CHÚ GIẢI CHÚ ĐẠI BI
1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
Hàng ngày chúng ta vẫn
thường tụng Nam mô A – di – đà Phật. Nam mô Bổn sư Thích – ca Mâu – ni Phật.
Nhưng quí vị có biết Nam – mô có nghĩa là gì không? Chắc là rất ít người biết
được. Cách đây vài năm, có lần tôi đã đặt vấn đề này trong một pháp hội nhưng
chưa một người nào có được câu trả lời hoàn chỉnh cả.
Nam – mô, phiên âm chữ
Nama từ tiếng Phạn. Trung Hoa dịch là “Quy y”; cũng dịch là “Quy mạng kính
đầu”. Có nghĩa là: “Con xin đem toàn thể sinh mạng của con về nương tựa vào chư
Phật”. Cái bản ngã của chính mình không còn nữa. Mà con xin dâng trọn vẹn thân
mạng mình lên chư Phật. Nếu chư Phật cho con sống thì con sống; bảo con chết
thì con chết. Con hoàn toàn tin vào chư Phật. Đó gọi là “Quy mạng”.
Còn “Kính đầu” có nghĩa
là hết sức cung kính và nương tựa vào đức Phật. Đó là ý nghĩa của Nam – mô.
Còn “Quy y” có nghĩa là
đem hết thân và tâm của mình, đem hết cả mạng sống của mình trở về nương tựa
vào đức Phật.
Nói tổng quát. Nam mô
hắc ra đát na đá ra dạ da có nghĩa là “Xin quy y Tam Bảo vô biên vô tận trong
khắp mười phương”.
Đó chính là bản thể của
Bồ – tát Quán Thế Âm. Quí vị nên khởi tâm Từ Bi mà trì niệm. Mặc dù đó là bản
thể của Bồ – tát Quán Thế Âm, nhưng cũng có nghĩa là quy y với toàn thể chư
Phật trong mười phương, suốt cả ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Khi quí vị
trì niệm thần chú này. Không những chỉ nhắc nhở mình quy y với Tam Bảo thường
trụ trong khắp mười phương vô biên vô tận mà còn khiến cho tất cả mọi loài hữu
tình khi nghe được thần chú này cũng đều quay về quy y, kính lễ mười phương ba
đời thường trụ Tam Bảo.
Quí vị có biết Tam bảo
là gì không? Đó là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Quí vị nên biết rằng, trên
thế gian này Phật bảo là cao quý nhất. Cũng thế, Pháp bảo và Tăng bảo là điều
cao thượng và quý báu nhất. Không những cao quý ở thế gian mà còn cao quý đối
với những cảnh giới xuất thế gian, cho đến đối với cõi trời phi tưởng phi phi
tưởng nữa. Không còn có gì cao quý hơn Tam bảo trong Phật pháp nữa. Trong mười
pháp giới thì cảnh giới Phật là cao nhất. Thế nên chúng ta cần phải cung kính
quy ngưỡng và tín thọ nơi Tam bảo cao quý, phát khởi tín tâm kiên cố và thâm
sâu, không một mảy may nghi ngờ.
Có người sẽ hỏi: Quy y Tam bảo sẽ có lợi ích gì? Tối thiểu nhất là khi
quí vị quy y Phật rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào địa ngục nữa; khi
quí vị quy y Pháp rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào hàng ngạ quỷ (quỷ
đói) nữa; khi quí vị quy y Tăng rồi thì quí vị không còn bị đọa làm loài súc
sinh nữa. Đây là những đạo lý căn bản của việc quy y Tam bảo.
Nhưng khi đã quy y rồi,
quí vị phải tự nguyện và tinh tấn thực hành các việc lành, tương ứng với lời
dạy của đức Phật thì mới xứng đáng gọi là quy y. Nếu quí vị vẫn còn giữ nguyên
các tập khí ngày trước như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh dâm dục, nói dối, nghiện
ngập và làm mọi điều mình thích để thỏa mãn ngũ dục thì quí vị không thể nào
tránh khỏi đọa vào 3 đường ác (ngạ quỷ, địa ngục, súc sinh). Bở vì trong Phật
pháp không có sự nhân nhượng. Quí vị không thể nói: “Tôi đã quy y Phật, quy y
Pháp, quy y Tăng rồi, nên tôi sẽ không bao giờ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh nữa. Vậy nên tôi có quyền làm điều gì tôi muốn…”
Quí vị phải thay đổi,
chuyển hóa mọi tập khí xấu của mình và tích cực thực hành những việc thiện, dứt
khoát không bao giờ làm những việc ác nữa. Nếu quí vị còn tiếp tục làm những
việc xấu ác, thì quí vị sẽ bị đọa ngay vào địa ngục.
Đạo Phật không giống như
ngoại đạo. Họ tuyên bố rằng: “Quan trọng nhất là niềm tin. Nếu có niềm tin thì
dù có làm việc ác, cũng có thể vào được thiên đường. Còn ngược lại, nếu ai
thiếu lòng tin, dù có gắng sức làm việc phúc đức, thì cũng sẽ rơi vào hỏa
ngục”.
Nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn tạo các nghiệp ác thì nhất định quí vị sẽ bị
đọa vào địa ngục. Dù quí vị không tin vào đức Phật, mà vẫn gắng sức làm việc
phước thiện thì quí vị vẫn được lên thiên đàng. Phật pháp không bao giờ mê hoặc
con người bằng cách nói: “Nếu quí vị tin vào đức Phật, thì mọi điều sẽ được như
ý.” Ngược lại, nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn không chịu từ bỏ các việc ác
thì quí vị vẫn phải bị đọa vào địa ngục.
“Được rồi”. Quí vị lại thắc mắc: “Nếu đã tin Phật rồi mà cũng đọa vào địa ngục
như không tin, thì tại sao phải quy y Tam bảo?”
Chân chính quy y Tam bảo
có nghĩa là phải từ bỏ việc ác, quay về đường thiện, sửa đổi mọi lỗi lầm. Như
một người được khai sinh lại với tên mới, từ đây chỉ làm thuần túy những việc
lành. Không làm những việc xấu ác nữa. Như thế mới đạt được lợi ích thiết thực.
Chính vì vậy mà câu chú: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da có nghĩa là: “Quy y
Tam bảo vô cùng vô tận trong khắp mười phương”.
Khi quí vị trì niệm chú
này, cũng có thể giúp tiêu trừ được những ách nạn cho quí vị. Lúc gặp tai
chướng, quí vị hay thường trì niệm: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da thì tai
chướng ấy liền được tiêu trừ. Tai nạn lớn sẽ biến thành tai nạn nhỏ, và nếu gặp
tai nạn nhỏ thì cũng sẽ được tiêu sạch. Chú này được gọi là “Tiêu tai pháp”, là
một trong năm bộ chú hộ ma.
Nam mô hắc ra đát na đá
ra dạ da cũng còn được gọi là “Tăng ích pháp”. Nghĩa là từ trước đến nay quí vị
đã từng gieo trồng nhiều thiện căn, và vẫn thường trì tụng chú này, thì thiện
căn của quí vị sẽ tăng trưởng thêm gấp nhiều lần, lợi lạc không kể xiết. Nên
chú này được gọi là “Tăng ích pháp”.
Quí vị có thể niệm toàn
bộ chú Đại Bi, hoặc chỉ cần niệm câu chú đầu tiên này thôi: Nam mô hắc ra đát
na đá ra dạ da là “Thành tựu pháp”, bất luận quí vị muốn điều gì, thì sở nguyện
sở cầu của quí vị đều được thành tựu như ý muốn. Nếu quí vị không có con trai
mà muốn cầu sinh con trai, hay niệm Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da sẽ sinh
được con trai. Nhưng quí vị phải trì niệm với tâm trí thành, không phải chỉ
niệm một hai ngày rồi thôI, mà phải niệm liên tục ít nhất là trong ba năm. Nếu
quí vị không có được bạn tốt, mà muốn gặp được một người, hay niệm Nam mô hắc
ra đát na đá ra dạ da thì liền gặp được ngay bạn lành. Nếu quí vị trì niệm được
toàn thể bài chú Đại Bi thì quá tốt, nếu không chỉ cần niệm câu đầu tiên Nam mô
hắc ra đát na đá ra dạ da, cũng sẽ thành tựu những công đức không thể nghĩ bàn.
Câu chú này cũng còn
được gọi là “Hàng phục pháp”. Năng lực của câu chú đó có thể hàng phục thiên
ma, chế phục ngoại đạo khi nó nghe đến câu chú này.
Tuy vậy, câu chú này
không phải là “Câu triệu pháp”. Khi quí vị trì niệm một câu chú thuộc trong
“Câu triệu pháp” thì tất cả các loại yêu ma quỷ quái khắp nơi đều đến trình
diện và có thể bắt giữ, hoặc sai khiến được chúng.
Vậy nên, câu chú Nam mô
hắc ra đát ra đá ra dạ da này có công năng rất mạnh, không thể suy lường được.
Nếu nói chi tiết, thì không thể nào cùng tận được.
Tóm lại, trong câu Nam
mô hắc ra đát na đá ra dạ da, thì Nam mô có nghĩa là “quy mạng kính đầu”. Hắc
ra đát na là “bảo”. Đá ra dạ có nghĩa là “Tam”. Da nghĩa là “Lễ”.
Nghĩa toàn câu là: “Xin
đem hết thân, tâm, tính mạng của mình quy y và kính lễ Tam Bảo vô tận vô biên
trong khắp cả mười phương, suốt cả ba đời”. Chúng ta phải cúi đầu đảnh lễ
thường trụ Tam bảo.
Vì sao gọi là vô tận vô
biên? Vì chư Phật trong thời quá khứ là vô cùng vô tận. Chư Phật trong thời
hiện tại là vô cùng vô tận. Chư Phật trong thời vị lai là vô cùng vô tận. Cho
nên Tam bảo là vô biên vô tận.
2. Nam mô a rị da
Nam mô như đã giảng ở
trên, nghĩa là “đem hết thân tâm, tánh mạng quy y và kính lễ, học tập chư Phật
và chư Bồ – tát”.
A
rị có nghĩa là “Thánh giả”. Có nghĩa là người xa lìa tất cả các ác pháp. Nên
Nam mô A rị da có nghĩa là kính lễ các bậc Thánh giả, người đã xa lìa tất cả
các pháp bất thiện.
3. Bà lô yết đế thước bát ra da
Bà
lô yết đế có nghĩa là “quán” trong danh hiệu Quán Thế Âm Bồ – tát. Cũng được
dịch là “quang” từ danh hiệu Vairocana (Tỳ – lô – giá – na) nghĩa là Quang Minh
Biến Chiếu – hào quang chiếu khắp mọi nơi. Còn được dịch là: “Sở quán sát”
nghĩa là cảnh giới được quán chiếu, được quán sát đến.
Thước
bát ra da có nghĩa là “tự tại”.
Ý
nghĩa toàn câu là quán chiếu quán sát một cách rộng khắp và tự tại. Đó chính là
ý nghĩa của danh hiệu Bồ – tát Quán Tự Tại, Bồ – tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là
quan sát, lắng nghe âm thanh ở cõi thế gian để cứu độ một cách tự tại.
4. Bồ đề tát đỏa bà da
Mọi
người đều biết Bồ đề xuất phát từ tiếng Phạn là Bodhi. Có nghĩa là Giác.
Tát
đỏa có nghĩa là “độ” là vượt qua (bể khổ) cũng như đưa người khác vượt qua (bể
khổ) đến bờ giải thoát.
Bồ
Đề tát đỏa bà da có nghĩa là một vị Bồ – tát đã tự giác ngộ giải thoát và giúp
cho mọi chúng sinh được giác ngộ giải thoát như mình.
Bà
da có nghĩa là “đảnh lễ”.
Da
có nghĩa là khấu đầu đảnh lễ. Cúi đầu đảnh lễ ai? Đảnh lễ các vị Bồ – tát đã tự
giác ngộ giải thoát cho chính mình rồi, còn giúp cho người khác được giác ngộ
giải thoát.
Câu thần chú này là muốn nhắc đến Bồ – tát Bất Không Quyến Sách áp đại binh.
Nghĩa là khi quí vị tụng câu thần chú này thì Bồ – tát Bất Không Quyến Sách đem
binh tướng của cõi trời đến để hộ trì cho quí vị.
5. Ma ha tát đỏa bà ha
Ma
– ha có 3 nghĩa: Đại: lớn; Đa: nhiều; và Thắng: hoàn hảo.
Ma
– ha với nghĩa là Đại: tức chỉ cho người phát tâm bồ đề rộng lớn.
Ma
– ha với nghĩa là Đa: tức chỉ cho số lượng. Có rất nhiều người phát tâm bồ đề.
Ma
– ha với nghĩa là Thắng: tức nói đến những người đã phát tâm bồ đề rộng lớn đều
đạt đến chỗ thành tựu viên mãn, được nhiều lợi lạc rất thù thắng.
Tát
– đỏa nghĩa của chữ Tát – đỏa trong câu chú này không giống như nghĩa trong câu
trên. Trong câu chú trên, Tát – đỏa có nghĩa là “độ” – vượt qua bờ bên kia. Có
nghĩa là giải thoát. Còn trong câu chú này. Tát – đỏa có nghĩa là “Dõng mãnh
giả” là người can đảm, không sợ hãi. Cũng có nghĩa là “Tinh tấn giả”, là người
tu hành rất siêng năng.
Bà
– Da Hán dịch là “Hướng tha đảnh lễ” nghĩa là: “Con xin đê đầu đảnh lễ các vị
đại Bồ – tát, là những người rất dõng mãnh, rất tinh tấn, không bao giờ sợ hãi,
và nguyện phát tâm bồ đề trước chư vị Bồ – tát này.”
Các
vị đại Bồ – tát đã tự giác ngộ, giải thoát cho chính mình rồi còn phát nguyện
giúp cho vô số chúng sanh khác được giác ngộ và giải thoát như mình.
6. Ma ha ca lô ni ca da
Ma
– ha có 3 nghĩa: lớn, nhiều và thù thắng như trên đã giảng.
Ca
– lô Hán dịch là “Bi”.
Ni
– ca nghĩa là “Tâm”.
Hợp
lại, Ma ha ca lô ni ca có nghĩa là “Tâm đại bi”.
Da
có nghĩa là đảnh lễ, như đã giảng ở trên. Toàn câu chú Ma ha ca lô ni ca da có
nghĩa là: “Cúi đầu đảnh lễ thần chú Đại bi tâm Đà – la – ni.”
7. Án
Án
nghĩa là “Bổn mẫu”, là “Chú mẫu” mẹ của tất cả mọi thần chú; cũng chính là
“Phật mẫu” mẹ của tất cả chư Phật.
Mẹ
của chư Phật có nghĩa là mẹ của nguồn tâm trong mọi loài chúng sinh, vì nguồn
tâm của chúng sinh vốn có sẵn mọi trí tuệ, thường xuất sinh các pháp lành, nên
gọi là “Bổn mẫu”.
Thông qua năng lực của thần chú mà mười pháp muôn được hiển bày.
1.
Pháp môn thứ nhất là “Tự”: là đầu nguồn, làm xuất sinh mọi chủng tự.
2.
Thứ hai là “Cú”. Trong kinh văn hoặc trong thần chú, “Cú” có nghĩa là một câu.
3.
Thứ ba là “Quán”: là quán chiếu, quán sát, vận dụng năng lực quán chiếu mà hành
trì.
4.
Thứ tư là “Trí”: là trí tuệ, dùng thanh gươm trí tuệ để cắt đứt tất cả phiền
não. Trí tuệ tức là pháp môn lưu xuất từ Bát Nhã Ba La Mật, đó là trí tuệ viên
mãn nhất. Còn “quán” là lưu xuất từ pháp môn Thiền định Ba La Mật.
5.
Thứ năm là “Hành”: nghĩa là tu tập, nương theo giáo pháp mà hành trì.
6.
Thứ sáu là “Nguyện”: nghĩa là cần phải phát nguyện, nương theo giáo pháp chân
chính mà tu hành.
7.
Thứ bảy là “Giáo”: nghĩa là y cứ theo giáo pháp chân chính mà tu hành. Nếu quí
vị không nương theo lời dạy của đức Phật mà tu hành, thì dù quí vị có tu hành
đến nhiều kiếp như số cát sông Hằng đi nữa thì vẫn không có kết quả gì cả. Cũng
như thể nấu cát mà mong thành cơm vậy.
Tuy
nhiên, để có thể tu tập xứng hợp với giáo lý chân chính của đức Phật thì trước
hết, quí vị phải thông hiểu về giáo pháp đó một cách tường tận.
8.
Thứ tám là “Lý”: nghĩa là đạo lý. Nếu quí vị có thể nhập được vào Phật pháp vi
diệu thì mới có được sự hiểu biết thông đạt về giáo pháp ấy. Nếu quí vị không
khế hội được diệu pháp này, thì quí vị chỉ là người tu tập trong sự mù quáng.
Dù quí vị có tu hành bao lâu đi nữa, cũng không đạt được sự thành tựu.
9.
Thứ chín là “Nhân”: Trong đời này quí vị phải gieo trồng những nhân thù thắng,
nhân tốt lành, nhân thanh tịnh, thì quá khứ quí vị sẽ gặt được quả thù thắng,
quả vi diệu và quả thanh tịnh.
10.
Thứ mười là “Quả”: Quả tương ứng sẽ đạt được sau khi đã gieo trồng nhân. Đó là
diệu quả, quả vị giác ngộ tối thượng.
Như
vậy từ chữ án, xuất sinh ra mười pháp môn vi diệu. Nên khi quí vị trì niệm thần
Chú Đại Bi, niệm đến chữ án thì tất cả các loài quỷ thần đều chắp tay vô cùng
cung kính, không dám tỏ ra khinh suất hoặc lơ là khi nghe hành giả trì tụng
thần Chú Đại Bi. Chữ án có một năng lực mạnh mẽ mà đến nỗi khiến cho các loài
ác quỷ, ác thần đều phải cung kính chấp trì. Công năng của thần chú thật to
lớn, thần lực thật không thể nghĩ bàn.
8. Tát bàn ra phạt duệ
Tát
bàn ra, Hán dịch là “tự tại”. Nghĩa là khi quí vị trì tụng thần chú này, thì Tứ
đại thiên vương đều đến làm Hộ pháp cho quí vị.
Phạt
duệ, Hán dịch là Thế tôn, cũng dịch là Thánh tôn.
Nguyên
câu chú này có nghĩa là Tự tại Thế tôn. Tự tại Thánh tôn, tức là Đức Phật tự
tại, ý là xưng tán Phật bảo.
9. Số đát na đát tả
Chữ
Số có hai âm là Shù và Shùo. Người ta thường niệm là “Shù”.
Số
Đát Na có nghĩa là “pháp” (Dharma). Pháp gì? Pháp này còn gọi là “Diệu thắng
pháp”. Cũng gọi là “Cao thượng thắng sinh”. Có nghĩa là không có gì vượt trội
hơn pháp này nữa. Thắng sinh có nghĩa là từ pháp này xuất sinh ra năng lực rất
thù thắng.
Còn một cách dịch khác của chữ Số là “Diệu sinh” hoặc “Thắng thân”. Diệu sinh
tức là vượt lên trên mọi sự vi diệu. Thắng thân nghĩa là thể của pháp ấy rất
thù thắng.
