được.  
Chúng ta không nên nghĩ mọi người phải tu như mình, hành như mình, mới 
là 
đúng.  Ý nghĩ như vậy, tư tưởng như vậy chỉ làm cho chúng ta càng ngày 
càng 
trở nên kiêu căng, phách lối, ngạo mạn, chê người, khinh đời.  Trái 
lại, 
chúng ta nên giao du với những người chống đối, trái ý, để luôn luôn 
suy 
xét, hoàn chỉnh ý kiến của mình, chuyển hóa tâm tánh của mình, để học 
hỏi 
thêm cái hay cái tốt của họ.  Nhờ có những người nghịch ý, chống đối 
như vậy 
chúng ta bớt lòng kiêu căng.  Ví như chiếc xe có máy móc để chạy, cũng 
cần 
có cái thắng mới hữu dụng vậy.  Nếu không có cái thắng, chắc chắn có 
ngày 
cũng lọt xuống hố mà thôi. 
* 
Điều 8: 
Điều thứ tám trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Thi ân đừng cầu đền 
đáp, 
vì cầu đền đáp là thi ân có ý mưu đồ. Hãy coi thi ân như đôi dép bỏ".  
Tại 
sao vậy?  Bởi vì chúng ta thi ân, làm ơn vì lòng tốt, chứ không phải vì
muốn 
được cám ơn, nhớ ơn hay đền ơn.  Làm ơn mà muốn được cám ơn, muốn được 
nhớ 
ơn, nghĩa là con người còn bản ngã, còn vì danh tiếng mới chịu làm.  
Làm ơn 
mà muốn được đền ơn, nghĩa là con người còn bản ngã, còn vì lợi lộc mới
chịu 
làm.  Làm ơn như vậy chẳng có phước báu gì, chẳng được người khác mang 
ơn, 
mà còn chuốc lấy oán hờn, thù ghét, chuốc lấy ưu phiền, bực tức, khi 
gặp mặt 
kẻ vô ơn, bạc nghĩa.  Làm ơn như vậy rõ ràng là có mưu đồ, làm ơn thì 
ít, mà 
muốn được đền ơn gấp bội phần.  Chẳng hạn như khi đến phúng điếu, giúp 
đỡ 
tang quyến người khác chẳng bao nhiêu, lại muốn được "trả công bội hậu"
ở 
nước thiên đàng, thì quả là tham lam quá xá. 
Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy: 
"Thi 
ân, bố thí bất trụ tướng, phước đức bất khả tư lượng".  Nghĩa là chúng 
ta 
làm ơn bố thí, nhưng không chấp mình là người ban ơn làm phước, không 
thấy 
có người thọ nhận việc phước mình làm, không nhớ mình làm phước giúp đỡ
điều 
gì, không tính mình giúp đỡ bao nhiêu người.  Được như vậy, chúng ta sẽ
ăn 
ngon ngủ yên, tâm trí không bất an vì những chuyện phước đã làm, vì gặp
những người vô ơn, không tiếc nuối những vật đã đem cho, không ân hận 
đã 
giúp đỡ lầm người.  Làm ơn có nghĩa là làm phước, tạo phước bòn phước, 
cứu 
đời giúp người, khi cần thiết, lúc hoạn nạn, chỉ vì lòng tốt, vì tâm 
lượng 
từ bi, vì muốn chuyển hóa tâm tánh của chính mình, thì như vậy mới có 
thể 
làm ơn được lâu dài, giúp được nhiều người, nhiều lần và phước báu vô 
lượng 
vô biên, không thể nghĩ bàn.  Sách có câu: "Thi ân bất cầu báo đáp", 
chính 
là nghĩa đó vậy.  Hàng phục được tâm ý, chuyển hóa được tánh tình như 
vậy, 
chúng ta mới có thể phát nguyện độ tất cả chúng sanh, mà không thấy có 
chúng 
sanh nào được độ.  Cho nên Đức Phật dạy hãy coi thi ân như đôi dép bỏ, 
làm 
ơn làm phước xong rồi thì quên ngay đi, bỏ qua liền, đừng ghi nhớ trong
tâm 
thức cho thêm phần nặng nề.  Được như vậy, chúng ta mau tiến đến chỗ 
giác 
ngộ và giải thoát. 
* 
Điều 9: 
Điều thứ chín trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Thấy lợi đừng nhúng
vào, 
vì nhúng vào thì si mê phải động. Hãy lấy sự xả lợi làm vinh hoa".  Tại
sao 
vậy?  Bởi vì lợi lộc trên đời thường do tranh đấu, giành giựt, bon 
chen, bất 
chấp mọi thủ đoạn, bất chấp nhơn nghĩa, bất chấp đạo lý, mới có được.  
