Do vậy, việc hoàn thiện hệ thống giáo dục Phật giáo là một thách
thức lớn. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi không phải nằm ở thời gian mà là
chính sách phát triển và phương thức đổi mới giáo dục Phật giáo.
Đến nay, ngành giáo dục Phật giáo vẫn chưa có mô hình giáo dục phù
hợp với sự phát triển của thời đại. Đó là một trăn trở lớn của Giáo
hội, của Ban giáo dục và cả những người học Phật. Những trở lực nào đã
làm trì trệ nền giáo dục và hướng đi nào để đáp ứng sự đổi mới?
Tình hình chung và vai trò giới hạn
Sau khi đất nước thống nhất, nền chính trị nước nhà quy về một mối
và chi phối mọi sinh hoạt trong xã hội. Phật giáo cũng không phải là
ngoại lệ. Ngành giáo dục Phật giáo tạm thời ngừng nghỉ và những thành
tựu của nó trước năm 1975 bị gác lại hay chuyển mục đích sử dụng.
Đến khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập thì các ban
ngành mới được chính thức hoạt động dưới sự quản lý của Ban tôn giáo và
sự giám sát của các ban ngành khác. Nhiệm vụ của giáo dục Phật giáo
được trao cho một ban gọi là Ban giáo dục tăng ni.
Tên của ban này đã xác định rõ là đối tượng của giáo dục Phật giáo
chỉ gồm tăng ni, tức là giới hạn vai trò vốn có của Phật giáo là giáo
dục mọi đối tượng có nhu cầu học Phật.
Cái tên của ban này cũng làm nhiều người hiểu là chỉ có tăng ni
mới cần được giáo dục, còn những đối tượng khác thì đã hoàn thiện.
Từ đó đến nay, ban này nỗ lực hoạt động trong giới hạn của mình
nhằm cung cấp nhân sự tài đức để đưa con thuyền Giáo hội đi lên.
Những nỗ lực ấy đã đem đến những kết quả đáng kể, nhất là con số
trường lớp được thành lập và tăng ni tốt nghiệp ra trường. Tuy nhiên,
chất lượng đào tạo và nguồn nhân lực có thể sử dụng được sau khi đào
tạo thì dường như chưa có số liệu thống kê đánh giá.
Ta hãy nhìn lại hệ thống tổ chức giáo dục để suy luận thành quả của nó ra sao.
Những bất cập của hệ thống giáo dục
Hệ thống trường lớp
Ngành giáo dục Phật giáo nếu nhìn từ sơ đồ, cơ cấu tổ chức trường
lớp thì ta thấy rất bài bản gồm các cấp bậc từ thấp đến cao. Thấp nhất
là Lớp sơ cấp, đến Trường trung cấp (cơ bản), Lớp cao đẳng, và Học viện
(hay đại học) Phật giáo.
Tuy nhiên, khi đi sâu vào tìm hiểu, ta lại thấy có những điều bất
ổn (nhưng lại phản ảnh sự linh hoạt của chư tôn đức ngành giáo dục nhằm
đối phó với cơ chế).
Theo quy định trên thì hệ thống trường lớp phải được áp dụng đồng
bộ trên toàn quốc. Thế nhưng, thực tế thì chỉ có một số tỉnh thành có
lớp sơ cấp được mở với lý do đào tạo như lớp gia giáo tại chùa nhằm bồi
dưỡng kiến thức cho tăng ni trong khi chờ đợi vào trung cấp. Khi tốt
nghiệp trung cấp, tăng ni muốn tiếp tục học cao hơn thì hoặc là thi
tuyển vào Học viện hoặc vào thẳng Lớp cao đẳng.
Nói là Lớp cao đẳng mà không phải là Trường cao đẳng vì nó thực
chất là trung cấp nối dài, trực thuộc Trường trung cấp. Ý tưởng này là
do chư tôn đức thương tưởng tạo điều kiện cho tăng ni có cơ hội trau
dồi thêm kiến thức chuyên môn Phật pháp. Đến cấp cao nhất trong Phật
giáo là đại học thì nó cũng bị giới hạn ở mức cử nhân. Hiện tại đại học
Phật giáo mới bắt đầu đào tạo sau đại học nhưng mang tính chất nội bộ.