Còn
có một cách dịch khác nữa của chữ Số, là “Tối thượng thừa địa”. Nghĩa là cảnh
giới của hành giả sẽ trải qua sau khi chứng được Thập địa của hàng Bồ – tát.
Đát
Na là biểu tượng của Pháp bảo.
Đát
Tả là biểu tượng cho Tăng bảo.
Cho
nên toàn thể câu chú án tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tả là biểu tượng cho
Tam bảo. Có nghĩa là chúng ta phải nên ngưỡng nguyện đến sự gia hộ của Tam bảo.
Nên khi trì niệm đến câu thần chú này, có nghĩa là thỉnh cầu, ngưỡng nguyện đến
lực gia trì của Tam bảo.
Đát
tả còn có nghĩa là dùng giáo pháp để răn dạy các loài quỷ thần và dùng thần chú
để triệu tập quỷ thần đến mà dạy bảo chúng theo tinh thần chánh pháp.
10. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a lị da
Xưa
nay dường như quí vị luôn luôn Nam mô với một người nào khác chứ chưa bao giờ
Nam mô với chính mình. Người tu hành không cần phải đi Nam mô một khách thể nào
khác mà phải Nam mô ngay với chính mình.
Nam
mô có nghĩa là tôi, chính tôi quay trở về quy y với Tam bảo vô cùng vô tận khắp
mười phương.
Nam
mô còn có nghĩa là đem tự ngã của chính mình thể nhập trọn vẹn vào cả pháp giới
khắp cả mười phương. Tức là thể nhập vào Tam bảo vô cùng vô tận khắp cả mười
phương.
Tất
kiến lật có nghĩa là “hoàn toàn”. Tức là đem hết toàn tâm, toàn ý để quy y và
đảnh lễ Tam bảo.
Đỏa
y mông có nghĩa là “Ngã”. Đó chính là cái Ngã của Vô Ngã. Nên quí vị phải đem
toàn tâm toàn ý đảnh lễ bản ngã của chính mình, nhưng đảnh lễ cái ngã của vô
ngã. Như thế có nghĩa là không có mình hay sao? Ví như khi có người đánh quí
vị, quí vị không cảm thấy đau; nếu họ mắng chửi, quí vị không thấy khó chịu;
nếu họ nhục mạ, quí vị thấy như thể không có việc gì xảy ra. Quí vị không nhất
thiết cần phải nhẫn nhục, vì nếu dùng phép nhẫn nhục, là quí vị đã rơi vào “đệ
nhị nghĩa” rồi. Trong trường hợp này, quí vị không nhất thiết cần phải “nhẫn”,
vì vốn không có một bản ngã để dùng pháp nhân và không có một bản ngã để cho
pháp nhẫn ấy tác động tới. Có nghĩa là quí vị phải hành pháp nhẫn trong “vô
nhẫn”.
Đó
gọi là Ngã của vô ngã vậy.
A
lị da ở trên đã giảng qua, có nghĩa là “Thánh giả”. ở đây tức là phải hết lòng
đảnh lễ “cái ngã” ấy của Thánh giả. Vô lượng vô biên chư Bồ Tát, hết thảy Thiên
Long bát bộ đều phải đảnh lễ cái ngã trong vô ngã của bậc Thánh giả. Cái ngã ấy
bao trùm khắp vô lượng vô biên vũ trụ. Có rất nhiều bậc Thánh giả. Họ là ai?
Dưới đây, tôi sẽ giảng rõ.
11. Bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà
Bà
lô kiết đế dịch là “Quán”.
Thất
Phật ra dịch là “Tự tại” hoặc là thế âm. Âm thanh ở trong thế gian. Đây chính là Bồ – tát Quán Thế Âm.
Bà lô kiết đế thất Phật
ra là Quán Thế Âm, cũng chính là Quán Tự Tại. Hai danh hiệu này không nhất định
phải là Bồ – tát Quán Thế Âm mới được gọi là Quán Tự Tại hay Quán Thế Âm, mà
nếu khi quí vị đã đạt được tự tại rồi, thì quí vị chính là Bồ – tát Quán Tự
Tại. Khi quí vị có được năng lực cứu độ tất cả mọi loài chúng sinh, thì quí vị
chính là Bồ Tát Quán Thế Âm. Vì vậy, một khi quí vị đã thể nhập và vận dụng
trọn vẹn pháp này rồi thì chính quí vị là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu
tôi đạt được tự tại trong việc vận dụng pháp này thì chính tôi cũng là hóa thân
của Bồ – tát Quán Thế Âm.
Lăng đà bà dịch là “hải
đảo”, chỉ cho núi Phổ Đà (Potala), nơi Bồ – tát Quán Thế Âm thường thị hiện. Có
sách nói núi Phổ Đà ở nước Trung Hoa. Phổ Đà có nghĩa là “hoa trắng nhỏ” vì nơi
núi ấy có loài hoa trắng nở rất nhiều. Trên núi có một cung điện được kiến tạo
ở trong hang đá gọi là “Cung Từ Bi”, đó là nơi Bồ Tát Quan Thế Âm thường thị
hiện. Nơi đó được trang hoàng bằng bảy thứ châu báu: vàng, bạc, xà cừ, pha lê,
trân châu, ngọc bích, mã não. Nhưng không phải ai cũng đến được nơi cung điện
này.
Bà lô kiết đế thất Phật
ra là vị Bồ – tát có đầy tâm nguyện đại từ bi.
Lăng đà bà là cung điện
Từ Bi, nơi Bồ – tát Quan Thế Âm thường thị hiện.
12. Nam mô na ra cẩn trì
Trong câu chú này, Nam
mô vẫn có nghĩa là “quy y” và “quy mạng kính đầu”.
Na ra dịch nghĩa là
“Hiền” – bậc hiền giả, chỉ cho hàng Bồ Tát.
Cẩn trì dịch là “ái”, có
nghĩa là tình thương yêu. Trong ý niệm lòng Từ Bi bảo hộ, che chở cho mọi loài.
Thế nên lòng từ bi của bậc Hiền giả (Bồ – tát) thường đem đến sự bao bọc, che
chở cho chúng sinh. Trước đây tôi đã giảng về 10 loại tâm được đề cập trong
Kinh Đại Bi Tâm Đà – la – ni. Quí vị nên y cứ theo mười loại tâm này mà công
phu tu tập.
Na ra cẩn trì, Hán dịch
là “Hiền ái thiện hộ” có liên quan đến nghĩa thứ nhất, nghĩa là thứ 6 và nghĩa
thứ 10 trong 10 loại Tâm: Đó chính là Tâm Đại Bi, Tâm Cung Kính và Tâm Vô
Thượng bồ đề.
Câu chú này đại biểu cho
3 loại tâm như trên.
13. Hê rị ma ha bàn đa sa mế
Hê
rị có nghĩa là “Tâm”. Tâm này có ý nghĩa gì trong 10 nghĩa? Nghĩa thứ 4 là vô
nhiễm trước tâm. Tâm này giúp cho quí vị duy trì bản tâm thanh tịnh của mình.
Khi quí vị khởi tâm niệm tham, sân, si, mạn, nghi… thì tâm quí vị liền bị ô
nhiễm, không còn thanh tịnh nữa. Khi tâm quí vị không mong khởi những niệm ô
nhiễm ấy, thì tâm quí vị được thanh tịnh.
Ma
ha có nghĩa là “Đại”, cũng có nghĩa là “Trường”.
Bàn
đà sa mế nghĩa là sao? Nếu tôi không nói, chắc chắn quí vị chẳng thể nào biết
được. Nên quí vị muốn biết thì trước tiên tôi phải giảng. Lúc đó quí vị mới
hiểu được. Quí vị mới nói rằng: “Thì ra ý nghĩa của cân chú ấy là như thế”. Bàn
đà sa mế có nghĩa là “đại quang minh” nghĩa là hào quang rực rỡ chiếu khắp.
Bàn
đà sa mế lại còn được dịch là “Trường chiếu mệnh” nghĩa là ánh sáng thường
chiếu soi rộng khắp mọi nơi.
Nguyên
câu Hê rị ma ha bàn đa sa mế có nghĩa là “Tâm đại quang minh”. Nghĩa là ánh
sáng của tâm lực, quang minh của tâm lực thường chiếu rộng khắp, mãi mãi siêu
việt cả không gian vô cùng, thời gian vô tận; từ một vi trần cho đến vô cùng vô
tận thế giới đều có sự hiện hữu của ánh sáng ấy.
Quí
vị sẽ nói: “à, cái đại quang minh của tâm ấy, tôi đã nghe trong kinh giảng nói
rất nhiều rồi, và…”
Vâng,
nhưng trừ phi quí vị không nghe tôi giảng giải thần Chú Đại Bi thì quí vị không
thể nào biết được. Tôi sẽ giảng cho quí vị rõ. Thật là khó gặp được người nào
có thể giảng giải về Chú Đại Bi một cách rõ ràng tường tận. Thực vậy, hoàn toàn
thực tình mà nói, không mấy người thể nhập được rốt ráo ý nghĩa của thần chú
Đại Bi hoặc là chuyển được ý nghĩa của thần chú.
Sẽ
có người hỏi: “Thế làm sao Sư phụ biết được?”
Quí
vị khỏi cần phải hỏi tôi. Vì tôi đã không hỏi thì thôi, chứ quí vị đừng nên hỏi
tôi tại sao mà tôi biết được. Dĩ nhiên là tôi phải biết. Nếu tôi không biết,
tôi không thể nào giảng giải cho quí vị nghe được. Vì thế đừng nên hỏi tại sao
tôi lại biết.
Thay
vì quí vị hỏi tại sao tôi biết, thì quí vị hãy quay trở lại hỏi chính mình. Tại
sao mình lại không biết? Nếu quí vị biết được lý do tại sao mình không biết,
thì quí vị sẽ rõ được tại sao tôi biết. Trái lại, nếu quí vị không thể nào rõ
được tại sao quí vị không biết, thì quí vị cũng không thể nào rõ được lý do tại
sao tôi biết. Đó chính là điều làm nên sự kỳ diệu vậy.
Chẳng
hạn có người đã hỏi tôi rằng: “Tại sao Thầy làm người xuất gia?” Tôi đã không
trả lời câu hỏi đó mà hỏi lại rằng: “Tại sao anh lại không làm người xuất gia?
Nếu anh biết được lý do vì sao anh không xuất gia, thì anh sẽ hiểu được vì sao
tôi lại xuất gia”. Hỏi về đạo lý trong Phật pháp cũng như vậy. Thay vì quí vị
hỏi: “Làm sao mà tôi hiểu được đạo lý ấy?”, thì quí vị hãy tự hỏi lại chính
mình tại sao mình không hiểu được. Khi quí vị đã hiểu được tại sao mình không
biết thì quí vị sẽ hiểu được tại sao tôi lại biết được đạo lý ấy. Nay quí vị
đều là những người có nhiều thiện căn nên được dự pháp hội giảng chú Đại Bi.
Vậy quí vị phải nên hộ trì, bảo trọng cho thiện căn của mình. Tự mình phải khéo
vận dụng thiện căn ấy để tu học và liễu nhập Phật pháp, đừng để hoài phí một
phút giây nào cả.
Hiện
tại chúng ta đang sống vào thời mạt pháp. Chư Phật và Bồ – tát rất ít thị hiện
ở thế gian. Thời gian này, lòng người đang tiến dần đến chỗ hoang liêu, điêu
tàn, không dễ gì gặp được chánh pháp, cũng không dễ gì gặp được bậc chân thiện
tri thức.
Có
lần tôi bảo các đệ tử rằng: “ở Đài Loan có mở Đại giới đàn, năm huynh đệ các
con nên đến đó cầu thỉnh để được thọ giới pháp”. Các đệ tử gửi thư cho tôi biết
nhiều người ở Đài Loan nói với họ rằng: “Chẳng cần phải tu hành gì cũng có thể
thành tựu đạo nghiệp”. Các đệ tử của tôi trả lời rằng: “Chúng tôi cũng là những
con người như những con người khác, nếu không chịu tu hành thì làm sao có thể
tựu thành Phật đạo? Nếu không công phu hành trì thì làm sao liễu ngộ được chánh
pháp”. Nếu quí vị nói rằng không cần phải dụng công tu tập mà cũng thành Phật,
liễu đạo thì trước đây đức Phật chẳng cần vào núi Tuyết tu suốt sáu năm làm gì,
rồi sau đó đến ngồi dưới cội bồ đề tinh chuyên thiền định suốt 49 ngày, đến khi
sao Mai vừa mọc thì Ngài tựu thành chánh giác.
Đức
Phật còn phải tu hành mới thành tựu chánh giác. Còn mỗi chúng sinh như chúng
ta, nếu không tinh tấn tu hành thì làm sao có thể thành Phật được? Ai ai cũng
đều biết phải nhờ vào tu hành mới đạt được Phật quả, nhưng người chân thật tu
hành thì rất ít; và ai cũng đều biết nếu không chịu tu hành thì đều có thể bị
đọa vào địa ngục, nhưng người không chịu tu hành thì không sao kể xiết. Nghiệp
lực thế gian thật là không thể nghĩ bàn!
Quí
Phật tử! Sống trong thời mạt pháp mà có được điều kiện để nghiên cứu Phật pháp
thì nên dõng mãnh tinh tấn lên, không nên biếng nhác, hãy siêng năng công phu,
tinh cần đạo nghiệp mới mong có ngày thành tựu. Nếu không tinh tấn dõng mãnh mà
mong thành tựu đạo nghiệp thì không thể nào có được.Vì thế nên quí vị đừng ngại
gian nan, khổ nhọc, chướng duyên, tai ách… mọi thứ nên quên. Phải đánh trống
dõng mãnh lên để cho tinh thần phấn chấn, chỉ một hướng thẳng đến công phu mới
mong có ngày thành tựu quả vị Phật.
Tôi
đang nói về sự vi diệu của Phật pháp. Nếu quí vị không phát khởi niềm tin vào
trí tuệ siêu việt thì đạo lý này đối với quí vị cũng chẳng có lợi ích gì. Quí
vị có thể thâm nhập Phật pháp từ mọi sinh hoạt trong cuộc sống, từ mỗi bước
chân lặng lẽ của thời gian trong toàn thể pháp giới…
Trong
Phật pháp, điều gì quí vị cũng muốn diễn bày cho rõ ràng minh bạch thì thường
bị đánh mất những nghĩa lý sâu mầu vi diệu. Nay tôi dù có trình bày hết về diệu
lý của Phật pháp, nhưng nếu quí vị không tin sâu và không hành trì thì điều tôi
giảng không còn là diệu pháp nữa. Hơn nữa sự hành trì cần phải thường xuyên vào
mọi lúc, mọi nơi với tinh thần tinh tấn, không lui sụt, không biếng nhác. Đây
là điều khẩn thiết nhất. Nếu quí vị mọi thời, mọi lúc đều hướng về phía trước
mà nỗ lực công phu thì nhất định một ngày kia sẽ trực nhận ra “mặt mày xưa cũ”
của chính mình.
Bàn
đà sa mế dịch nghĩa là “đại quang minh” hay “trường chiếu minh”, tiêu biểu cho
nghĩa thứ năm trong mười nghĩa của tâm, đó là “quán tâm không”. Thông qua “quán
tâm không”, hành giả mới có được trí tuệ. Với trí tuệ, hành giả mới có được
quang minh. Có được quang minh, mới tỏa chiếu, soi sáng khắp mọi pháp giới
được. Tức là không còn tối tăm, mê muội, tức là không còn vô minh.
Sao
gọi là “vô minh”, vì tâm của quí vị không có được sự tỏa chiếu soi sáng khắp
mọi pháp giới, do vì quí vị không có được “đại quang minh”. Nếu quí vị có được
“đại quang minh” thì tâm quí vị liền có được sự tỏa chiếu soi sáng khắp mọi
pháp giới, có nghĩa là quí vị đã chuyển hóa được vô minh. Một khi vô minh đã bị
chuyển hóa sạch rồi, thì pháp tánh hiển hiện, đây chính là trí tuệ chân thật
của quí vị.
Thuở
xưa vào triều đại nhà Lương ở Trung Hoa có Thiền sư Chí Công là một bậc Đại đức
cao tăng. Không sử sách nào ghi lại song thân của Thiền sư là ai. Người ta
thường kể với nhau rằng: Một hôm nọ, có người phụ nữ nghe tiếng khóc của một
hài nhi trên cành cây cao. Cô ta trèo lên, thấy một hài nhi nằm trong tổ chim
ưng, bèn đem hài nhi về nuôi. Tuy thân thể hài nhi này hoàn toàn giống như
người nhưng những móng tay, móng chân giống như móng chim ưng. Khi trưởng
thành, xuất gia tu đạo, chứng được ngũ nhãn lục thông. Không biết cha mẹ Ngài
là ai, chỉ biết Ngài sinh trong tổ chim ưng nên mọi người đều phỏng đoán Ngài
được sinh ra từ trứng chim ưng vậy.
Thời
ấy, vua Lương Vũ Đế cũng như mọi người đều rất kính trọng và tin phục các Thiền
sư. Bất luận khi họ gặp những sự kịên gì trong đời sống, như sinh con, cha mẹ
qua đời, cưới hỏi… họ đều cung thỉnh các Thiền sư đến để tụng kinh chú nguyện.
Một
hôm, có một gia đình giàu có thỉnh Thiền sư đến tụng kinh chú nguyện nhân dịp
đám cưới người con gái của họ, đồng thời thỉnh Thiền sư ban cho vài lời chúc
mừng để mong rằng trong tương lai, việc hôn nhân đều được tốt lành như ý. Thiền
sư Chí Công đến nhà ấy, khi nhìn thấy cô dâu chú rể, Ngài liền nói:
“Thật
cổ quái, thật cổ quái!”
“Cháu
cưới bà nội”
“Thật
cổ quái” nghĩa là xưa nay chưa từng có một việc như vậy. Đây không phải là
chuyện xưa nay thường xảy ra. Thật kỳ lạ khi nhìn một đứa cháu cưới bà nội mình
làm vợ. Trên thế gian này, nếu không thông đạt những nhân duyên trong thời quá
khứ thì không thể nào lý giải được những mối quan hệ cha con, mẹ con, vợ chồng,
anh em, bè bạn… của nhau. Vì sao? Vì mọi người đều có thể là chồng hoặc vợ của
nhau trong đời trước. Một người có thể là cha hoặc là con của nhau trong nhiều
đời trước. Hoặc một người đều là mẹ và con gái của nhau trong đời trước. Ông
nội của quí vị trong đời trước lại kết hôn với cháu gái của quí vị trong đời
này. Hoặc là bà ngoại đời trước lại tái sinh làm con gái của quí vị. Tất cả mọi
việc đều có thể xảy ra, và đều chịu sự biến hóa khôn lường.
Trong
nhà này, chuyện “cháu cưới bà nội” là do trước kia, khi bà nội sắp mất, bà trăn
trối lại với toàn gia quyến: “Con trai ta vừa mới cưới vợ và đã có con nối
dòng. Con gái ta cũng đã có chồng, ta không còn bận tâm gì nữa”. Bà ta hoàn
toàn thỏa mãn và đã gạt mọi sự bận tâm qua một bên, ngoại trừ một điều: còn đứa
cháu nội, “tương lai rồi sẽ ra sao? Ai sẽ chăm sóc nó? Liệu người vợ của nó có
đảm đang hay không? Ta không thể nào không lo cho nó được!”