Lợi 
lộc không từ trên trời rơi xuống, không ở dưới đất trồi lên.  Khi thấy 
có 
lợi lộc, cả khối người nhào vô, sẵn sàng chà đạp, gạt gẫm, loại trừ, 
giết 
hại lẫn nhau để chiếm đoạt cho bằng được. 
Nhiều khi lợi lộc quá lớn lao, có thể 
khiến 
cho con người đánh mất lương tri, sẵn sàng thanh toán người thân lẫn kẻ
thù, 
chỉ nhằm đoạt được mục tiêu mà thôi.  Chẳng hạn như một thái tử âm mưu 
sát 
hại phụ hoàng để chiếm ngai vàng, con cái giết hại cha mẹ để đoạt gia 
tài, 
bạn bè cáo gian để hại nhau, chiếm đoạt tài sản, vợ con người khác.  
Con 
người vì ham lợi lộc cho nên chuyện gì cũng dám làm, coi lợi lộc như 
vinh 
hoa phú quí cần phải có trên thế gian, để ngẩng mặt nhìn đời cho có oai
phong ngon lành.  Chính vì thế tâm si mê phải động, sai khiến con người
làm 
tất cả mọi chuyện để thỏa mãn lòng tham lam của mình.  Con người khi 
thấy 
lợi lộc liền nhúng tay vào, mà chẳng cần biết hậu quả ra sao?  Đó chính
là 
tâm si mê vậy. 
Các sòng bạc được mở ra khắp nơi, chính 
là 
những cái bẩy khổng lồ nuốt tiền của những người nhẹ dạ ham vui tham 
tiền, 
hình như ai ai cũng biết vậy, nhưng có rất nhiều người nuôi tham vọng 
là mối 
lợi to lớn ở các sòng bạc đó, biết đâu may mắn đến với mình, cho nên 
mạnh mẽ 
nhào vô … lãnh đủ.  Có nhiều người tán gia bại sản, nợ nần tứ tung, 
nhưng 
vẫn không chừa, vẫn không không biết sợ.  Tục ngữ có câu: "Cờ bạc là 
bác 
thằng bần. Cửa nhà bán hết nợ nần tứ tung".  Có cửa nhà để bán trả nợ 
là còn 
có phước đó. Người nào muốn tu tâm dưỡng tánh thì phải xả bỏ tâm tham 
lợi, 
tâm si mê, phải biết sống cuộc đời thiểu dục tri túc, ít muốn và biết 
thế 
nào là đủ, tâm mới được khinh an, thơi thới, nhẹ nhàng, cuộc sống mới 
được 
an lạc, cuộc đời mới được hạnh phúc. 
Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có 
dạy:     
 
Tri túc chi nhơn tuy ngọa địa thượng du 
vi an 
lạc. 
Bất tri túc giả thân xử thiên đường diệc
bất 
xứng ý. 
Nghĩa là người biết thế nào là đủ, không
tham 
lợi lộc, thấy lợi lộc không nhúng tay vào, tuy nằm trên đất nhưng vẫn 
thấy 
an lạc hạnh phúc, bình yên vui vẻ.  Chỉ cần "biết" đủ, thì đã quá đủ 
rồi.  
Trái lại, người nào không "biết", thì không bao giờ thấy đủ, tấm thân 
tuy 
được ở trên thiên đường, tiền rừng bạc biển, giàu sang sung sướng, 
nhưng tâm 
ý vẫn chưa thỏa mãn, cố gắng kiếm cho thiệt là nhiều tiền vẫn chưa chịu
thôi, chưa chịu ngưng, chưa chịu an hưởng tuổi già gần đất xa trời.  
Sách 
cũng có câu: 
Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc.
Tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời 
nhàn. 
Nghĩa là "biết" thế nào là đủ, tức thời 
được 
đầy đủ ngay lập tức, không cần phải đợi đến lúc có thiệt nhiều tiền mới
thấy 
đủ.  Bao nhiêu mới gọi là nhiều đối với người không biết đủ? "Biết" thế
nào 
là nhàn, tức thời được nhàn nhã ngay lập tức, không cần phải đợi đến 
già, 
hay lúc nào hết.  Nói tóm gọn là "biết" đủ thì đủ, "biết" nhàn thì 
nhàn.  