Dẫu sao cũng đáng khích lệ.
Chương trình đào tạo
Vì hệ thống trường lớp không đồng bộ nên chương trình giảng dạy ắt
hẳn là không thể thống nhất về nội dung. Mỗi trường đưa ra chương
trình đào tạo riêng và sự phân chia nội dung tất nhiên theo quan điểm
của bổn trường.
Khi hết trung cấp, tăng ni muốn đậu trong kỳ thi tuyển vào đại học
Phật giáo thì phải nắm bắt thông tin, và tìm hiểu nội dung ôn thi thì
mới có hy vọng cao. Lý do là nội dung đề thi tuyển sinh có khi chẳng ăn
nhập gì với nội dung đã từng học dưới các Trường trung cấp nhất là môn
việt văn và ngoại ngữ.
Thời gian tuyển sinh đào tạo
Theo quy định hiện nay, thời gian học sơ cấp là 2 năm, trung cấp 4
năm, cao đẳng 3 năm, học viện 4 năm. Một tăng ni sinh muốn hoàn tất
chương trình cử nhân phải mất 10 năm liên tục, và hoàn tất cao đẳng
phải mất 9 năm.
Nếu tăng ni là ấu niên xuất gia, sau khi tốt nghiệp phổ thông trung
học vào học ngay chương trình Phật học thì chí ít 28 tuổi mới có cử
nhân Phật học.
Trường hợp tăng ni vừa học hai chương trình Phật học và thế học
thì thời gian hoàn tất cử nhân có thể ngắn hơn nhưng chắc chắn không
bảo đảm chất lượng, phần lớn xem nhẹ Phật học. Nếu những vị xuất gia
muộn thì cứ như thế tính ra sẽ biết tuổi tốt nghiệp.
Điều đáng nói là các trường Phật học không chiêu sinh hàng năm mà
cách 2 hay 4 năm một lần, cụ thể là 2 năm đối với sơ cấp, 4 năm hay
hiện tại có nơi 2, 3 năm đối với trung cấp, 4 năm hay hiện tại là 2 năm
đối với đại học.
Nếu tăng ni học xong sơ cấp mà trung cấp đã khai giảng rồi thì
phải chờ 4 năm sau hay hiện tại là 2 năm; đại học cũng tương tự. Thế
thì thời gian cho một tăng ni tốt nghiệp cử nhân Phật học theo quy định
hiện nay chí ít cũng phải trên dưới 30 – một độ tuổi quá già đối với
trình độ ấy so với sinh viên bên ngoài chỉ khoảng 22 – 23.
Nhân sự điều hành, giảng dạy
Do đặc thù của Phật giáo nên nhân sự Phật giáo thường kiêm nhiệm
nhiều chức vụ. Tuy nhiên, một vị hiệu trưởng mà không làm việc toàn
thời gian cho trường lớp là điều đáng quan ngại cho sự giáo dục. Nếu vì
lý do tế nhị là cơ chế thì chí ít vị phó hiệu trưởng thường trực phải
là người làm việc toàn thời gian cho trường lớp.
Nhìn vào quỹ thời gian làm việc người ta có thể thấy được phần nào
chất lượng giáo dục. Đối với giáo thọ, họ phải có giáo án và kinh
nghiệm giảng dạy nhất định. Nên có hợp đồng và trả lương phù hợp cho họ
thì họ mới làm tốt. Nếu áp dụng chế độ công quả thì rất khó điều hành
hiệu quả trường lớp. Rất tiếc, đây là cách làm hiện nay của giáo dục
Phật giáo.