Bà
nắm tay đứa cháu nội và qua đời. Người ta bảo rằng nếu mọi việc đều toại
nguyện, lúc lâm chung có được tâm trạng thơ thới thì người chết sẽ nhắm mắt.
Còn nếu không, thì người chết không nhắm mắt được. Bà lão nói: “Bà rất lo lắng
cho cháu, bà chết không nhắm mắt được”. Nói xong, bà ra đi mà mắt vẫn mở. Thần
thức của bà vẫn còn lo âu. Khi đến gặp Diêm vương, bà ta than khóc, thưa rằng:
-
Tôi còn đứa cháu nội, không ai chăm sóc nó.
Diêm
vương đáp:
-
Được rồi, bà hay trở lại dương gian chăm sóc cho nó
Nói
xong, bà ta được đầu thai trở lại trong cõi trần. Khi đến tuổi thành hôn, bà ta
lấy người cháu nội trước đây của bà ta. Vì vậy nên nói “cháu lấy bà nội”. Quí
vị thấy có phải là cổ quái thật không?
Chỉ
vì một niệm ái luyến không buông xả được mà tạo nên biết bao duyên nghiệp buộc
ràng về sau. Bà ta chỉ vì bận tâm vì đứa cháu, mà về sau phải làm vợ cho nó.
Quí vị thử nghĩ lại xem, đây chẳng phải là chuyện cổ quái hay sao?
Quí
vị sẽ hỏi: “Làm sao mà Thiền sư Chí Công biết được điều ấy?” Thiền sư biết được
là vì Ngài đã đạt được ngũ nhãn và lục thông. Nên chỉ cần nhìn qua, là Ngài
liền biết được ngay kiếp trước của cô dâu vốn là bà nội của chú rể. Chỉ vì bà
nội đã khởi một niệm ái luyến sai lầm nên nay phải đầu thai trở lại làm người,
và làm vợ của đứa cháu nội mình. Một niệm lành còn như thế huống gì là niệm ác,
hoặc khởi trùng trùng niệm ác thì luân hồi trong tam đồ lục đạo biết bao giờ
dứt, biết bao giờ mới mong ra khỏi.
Thiền
sư lại nhìn trong số khách đến dự đám cưới, có một bé gái đang ăn thịt, Ngài
nói: “Con gái ăn thịt mẹ”.
Vì
miếng thịt mà em bé đang ăn là thịt dê, con dê này vốn là mẹ của em bé đầu thai
lại. Kiếp trước bà ta đã tạo nghiệp ác quá lớn nên đã phải đọa làm dê. Nay lại
bị chính con mình ăn thịt. Vòng oán nghiệp khởi dậy do vô minh của chúng sinh
không lời nào kể hết được. Chư Bồ Tát thương xót, phát tâm cứu độ chúng sinh là
do điểm này.
Khi
Thiền sư nhìn các nhạc công, thấy có vị đang đánh trống. Ngài nói:
“Con trai đang đánh bố”.
Vì
cái trống ấy bịt bằng da lừa. Con lừa này chính là cha của anh nhạc công đầu
thai vào. Con lừa này bị giết thịt, lấy da làm mặt trống. Thật là đau thương
cho kiếp luân hồi.
Ngài nhình quanh đám cưới, nói tiếp:
“Heo
dê ngồi ở trên”
Ngài
thấy có vô số loài heo, cừu, dê, gà được đầu thai trở lại làm người, nay họ đều
là bà con thân quyến của nhau nên cũng đến dự đám cưới này.
Nhìn trong bếp, Ngài
nói:
“Lục thân bị nấu trong
nồi”.
Chính là cha mẹ, anh em,
bà con, bè bạn do kiếp trước đã sát sinh heo, gà quá nhiều để ăn, nay lại bị
đọa làm heo, dê, gà trở lại; rồi bị giết thịt, bỏ vào nồi chiên nấu trở lại.
Ngài nói tiếp:
“Mọi người đều vui vẻ
chúc mừng nhau”
Mọi người đến dự đám
cưới đều rất vui vẻ mà chúc tụng nhau. Ngài tự than với mình rằng:
“Trông thấy cảnh ấy mà
lòng đau xót, ta biết đó chính là những oán nghiệp xoay vần vay trả, tạo nên
nỗi khổ chất chồng”.
Thiền sư Chí Công biết
rõ nhân quả khi nhìn vào gia đình này. Làm sao chúng ta có thể hiểu được hết
chuỗi nhân quả của từng gia đình với trùng trùng khác biệt nhau ra sao. Cho nên
những người tu đạo phải rất cẩn trọng trong khi tu nhân, vì khi nhân duyên chín
mùi sẽ gặt lấy quả tương ứng với nhân đã gieo. Tại sao người lại trở lại làm
người? Là để trả nợ, trả những món nợ nhân quả ở thế gian. Nếu quí vị không tìm
cách trả món nợ này thì nợ nần vẫn tiếp tục, như món nợ đã vay của ngân hàng
vậy.
Tôi nhớ một câu chuyện
này nữa. Có một gia đình nuôi một con lừa, dùng nó để kéo cối xay và chuyên
chở. Người chủ thấy lừa quá chậm chạp nên thường dùng roi đánh nó để thúc giục.
Con lừa làm việc miệt mài trong cực nhọc cho đến khi chết. Nó được đầu thai làm
người. Khi người chủ hay đánh đập lừa chết, lại đầu thai làm một người phụ nữ.
Khi cả hai người này đến tuổi thành hôn thì họ cưới nhau.
Quí vị có biết cặp vợ
chồng này sống với nhau như thế nào không? Suốt ngày người chồng đánh đập người
vợ. Ông đánh vợ bất kỳ lúc nào, bất luận đang cầm vật gì trên tay, cả lúc đang
ăn cơm cũng đánh vợ bằng đũa. Ông ta vừa đánh vừa chửi, cho dù người vợ chẳng
làm điều gì sai trái.
Một hôm Thiền sư Chí
Công đi qua nhà họ. Người phụ nữ bèn thưa với Ngài:
- Chồng con ngày nào
cũng đánh và chửi con qúa chừng mà con không biết tại sao. Bạch Ngài, xin Ngài
hãy dùng ngũ nhãn, lục thông bảo cho con biết mối tương quan nhân quả của chúng
con đời trước ra sao mà đời này chồng con đánh đập và chửi mắng con hoài vậy?
Thiền sư Chí Công đáp:
- Tôi sẽ nói rõ tương
quan nhân quả của hai người cho mà nghe. Trong đời trước, bà là một người đàn
ông. Ngày nào bà cũng đánh đập chửi mắng con lừa, thúc giục nó phải kéo cối xay
bột.
Ông chủ ấy thường đánh
con lừa bằng cái chổi tre. Nay ông chủ được đầu thai lại làm người phụ nữ, đó
chính là bà. Còn con lừa thì được đầu thai làm người chồng. Nay ông ta thường
hay đánh đập chửi mắng bà cũng như kiếp trước bà đã thường đánh chửi ông tức là
con lừa vậy. Nay bà đã hiểu rõ nhân quả tương quan với nhau rồi, tôi sẽ bày cho
một cách để chấm dứt vòng oán nghiệp này. Bà hãy cất giấu tất cả mọi dụng cụ
trong nhà ngoại trừ cái chổi đuôi ngựa (chổi dây). Khi người chồng thấy chẳng
còn vật gì dùng để đánh cô, anh ta sẽ cầm chổi dây này để đánh. Cứ để cho anh
ta đánh vài trăm roi, thì nợ cũ của bà mới được trả. Lúc đó, bà mới báo cho anh
ta biết nhân đời trước và quả đời sau báo ứng với nhau rất rõ ràng như tôi vừa
giải thích cho bà. Anh ta sẽ không còn đánh bà nữa.
Người phụ nữ làm đúng
như lời Thiền sư Chí Công chỉ dạy. Khi người chồng về đến nhà, ông ta liền kiếm
vật gì đó để đánh vợ. Chỉ còn thấy chiếc chổi đuôi ngựa, ông ta cầm lấy và
đánh. Thông thường như mọi khi, cô ta tìm cách chạy trốn. Nhưng lần này cô ta
kiên nhẫn ngồi đó chịu đòn cho đến khi ông chồng ngừng tay.
Thấy lạ, ông ta hỏi tại
sao bà không bỏ chạy. Cô ta kể lại việc được Thiền sư Chí Công giải thích cặn
kẽ tương quan nhân quả của hai người. Ông chồng nghe xong ngẫm nghĩ: “Như thế
thì từ nay ta không nên đánh chửi cô ta nữa. Nếu còn đánh, thì kiếp sau cô ta
sẽ đầu thai trở lại rồi tìm ta để đánh chửi”. Từ đó ông chồng không còn đánh
mắng người vợ nữa.
Thế nên quí vị phải biết
mọi người đều có sự quan hệ với nhau tương ứng với nhân đã tạo. Quí vị chẳng
thể nào biết được trong đời trước, ai đã từng là mẹ, là anh, là cha hay là chị
em của mình. Cái nhân đã tạo ở đời trước sẽ tạo thành quả đời này và nhất định
có liên quan đến bà con quyến thuộc của mình. Nếu quí vị hiểu được đạo lý nhân
quả, thì quí vị có thể chuyển hóa, biến cải được nhân bằng cách từ bỏ những
việc ác.
Còn một chuyện nữa về
Thiền sư Chí Công. Một ngày Ngài ăn hai con chim bồ câu. Ngài rất thích món ăn
này. Người đầu bếp nghĩ rằng món thịt bồ câu chắc là rất ngon nên ngày nọ anh
ta quyết định nếm thử. Anh ta làm việc này với hai ý nghĩ: một mặt là muốn thử
xem thức ăn hôm nay mình làm có ngon hay không? một mặt khác anh ta nghĩ rằng
Ngài Chí Công ngày nào cũng thích ăn bồ câu, nhất định đây là một món ăn rất
ngon, nên muốn thưởng thức một chút rồi mới đem đến cho Thiền sư dùng.
Khi người đầu bếp mang
thức ăn đến. Ngài nhìn đĩa thức ăn và hỏi:
- Hôm nay có ai nếm trộm
thức ăn này? Có phải chính anh không?
Người đầu bếp liền chối.
Thiền sư liền bảo:
- Anh còn chối. Tôi sẽ
cho anh thấy tận mắt ai là người nếm trộm. Hãy nhìn đây!
Ngài liền ngồi ăn. Ăn
hết hai con bồ câu rồi, Ngài liền há miệng rộng, trong đó, một con bồ câu liền
vẫy cánh bay ra còn con kia thì bị mất một cánh, không thể bay lên được.
Thiền sư mới bảo:
- Anh thấy đó, nếu anh
không nếm trộm thì tại sao con bồ câu này không thể bay được?
Chính là vì ông đã ăn
hết một cánh của nó.
Chuyện này làm cho anh
đầu bếp biết Thiền sư Chí Công không phải là người thường. Ngài chính là hóa
thân của Bồ – tát. Thế nên Ngài có năng lực biến những con bồ câu bị nấu thành
thức ăn rồi thành bồ câu sống. Không phải là Bồ – tát, không làm chuyện này
được.
Thiền sư Chí Công còn
thường ăn một loại cá gọi là Tuệ Ngư. Cũng đem cá ra nấu nướng rồi Ngài ăn từ
đuôi lên đầu. Nhưng sau đó Ngài lại há miệng ra làm cá sống lại. Vì vậy, những
việc này là rất thường đối với cảnh giới của hàng Bồ – tát. Thiền sư Chí Công
là một vị Bồ – tát, nhưng không bao giờ Ngài nói: “Các ngươi biết không, ta là
một vị Bồ – tát, ta đang giáo hóa chúng sanh, ta có đại nguyện này, hạnh nguyện
kia…” Các vị không bao giờ mong khởi ý niệm ấy. Cho nên chúng ta là hàng phàm
phu, dù có thấy Chư Phật hay Bồ – tát cũng không thể nào nhận biết được. Việc
làm của Bồ – tát cũng gần như hành xử của người thường, nhưng thực chất lại
không giống nhau. Là vì phàm phu khi hành động chỉ nghĩ đến lợi ích của chính
mình, không nghĩ đến sự giúp đỡ cho người khác. Còn Bồ – tát thì chỉ nghĩ đến
lợi ích của người khác mà không nghĩ đến mình. Khác nhau là ở điểm này. Bồ –
tát thì tự làm lợi ích cho mình còn lo làm lợi ích cho người khác. Tự giác ngộ
mình xong rồi giúp cho người khác giác ngộ. Tự độ hoàn toàn, lợi tha hoàn toàn.
ý nghĩa của chú Đại Bi mà tôi đang giảng cũng nằm trong đạo lý này vậy.
14. Tát bà a tha đậu du bằng
Câu
chú này chia làm ba phần. Khi trì tụng lên, câu chú có ba nghĩa khác nhau:
Tát bà có nghĩa là “tất cả”. Còn có nghĩa là “bình đẳng”. Nên Tát bà biểu tượng
cho ý thứ hai trong mười tâm, là “bình đẳng tâm”.
A
tha đậu dịch nghĩa là “phú lạc vô bần” giàu có, an lạc, không nghèo nàn về tâm
linh, đạo lý, Phật pháp.
Còn
dịch nghĩa là “như ý bất diệt”.
“Như
ý” nghĩa là ước nguyện điều gì cũng đều được thành tựu.
“Bất
diệt” nghĩa là sự thành tựu do nguyện ấy vĩnh viễn không tiêu mất.
Trong
mười loại tâm thì đây là “vô vi tâm” nghĩa là “phú lạc vô bần” và “như ý bất
diệt”.
Du
bằng dịch là “nghiêm tịnh vô ưu”, là thanh tịnh và trang nghiêm. Trang nghiêm
lại thêm thanh tịnh, cho nên không có sự lo phiền, ưu não. Câu chú này biểu
tượng cho tâm thứ chín “Vô kiến thủ tâm”. Kiến thủ là một trong năm món “ngũ
lợi sử”. Nghĩa là khi quí vị vừa trông thấy một vật gì, tâm liền khởi niệm muốn
chiếm đoạt, giữ lấy. Nên với tâm thứ chín – vô kiến thủ tâm là trạng thái không
có mảy may vọng động về sự chấp thủ đối với pháp và ngã; đối với chủ thể cũng
như khách thể; đối với ngoại cảnh cũng như dòng chuyển biến của thức tâm.
15. A thệ dựng
A
thệ dựng la tiếng Phạn, dịch nghĩa “vô tỷ pháp”. Không có pháp nào có thể so
sánh được với pháp này. Còn có nghĩa là “vô tỷ giáo” nghĩa là không có đạo giáo
nào có thể so sánh được. Câu chú này biểu tượng cho tâm thứ bảy, được gọi là
“ty hạ tâm”, là tâm rất cung kính và tùy thuận bất kỳ người nào mình gặp. Câu
chú này còn biểu tượng cho tâm thứ tám, gọi là “vô tạp loạn tâm”. Đây chính là
pháp thanh tịnh, không chút cấu nhiễm, chính là pháp bát nhã tâm của Quán Thế
Âm Bồ – tát.
Mười
loại tâm này là tướng của Đà – la – ni, chúng ta phải đem những đạo lý này hành
trì không xao nhãng và gián đoạn. Chúng ta tu tập theo tinh thần của kinh Đại
bi tâm Đà la ni thì chắc chắn sẽ thành tựu đạo nghiệp, đắc thành chánh quả.
16. Tát bà tátđá, na ma bà tát đa, na ma bà
già
Tát
bà tát đá là tiếng Phạn, dịch là “Đại thân tâm Bồ – tát”.
Na
ma bà tát đa. Hán dịch là “đồng trinh khai sĩ”, là tên gọi khác của pháp vương
tử, cũng là hàng Bồ – tát. “Đồng trinh” biểu tượng cho bản tánh. Còn “khai sĩ”
cũng là một danh hiệu khác của Bồ –tát, có nơi gọi là “đại sĩ”. Các vị Bồ – tát
lúc sắp thành tựu Phật quả, đều được gọi là pháp vương tử, tên gọi của hàng
Thập địa Bồ – tát.
Na
ma bà già. Hán dịch là “Vô đẳng đẳng”. Giống như ý nghĩa trong Bát nhã tâm kinh
“Cố tri Bát – nhã ba – la – mật – đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị
vô lượng chú, vô đẳng đẳng chú”.
Quí
vị có thể hỏi: “Cái gì không thể sánh bằng?” “Đó là bà già, Hán dịch là Thế
tôn”. Bà già là chư Phật thường trụ ở khắp trong mười phương.
17. Ma phạt đạt đậu
Ma
phạt đạt đậu dịch nghĩa là “Thiên thân, thế hữu”.
Câu
chú này có nghĩa là: “Kính lạy chư Bồ – tát, xin hãy duỗi lòng từ cứu giúp con.
Xin các Ngài hãy là thân quyến ở cõi trời của chúng con và là người bạn ở cõi
thế gian này của chúng con, để hộ trì cho mọi thiện pháp được thành tựu”.
Câu
chú này thỉnh nguyện sự gia trì của mười phương chư Phật và chư Bồ – tát.
18. Đát điệt tha – án
Trong
Bát nhã tâm kinh có nói: “Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú
viết…”
Đát
điệt tha Hán dịch là “tức thuyết chú viết”. Còn dịch là “Sở vị”. Bồ – tát Quán
Thế Âm dùng Tâm đại bi mà nói ra chơn ngôn này, nói bằng các chủng tự của Phạm
Thiên.
Đát
điệt tha còn có nghĩa là “thủ ấn” nghĩa là kết ấn bằng tay. Cũng gọi là “trí
nhân” nghĩa là khai mở con mắt trí tuệ của chúng sinh.
Đát
điệt tha lại còn có nghĩa là vô lượng pháp môn tu học và trí huệ nhãn vô lượng.
Đó là ý nghĩa của “Sở vị”.
Chữ
án như đã nói ở trước, khi quí vị trì niệm trì niệm đến chữ án thì quỷ thần đều
phải chắp tay cung kính, lắng nghe người niệm chỉ giáo. Chữ án còn có công năng
lưu xuất nhiều pháp môn sau đây.
19. A bà lô hê
A
bà lô hê chính là Bồ – tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là “quán sát”. Dùng trí tuệ để
quán sát mọi âm thanh oqr thế gian. Trong thế gian có nhiều loại âm thanh. Bồ –
tát Quán Thế Âm quán sát âm thanh, tiếng kêu than cầu xin cứu khổ của người ở
thế gian khi họ không thể vượt qua nổi những khổ nạn.
20. Lô ca đế
Lô
ca đế nghĩa là “Tự tại” hoặc là “Thế Tôn”. Hợp lại hai câu trên A bà lô hê lô
ca đế nghĩa là Bồ – tát dùng trí tuệ để quán sát âm thanh ở thế gian. Chính là
danh hiệu của Bồ – tát Quán Thế Âm.
21. Ca ra đế
Ca
ra đế dịch là “Bi giả” là người có lòng từ bi rộng lớn, thường cứu giúp chúng
sinh thoát khỏi khổ đau và thất vọng. Người mà có thể cứu giúp cho chúng sinh
vơi bớt khổ đau là một người “đại bi”. Ca ra đế còn có nghĩa là “tác giả”.
Người có thể làm cho đạo nghiệp sinh khởi, giúp cho mọi chúng sinh đều phát tâm
bồ – đề, phát nguyện làm những việc khó làm như hành Bồ – tát đạo để tiến tới
tựu thành Phật quả.