Không "biết" thì cực khổ tấm thân vậy thôi. 
* 
Điều 10: 
Điều thứ mười trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Oan ức không cần 
biện 
bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả. Hãy lấy oan ức làm cửa ngõ đạo 
hạnh".  Tại sao vậy?  Bởi vì con người kiếp trước tạo ít phước báo, gây
nhiều nghiệp báo, cho nên kiếp này mới gặp nhiều điều oan ức.  Cho nên 
khi 
gặp chuyện oan ức, không cần phải than trời trách đất gì cả. Muốn cuộc 
sống 
bớt những điều oan ức trái ngang, con người cần tích cực tu tâm dưỡng 
tánh, 
cần cố gắng làm phước nhiều hơn, cố tránh đừng gieo tiếng oán, đừng 
loan 
truyền tin đồn, đừng vu oan giá họa, đừng làm đau khổ cho người khác, 
dù cho 
đó là kẻ thù của mình, kẻ mình không ưa cũng vậy. 
Người nào nói xấu mình, mình bèn tìm đủ 
cách 
nói xấu lại, cho bỏ ghét.  Người nào hại mình, mình bèn tìm đủ cách hại
lại 
nặng hơn, cho đáng đời.  Người nào không chịu giúp mình, không tốt với 
mình, 
mình bèn tìm đủ mọi cách trả thù, cho hả giận, rỉ tai biêu riếu, vu 
khống 
cáo gian, vu oan giá họa, kiện cáo tụng đình, cho chúng chết luôn, cho 
chúng 
mạt luôn, khỏi ngóc lên nổi.  Mình cho rằng người ta xấu xa, người ta 
ác 
độc, người ta bất chính, người ta bất lương, người ta bất thiện, người 
ta 
bất nhơn, người ta ác đức, người ta dã man, mà mình cũng làm y như vậy,
chỉ 
khoác danh nghĩa "trả thù", thì mình có khác gì người ta đâu?  Phản ứng
y 
chang những điều người đời làm cho mình thực là dễ dàng. Còn như nhịn 
được 
mới thực là khó khăn vô cùng. Nhịn được như vậy chứng tỏ chúng ta không
còn 
chấp mình nhận chịu khổ đau, không còn chấp người tạo đau khổ cho mình,
tức 
là chúng ta đã thấu rõ và hành được "giáo lý vô ngã" của đạo Phật.  
Trong 
giáo lý vô ngã của đạo Phật, không có cái gì là "Ta", nên không có gì 
là 
"của Ta".  Đó chính là triết lý cao thượng vô cùng mà chúng ta cần phải
nghiên cứu, tìm hiểu cho thấu đáo, để khi gặp chuyện oan ức trên thế 
gian 
này, chúng ta vẫn giữ được tâm trí bình tĩnh, thản nhiên.  Được như 
vậy, oan 
ức chính là cửa ngõ tiến vào con đường đạo hạnh. 
Người nào có nhiều "tự ái", thường cho 
rằng 
ta đây là nhứt, cái gì của mình cũng đứng nhứt, cái gì liên quan đến 
mình 
cũng nhứt, chấp nhứt từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ nhặt, chẳng bao giờ 
chịu 
nghe lời khuyên, thường thấy lỗi lầm của người khác, không bao giờ cho 
là 
mình có lỗi gì cả, bất cứ chuyện gì xảy ra cũng tìm đủ mọi cách, viện 
đủ lý 
lẽ, đổ lỗi người này, đổ thừa người kia, tại thế này, bị thế khác, chứ 
không 
bao giờ tại mình, bởi mình, do mình mà chuyện sai trái xảy ra cả!  
Người như 
vậy chính là người có "tâm chấp ngã" quá cao.  Cho nên người đó vẫn còn
luẩn 
quẩn trong vòng sanh tử luân hồi.  Tại sao vậy?  Bởi vì những người như
vậy 
rất nhạy cảm, phản ứng nhanh lẹ, khi tiếp xúc với cảnh trần đời.  Một 
lời 
nói vô tình, một ý kiến trái nghịch, một việc làm không vừa ý, một cử 
chỉ 
vụng về của người khác, tất cả đều có thể khiến cho những người như vậy
nổi 
sân, bực tức, khó chịu, gây gổ, phê phán, bình phẩm, chỉ trích, miệt 
thị, 
hơn thua, sống để dạ, chết mang theo.  Nghĩa là vọng tâm của họ khởi 
lên đều 
đều mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây.  Những người như vậy thường 
xuyên 
sống trong tâm trạng bất an, vọng động, thậm chí đau khổ nhiều thứ, 
nhiều 
mặt bởi vì kho tàng tâm thức chứa nhóm quá nhiều phiền não.