Chỉ tiêu tuyển sinh
Một trong những điều trường lớp quan tâm là số lượng tăng ni đăng
ký học. Chưa có một quy định nào về chỉ tiêu tuyển sinh của các trường
Phật học. Những thành phố lớn thì sĩ số vài trăm tăng ni trong khi các
tỉnh xa thì chỉ chưa đầy 30 vị. Một lớp học với sĩ số gần 200 cùng học
chung tại giảng đường và một lớp học chỉ hơn 20 vị thì được cho là đủ
tiêu chuẩn trường lớp không!? Một số tỉnh cũng thích mở trường nhưng
tăng ni không đủ nên phải vận động mọi lứa tuổi cho đông. Đây thực sự
là gánh nặng cho các vị giáo thọ và chất lượng giáo dục.
Tiêu chuẩn đánh giá
Nói về đánh giá học tập thì thật nhiêu khuê vì chưa có tiêu chí
đánh giá nào được áp dụng chung. Hầu hết đều do trường và cụ thể là do
chính vị giáo thọ đánh giá. Không ai dám chắc là sự đánh giá của các vị
là chính xác là đáng tin cậy trừ những bậc giáo thọ có kinh nghiệm về
sư phạm. Trình độ trung cấp mà kiểm tra đánh giá chỉ bằng bài luận cuối
khóa thì e rằng chưa ổn bởi họ cần kiểm tra thường xuyên và với hình
thức trắc nghiệm kiến thức nữa. Trình độ cử nhân mà làm tiểu luận trên
4000 từ hay trên 10 trang A4 là quá giỏi. Một học kỳ làm khoảng 5 tiểu
luận là bằng luận văn cử nhân rồi. Sau 4 năm học, họ sẽ rất giỏi nếu
như đó là sản phẩm thật sự của họ. Chúng ta thật khâm phục các vị giáo
thọ đã chịu khó hướng dẫn và đọc hết bài của sinh viên!?
Quản lý giáo dục
Có thể nói quản lý giáo dục Phật giáo là thiếu chuyên nghiệp,
thiếu tầm nhìn hợp tác. Ở xã hội, ngành giáo dục quản lý từ bộ, xuống
sở, rồi phòng sau đó là các cơ sở trường lớp. Từ đó, các chức vụ được
bổ nhiệm như bộ trưởng, giám đốc sở, trưởng phòng, hiệu trưởng…để quản
lý hoạt động giáo dục. Ở cấp tỉnh, do có nhiều trường học từ thấp đến
cao nên mới có sở quản lý và sở chịu sự quản lý cấp cao hơn. Nếu như
trong một tỉnh chỉ có một trường hay không có trường nào liệu các chức
vụ ấy được đưa ra không. Chắc chắn là không.
Thế mà trong Phật giáo lại có. Có nhiều tỉnh không có trường lớp
Phật giáo nhưng vẫn có trưởng ban giáo dục tăng ni. Những nơi có trường
Phật học thì đúng ra hiệu trưởng phải kiêm trưởng ban giáo dục tăng ni
nhưng một số tỉnh thì không như vậy. Không biết các vị trưởng ban giáo
dục tăng ni nơi không có trường Phật học và nơi có trường nhưng đã có
hiệu trưởng, tiến hành giáo dục tăng ni bằng cách nào. Có cần cơ cấu
đầy đủ các ban ngành cho tất cả các tỉnh thành không và cơ cấu để làm
gì!?
Việc quản lý và lưu trữ hồ sơ của các trường Phật học cũng là điều
đáng quan tâm. Ngoại trừ các trường đại học quản lý hồ sơ sinh viên
tương đối tốt nhưng chưa có mã số sinh viên hay chỉ cấp cho các khóa
học mới đây, hồ sơ tăng ni sinh ở các Lớp cao đẳng, và Trường trung cấp
không ai biết được ngoại trừ chính trường ấy. Kết quả là tăng ni muốn
chuyển trường khó mà chuyển được và bằng thật học giả là điều có thể
đoán được. Hơn nữa, trong khi Giáo hội quy định tăng ni trụ trì phải đủ
các điều kiện trong đó có yêu cầu văn bằng Phật học thì việc tiêu cực
xảy ra là rất dễ hiểu. Muốn truy nguồn gốc bằng thật giả thì khó mà tìm
được bởi cơ quan quản lý đâu có nắm hồ sơ lưu trữ.