22. Di hê rị
Di
hê rị dịch nghĩa là “Thuận giáo”. Khi quí vị trì tụng đến câu chú này, nghĩa là
quí vị tự phát nguyện: “Con nhất quyết thực hành theo hạnh nguyện của Bồ – tát
Quán Thế Âm, sẽ giáo hoá cho tất cả chúng sanh. Con nguyện nương theo giáo pháp
Ngài đã dạy mà tu hành”.
Di
hê rị còn có nghĩa là “Y giáo phụng hành”. Nương theo lời dạy của Bồ – tát Quán
Thế Âm cũng như Quán Thế Âm của tự tâm để thực sự tu trì.
23. Ma ha bồ đề tát đoả
Ma
ha có nghĩa là “đại” là to lớn.
Bồ
– đề có nghĩa là “giác đạo”, là giác ngộ được đạo lý chân chính.
Tát
đoả. Hán dịch là “đại dũng mãnh giả”. Câu này có nghĩa chư vị Bồ – tát là người
phát tâm đại bồ – đề rất dũng mãnh và phát tâm tu hạnh Bồ đề. Phát bồ đề tâm
nghĩa là gieo trồng nhân giác ngộ, tu bồ – đề hạnh là vun trồng, tưới tẩm cho
hạnt giống bồ – đề đã gieo được nảy mầm, rồi mới mong gặt được quả giác ngộ,
tức là quả vị Vô thượng bồ – đề.
Đây
là ý nghĩa của câu chú Ma ha Bồ đề tát đoả. Câu chú này thuyết minh về công
hạnh trang nghiêm viên mãn của chư vị Bồ – tát là do định huệ song tu. Khi Định
đã lắng trong thì Huệ cũng được chiếu sáng. Khi Huệ đã viên mãn, thì Định viên
dung. Vì Bồ – tát Quán Thế Âm đã đạt được định lực viên mãn, nên xuất sinh trí
tuệ sáng suốt. Vì Bồ – tát đã đạt được trí tuệ viên mãn, nên Ngài mới đạt được
định lực lắng trong. Không có Định thì chẳng có Huệ và không có Huệ thì chẳng
đạt được Định. Nên gọi định huệ không hai là vậy.
Do
nhờ tu tập vô số công hạnh mà Bồ – tát được trang nghiêm thân tướng nên chư vị
không rời bỏ một pháp nào dù nhỏ bé hoặc vô cùng vi tế. Dù một việc thiện nhỏ
nhất, cho đến lớn nhất, chư vị Bồ – tát đều hoàn tất chu đáo. Nên kinh có dạy”
“Chớ
khinh việc thiện nhỏ mà không làm
Chớ
xem thường việc ác nhỏ mà không tránh”.
Các
vị Bồ – tát thường siêng năng làm các điều thiện và dứt khoát từ bỏ các việc
ác, chư vị phát bồ – đề tâm và đạt được quả vị giác ngộ Vô thượng bồ – đề. Chư
vị trang nghiêm pháp thân bằng vô số công hạnh. Chư vị phát đại bi tâm, thực
hành đại pháp vô duyên từ tuỳ theo tâm lượng của chúng sinh mà làm Phật sự.
Nhưng chính các vị Bồ – tát, tự bản tánh và bản thể của các Ngài không hề gợn
một mảy may tướng trạng của chúng sinh tâm. Các Ngài tự thấy mình và toàn thể
chúng sinh có đồng một thể tánh, không hề phân hai. Các Ngài không chỉ chịu khổ
cho riêng mình, mà ước nguyện giúp cho chúng sinh thoát khỏi mọi khổ luỵ. Dù
các Ngài chuyển hoá tất cả mọi sự thống khổ cho chúng sinh mà không hề dính mắc
chút nào vào việc mình có độ thoát cho chúng sinh. Các Ngài không bao giờ tự
cho rằng:
“Tôi
đã cứu độ cho anh rồi, nay anh phải cám ơn tôi. Tôi đã giúp anh thoát khỏi mọi
phiền não, anh phải tỏ ra biết ơn tôi”.
Chính
vì chư vị Bồ – tát không có tâm niệm như vậy, nên các Ngài mới có thể ứng hiện
ba mươi hai thân tướng, để kịp thời đáp ứng mọi tâm nguyện của mọi loài chúng
sinh. Chẳng hạn như cần ứng hiện thân Phật để độ thoát chúng sinh, thì chư vị
Bồ – tát liến ứng hiện thân Phật để giảng dạy giáo pháp cho chúng sinh khiến họ
được giải thoát. Nếu cần thiết hiện thân Bích Chi Phật, thì các Ngài liền ứng
hiện thân Bích Chi Phật để giáo hoá chúng sinh, giúp họ được giải thoát. Cũng
như vậy, các Ngài có thể ứng hiện thân A la hán, vua chúa… để giúp cho chúng
sinh được độ thoát. Chư vị Bồ – tát có khả năng hóa hiện thành ba mươi hai ứng
thân để cứu độ các loài chúng sinh. Các Ngài cũng có được mười bốn pháp vô uý
và bốn pháp bất khả tư nghì. Đó là bốn loại thần thông diệu dụng không thể nghĩ
bàn. Các Ngài đã chứng đạt được quả vị chân thật viên thông, đã thành tựu quả
vị Vô thượng bồ – đề. Đó là sự thành tựu quả vị của Bồ – tát Quán Thế Âm.
24. Tát bà tát bà
Tát
bà tát bà. Hán dịch là “nhất thiết lợi lạc”. Câu chú này bao hàm cả Bảo thủ
nhãn ấn pháp, nghĩa là mang đến mọi thứ lợi lạc cho mọi người.
Bằng
cách hành trì ấn pháp này, quí vị có khả năng đem sự an vui lợi lạc đến cho hết
thảy mọi loài chúng sinh. Thiên vương, Diêm vương, Quỷ vương đều chấp hành theo
người trì tụng ấn chú này. Quí vị bảo họ: “Hãy thả tội nhân này ra” thì Diêm
vương liền tức khắc thả ra liền. Vì sao vậy? Vì quí vị đã có được Bảo ấn này.
Bảo
ấn này cũng như ấn của vua vậy. Trên chiếu thư có ngọc ấn của vua thì khắp
thiên hạ, ai có trách nhiệm gì cũng phải tuân theo chiếu thư mà thi hành, không
ai dám chống lại. Với Bảo ấn, quí vị có thể làm lợi lạc, an vui cho mọi loài
chúng sinh. Quí vị có thể chỉ bảo cho họ biết sự lợi lạc để phát nguyện hành
trì. Và sẽ đạt được sự an lành. Vì vậy nên gọi là “Nhất thiết lợi lạc”.
Người
Trung Hoa đều biết có một vị Tiên, biết sử dụng một ấn chú gọi là “Phiên thiên
ấn”. Người con của Quảng Thành vương cũng có một phiên thiên ấn. Chính là ấn
này vậy. Đạo Lão gọi là “Phiên thiên ấn”. Bồ – tát Quán Thế Âm gọi là “Bảo ấn”.
Nếu
quí vị dụng công hành trì thì nhất định sẽ thành tựu Bảo ấn này. Khi thành tựu
rồi, nếu có người vừa mới chết hoặc sắp chết, quí vị chỉ cần trì ấn này vào một
tờ giấy, và viết vài dòng cho Diêm vương: “Hãy tha cho người này sống lại ngay.
Hãy tha cho anh ta trở về dương gian”. Diêm vương không dám từ chối. Diệu dụng
của Bảo ấn có thể giúp cho người chết sống lại. Nhưng để sử dụng được Bảo ấn
này, trước hết quí vị phải thành tựu công phu tu tập đã. Nếu công phu chưa
thành tựu thì chẳng có kết quả gì.
Thế
nào nghĩa là thành tựu công phu tu hành? Cũng giống như đi học. Trước hết, quí
vị phải vào tiểu học, rồi lên trung học, rồi thi vào đại học. Rồi cuối cùng có
thể được học vị Tiến sĩ.
Tu
tập để thành tựu Bảo ấn này cũng như đạt được học vị Tiến sĩ vậy. Nhưng tạm ví
dụ vậy thôi, chứ Bảo ấn này không có gì so sánh được.
Tát
bà tát bà nghĩa là “lợi lạc cho tất cả mọi loài chúng sinh”. Quí vị thấy sự
diệu dụng vô biên đến như thế. Nên gọi ấn này là Bảo ấn. Nếu quí vị muốn sử
dụng được Bảo ấn này thì phải công phu tu trì qua cả bốn mươi hai thủ nhãn. Tát
bà tát bà chỉ là một trong bốn mươi hai ấn pháp ấy mà thôi.
Có
người nghe tôi giảng như vậy sẽ khỏi nghĩ rằng: “Ta sẽ tu tập Bảo ấn này ngay
để bất kỳ lúc nào có người sắp chết, ta sẽ sử dụng ấn này, ra lệnh cho Diêm
vương không được bắt người ấy chết”. Quí vị cứ thực hành, quí vị có thể giúp
người kia khỏi chết, như ng đến khi quí vị phải chết, thì chẳng có người nào
giúp quí vị thoát khỏi chết bằng Bảo ấn này cả.
Tôi
đã có dịp sử dụng ấn này hai lần. Một lần ở Mãn Châu và một lần ở Hương Cảng.
Lần ở Mãn Châu là trường hợp cứu một người sắp chết. Người này chắc chắn sẽ
chết nếu tôi không sử dụng Bảo ấn này. Vào một chiều trời mưa ngày 18 tháng 4
âm lịch. Một người tên là Cao Đức Phúc đến chùa Tam Duyên, nơi tôi đang ngụ.
Anh ta quỳ trước tượng Phật, cầm một cây dao bọc trong giấy báo, chuẩn bị sẵn
sàng chặt tay để cúng dường chư Phật. Quí vị nghĩ sao? Anh ta khôn ngoan hay
không? Dĩ nhiên là quá ngu dại. Tuy nhiên sự ngu dại của anh ta lại xuất phát
từ lòng hiếu đạo. Quí vị biết không. Mẹ anh ta bị bệnh trầm trọng gần chết. Do
vì thường ngày mẹ anh ta nghiện thuốc phiện nặng. Nhưng bệnh bà quá nặng đến
mức hút thuốc phiện cũng không được nữa. Bà ta nằm co quắp, chẳng ăn uống gì.
Đầu lưỡi đã trở sang màu đen, môi miệng nứt nẻ. Bác sĩ Đông, Tây y đều bó tay,
không hy vọng gì còn chữa trị được. Nhưng người con trai của bà nguyện: “Lạy Bồ
– tát rất linh cảm, con nguyện đến chùa Tam Duyên chặt tay cúng dường chư Phật.
Với lòng chí thành, con nguyện cho mẹ con được lành bệnh”.
Ngay
khi chàng trai sắp chặt tay, có người nắm tay anh ta lôi lại đằng sau rồi nói:
“Anh làm gì thế, anh không được vào đây mà tự sát”.
Anh
ta trả lời:
-
“Tôi chỉ chặt tay cúng dường chư Phật, cầu nguyện cho mẹ tôi được lành bệnh.
Ông đừng cản tôi”.
Chàng
trai chống lại, nhưng người kia không để cho anh ta chặt tay nên liền cho người
báo cho Hoà thượng trụ trì biết. Hoà thượng cũng không biết phải làm sao, Ngài
liền phái cư sĩ Lý Cảnh Hoa, người hộ pháp đắc lực của chùa đi tìm tôi.
Dù
lúc ấy, tôi vẫn còn là chú Sa – di. Tôi được giao nhiệm vụ như là tri sự ở chùa
Tam Duyên, chỉ dưới Hoà thượng trụ trì. Tôi chỉ là một chú tiểu, nhưng không
giống như những chú tiểu cùng ăn chung nồi, cùng ngủ chung chiếu. Tôi thức dậy
trước mọi người và ngủ sau tất cả mọi người. Tôi làm những việc mà không ai
muốn làm và chỉ ăn một ngày một bữa trưa, không ăn phi thời. Tu tập chính là
sửa đổi những sai lầm vi tế. Nếu khi chưa chuyển hoá được những lỗi lầm nhỏ
nhặt ấy, có nghĩa là mình còn thiếu năng lực trong công phu.
Hoà
thượng trụ trì giao việc đó cho tôi. Tôi liền đến bạch Hoà thượng:
-
“Phật tử đến cầu Hoà thượng cứu giúp. Nay Hoà thượng lại giao cho con. Hoà thượng làm cho con thật khó
xử”.
Hoà thượng trụ trì bảo:
- “Con hãy đem lòng từ
bi mà cứu giúp họ”.
Hoà thượng dạy những lời
rất chí lý. Tôi vốn chẳng ngại khó nhọc, nên khi nghe những lời đó, tôi rất
phấn khích, tôi thưa:
- Bạch Hoà thượng, con
sẽ đi.
Tôi bảo chàng trai:
- Anh hãy về nhà trước,
tôi sẽ theo sau.
Anh ta nói:
- Nhưng thầy chưa biết
nhà con?
Tôi đáp:
- Đừng bận tâm về tôi.
Hãy cứ về nhà trước.
Lúc ấy là vào khoảng năm
giờ chiều, mặt trời vừa xế bóng. Anh ta đi theo đường lộ chính, còn tôi đi theo
đường mòn. Nhà anh ta cách chùa chừng sáu dặm. Anh ta quá đỗi sửng sốt khi về
đến nơi, anh ta đã thấy tôi ngồi đợi anh trong nhà.
- Bạch thầy, sao mà thầy
biết nhà con mà đến sớm thế?
Tôi nói:
- Có lẽ anh vừa đi vừa
chơi, hoặc anh ham xem bóng đá hay truyền hình gì đó.
Cậu ta đáp:
- Thưa không, con cố hết
sức đi thật nhanh để về nhà.
Tôi nói:
- Có lẽ xe đạp của anh
đi không được nhanh như xe tôi, nên tôi đến trước.
Ngay khi vào thăm bà mẹ,
tôi thấy không thể nào cứu sống bà ta được. Nhưng tôi vẫn quyết định cố gắng
hết sức để cứu bà. Tôi dùng Bảo ấn viết mấy dòng:
“Chàng trai này có tâm
nguyện rất trí thành, nguyện chặt tay cúng dường chư Phật để cứu mẹ sống. Tôi
đã ngăn cản anh ta chặt tay. Bằng mọi cách, xin cho mẹ anh ta được sống”.
Tôi gửi Bảo ấn đi, sáng
hôm sau bà ta vốn đã nằm bất động suốt bảy, tám ngày nay, chợt ngồi dậy gọi con
trai bằng tên tục.
- Phúc ơi… Phúc ờ… mẹ
đói quá, cho mẹ tí cháo…
Chàng trai suốt bảy, tám
ngày nay không nghe mẹ gọi. Nay cực kỳ vui sướng. Anh ta chạy đến bên giường
nói với mẹ:
- Mẹ ơi, mẹ đã nằm liệt
giường suốt tám ngày nay. Nay mẹ khoẻ rồi chứ?
Bà ta trả lời:
- Chẳng biết bao lâu
nữa. Mẹ bị rượt chạy trong một cái hang tối đen thăm thẳm không có ánh sáng mặt
trời, mặt trăng ánh sao hay đèn đuốc gì cả. Mẹ chạy và cứ chạy hết ngày này qua
ngày khác để tìm đường về nhà mình. Mẹ có kêu, nhưng chẳng ai nghe. Cho đến đêm
hôm qua, mẹ mới gặp một vị sư khổ hạnh mang y cà sa đã mòn cũ, vị này đã dẫn mẹ
về nhà… Con cho mẹ ăn tí cháo loãng để cho đỡ đói.
Người con nghe mẹ nói
đến vị sư, liền hỏi:
- Nhà sư mẹ gặp dung mạo
như thế nào?
Bà đáp:
- Ngài rất cao. Nếu mẹ
được gặp lại, mẹ sẽ nhận ra ngay.
Lúc đó tôi đang nghỉ
trên giường. Anh ta liền đến bên tôi, chỉ cho mẹ và hỏi:
- Có phải vị sư này
không?
Bà nhìn tôi chăm chú rồi
kêu lên:
- Đúng rồi, chính thầy
là người đã đưa mẹ về nhà.
Lúc đó, toàn gia quyến
chừng mười người, gồm cả già trẻ, đều quỳ xuống trước mặt tôi thưa:
- Bạch Thầy, Thầy đã cứu
mẹ con sống lại. Nay toàn gia đình chúng con cầu xin được quy y thọ giới với
Thầy. Bất luận nhà chùa có việc gì, con nguyện đem hết sức mình xin làm công
quả, và tuân theo lời chỉ dạy của Thầy để tu hành.
Về sau, dân cả làng này
đều đến chùa xin quy y và cầu xin tôi chữa bệnh cho họ. Tôi bảo:
- Tôi chỉ có phép chữa
bệnh bằng cách đánh đòn. Quí vị có chịu thì tôi chữa.
Họ đồng ý và tôi phải
chữa. Có nghĩa là bắt người bệnh nằm xuống, đánh một người ba hèo bằng cái chổi
tre. Đánh xong, tôi hỏi:
- Đã hết bệnh chưa?
Thật là ngạc nhiên. Họ
lành bệnh thật!
Đó là một chuyện phiền
phức xảy ra ở Mãn Châu. Lần thứ 2 tôi dùng Bảo ấn này là ở Hương Cảng. Khi bố
của cô Madalena Lew 79 tuổi bị bệnh. Các vị bói toán đều bảo rằng ông ta chắc
chắn sẽ qua đời trong năm nay. Ông ta đến gặp tôi xin quy y Tam Bảo để cầu
nguyện gia hộ cho ông được sống thêm ít năm nữa.
Ông thưa:
- Bạch Thầy. Xin Thầy
giúp cho con được sống thêm một thời gian nữa.
Tôi bảo:
- Thế là ông chưa muốn
chết. Tôi sẽ giúp cho ông sống thêm 12 năm nữa? Được chưa?
Ông rất mừng vội đáp:
- Thưa vâng, được như
thế thật là đại phúc.
Rồi tôi chú nguyện cho
ông ta và ông ta được sống thêm 12 năm nữa.
Tuy nhiên, quí vị không nên dùng ấn pháp này để giúp cho người ta khỏi chết
hoặc là cứu họ sống lại khi họ đã chết rồi. Nếu quí vị làm như vậy, quí vị trở
nên đối đầu với Diêm vương. Lúc ấy Diêm vương sẽ nói:
- Được rồi. Thầy đã giúp
cho người ta khỏi chết, nay Thầy phải thế mạng.
Đến khi quí vị gặp cơn
vô thường; chẳng có ai dùng Bảo ấn này để giúp được cả. Nếu quí vị nghĩ rằng
mình có thể sử dụng Bảo ấn để cứu mình khỏi chết là quí vị lầm. Diệu dụng của
ấn pháp cũng giống như lưỡi dao, tự nó không thể cắt đứt được chuôi dao của
chính nó. Nên khi quí vị gặp bước đường cùng, thì cũng giống như chuyện vị Bồ –
tát bằng đất nung:
Bồ Tát bằng đất nung đi
qua biển.
Khó lòng giữ thân được
vẹn toàn.
Vậy nên nếu quí vị dù đã
thông thạo trong khi sử dụng ấn pháp này, cũng phải công phu hành trì thêm. Vì
lý do này mà tôi ít để ý đến việc riêng của người khác nữa.