* * * 
Tóm lại, chúng ta nên biết rằng ngoài 
biển 
khơi lúc nào cũng có gió thổi, tùy theo gió nhẹ thì sóng nhỏ, gió to 
thì 
sóng cả.  Tâm của chúng ta ví như mặt biển cả, tùy theo "bát phong" của
thế 
gian thổi đến, chẳng hạn như lúc thịnh lúc suy, lúc khen lúc chê, lúc 
danh 
dự, lúc tủi nhục, lúc sung sướng lúc đau khổ, đối với người không biết 
tu 
tâm dưỡng tánh thường để cho lòng nổi sóng, chìm đắm trong vui mừng tột
độ, 
hay đau khổ triền miên.  Còn đối với người quyết tâm tu tập thì cố gắng
giữ 
gìn tâm ý bất động, bất loạn, như như, bình tĩnh, thản nhiên trước mọi 
phong 
ba của cuộc đời.  Được như vậy, chắc chắn đời sống an lạc, hạnh phúc, 
tâm 
linh giác ngộ, giải thoát.  Đó là cảnh giới niết bàn, tịch diệt, chính 
là 
mục đích cứu kính của đạo Phật. 
Chư Tổ có dạy: 
"Nếu chấp nhận trở ngại thì lại thông
suốt, 
mà mong cầu thông suốt thì sẽ bị trở 
ngại". 
Chúng ta đừng cầu không bệnh khổ, đừng 
cầu 
không hoạn nạn, đừng cầu không khúc mắc, đừng cầu không bị ma chướng, 
đừng 
cầu lợi cho mình, đừng cầu tất cả đều thuận theo ý mình, đừng cầu được 
báo 
đáp, đừng cầu không bị oan ức.  Tại sao vậy?  Bởi vì cầu nguyện thực sự
có 
được gì đâu, chỉ làm cho tâm trí chúng ta thêm rối loạn khi gặp nghịch 
cảnh, 
bất trắc mà thôi.  Chúng ta hãy cùng suy gẫm câu chuyện sau đây: Có một
bà 
lão đến gặp Thiền sư Triệu Châu thưa hỏi, cầu nguyện cách nào có thể 
giúp bà, 
kiếp này chuyển được phiền não khổ đau thành an lạc hạnh phúc, kiếp sau
được 
lên thiên đàng, không đọa địa ngục?  Thiền sư Triệu Châu dạy bà khấn 
nguyện 
như thế này: Tôi nguyện đời đời kiếp kiếp chấp nhận sống trong đau 
khổ, 
chấp nhận địa ngục, còn an lạc hạnh phúc và cõi thiên đàng xin dành cho
người khác… 
Ngày nay, người tu học theo đạo Phật nên
dấn 
thân trong mọi sự trở ngại, không quản khó khăn, không sợ trắc trở. Cho
nên 
trở ngại, khó khăn, trắc trở không thể cản được bước đường tiến tu, 
không 
làm cho chúng ta chán nản, sờn lòng, muốn xa lánh cõi đời, mong cầu về 
cõi 
cực lạc sung sướng cho dễ tu hơn.  Chánh Pháp chí thượng nhờ vậy mới 
được 
sáng tỏ. Chúng ta cần tích cực tu tâm dưỡng tánh, mở mang trí tuệ bát 
nhã, "chiếu 
kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách". Nghĩa là khi thấy 
được, 
hiểu được, "biết" được một cách rõ ràng tấm thân tứ đại, ngũ uẩn này là
không thực, là giả tạm, nay còn mai mất, muốn duy trì, giữ gìn mãi mãi 
cũng 
không được, muốn trẻ mãi không già cũng chẳng được, muốn khỏe mãi không
đau 
cũng chẳng được, "biết" được như vậy, hiểu được như vậy, thấy được như 
vậy, 
thì khổ ách nào mà chẳng qua.  Nếu chúng ta thực sự thấy được tất cả 
các 
pháp trên thế gian này đều không thực, không tự tánh, không cố định, 
không 
tồn tại vĩnh viễn, thì khi đó chúng ta đủ khả năng vượt qua mọi sóng 
gió của 
cuộc đời, vượt qua tất cả mọi khổ ách, đáo bỉ ngạn, đến được bờ giác 
ngộ và 
giải thoát vậy. 
Thích Chân Tuệ 
  
 
 |