Quan hệ hợp tác
Về nội bộ Phật giáo thì các trường không có sự liên kết nhau nên
không thể trao đổi sinh viên lẫu nhau hay sinh viên muốn chuyển trường
cũng không được. Về đối ngoại thì các trường đại học bên ngoài không
công nhận văn bằng của ta trong khi một số nước quanh ta thì họ chấp
nhận. Đó là một nghịch lý và là một sự bất công mà Phật giáo cần phải
tranh đấu đòi hỏi quyền lợi cho sinh viên của mình.
Đổi mới hệ thống giáo dục
Củng cố hệ thống giáo dục
Giáo dục Phật giáo mạnh trước hết hệ thống trường lớp phải đồng bộ
và thống nhất từ trên xuống dưới trong cả nước. Khi đã phân chia rõ
ràng từng cấp bậc cụ thể thì sẽ dễ dàng định hướng nội dung chương
trình cho từng cấp. Trong khi định hướng nội dung đào tạo, các nhà soạn
thảo sẽ đưa ra mô hình đào tạo sao cho thích hợp theo nhu cầu của Phật
giáo và xã hội. Có 2 mô hình phổ biến:
Một là đào tạo theo mô hình truyền thống khép kín mang tính chuyên
môn Phật giáo dành cho những ai chuyên nghiên cứu kinh điển Phật giáo.
Thời gian 10 năm là đủ, sau đó tăng ni vừa nghiên cứu vừa trau dồi
thêm tùy điều kiện riêng.
Hai là đào tạo theo mô hình tương đương với đại học thế tục. Những
ai đáp ứng đủ những điều kiện về tuyển sinh thì đều được tham gia thi
tuyển. Thời gian đào tạo như các đại học thế tục. Mô hình này đang còn
trong giai đoạn tranh luận, chưa thống nhất.
Trong khi tăng ni tốt nghiệp phổ thông trung học có quyền thi
tuyển vào các trường đại học thế tục thì đại học Phật giáo lại không
chấp nhận. Làm như thế, vô hình trung, giáo dục Phật giáo đẩy con em
mình ra ngoài để họ hòa mình vào thế tục. Lý luận rằng họ chưa đủ trình
độ Phật học thì cứ đánh giá trình độ họ một cách công bằng và khoa
học. Còn cho rằng họ chưa trải qua thời gian học tập cấp dưới nên bản
chất người tu chưa thuần, dễ ngã mạn thì không thuyết phục bởi đâu phải
ai cũng như vậy và cũng chưa có nghiên cứu nào chứng minh như thế. Vả
lại, để tăng ni học ở các đại học thế tục thì họ không ngã mạn và thuần
thục sao!?
Khi đã xác định mô hình đào tạo rồi thì bước tiếp theo là quy định
về điều kiện thành lập trường lớp, quy chế đào tạo. Nếu ta không đủ
quyền quy hoạch trường lớp thành các cụm thì ta đưa ra các quy định về
tiêu chí trường lớp, chỉ tiêu chiêu sinh. Tỉnh thành nào đáp ứng điều
kiện thì mở trường lớp, không thì tự giải thể hay sáp nhập vào các tỉnh
thành lân cận để tạo thành cụm.
Về chiêu sinh hay tuyển sinh, nên mạnh dạn thực hiện hàng năm. Có
thể ta giảm chỉ tiêu tuyển sinh thấp xuống nhưng tuyển sinh hàng năm
thì vẫn đảm bảo số lượng sinh viên. Ví dụ: thay vì Học viện 2 năm tuyển
sinh một lần lấy số lượng 600 sinh viên thì cứ mỗi năm tuyển sinh 1
lần lấy 300 sinh viên. Làm như vậy vừa giúp tăng ni bớt chán ngán chờ
đợi, giữ được đà hứng thú học tập; vừa tạo cơ hội cho sinh viên nợ môn
học có thể trả nợ sớm bằng cách theo học với khóa mới.