25. Ma ra ma ra
Hai câu chú này, Hán
dịch là “tăng trưởng”. Cũng có nghĩa là “như ý” hoặc “tuỳ ý”. Đó là công năng
của Như ý Châu thủ nhãn, làm tăng trưởng phước huệ, làm cho mọi việc đều được
tốt lành như ý.
“Như ý” nghĩa là tuỳ
thuận với tâm nguyện mà được đáp ứng.
Quí vị có thấy lợi ích
vô biên của ấn pháp này không? Vì vậy nên công năng ấn pháp này là thứ nhất
trong bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp. Diệu dụng của Như ý Châu thủ nhãn vượt
ngoài sự diễn tả bằng ngôn ngữ.
Nếu quí vị muốn giàu có,
hãy hành trì theo thủ nhãn ấn pháp này. Một khi đã thành tựu rồi, thì quí vị sẽ
có được mọi thứ và không còn bận tâm vì nghèo khổ nữa. Quí vị luôn luôn giàu có
và được vô lượng phước lạc.
26. Ma hê ma hê rị đà dựng
Ma
hê ma hê. Hán dịch là “Vô ngôn cực ý”
“Vô
ngôn” nghĩa là không cần phải nói nữa.
“Cực
ý” có nghĩa là ý niệm kia đã đạt đến chỗ tối thượng, đã đạt chỗ vi diệu rồi.
Ma
hê ma hê cũng còn có thể dịch là “tự tại”. Tự tại như Đại Phạm Thiên Vương:
không buồn, không phiền, không lo, không giận. Suốt ngày đều được tự chủ và an
vui.
Đây là “ngũ sắc vân thủ nhãn”. Khi biết ấn này, sẽ làm lưu xuất ra mây lành ngũ
sắc, và hành giả sẽ đạt được năng lực tự tại phi thường. Diệu dụng và năng lực
tự tại của ấn pháp này thực là vô lượng vô biên.
Rị
đà dựng là “Thanh Liên Hoa thủ nhãn”. Có nghĩa là “Liên hoa tâm”. Khi quí vị
hành trì ấn pháp này thành tựu, sẽ được mùi hương hoa sen xanh toả ra, và được
mười phương chư Phật tán thán. Sự vi diệu thật khó có thể nghĩ bàn. Đúng là:
Pháp
Phật cao siêu thật nhiệm mầu
Trăm
ngàn ức kiếp khó tìm cầu!
27. Cu lô cu lô yết mông
Cu
lô cu lô. Hán dịch là “tác pháp”, hoặc dịch là “tác dụng trang nghiêm”, lại còn
có nghĩa là “xuy loa giải giới”. Đây ta chính là Bảo loa thủ nhãn ấn pháp.
Nay
chúng ta đang sống trong thời mạt pháp. Nhiều người nghĩ rằng chỉ cần trì tụng
chú Đại Bi là khế hợp với chân tinh thần Phật pháp rồi, nhưng thực ra không
phải thế. Chú Đại Bi là gọi thay cho bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và diệu dụng
của chú Đại Bi là diệu dụng của bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, đó chính là toàn
thể của chú Đại Bi. Nếu quí vị chỉ biết trì niệm chú Đại Bi mà không hành trì
bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp thì như người có tay mà không có chân, nên không
thể đi được. Mặt khác, nếu quí vị chỉ biết hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn
pháp mà không trì niệm chú Đại Bi thì cũng như người có chân mà không có tay,
không làm gì được cả. Cũng vô dụng mà thôi. Vậy nên để liễu triệt chú Đại Bi,
trước hết quí vị phải thông đạt bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp rồi phải trì tụng
chú Đại Bi nữa, mới được gọi là người thành tựu rốt ráo diệu pháp này của chư
Phật.
Không
phải chỉ vừa mới nghe pháp sư giảng về chú Đại Bi xong rồi liền nói:
- “à! Tôi đã hiểu được câu chú đó nghĩa là gì rồi”.
Hiểu
như thế cũng chẳng ích lợi gì cả. Cũng giống như người có thân thể nhưng chẳng
có tay chân gì cả. Quí vị đã có đủ cả thân thể, tay chân, phải giúp cho chúng
hoạt động phối hợp với nhau mới làm nên phước đức được.
Bảo
loa thủ nhãn ấn pháp là dùng để tác pháp khi quý vị kiến lập đạo tràng, quý vị
nên dùng Bảo loa ấn pháp này. Khi quý vị tác pháp này thì những âm thanh vang
lên tận cõi trời, thấu tận địa ngục. Khắp cõi nhân gian, và khắp mọi nơi đều có
ảnh hưởng. Bất kỳ mọi nơi nào nghe đến âm thanh này đều ở trong sự điều khiển
của người trì ấn pháp. Các loài yêu ma quỷ quái đều phải tuân phục, không thể
xâm hại. Đây còn gọi là sự kiết giới.
ấn pháp này còn gọi là “tác dụng trang nghiêm”. Có nghĩa là dùng cơn lốc quang
minh tâm lực của Bảo loa ấn pháp sẽ tạo nên một pháp âm vi diệu, khiến cho đất
bằng hoá thành vàng ròng, đều được trang nghiêm bằng bẩy thứ châu báu. Thật là vi
diệu khó thể nghĩ bàn. Quý vị Phật tử đang tu học Phật Pháp nên biết rằng trong
300 năm trở lại đây, không có ai hành trì được bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và
cũng chẳng có ai thông hiểu được các ấn pháp này.
Nay
chúng ta đã hiểu được chú Đại Bi, chúng ta nên chí thành và phát tâm kiên cố
hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp này. Rồi sẽ có được diệu dụng.
Yết
mông là tiếng Phạn, vốn là ngôn ngữ của Đại phạm thiên, chứ không phải là ngôn
ngữ của ấn Độ, nhưng văn pháp ngôn ngữ ấn Độ cũng căn cứ trên ngôn ngữ của Đại
phạm thiên.
Yết
mông là tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự”, cũng dịch là “công đức”. Có nghĩa là
làm tất cả mọi việc có công đức lợi lạc cho mọi người. Làm việc lợi lạc công
đức cho mọi người cũng chính là tạo công đức cho chính mình. Bồ – tát thực hành
hạnh tư lợi và lợi tha, tự giác ngộ giải thoát cho mình và giác ngộ giải thoát
cho người khác.
Câu
chú này nói đến sự thực hành lục độ và vạn hạnh. Đó chính là Bạch Liên Hoa thủ
nhãn ấn pháp. Hãy tưởng tượng quí vị đang cầm trong tay đoá hoa sen trắng. Tay
quí vị cầm cành hoa sen và miệng trì niệm chú Yết mông yết mông…
Không
những quí vị trì tụng chú mà còn hành trì mật ấn. Khi trì tụng cả hai pháp này,
quí vị mới có thể tạo nên mọi công đức. Khi quí vị trì tụng chú Đại Bi, đồng
thời cũng thông hiểu được cách hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp thì quí
vị mới có thể thành tựu lục độ vạn hạnh. Diệu dụng bất khả tư nghì, không bao
giờ nói hết được. Nếu có thể nói được chỗ nhiệm mầu ấy thì nó phải có ngần mé.
Mà những điều mầu nhiệm thì không có hạn lượng, không có chỗ khởi đầu và kết
thúc. Với sự trì niệm Yết mông, quí vị có thể thành tựu được vô lượng công đức.
Trong nhiều đời sau, quí vị mãi mãi được trang nghiêm bởi hương thơm của hoa
sen trắng và luôn luôn được hộ trì.
Sự
vi diệu, mầu nhiệm của chú Đại Bi dù có tán thán cũng không bao giờ hết, không
bao giờ cùng tận.
28. Độ lô độ lô, phạt già ra đế
Độ
lô độ lô. Hán dịch là “độ hải” nghĩa là vượt qua biển khổ sinh tử. Còn dịch
nghĩa “minh tịnh”.
Khi
đã vượt qua biển khổ sinh tử rồi, quí vị sẽ đạt được trí tuệ sáng suốt, chứng
nhập bản thể thanh tịnh, đến được bờ bên kia, tức thể nhập Niết Bàn. Từ trong
bản thể sáng suốt thanh tịnh ấy, trí tuệ sẽ được lưu xuất, quí vị sẽ hiểu rõ
được tất cả mọi pháp môn, chắc chắn quí vị sẽ chấm dứt được vòng sinh tử. Với
đại định, tâm quí vị hoàn toàn thanh tịnh. Đó là định lực, khi quí vị có được
định lực chân chánh thì có thể vãng sanh ở cõi tịnh độ tươi sáng, đó là thế
giới Cực Lạc.
Đây
là Nguyệt Tịnh Ma Ni thủ nhãn ấn pháp, là diệu pháp Đà – la – ni do Bồ – tát
Nguyệt Quang tuyên thuyết. ấn pháp Nguyệt Tịnh thủ nhãn này có công năng đưa
mọi người đến chỗ sáng suốt và an lạc.
Phạt
già ra đế là Bàng Bi thủ nhãn ấn pháp.
Phạt
Già Ra đế. Hán dịch là “Quảng bác trang nghiêm”, còn có nghĩa là “Quảng đại”.
Cũng dịch là “độ sinh tử”. Nếu quí vị tu tập hành trì Bàng Bi thủ nhãn ấn pháp
này thì quí vị có thể vượt qua biển khổ sinh tử, có nghĩa là giải thoát. Nếu
quí vị không công phu hành trì ấn pháp bàng bi thủ nhãn này, thì không thể nào
vượt thoát bể khổ sinh tử, đến bờ giải thoát, niết bàn được.
29. Ma ha phạt già da đế
Câu
chú này có nghĩa là “Tối thắng, đạipháp đạo”.
Pháp
là quảng đại, tối thắng và đạo cũng quảng đại, tối thắng. Pháp đạo là chân lý
vượt lên trên tất cả mọi sự thù thắng nhất trên đời.
Đây
là Bảo Kích thủ nhãn ấn pháp. ấn pháp này có công năng hàng phục các loại thiên
ma và ngoại đạo. Công năng của ấn pháp này rất lớn. Chẳng hạn ấn pháp này có
thể bảo vệ quốc gia chống nạn ngoại xâm. Nếu quốc gia của quí vị sắp bị xâm
lăng, và nếu quí vị hành trì ấn pháp này thì vô hình trung, quân giặc bắt buộc
phải rút lui.
30. Đà la đà la
Tiếng
Phạn rất khó hiểu. Ngay cả những ai đã học tiếng Phạn thông thạo rồi cũng khó
có thể hiểu được mật chú và giảng giải rõ ràng được. Tôi chỉ nhờ hiểu một chút
ít thần chú Đại Bi mà thôi.
Đà
là đà la là Tịnh bình thủ nhãn ấn pháp. Trong tịnh bình này chứa nước cam lồ.
Bồ – tát Quán Thế Âm dùng cành dương liễu rưới nước cam lồ lên khắp chúng sanh
trong sáu đường. Bất luận ai gặp nạn khổ hay bệnh tật gì, nếu được Bồ – tát
Quán Thế Âm rưới nước cam lồ thì đều giải thoát khỏi tai nạn ấy.
Đà
la đà la. Hán dịch là “Năng tổng trì ấn”, là tâm lượng của toàn chúng sinh.
Chính là Bồ – tát Quán Thế Âm dùng Cam lồ thủ nhãn ấn pháp, Tịnh bình thủ nhãn
ấn pháp và Dương chi thủ nhãn ấn pháp – tất cả ba ấn pháp ấy để rưới nước cam
lồ lên toàn thể chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi tam đồ lục đạo.
31. Địa lỵ ni
Địa
lỵ ni. Hán dịch rất nhiều nghĩa. Thứ nhất là “thậm dõng” nghĩa là dũng khí mãnh
liệt. Cũng có nghĩa là “tịnh diệt hoặc khiết tịnh”.
“Thậm
dũng” là dạng tướng động.
“Tịnh
diệt” là dạng tĩnh.
Còn
dịch là “Gia trì và thôi khai”.
-
“Gia trì” có nghĩa là làm cho các ác pháp đều được chuyển hoá, hướng về phụng
hành theo thiện pháp.
-
“Thôi khai” là làm cho các nghiệp chướng, tai nạn của chúng sinh đều được tiêu
trừ.
Đây
là Cu thi thiết câu thủ nhãn ấn pháp. Gọi tắt là thiết câu ấn pháp, có công
năng làm cho tất cả quỷ thần, thiên long bát bộ đến hộ trì cho hành giả. Nếu
quí vị công phu hành trì thành tựu thủ nhãn này, thì có thể bảo thiên long làm
mưa và sẽ có mưa ngay, nếu hành giả cần có gió, họ sẽ làm ra gió ngay, khi hành
giả muốn mưa gió đừng hoành hành thế gian nữa, mưa gió sẽ hết ngay.
Quí
vị sẽ nói: “Tôi không tin như vậy”. Đúng vật! Đó chính là lý do mà tôi muốn nói
cho quí vị nghe, tất cả chỉ là vì quí vị không tin. Không có niềm tin và không
ở trong cảnh giới này thì khó lòng hiểu nổi.
Nếu
muốn, quí vị có thể hỏi những người vừa mới từ Đài Loan trở về ngày hôm nay về
cơn mưa ở Đài Loan. Khi tôi nói chuyện với Phật tử ở Đài Loan qua điện thoại,
họ cho biết trời đang mưa và rất lạnh. Họ mong muốn thời tiết được ấm áp và bớt
mưa. Tôi bảo họ hãy yên tâm, chuyện đó sẽ xảy ra. Họ lại thắc mắc:
-
Sư phụ có thể khiến trời hết mưa hay sao?
Tôi
chỉ nói vắn tắt:
-
Quí Phật tử hãy đợi xem trời có tạnh mưa hay không?
Ngay
khi tôi vừa cúp điện thoại, thì trời bắt đầu tạnh ráo. Họ đều cho đó là chuyện
lạ kỳ. (Những ai đã đến Đài Loan năm 1969 để dự
giới đàn, đều có thể chứng kiến chuyện này. Trời mưa dầm ở Keelong Đài Loan ít
nhất cũng là 48 ngày, nhiều nhất là 53 ngày. Chúng tôi đang ở Đài Loan để thọ
giới. Cả tự viện không còn chất đốt, một khi củi đã bị ướt rồi, thì không còn
cách nào để sưởi cho khô lại được. Tuy nhiên,vào sáng ngày 18/4 như đã nói ở
trên, đúng ngay lúc chúng tôi vừa chấm dứt cuộc điện đàm thì mặt trời vừa hiện
ra, bầu trời trở nên sáng trong và khí trời trở nên ấm áp liền. Chú thích của
người dịch từ Hoa văn sang Anh Ngữ).
Thực
ra, đó chẳng phải là gì khác, chính là năng lực của thiết câu thủ nhãn ấn pháp.
Quí vị chỉ cần kiết ấn và gọi: “Thiên long, đừng làm mưa nữa!” thì trời sẽ dứt
mưa ngay. Loài rồng sẽ chấp hành theo lệnh của quí vị và chỉ khi quí vị đã
thành tựu ấn pháp này và đã thông thạo thiết câu thủ nhãn. Rồng phun mưa sẽ
tuân theo ấn pháp này và đình chỉ việc làm mưa liền.
Quí
vị sẽ nghĩ là tôi nói đùa nhưng đúng là như vậy. Bây giờ, tôi đang giảng kinh
cho quí vị nghe và tôi đang nói với quí vị bằng chân ngữ. Đây không phải là
chuyện nói đùa.
32. Thất phật ra da
Mỗi
khi quí vị niệm Thất Phật ra da thì toàn pháp giới này có một luồng chớp sáng
phát ta. Cứ mỗi niệm Thất Phật ra da là có một luồng quang minh phóng ra bao
trùm cả vũ trụ.
Thất
Phật ra da được dịch là “phóng quang”. Còn dịch là “tự tại”. Phiên âm từ tiếng
Phạn “Isara” như trong chữ “Avalokihesvara”. ở đây có nghĩa là “Quán”, vì có
quán chiếu thâm sâu rồi mới được “tự tại”. Nếu quí vị không có sức quán chiếu
thâm sâu, thì quí vị sẽ không đạt được năng lực tự tại.
Quán
chiếu nghĩa là hướng vào bên trong tự tâm mà công phu chứ không phải hướng ra
ngoại cảnh bên ngoài. Nghĩa là hướng vào bên trong mà quán chiếu không ngừng.
Hãy tự hỏi: “Ta có hiện hữu hay không?”. Ông chủ có hiện hữu trong chính tự
thân quí vị hay không? Quí vị có làm chủ được mình hay không? Mặt mũi xưa nay
của ông chủ có hiện hữu hay không? Thường trụ chơn tâm thể tánh thanh tịnh có
hiện hữu hay không? Nếu những cái đó đều hiện hữu, có nghĩa là quí vị đạt được
tự tại. Còn nếu không hiện hữu, có nghĩa là quí vị không có được tự tại.
Sự
phóng quang cũng mang ý nghĩa tự tại. Nếu quí vị đạt được năng lực tự tại, thì
quí vị có thể phóng quang. Nếu chưa có được năng lực tự tại, thì không thể
phóng quang được.
Thất
Phật ra da cũng được dịch là “Hoả diệm quang”, cũng gọi là Hoả quang. Đó là
lửa, nhưng không phải là lửa phát sinh từ tập khí phiền não, như quí vị thường
nói: “Tôi vừa nổi nóng như lửa”. Đó cũng không phải là lửa xuất phát từ sự sân
hận, phẫn nộ, căm hờn của quí vị, mà đó chính là lửa trí tuệ. Đó cũng chính là
nước từ trí tuệ tiết ra để dập tắt lửa vô minh. Trí tuệ chân chính hiển lộ khi
lửa vô minh bị dập tắt. Đó chính là Hoả Diệm Quang.
Khi
quí vị trì tụng Thất Phật ra da tức là quí vị đang phóng quang. Nhưng trước
tiên quí vị phải có được năng lực tự tại. Không có năng lực tự tại thì quí vị
không thể nào phóng quang được. Hãy nhớ kỹ điều này.
Đây
là Nhật Tinh Ma Ni thủ nhãn ấn pháp. ấn pháp này có công năng chữa trị bệnh mắt
mờ không thấy rõ. Dùng ấn pháp này khiến cho mắt được sáng lại.
33. Giá ra giá ra
Giá
ra giá ra dịch nghĩa là “hành động”. Đó là hành động như quân đội thi hành một
mệnh lệnh hành quân. Hành quân là một mệnh lệnh nếu quí vị không tuân hành, có
nghĩa là chống lệnh.
Đây
là Bảo đạc thủ nhãn ấn pháp. Khi quí vị rung chuông, âm thanh vang lên khắp
không gian, thông cả thiên đàng, chấn động cả địa giới. Nếu quí vị cần thực
hiện việc gì, chỉ cần rung chuông lớn, các loài chư thiên, thiện thần, yêu ma
quỷ quái đều tuân theo mệnh lệnh của quí vị. Chẳng hạn như khi có động đất, quí
vị chỉ cần rung chuông lên rồi ra mệnh lệnh: “Quả đất không được rung lên như
vậy”, trái đất trở về trạng thái yên bình ngay.
Bảo đạc thủ nhãn ấn pháp cực kỳ diệu dụng. Nếu quí vị muốn hát với một âm điệu
tuyệt vời, thì hãy công phu hành trì ấn pháp này. Khi công phu thành tưu rồi,
tiếng hát của quí vị trong suốt như tiếng đại hồng chung vang lên trong không gian.
34. Ma ma phạt ma la
Ma
ma. Hán dịch là “ngã sở thọ trì”. Đó chính là một loại mệnh lệnh hành động. Có
nghĩa là “mọi việc tôi làm bảo đảm chắc chắn phải được thành tựu”.
Ma
ma là Bạch phất thủ nhãn ấn pháp. ở Trung Hoa, các đạo sĩ và Tăng sĩ Phật giáo
thường sử dụng phất trần, các vị cao tăng thường cầm phất trần khi đăng bảo toạ
để thuyết pháp.
Bạch
phất thủ nhãn ấn pháp có công năng trừ sạch mọi nghiệp chướng của thân, trừ
được mọi chướng nạn và bệnh tật. Chỉ cần phất lên thân vài lần là có thể tiêu trừ
mọi nghiệp chướng và chữa lành mọ ma chướng sinh ra bệnh tật.
Bạch
phất thủ nhãn ấn pháp có rất nhiều công dụng, nhưng người biết cách dùng ấn
pháp này lại rất ít. Tôi biết hiện nay có rất ít người sử dụng được ấn pháp
này.
Năm người Tây phương đầu tiên vừa đi thọ giới Cụ túc ở Đài Loan đã trở về. Họ
đã trở thành những vị Tỷ Khưu, Tỷ Khưu Ni chân chính. Họ vừa về đến phi trường
vào lúc 4 giờ 30 chiều nay, chuyến bay 910 của hãng hàng không Trung Hoa. Ngày
nay Phật giáo Giảng Đường đã có được nhiều xe hơi nên toàn thể Phật tử hộ pháp
trong đạo tràng cũng như toàn thể Phật tử ở San Francisco – Cựu Kim Sơn – Hoa
Kỳ – đều có thể ra phi trường để đón mừng các vị tân Tỷ Khưu.
Bình
thường, tôi chẳng muốn đến phi trường nhưng trong chuyến bay ấy có chở về vài
tượng Phật, nên tôi ra phi trường để nghênh đón tượng Phật chứ không phải để
đón các đệ tử của tôi. Các đệ tử của tôi cũng không cần tôi đón, cũng chẳng cần
đưa. Khi họ đi Đài Loan thọ giới, tôi đã nói với họ rằng:
“Khi
mê thì thầy độ
Khi
ngộ rồi tự độ”.
Nay
họ phải tự độ chính họ, họ đã ra đi, nay lại trở về. Chắc chắn họ phải tự tìm
ra con đường từ phi trường về chùa. Họ chẳng cần tôi phải chỉ dẫn: “Quẹo ở đó,
đi theo đường này, đó là đường về chùa”.
Điều
buồn cười nhất là khi họ viết thư báo cho tôi biết họ đã bỏ quên một thùng
Kinh. Tôi bảo:
“Bỏ
quên kinh chẳng có gì quan trọng. Điều quan trọng chính là không có ai trong
các con bị bỏ quên”. Năm người đi thọ giới và nay năm người đều đã trở về. Sao
vậy? Vì tôi đã mua bảo hiểm ở chư vị Bồ – tát, nên để cho bất kỳ ai bị bỏ sót
lại là điều không thể chấp nhận được. Nếu một người không về, tức là chư vị Bồ
– tát không thực hiện đúng hợp đồng. Thế nên tôi rất tin tưởng rằng tất cả các
giới tử sẽ trở về và dịch vụ bảo hiểm của chư vị Bồ – tát không cần phải thanh
toán hợp đồng.
Quí
vị nên nhớ một điều. Những người thọ giới Cụ túc trở về hôm nay là những vị Tổ
khai sơn của Phật giáo Mỹ quốc. Đừng xem việc này đơn giản. Điều này rất chân
thực. Đừng như những kẻ tự cho mình là Phật tử, chỉ nằm ở nhà mà thích gọi mình
là “Tổ tại gia”. Thực vậy, cách đây vài hôm, có một vị Tổ sư tự phong đến đây
và muốn hát tặng cho tôi nghe. Tôi giễu cợt ông ta: “Thật chán khi nghe ông
hát”. Ông ta chỉ bật lên: “ồ!”, một tiếng rồi bỏ đi.
Phạt
ma ra là “Hàng ma kim cang hộ pháp”, tay cầm bánh xe bằng vàng. Vị hộ pháp này
có thể hoá thân lớn như núi Tu Di.
Phạt
ma ra. Hán dịch là “Tối Thắng Ly Cấu”, có nghĩa đó là pháp thù thắng nhất, xa
lìa tất cả mọi cấu nhiễm ở thế gian. Còn có nghĩa là “vô tỷ như ý”. Vì không có
gì có thể sánh với pháp này và tuỳ tâm nguyện của mình mà mọi điều xảy ra như ý
muốn.
Đây
là Hoá cung Điện thủ nhãn ấn pháp. Nếu quí vị hành trì được ấn pháp này thành
tựu, thì đời đời quí vị sẽ được sống cùng một trụ xứ với đức Phật (như trong
một cung điện), không còn phải thọ sinh vào các loài thai sinh, noãn sinh và
thấp sinh nữa. Công dụng của sự thành tựu ấn pháp này là đời đời được sống cùng
chư Phật.
35. Mục đế lệ
Mục
đế lệ là Dương chi thủ nhãn ấn pháp của đức Phật. Đó là nhánh cây mà quí vị thường
thấy Bồ – tát Quán Thế Âm cầm ở một tay, còn tay kia Bồ – tát cầm một tịnh
bình. Nhành dương này được Bồ – tát nhúng vào tịnh bình rồi rưới lên cho tất cả
mọi chúng sinh bị đau khổ. Nước này không như nước thường. Đó là nước cam lồ.
Chúng sinh nào được nước này tưới nhuận sẽ có nhiều lợi lạc. Nước cam lồ có thể
giúp cho mọi chúng sinh thoát khỏi khổ luỵ đói khát và bản tâm đạt được thanh
lương.
Mục
đế lệ còn dịch nghĩa là “giải thoát”. Đó là giải thoát khỏi mọi khổ nạn, bệnh
tật và chướng ngại. Nên Bồ – tát Quán Thế Âm thường dùng Dương chi thủ nhãn ấn
pháp này để giúp giải thoát cho chúng sinh khỏi mọi bệnh tật, khổ nạn và những
điều bất như ý. Bề ngoài, chú này dường như không có gì quan trọng lắm, nhưng
một khi quí vị công phu hành trì ấn pháp này thành tựu rồi, thì không những quí
vị có thể giúp giải thoát cho chúng sinh khỏi bệnh tật và khổ nạn mà còn có thể
hàng phục cả thiên ma ngoại đạo. Khi những thiên ma ngoại đạo được thấm nhuận
nước cành dương này, họ tự nhiên hồi tâm hướng thiện, thực hành theo chánh
pháp. Do vậy, Dương chi thủ nhãn có diệu dụng vô cùng vô tận, không thể nghĩ
bàn.
Giọt
nước cam lồ từ bàn tay Bồ – tát Quán Thế Âm không những chỉ giúp cho quí vị
thoát khỏi mọi bệnh tật, khổ nạn mà còn có một diệu dụng khác, khi một người
sắp chết, nếu có phước duyên, được Bồ – tát Quán Thế Âm rảy nước lồ thì có thể
sống lại. Tất cả các loài cây cỏ thảo mộc đã khô héo nếu được nước cam lồ tưới
xuống cũng được hồi sinh. Cây cỏ là loài vô tình, mà khi được nước cam lồ tưới
tẩm còn được nảy mầm, đơm hoa, kết trái như vậy nên chúng sinh là loài hữu tình
sẽ được lợi lạc biết bao. Đó là diệu dụng của Dương chi thủ nhãn ấn pháp.
36. Y hê y hê
Y
hê y hê là Độc lâu trượng ấn thủ nhãn ấn pháp. Hán dịch là “thuận giáo”.
Nghĩa
là một khi quí vị nhờ ai làm việc gì đó, họ đều ưng thuận. Khi quí vị dùng
chánh pháp để giáo hoá, họ đều vâng lời. Câu chú này còn dịch là “tâm đáo”.
Nghĩa là trong tâm hành giả ước nguyện điều gì, nhờ năng lực của chú này đều
được thành tựu. Câu chú này khiến cho Ma – hê – thủ – la vương, là một Thiên ma
ngoại đạo thường cho rằng mình là vĩ đại nhất, cũng phải cung kính chắp tay đến
nghe lời chỉ giáo khi nghe có người trị tụng thần chú này, không dám trái
nghịch. Thế nên khi quí vị trì niệm câu Y hê Y hê, thì Ma – hê – thủ – la vương
liền đến, bất kỳ tâm nguyện của hành giả như thế nào, vị này liền thi hành
ngay, đáp ứng đúng như sở nguyện của người trì chú.
37. Thất na thất na
Câu
chú này được dịch là “Đại trí tuệ”, cũng dịch là “Hoằng thệ nguyện”. Đây là Bảo
cảnh thủ nhãn ấn pháp. Bảo cảnh được ví như Đại viên cảnh trí của chư Phật.
Đại
trí huệ là gì? Đó là khi chúng sanh không còn dính mắc vào vọng tưởng nữa. Có
đại trí huệ, thì mỗi niệm đều là biểu hiện của trí bát nhã, mỗi tâm niệm đều
lưu xuất từ Đại Quang Minh. Nếu quý vị có trí huệ chân chính thì sẽ có được
Quang Minh. Còn nếu chưa thể nhập trí tuệ tự tánh, thì vẫn còn trong màn tối
tăm của vô minh.
Quang
minh là ánh sáng dương, còn bóng tối vô minh là âm. Tại sao người ta ngủ tối?
Bởi vì lực âm trồi lên quá mạnh. Do đâu người ta có trí tuệ sáng suốt? Bởi vì
ánh sáng dương lớn mạnh hơn.
Những
người có trí tuệ không có lối suy nghĩ như những kẻ phàm phu. Họ có khả năng
phân biệt rõ ràng chính tà. Họ không cần phải hỏi người khác, họ biết mọi điều
ngay nơi tự thân của mình. Họ không đi vào con đường tẻ, họ bước đi vào ngay
chính lộ và hạ thủ công phu. Trong khi hành trì, trước tiên quý vị phải đạt
được trí tuệ. Rồi quý vị phải biết rõ ràng chính tà để rồi mới tiến vào con
đường chánh lộ và tránh con đường tà vạy.
Nhưng
quý vị không thể nào biết rõ việc làm nào hư ngụy nên cứ mãi khăng khăng tạo
nghiệp ác. Quý vị kôhng thể nào biết được rõ ràng thế nào là phạm giới, nên cứ
thế mà làm, ráng hết sức để làm cho được, cứ muốn nhìn cho được dù thực sự đó
là những thứ chướng ngại. Những hành vi như thế là sự ngu muội tột cùng, biểu
lộ hoàn toàn sự non yếu trí tuệ.
Ồ!
Không – Quý vị có thể phản đối – Tôi là người có trí tuệ, tôi chỉ sai lầm trong
nhất thời thôi!
Chỉ
sai lầm một lần thôi cũng có nghĩa là vô minh, không có trí tuệ rồi. Người có đại
trí tuệ không hề có tư tưởng sai lầm. Thế nên Tôn giả A Nan đã phát nguyện:
Tiêu
ngã ức kiếp điên đảo tưởng
Bất
lịch tăng kỳ hoạch pháp thân.
Nghĩa
là:
“Giúp cho con tiêu trừ vọng tưởng sai lầm
trong muôn ức kiếp”.
Khiến con chẳng cần trải qua a tăng kỳ kiếp
mà chứng ngộ được pháp thân”.
Tôn
giả đã phát nguyện tiêu trừ vọng tưởng không những chỉ một, hai, ba, bốn, năm
hay một trăm kiếp nhưng trong vô số kiếp.
Nhưng
tại sao trong tâm ta lại có quá nhiều vọng tưởng như thế? Khi một vọng tưởng đi
qua, vọng tưởng khác kế tiếp theo, và khi vọng tưởng ấy tiêu mất, vọng tưởng
sau lại sinh khởi tiếp nối. Giống như sóng trên mặt biển. Quý vị cứ nghĩ rằng
đại dương là vật vô tình, nhưng thực sự nó chẳng phải là thứ ở ngoài tâm quý vị
mà có. Biển cả cũng được lưu xuất từ trong tâm niệm của chúng sanh. Sóng biển
không ngừng nổi lên rồi chìm xuống, cũng hoàn toàn giống như vọng tưởng của
chúng sanh chẳng bao giờ ngừng. Nó liên tục mãi. Vọng tưởng trước vừa biến mất,
vọng tưởng sau liền tiếp nối, vọng tưởng này tiếp nối vọng tưởng kia, xoay vần
tương tục, nối theo nhau không dứt, như dòng thác không bao giờ ngừng. Không có
vọng tưởng nào muốn rơi lại đằng sau cả, chúng đều hoàn toàn muốn phóng vọt lên
phía trước. Vì sao mà quý vị lại mắc phải quá nhiều vọng tưởng như vậy? Chỉ vì
không có trí tuệ. Nếu quý vị có trí tuệ, thì chẳng còn mảy may vọng tưởng và
sóng cũng không còn xao động nữa. Như trong câu thơ:
Thanh
phong đồ lai
Thủy
ba bất hưng
Nghĩa
là:
“Gió trong lành thổi đến,
Biển không còn sóng xao”.
Khi
trong công phu mà quý vị đạt được định lực, cũng như sóng biển đã lặng yên. Khi
có được định lực thì nước trí tuệ hiển hiện, không còn một gợn sóng, chẳng còn
một niệm vọng tưởng nào nữa. Lúc đó là thanh tịnh chân thực. Đó là lúc:
“Nhất trần bất nhiễm
Vạn lự giai không”
Thực
vậy, khi một người không còn bị vướng dù chỉ một hạt bụi vô minh thì chẳng còn
phải lo nghĩ một điều gì nữa cả, mọi thứ trên đời này đều là không. Đó chính là
biểu hiện của đại trí tuệ.
Người
có trí tuệ thường thành công trong bất kỳ mọi việc, còn người thiếu trí tuệu
thường bị thất bại trong bất kỳ việc gì mà họ nhúng tay vào. Do vậy nên trí tuệ
là vô cùng quan trọng.
Ngu
muội là gì? Vô minh chính là ngu muội. Ngu muội cũng chỉ là từ vô minh mà ra.
Khi vô minh sinh khởi, con người hoàn toàn bị mất sáng suốt. Quý vị hãy hỏi một
người vừa mới làm một việc sai lầm xong thì rõ:
-
Tại sao anh lại làm việc đó?
Họ
sẽ trả lời:
-
Tôi không rõ nữa …
Đó
chính là do ngu muội, do sự thiếu sáng suốt, thiếu trí tuệ. Nhưng dù họ hành
động mê lầm do vô minh, nhưng họ lại không chịu từ bỏ vô minh. Họ lại khăng
khăng:
-
Tôi biết chứ. Tôi biết nó sai mà! Thật là quái lạ. Con người mê muội chỉ do vì
không có trí tuệ, không đạt được Đại
viên cảnh trí, vì họ không chịu công phu hành trì Bảo
cảnh thủ nhãn ấn pháp. Nếu họ tu tập ấn pháp này, thì sẽ không
còn ngu muội nữa; bất luận chuyện gì xảy ra. Đó là khi:
Phùng quỷ sát quỷ
Phùng Phật sát Phật
Đây
cũng như việc cầm một cây dao thật bén, chặt ngay mọi vọng tưởng vừa lóe lên.
Đại trí tuệ cũng như một con dao bén hay còn được ví như thanh gươm.
Quý
vị có thể nói: “Gươm trí tuệ rất nặng, không, không dễ gì cầm
kiếm ấy được”!
Đó là vì quý vị chưa từng cầm nó. Thực ra, sử dụng kiếm này chẳng cần sử dụng
chút sức lực nào cả. Nếu quý vị chưa từng cầm nó lên thì thấy nó quá nặng. Nếu
quý vị đã cầm lên rồi, thì thấy nó nhẹ. Nếu quý vị không chịu cầm lên, thì nhẹ
biến thành nặng. Nếu quý vị chịu cầm lên, thì nặng biến thành nhẹ. Sao vậy? Vì
quý vị đã cầm lên rồi!
Nếu
quý vị nói: “Tôi biết rằng gươm trí tuệ rất quan trọng, nhưng quá nặng. Tôi
không thể nhấc lên nổi”. Và quý vị không sờ tới gươm. Thế nên gươm trí tuệ càng
nặng thật. Nhưng một khi quý vị đã sờ vào kiếm, đã vung gươm lên rồi thì mọi sự
hiểu biết đều bén nhọn như lưỡi gươm, chẳng còn một chút rắc rối nào nữa cả.
Thế nên tôi thường nói với quý vị rằng:
“Mọi việc đều tốt đẹp cả”. Chính
là phát xuất từ đạo lý này. Nếu quý vị gặp nhiều việc rắc rối, là vì quý vị
không có thanh gươm trí tuệ. Nếu quý vị có được thanh kiếm trí tuệ ấy, thì sẽ
chẳng còn chuyện gì rắc rối nữa cả. Màu nhiệm là ở điểm này.
Núi
sông đất liền, lâu đài nhà cửa, thế giới y báo cũng như chánh báo đều không
vượt ra ngoài tâm niệm hiện tiền của chúng ta.
Cái
gì là thế giới ý báo? Núi sông, đất liền, lâu đài nhà cửa gọi là thế giới y
báo. Thế giới chánh báo là thân tâm của chúng ta, chính là nơi mà con người
chúng ta thọ nhận sự báo ứng. Nếu quý vị đã hiểu được sự báo ứng khi chính mình
thọ nhận, nghĩa là quý vị không còn vô minh nữa. Không còn vô minh nghĩa là có
trí tuệ. Điều này được ví như tấm gương:
Vật lai tắc ánh
Vật khứ tắc không.
Nghĩa
là: “Vật đến liền chiếu. Vật biến hoàn không”. Tấm gương chẳng lưu giữ dấu vết
gì cả. Kẻ trí thường thản nhiên với mọi chuyện và cứ để nó trôi qua mà lòng
chẳng còn vướng bận điều gì.
Mặc
dù kẻ trí chẳng lưu giữ điều gì lại trong lòng, nhưng mọi vật thường tự hiển
bày. Và mặc dù nó thường tự hiển bày nhưng chẳng hề bị vướng mắc.
Chúng
ta là hàng phàm phu, chưa có được đại trí tuệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường
nhớ trì tụng chú Đại Bi, hoặc thường niệm câu: “Y
hê, y hê, thất na, thất na”.
Khi
đã tụng một lần rồi là không còn quên nữa, đã tụng được hai, ba lần, vài trăm
lần rồi thì chẳng thể nào quên được nữa. Đó là phải cố gắng để ghi nhớ. Còn khi
quý vị chỉ cần nhìn hoặc nghe lướt qua một lần rồi nhớ mãi không quên, chẳng
cần phải dụng công ghi nhớ nữa, đó là khi trí tuệ của quý vị chiếu sáng như một
đài gương trong.
Người
có trí tuệ đều biết rằng mọi hiện tượng đều lưu xuất từ tự tâm của mình. Nếu
quý vị hiểu được điều này thì mình sẽ không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa.