Các trường trung cấp cũng phải tương tự như vậy. Điều này sẽ rất
khó khăn cho các trường trung cấp vì đụng chạm tới lợi ích riêng của họ
nên khó thực hiện nhưng đó là con đường phải đi nếu muốn đổi mới.
Để quản lý và tạo điều kiện cho tăng ni học tập thật sự thì các
trường phải lưu trữ hồ sơ và trình lên ban giáo dục quản lý. Mỗi sinh
viên phải có mã số, khóa học. Khi cần thiết tra cứu thì chỉ cần gõ vào
địa chỉ của ban giáo dục là có thể biết thông tin cần thiết. Quản lý
tốt sẽ hạn chế tình trạng không đáng có trong ngành giáo dục.
Biên soạn chương trình đào tạo khung
Sau khi đã có mô hình thì việc tiếp theo là biên soạn giáo án theo
mô hình ấy. Điều này đã có nhiều ý kiến cụ thể rồi nên ở đây không bàn
thêm.
Một điều cần lưu tâm khi soạn thảo là phải có chương trình thực
hành bắt buộc với chuyên ngành đào tạo thường gọi là thực tập, khảo sát
thực tế…Học lý thuyết mà không hướng dẫn thực hành thì trái với tôn
chỉ Phật giáo là ‘tri hành hợp nhất’.
Chọn lựa nhân sự điều hành, giảng dạy
Nhân sự là nhân tố quyết định sự thất bại hay thành công của mọi
tổ chức và trường lớp Phật giáo cũng không ngoài quy luật ấy. Nhân sự
điều hành trường lớp phải là những người trực tiếp làm việc toàn thời
gian cho giáo dục và có khả năng chuyên môn. Nếu nhân sự không chuyên
môn và chỉ làm việc bán thời gian cho giáo dục thì sự thành công của
trường lớp khó có hy vọng. Thành công ở đây là thực sự chứ không phải
hình thức.
Về giáo thọ giảng dạy, Phật giáo chưa có cơ chế biên chế như nhà
nước nên ta cứ hợp đồng rõ ràng, thời gian phục vụ và mức lương cụ thể.
Có như thế mới đủ pháp lý để ràng buộc trách nhiệm các vị giáo thọ đối
với sự nghiệp giáo dục, và tạo điều kiện cho họ nghiên cứu.
Mở rộng đào tạo
Như trên đã đề cập, trong khi tăng ni được phép học tại các trường
thế tục thì người cư sĩ lại không được cho phép vào học tại các trường
Phật học. Một số trường thế tục có khoa tôn giáo, khoa Phật học và mọi
công dân đều có quyền theo học thì tại sao họ không được quyền học
Phật học hay các ngành khác tại trường Phật học.
Chúng ta phải kiên trì đòi hỏi quyền lợi chính đáng của mình để mở
rộng, phát triển đại học Phật giáo. Đồng thời, chúng ta cũng phải đòi
quyền lợi chính đáng về sự tôn trọng công bằng với các đại học thế tục
vì hiện tại các đại học thế tục không chấp nhận bằng cấp của ta trong
khi ta thì chấp nhận của họ. Muốn vậy, đại học Phật giáo phải đáp ứng
các quy định của bộ giáo dục và không ngừng củng cố và nâng cao chất
lượng đào tạo. Tất cả phụ thuộc vào chính chúng ta.
Kỷ niệm 30 năm thành lập GHPGVN là dịp chúng ta ôn lại chặng đường
đã đi qua với những thành công và tồn tại. Từ đó, xây dựng chính sách
mới phù hợp với thời đại nhằm khắc phục những bất cập và phát huy các
giá trị thành công.
Đây là cách thức xã hội đang làm. Liệu rằng sau khi kỷ niệm GHPGVN
nói chung và giáo dục Phật giáo sẽ đổi mới! Thành quả tương lai sẽ trả
lời thắc mắc ấy!
Theo PTVN