Sao vậy? Vì mọi sự việc đều lưu xuất từ tâm mình, nên những thứ vui buồn giận
ghét đều là sở hữu của chính mình. Dù nó tốt hay xấu, cũng chẳng có vấn đề gì
cả.
Mặc
dù nói về cảnh giới ấy thì rất dễ, nhưng tiếp xúc với cảnh giới ấy không phải
dễ dàng gì, cần phải có công phu mới tiếp xúc được với cảnh giới ấy. Những
người không có công phu sẽ nói:
“Đối với tôi, chẳng có vấn đề gì rắc rối cả”.
Bên
ngoài thì như thế, nhưng vấn đề rắc rối đang phát sinh và chống đối với nhau ở
bên trong. Những người có trí tuệ chân chính thì rất hiếm.
Quý
vị cũng nên phân biệt rõ trí tuệ thế gian và trí tuệ xuất thến gian. Trí tuệ
thế gian còn gọi là Thế trí biện thông,
là có thể nhào nặn ngay ra một đạo lý khi nào cần đến. Nơi nào không có đạo lý,
họ có thể tạo dựng ra, khiến mọi người nghe rất hợp lý. Những kẻ mê muội nghe
họ nói liền nghĩ rằng:
“Ồ! Họ đề cập đến những đạo lý rất đúng”. Thực
ra, nếu quý vị có được trí tuệ chân chính, quý vị sẽ không bị đắm chìm trong mớ
lý luận ngu muội của họ. Người ta thường nói: “Trong
dương có âm”.
Cũng
vậy, trong trí tuệ cũng có sự ngu muội – sự ngu muội một cách trí tuệ. Mặt
khác, trong âm có dương. Bên trong sự ngu muội ẩn chứa một trí tuệ. Chẳng hạn
như quý vị có thể thấy một người chẳng nói năng gì cả, dường như là kẻ quê mùa
dốt nát, nhưng anh ta làm những việc chân chính. Anh ta có thể hiện thân một kẻ
hồ đồ mê muội, nhưng luôn luôn ứng xử khế hợp với đạo lý. Có rất nhiều người
như vậy.
Khi
quan sát người khác, quý vị sẽ tự chiêm nghiệm ra chính tự thân mình có được
trí tuệ sáng suốt hay không. Nếu quý vị có trí tuệ chân chính, thì quý vị không
bị người klhác sai sử, dẫn dắt đến chỗ sai lầm. Còn nếu quý vị không có trí
tuệ, quý vị sẽ bị người khác xui khiến làm điều xằng bậy.
Trí
tuệ và ngu muội có một mối quan hệ trực tiếp. Đó là hai mặt của một chỉnh thể.
Vắng bóng vô minh thì trí tuệ hiển bày. Và vô minh sinh khởi khi thiếu vắng trí
tuệ. Trong vô minh có trí tuệ và chính trong trí tuệ có bóng dáng của vô minh.
Sao lại như thế? Vì trí tuệ và vô minh là một. Nếu quý vị biết vận dụng, thì đó
là trí tuệ. Còn nếu không biết vận dụng thì đó là vô minh. Chẳng hạn như khi
quý vị nâng thanh gươm trí tuệ lên thì đó chính là trí tuệ; còn khi quý vị
buông thanh gươm ấy xuống thì đó là vô minh. Đó không phải là hai mà chỉ là
một. Thế nên quý vị đừng bao giờ nói rằng mình đang đi tìm kiếm trí tuệ và đang
xua đuổi vô minh. Không ai làm được việc ấy bao giờ. Chủ yếu chỉ là sự “hồi
đầu”.
Có
thể lấy ví dụ của bàn tay để biểu tượng cho trí tuệ và mặt kia là biểu hiện cho
vô minh. Nếu quý vị muốn cầm nắm một đồ vật bằng mặt kia của bàn tay thì không
thể nào làm được cả, nhưng nếu quý vị dùng chính bàn tay của mình thì mới lấy
được đồ vật. Việc không lấy được đồ vật là biểu tượng cho vô minh và việc sử
dụng bàn tay để lấy được vật là biểu tượng cho trí tuệ. Đó là hai khía cạnh của
chỉ một ý nghĩa chung nhất, tùy thuộc vào sự vận hành của quý vị.
Có
người lại nói: “Nay tôi đã hiểu rồi. Vô minh và trí tuệ
chính là bàn tay của tôi”. Lại sai lầm nữa! Bàn tay chỉ là ví dụ.
Đừng nên cho rằng trí tuệ và vô minh chính là bàn tay. Cũng giống như ví dụ
ngón tay và mặt trăng (trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm). Đức Phật lấy ví dụ
dùng ngón tay để chỉ cho người thấy mặt trăng. Đừng nhầm lẫn ngón tay chính là
mặt trăng.
Thất na thất na là “đại trí tuệ” và
còn có nghĩa là “hoằng thệ nguyện” – là phát nguyện rộng lớn. Khi muốn hoàn
thành một việc gì, phải phát thệ nguyện làm cho đến cùng. Như đức Phật A Di Đà
trước khi thành chánh giác, khi đang tu tập nhân địa với hình tướng của một Tỳ
kheo, Ngài đã phát 48 lời nguyện rộng lớn. Bồ tát Phổ Hiền cũng đã phát 10 Đại
nguyện Vương. Bồ tát Quán Thế Âm cũng phát vô số lời nguyện cũng như các vị Tổ
sư đã từng phát nguyện. Tôi đang giảng cho quý vị nghe về việc phát đại nguyện.
Còn có lập nguyện được hay không là do ở quý vị. Tôi đưa đề tài này ra giảng vì
tôi đoán chắc là quý vị chưa được thông hiểu. Nhưng không phải là tôi bắt buộc
quý vị phải phát nguyện. Nay quý vị đang tu học Phật pháp, mỗi người nên tự
mình lập hạnh nguyện, càng lớn càng tốt. Lập nguyện càng lớn thì sự thành tựu
càng cao. Hiện nay chúng ta đều đang tu nhân và chưa ai thành Phật cả, chúng ta
nên phát lời nguyện ở nơi nhân địa mà tu hành. Mỗi người nên viết rà lời nguyện
của mình thật chi tiết. Đừng phát nguyện một cách hời hợt, qua loa, cho có
nguyện mà phải thiết thực như: “Con
nguyện cứu độ tất cả mọi loài chúng sanh”.
Thật
chứ? Làm sao quý vị có thể độ chúng sanh được. Khi suốt ngày quý vị cứ tìm mọi
cách để được ăn ngon, mặc đẹp, ở nơi xa hoa tráng lệ. Việc cứu độ chúng sanh
trước hết là độ chúng sanh nơi cái miệng chuyên nói lời vọng ngôn của quý vị,
độ cái bụng ham ăn, độ cái thân ham thích sung sướng của chính mình trước đã.
Cho nên quý vị phải thẳng thắn và minh bạch trong khi phát nguyện. Hiện tại
mình phát nguyện gì? Tương lai sẽ ra sao? Như ở trong quá khứ, chúng ta có thể
quên lãng những gì đã từng ứng dụng tu hành. Nhưng trong tương lai chúng ta sẽ
thực hành điều gì? Mỗi người Phật tử đều phải nên có lời phát nguyện. Nay ở
trong nhân địa, lời phát nguyện càng lớn thì trong tương lai, kết quả sẽ càng
cao. Nếu quý vị đặt tất cả nguyện lực của mình vào một lỗ chân lông, thì quý vị
có thể phát một thệ nguyện lớn ngay từ trong lỗ chân lông.
Phát
nguyện là một lời hứa thiêng liêng mà mọi người Phật tử đều nên thực hiện. Phát
nguyện rất quan trọng, vì không có nó cũng như không có người hướng dẫn. Giống
như đi đường mà không biết mình sẽ đi hướng nào, chẳng biết nên rẽ phải hay nên
quẹo trái để đến đích. Nếu quý vị phát nguyện, cũng như khi du lịch có người
hướng dẫn đường đi và nơi đến.
Tại
sao chư Phật và chư Bồ tát đều phát nguyện khi tu đạo? Vì khi đã phát nguyện
rồi, mình mới tự mình hành động tương ứng với nguyện đã lập. Ví dụ như Bồ tát
Địa Tạng khi tu hành ở nhân địa, Ngài đã phát lời nguyện vĩ đại:
…“Địa
ngục vị không
Thệ
bất thành Phật
Chúng
sanh độ tận
Phương
chứng Bồ đề”.
Nghĩa
là:
“Chúng sanh độ hết
Mới chứng Bồ đề
Địa ngục nếu còn
Con chưa thành Phật”.
Nguyện
lực này cực kỳ vĩ đại. Chúng ta cũng nên phát nguyện. Mỗi quý vị nên phát một
hạnh nguyện phù hợp với những việc hằng ngày quý vị thích làm.
38. A ra sam Phật ra xá lợi
A ra sam dịch là “Chuyển luân
pháp vương”, tức là vị Đại Pháp Vương thường chuyển cỗ xe đại pháp, thường
tuyên thuyết diệu nghĩa Đại thừa. Giáo nghĩa này thậm thâm vi diệu, không ai có
thể diễn nói tường tận được, nhưng hiện nay quý vị đang được nghe giảng từng chi
tiết rõ ràng.
Đó
là ý nghĩa của câu chú này. Đây là “Chưởng
thượng hóa Phật ấn thủ nhãn ấn pháp”. Quý vị nên hành trì ấn pháp
này. Khi thành tựu rồi, đời đời khi được sinh ra liền thân cận bên Phật để học
hỏi giáo pháp.
Có
rất nhiều cách để giảng giải chú Đại Bi. Chẳng hạn có một vị pháp sư khác giảng
mỗi thủ nhãn này là danh hiệu của một vị Bồ tát. Chẳng hạn vị ấy cho rằng:
Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn này là Chưởng
thượng hóa Phật Bồ tát. Đây chính là trường hợp sai một ly đi
một dặm. Sao vậy? ở đây hoàn toàn chẳng có một vị Bồ tát nào cả. Quý vị có thể
đọc hết cả Tam tạng kinh điển nếu quý vị muốn nhưng sẽ chẳng thấy vị Bồ tát nào
có danh hiệu là Chưởng thượng hóa Phật Bồ
tát cả.
Có
thể nói như thế này: Chưởng thượng hóa Phật thủ
nhãn ấn pháp là pháp tu của chư vị Bồ tát, chứ không thể gọi đó là
Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát. Nếu gọi như thế là một sai lầm.
Nên
khi nói Bảo bát thủ nhãn ấn pháp quý
vị có thể hiểu rằng: Bảo Bát ấn pháp là
pháp tu của chư vị Bồ tát. Còn Bảo Bát không phải là danh hiệu của một vị Bồ
tát. Mới đây tôi được xem qua bộ “Đại Bi Kinh giảng nghĩa” ở Hồng Kông gửi
sang, trong kinh này họ đã giảng bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp là danh hiệu của
bốn mươi hai vị Bồ tát. Đó hoàn toàn sai lầm. Bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp
trong kinh là các pháp tu của hàng Bồ tát. Người học Phật pháp nên ghi nhớ kỹ
điểm này, không nên xác tín mà không căn cứ trên sự thực hiển nhiên. Trong khi
giải thích Phật pháp cho người nghe, quý vị phải có một lập trường vững chãi,
chính xác về những gì mình đưa ra, còn không quý vị sẽ phạm sai lầm.
A ra sam là
Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp mà các vị Bồ tát đều
phải tu hành.
Quý
vị lại hỏi: “Bồ tát nào?”
Đây
chẳng phải là một vị Bồ tát nào riêng biệt cả. Bất kỳ người nào hành trì bốn
mươi hai thủ nhãn ấn pháp thì người ấy chính là Bồ tát. Bất luận người nào
không tu tập bốn mươi hai ấn pháp thì người ấy không phải là Bồ tát. Nếu quý vị
tu tập bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp được thành tựu thì có thể minh chứng rõ
ràng quý vị đã dự vào hàng Bồ tát rồi.
Phật ra xá lợi dịch là “giác thân
tử”. Đây là Sở châu thủ nhãn ấn pháp hoặc
là Niệm châu ấn pháp, là pháp môn của chư vị Bồ
tát tu tập. Khi Bồ tát tu tập thủ nhãn này thành tựu, thì chư Phật trong mười
phương nhiếp thọ và tiếp dẫn hành giả đến các thế giới Phật khắp trong mười
phương.
39. Phạt sa phạt sâm
Phạt sa, phạt sâm dịch
là “Hoan ngữ hoan tiếu”. Có nghĩa là rất hoan hỷ khi giảng nói. Còn dịch nghĩa
là “Đại trượng phu” và “Vô thượng sĩ”.
Đây
là Bảo cung thủ nhãn ấn pháp. Khi
hành trì thành tựu ấn pháp này, nếu là người tại gia thì có thể được làm quan
cận thần, người xuất gia có thể chứng được quả vị A la hán.
40. Phật ra xá da
Ở
câu trên, Phật ra xá lợi. “Xá
lợi”dịch
nghĩa là “Giác thân tử”. Còn trong câu Phật
ra xá da,
“xá da” dịch là “Tượng”: con voi. Nghĩa là khi quý vị đã giác ngộ rồi, thì tâm
thể quý vị được ví như một con voi chúa, còn được gọi là Pháp vương tử. Quý vị
có thể là Pháp vương tối cao trong tất cả các pháp môn. Nói chung, ý nghĩa của
câu chú này là: Tâm giác ngộ như một tượng vương cao quý.
Phật ra xá da là nói về bổn thể của
đức Phật A Di Đà. Đức Phật A Di Đà là bổn sư của Bồ tát Quán Thế Âm. Vì Bồ tát
Quán Thế Âm tỏ lòng tôn kính đức bổn sư của mình nên Bồ tát đã đảnh lễ đức Phật
A Di Đà trong khi tuyên thuyết chú Đại Bi. Nên đức Phật A Di Đà phóng hào quang
để tiếp độ cho người trì chú này.
Phật ra xá da là Tử
liên hoa thủ nhãn ấn pháp. Trong bốn mươi hai thủ nhãn, có Bạch liên
hoa thủ nhãn, Thanh liên hoa thủ nhãn, Hồng liên hoa thủ nhãn ấn pháp. Khi hành
trì thành tựu các ấn pháp này, hành giả sẽ được diện kiến mười phương chư Phật.
Vì vậy Tử liên hoa thủ nhãn ấn pháp rất
trọng yếu.
41. Hô lô hô lô ma ra
Hô lô hô lô ma ra. Hán
dịch là “Tác pháp như ý”. Cũng dịch là “Tác pháp mạc ly ngã”.
Đây
là Kim trọc ngọc hoàn thủ nhãn ấn pháp.
Trong bốn mươi hai ấn pháp, khi hành giả hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp
này được gọi là “tác pháp”. “Như ý” nghĩa là tùy theo tâm nguyện đều được như
ý. Khi hành giả tu tập thành tựu ấn pháp này rồi, thì mọi việc đều được như tâm
nguyện nên gọi là “Như ý”.
Còn
“Tác pháp mạc ly ngã” có nghĩa chính hành giả là người tu tập, không phải người
nào khác. Nên khi hành giả tác pháp này, thì ấn pháp không rời khỏi hành giả và
hành giả không rời khỏi ấn pháp. Pháp và ngã là một. Thế nên chẳng có pháp và
cũng chẳng có ngã, pháp chấp và ngã chấp đều không. Đó là ý nghĩa của “Tác pháp
mạc ly ngã”.
Hành
trì “Kim trọc ngọc hoàn ấn pháp”. Có
thể khiến tất cả chúng sanh đều vâng theo sự giáo hóa của hành giả. Dạy họ tu
pháp gì, họ đều tu theo pháp môn ấy không sai lệch.
42. Hô lô hô lô hê rị
Hô lô hô lô. Hán dịch là “tác pháp
vô niệm” cũng dịch là “tác pháp tự tại”. Trong câu chú Hô
lô hô lô ma ra đã giảng ở trước có nghĩa là “tác pháp như ý”, khi
tác pháp vẫn còn khởi lên ý niệm. Còn trong câu chú Hô
lô hô lô hê rị thì vắng bặt sự khởi niệm khi tác pháp. Nếu khi
hành trì ấn pháp này, mà còn khởi niệm tức là còn vọng tưởng. Nếu hành giả
không khởi niệm, tức là không còn vọng tưởng nên đạt được khả năng “tác pháp tự
tại” và trở thành người có năng lực Quán Tự Tại. Đó chính là vị Bồ tát thường
quán sát âm thanh ở thế gian để cứu độ một cách tự tại, Bồ tát Quán Thế Âm.
Câu
chú này là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp, là
ấn pháp thứ ba trong số bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công năng
giải thoát cho chúng sanh khỏi những tai ương bệnh hoạn.
Các
vị xuất gia khi gặp người bệnh, trì chú này vào trong ly nước, cho người bệnh
uống thì có thể được khỏi bệnh. Nếu bệnh không lành, thì phải quán sát lại toàn
bộ nhân duyên. Nếu gặp duyên lành, khi quý vị uống nước có trì chú Đại Bi thì
liền được lành bệnh, là do đã đặt hết niềm tin vào Bồ tát Quá Thế Âm. Nếu không
được lành bệnh, có thể là do quý vị thiếu lòng tin nơi Bồ tát.
Sự
thực là như vậy, nay tôi sẽ truyền pháp này cho quý vị luôn. Để cho ly nước có
trì chú Đại Bi, có được năng lực như vậy, quý vị không cần phải trì tụng toàn
văn bài chú này, mà chỉ cần trì tụng câu Hô
lô hô lô hê rị năm lần rồi dùng tay kiết ấn ba lần búng vào phía
trên ly nước. Rồi trao cho người bệnh uống sẽ được khỏi hẳn. Có khi bệnh không
lành, có khi bệnh lành hẳn. Tất cả đều tùy thuộc vào nhân duyên giữa hành giả
và người bệnh. Nếu quý vị có nhân duyên sâu dày với người bệnh, thì khi họ uống
xong nước có trì chú Đại Bi liền được khỏi bệnh. Còn nếu người bệnh không có
duyên với hành giả, thì dù họ có uống nước đã trì chú, nhưng vì họ không có
niềm tin ở Bồ tát Quán Thế Âm, thì bệnh họ không được lành hẳn.
Nói
chung có vô lượng nhân duyên để tạo thành pháp duyên cơ bản này. Nếu người bệnh
đã có công phu hành trì và phát tâm chí thành, khi uống nước có trì chú vào là
liền khỏi bệnh. Còn nếu quý vị có tu tập nhưng thiếu lòng chí thành, thiếu sự
tin tưởng vào chú Đại Bi thì dù uống nước đã trì chú cũng chẳng ích lợi gì. Còn
nếu quý vị có tâm chí thành và dù không tu tập đi nữa, thì khi uống nước đã trì
chú cũng có được sự lợi ích. Những người vốn đã tạo nghiệp chướng sâu dày, nếu
được uống nước đã trì chú vào thì không đủ tạo nên nặng lực để chuyển hóa bệnh
của họ. Còn nếu người có nghiệp nhẹ khi uống nước đã trì chú vào thì có thể
phát sinh năng lực to lớn. Đó là năng lực do thường xuyên trì niệm chú Đại Bi,
đã tạo ra một năng lực cảm ứng đạo giao. Chính năng lực này đã chữa lành bệnh.
Thế
nên bất luận trường hợp nào, có trùng trùng duyên khởi quyết định sự thành
công. Đừng nghĩ rằng: “Tôi đã hành trì Bảo
bát thủ nhãn ấn pháp, tôi đã trì chú Đại Bi vào trong nước, tại
sao chẳng có chút nào hiệu nghiệm?”
Đó
chẳng phải là nước trì chú Đại Bi không có hiệu nghiệm. Chỉ vì công phu của quý
vị chưa được đắc lực, nên hiệu quả không được bao nhiêu.
Có
một số phái ngoại đạo cũng dùng pháp trì chú Đại Bi vào nước để chữa bệnh và
đạt được công hiệu linh ứng. Đó là vì họ có sự trợ giúp của loài thiên ma khiến
cho người được lành bệnh tin vào họ, rồi dẫn dắt vào hàng quyến thuộc của thiên
ma ngoại đạo. Vì thế, tuy cũng hành trì một pháp môn mà có thiên sai vạn biệt
kết quả.
Dùng
nước Đại Bi để chữa bệnh cho người là một pháp môn thực hành Bồ tát đạo. Nhưng
quý vị muốn tu pháp này trước hết phải thực hành mọi hạnh nguyện của hàng Bồ
tát. Phải luôn luôn giữ tâm niệm “vô ngã”, “vô nhân”. Nghĩa là trong tâm không
còn bốn tướng: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả nữa. Quý vị đừng nghĩ rằng: “Tôi
chữa lành bệnh của chúng sanh được, khi tôi trì chú Đại Bi, tôi tạo ra được sự
cảm ứng vô cùng lớn lao”.
Nếu
quý vị khởi niệm như thế, nghĩa là quý vị đã khởi dậy ngã chấp. Với ngã chấp
ấy, liền bị rơi vào ma chướng, dù quý vị không có tâm niệm ngã chấp nhưng rất
dễ bị gặp ma chướng khi tu tập pháp môn này. Bệnh nào cũng do nghiệp chướng
hoặc ma chướng. Nếu bệnh vì nghiệp, thì chẳng có vấn đề gì khi quý vị chữa trị
cho họ. Còn nếu bệnh do ma chướng, khi quý vị chữa trị cho họ có nghĩa là quý
vị tuyên chiến với ma vương, nó có thể hãm hại quý vị. Nếu đạo lực của quý vị
chưa đầy đủ, quý vị có thể bị thu phục vào cảnh giới của ma. Còn nếu quý vị có
được đạo lực và tạo được đôi chút ảnh hưởng với chúng, thì chúng sẽ liên tục
tìm mọi cách để đánh bại quý vị.
Tôi
vốn thích chữa bệnh cho mọi người nên khi có ai bị bệnh, tôi tìm mọi cách để
chữa cho họ. Nhưng sau đó, tôi phải đối đầu với ma chướng rất trầm trọng. Ở Mãn
Châu, có một loài thủy quái muốn dìm chết tôi, nhưng nó thất bại. Tuy vậy, có
50 – 60 người bị chết và hơn 800 căn nhà bị thủy quái này phá hủy. Sau đó, trên
đường đi từ Thiên Tân đến Thượng Hải, loài thủy quái đó lại tìm cách lật thuyền
của tôi, chỉ chút xíu nữa là tôi biến thành thức ăn của cá. Từ đó mỗi khi đi
hoằng hóa đây đó, tôi thường ít khi chữa bệnh.
Thế
nên chữa bệnh là cách tốt nhất để kết duyên, nhưng đó cũng rất dễ kết oán với
quyến thuộc nhà ma. Nó có điểm tốt và cũng có điểm không hay. Nếu quý vị làm
việc đó mà tâm niệm không vướng mắc vào bốn tướng: ngã, nhân, chúng sanh, thọ
giả thì quý vị có thể xoay chuyển mọi tình huống. Còn nếu quý vị không tự
chuyển hóa mọi tâm niệm của chính mình khỏi bốn tướng trên thì rất dễ rơi vào
ma chướng. Cho nên, kết duyên với chúng sanh qua việc chữa bệnh cho họ là một
vấn đề đòi hỏi năng lực tu tập rất cao.
43. Ta ra ta ra
Quý
vị nghe âm vang của câu chú này rất hùng, phải không? Ta
ra Ta ra dịch là “Kiên cố lực”, là thần lực rất mạnh mẽ, không một
thứ gì có thể lay chuyển được.
Kiên
cố lực này có thể phá hủy và hàng phục tất cả các loài thiên ma ngoại đạo.
Đây
là Kim cang xử thủ nhãn ấn pháp.
Công năng của ấn pháp này là hàng phục tất cả các loại ma oán.
44. Tất lỵ tất lỵ
Tất lỵ Tất lỵ có
ba nghĩa: Thứ nhất là “dõng mãnh” như
trong chiến trận, người dõng mãnh là luôn luôn chiến thắng, không hề bị đánh
bại. Nghĩa thứ hai là “thù thắng” nghĩa
là vượt lên trên tất cả sự hoàn hảo, không bao giờ bị thất bại. Thứ ba nghĩa là “cát
tường”.
Vì khi hành giả có được sự dõng mãnh mới có được sự thắng vượt mọi chướng ngại,
mới có được sự cát tường.
Tôi
thường nói với các đệ tử của tôi rằng khi làm bất kỳ việc gì, dù ở cương vị nào
cũng phải phát tâm dõng mãnh, thắng vượt chứ không bao giờ được thoái thất. Nếu
ai lui sụt, đừng trở về gặp mặt tôi nữa. Những người yếu đuối, bại hoại thì có
ích gì? Họ chẳng khác gì một thứ mà người Quảng Đông thường gọi là “thủy bì” là
túi da đựng nước mềm nhũn. Còn ở Đông Bắc thì gọi là “thảo bao”, là cái túi rơm
để đựng hạt giống mềm yếu và vô dụng. Nên hãy nhớ điều này: bất kỳ ai muốn phát
nguyện trở thành đệ tử của tôi là phải luôn luôn vượt thắng mọi điều, phải có
tâm kiên cố như chùy Kim Cang vậy. Còn như “thủy bì” và “thảo bao” thì không
thể nào theo nổi.
Tất lỵ tất lỵ là Hợp
chưởng thủ nhãn ấn pháp. Có thể khiến cho tất cả long xà, hổ
lang, sư tử, nhân cùng phi nhân ph1t tâm kính ngưỡng. Tuy nhiên, hành giả phải
thực sự có tâm dõng mãnh, vượt thắng và tâm bất thối chuyển. Công năng của ấn
pháp này không phải là ở chỗ ngôn thuyết mà phải bằng nỗ lực hành trì.
45. Tô rô tô rô
Tô rô tô rô. Hán
dịch là “cam lồ thủy”. Đây cũng chính là Cam
lồ thủ nhãn ấn pháp. Trước đây tôi đã giảng về diệu dụng của nước
cam lồ rồi. Có thể giúp cho các loài quỷ đói được no đủ và mọi tâm nguyện đều
được như ý, làm tiêu tan mọi sự đói khát, thọ nhận được nhiều điều tốt lành
khác nữa.
Nước
cam lồ này còn gọi là “Bất tử dược”. Nếu có người sắp chết uống nước cam lồ này
thì sẽ được sống lại. Nhưng không dễ gì gặp được nước cam lồ này nếu không có
duyên lành.
46. Bồ đề dạ – Bồ đề dạ
Bồ đề dạ. Hán dịch là “Giác đạo”.
Muốn thành tựu giác đạo thì trước hết, quý vị phải có được giác tâm. Nếu không
có giác tâm, thì không thể nào tu tập để thành tựu đạo giác ngộ. Hành giả trước
hết phải có tâm liễu ngộ chân thực rồi mới có thể tu tập đến chỗ thành tựu đạo
nghiệp được. Hai câu chú này gọi là Bất
thối kim luân thủ nhãn ấn pháp. Đó chính là tâm bồ đề kiên cố không bao
giờ thoái chuyển.
Từ
nay cho đến khi thành tựu quả vị Phật, quý vị phải phát tâm dõng mãnh ngày càng
tinh tất hơn. Đừng nên dừng lại hoặc lui sụt. Chẳng hạn như khi quý vị nghe
giảng kinh, hãy khởi tâm niệm rất khó có dịp được nghe giảng kinh Phật. Rất
hiếm khi được gặp pháp hội. Mặc dù chuyện này xem có vẻ bình thường, nhưng nếu
quý vị lắng lòng suy gẫm kỹ sẽ thấy giá trị vô cùng. Thử xem có nơi đâu trên
thế giới này có được một pháp hội tinh tấn như thế này, ngày nào cũng đến đây
để nghe giảng kinh? Còn có nơi đâu khác trên thế giới mà pháp âm tuôn trào như
thác, như sông mãi không ngừng như ở đây?
Nên
khi đã có duyên ngặp gỡ được pháp hội, quý vị phải thu xếp công việc, dù có bận
rộn bao nhiêu, bất luận pháp sư giảng đề tài gì, người nào giảng cũng phải đến
nghe. Đừng có phân biệt giữa pháp sư giảng hay và người giảng kém, rồi chỉ đến
nghe người giảng hay. Nếu quý vị vẫn kiên trì đến nghe bất luận pháp sư nào
giảng, lâu ngày chày tháng, chắc chắn quý vị sẽ thâm nhập được vào dòng đạo lý
chân thật. Dù ai giảng đi nữa, quý vị cũng nên đến nghe để hộ trì cho pháp hội.
Nếu một tuần có giảng pháp bảy đêm thì quý vị cũng nên tham dự cả bảy đêm. Đừng
nên lười biếng!
Pháp
môn này khó gặp được đã từng hằng triệu kiếp nay rồi. Một khi đã có duyên được
gặp thì phải nên tinh tấn tu học. Sự tinh tấn chính là “tâm Bồ đề” kiên cố dõng
mãnh vậy.
Nếu
bỏ mất tâm Bồ đề mà mong ngày thành đạo thì không khác gì nấu cát mà mong thành
cơm. Nên trong Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy:
“Vong
thấ Bồ đề tâm, tu chư thiện pháp, thị chư ma nghiệp”.
Nghĩa
là: “Bỏ quên tâm Bồ đề dù tu ngàn thiện pháp như
làm việ ma vậy”.
Về
bất thối, có ba dạng:
-
Thứ nhất là vị bất thối: Nếu hành giả đã chứng quả A la hán tồi, thì không còn
trở lại hàng phàm phu nữa, Nếu hành giả đã chứng quả Bồ tát rồi thì không còn
rơi lại hàng A la hán nữa. Nếu hành giả đã chứng đắc quả vị Phật rồi thì không
còn trở lại hàng Bồ tát nữa. Trừ những vị muốn thị hiện hóa thân để giáo hóa
chúng sanh. Ví dụ như hành giả có thể phát nguyện: “Nay tôi đã thành tựu quả vị
Phật rồi, tôi muốn hiện thân Tỳ kheo để giáo hóa chúng sanh”. Điều ấy hoàn toàn
đúng.
-
Thứ hai là niệm bất thối: Đôi khi hành giả phát khởi tâm niệm: “Tu học Phật
pháp thật chán, tôi không còn muốn tu hành hoặc đi giảng pháp gì nữa cả!”. Đây
là niệm thoái thất. Khi hành giả khởi niệm thoái thất, thì ma chướng liền theo
ngay, vì ma vương rất vui khi người tu hành khởi niệm lui sụt.
Một
khi quý vị đã đạt được “niệm bất thối”, thì càng nghe pháp, càng muốn được nghe
nhiều hơn.
Niệm
bất thối là tâm lượng của hành giả không còn bị trôi lăn trong dòng thức biến
“bất giác vọng động nữa”, không còn trải qua bốn tướng sinh trụ dị diệt của
niệm khởi nữa. Niệm bất thối luôn được lưu xuất từ Bồ đề tâm, là bạn đồng hành
của tâm kiên cố. Kiên cố là nét đặc trưng của tâm Bồ đề. Niệm bất thối và tâm
kiên cố là nền tảng của đại nguyện Bồ tát. Niệm bất thối là niệm mà vô niệm. Vô
niệm mà tự niệm “niệm vô niệm, vô niệm nhi tự niệm”. Niệm này là niệm vi mật
hiện tiền, không thể suy lường. Niệm bất thối luôn luôn đi với hạnh bất thối.
-
Thứ ba là hạnh bất thối: Nghĩa là thực hành đạo Bồ tát. Tuy làm mọi việc trong
vô số cảnh giới mà không hề rời bản tâm, rời đại nguyện, rời niệm bất thối.
Niệm Kim cang nguyện, thực hành Kim cang hạnh không thể nghĩ bàn.
Đứng
trên nhân thừa mà luận, thì hạnh bất thối là sự hành trì tinh tấn, miên mật với
tâm tinh tấn dõng mãnh hướng tới Phật thừa.
Khi
quý vị hành trì Bất thối Kim Luân thủ nhãn
ấn pháp, thì từ nay cho đến khi thành tựu quả vị Phật, quý vị sẽ
không còn thối chuyển. Nhưng quý vị phải tinh tấn hành trì!
47. Bồ đà dạ – Bồ đà dạ
Câu
chú này với câu trước giống nhau, chỉ khác âm giữa Bồ
đà dạ. Hán
dịch là “trí giả” và “tác giả”.
-
Trí là hiểu biết chân chính, là trí tuệ.
-
Giác là sự tỉnh thức.
Người
có được sự hiểu biết chân chính là người đã giác ngộ đích thực và có được trí
tuệ.
Đây
là Đảnh thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp. Chữ
hóa Phật trong Dảnh thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp chính
là “giác giả”. Vị Bồ tát hành trì thành tựu Đảnh thượng hóa Phật
ấn pháp cũng chính là “trí giả”. Cơ bản, “trí” và “giác” vốn chẳng khác nhau.
Giác
là sự giác ngộ, là giai đoạn sau của cái biết tròn đầy chân thực (trí).
Tri
là cái biết toàn triệt, là giai đoạn trước của giác ngộ. Nếu quý vị tu tập Đảnh
thượng hóa Phật ấn pháp thành tựu rồi thì quý vị sẽ là người có trí tuệ chân
chính, là người đã tự mình giác ngộ rồi. Nếu quý vị tu tập ấn pháp này thì mười
phương chư Phật sẽ liền đến xoa đầu thọ ký cho quý vị trong tương lai sẽ chứng
được quả vị Phật.
Trong
khi đang niệm Phật hoặc trì chú, hoặc tọa thiền, hành giả đôi khi có cảm giác
là lạ trên đỉnh đầu, như thể có một loài côn trùng bò quanh đầu vậy, nhưng khi
quý vị lấy tay sờ đầu thì thấy không có gì lạ. Tôi sẽ nói cho quý vị biết đó là
gì. Lúc ấy, chính chư Phật trong mười phương đến xoa đầu thọ ký cho quý vị sẽ
thành tựu Phật quả trong tương lai. Nhưng vì quý vị chưa có được thiên nhĩ
thông nên không nghe được; vì chưa có được thiên nhãn thông nên quý vị không
thấy được. Tuy vậy, chư Phật trong mười phương thực sự đã rời bổn độ du hành
đến đạo tràng xoa đầu thọ ký cho quý vị. Thế nên nếu quý vị có phước duyên gặp
được, thì đây là một cảm ứng xuất phát từ công phu hành trì của quý vị. Nhưng
quí vị không được khởi tâm mê đắm, hay ngã mạn mà nghĩ rằng: “À!
Chư Phật vừa đến xoa đầu thọ ký hộ trì cho tôi”. Nếu quý vị khởi niệm vui
mừng hay hãnh diện vì điều này cũng đều là chấp trước. Dù đây là triệu chứng
tốt lành, mà khi quý vị đã khởi tâm đắm chấp rồi, thì cũng trở nên xấu.
Trong
chương cuối của Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Đức Phật trìh bày rất nhiều cảnh giới,
tất cả đều là cảm ứng xuất phát từ nỗ lực dụng công tu hành. Nhưng nếu hành giả
nghĩ rằng mình đã chứng được cảnh giới vi diệu, thì hành giả trở nên bị chấp
trước và liền lạc vào tà ma ngoại đạo, liền bị ma chướng. Do vậy, khi tu tập
pháp này, quý vị phải tự an trú trong trạng thái “như như bất động”. Cho dù có
gặp cảnh giới tốt hoặc xấu, cũng giữ tâm kôhng dao động. Khi tâm không dao
động, là quý vị có được định lực, trí tuệ sẽ phát sinh. Có trí tuệ chân chính,
quý vị sẽ trở thành “trí giả” và “tác giả”.
48. Di đế rị dạ
Di đế rị dạ. Hán
dịch là “ chánh lượng”. Cũng dịch là “đại lượng”; nghĩa là số lượng rất nhiều,
không đếm được. Còn dịch là “đại từ bi tâm” nghĩa là tâm từ bi quá rộng lớn,
không có ngằn mé. Tâm từ bi này bảo hộ che chở cho tất cả mọi loaì chúng sanh
và giúp cho họ được an vui, khiến cho chúng sanh thể nhập với bản tâm của mình,
thoát khỏi sợ hãi và tránh xa mọi tai ương.
Đây
là Tích thượng thủ nhãn ấn pháp. Trên
đầu tích trượng có chín vòng tròn bằnh đồng. Lúc xưa, người xuất gia đi đâu
cũng mang theo tích trượng. Mỗi khi đi đường, chín vòng kim loại này sẽ tạo nên
âm thanh, báo động cho các loài côn trùng tránh xa để khỏi bị dẫm đạp lên mình.
Tích trượng là một loại pháp khí trong Phật giáo. Bồ tát Địa Tạng thường dùng
tích trượng như là chìa khóa để mở cửa các địa ngục. Vì vậy nên hành giả tu tập
ấn pháp này phải nuôi dưỡng lòng từ bi rộng lớn, phát nguyện cứu giúp cho toàn
thể mọi loài chúng sanh.
49. Na ra cẩn trì
Na ra cẩn trì. Hán
dịch là “Hiền ái” hoặc là “Hiền thủ” cũng dịch là “Thiện hộ”, “Thiện đảnh”.
Nghĩa là người đứng đầu trong các bậc Thánh hiền, họ là thượng thủ, là bậc khó
tìm cách bảo bọc, che chở cho chúng sanh, khéo độ thoát cho chúng sanh đến quả
vị tối cao.
Đây
là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp. Cũng
gọi là Hồ Bình ấn pháp. Bình nước này có thể tẩy trừ mọi uế trược ở thế gian,
cứu giúp chúng sanh thoát khỏi bệnh khổ. Bồ tát tu tập thành tựu ấn pháp này sẽ
có năng lực hộ niệm cho toàn thể chúng sanh. Khi quý vị tu tập pháp ấn này thành
tựu rồi, quý vị sẽ có khả năng cứu giúp mọi loài chúng sanh, giúp họ ngăn ngừa
được mọi tai ương, chướng nạn. Nên còn được gọi là “Thiện hộ”, “Thiện đảnh”.
50. Địa lỵ sắt ni na
Địa lỵ sắt ni na. Hán
dịch là “Kiên lợi”. Còn có nghĩa là “Kiếm”. Đây là Bảo
kiếm thủ nhãn ấn pháp. Trước đây khi giảng về bốn mươi hai thủ
nhãn ấn pháp, tôi có nói rằng ấn pháp này có công năng hàng phục mọi loài ly,
mỵ, võng lượng. Khi quý vị utu tập thành tựu ấn pháp này rồi, tất cả các loài
thiên ma ngoại đạo, ly mỵ vọng lượng đều ngoan ngoãn quy phục bởi vì họ sợ ấn
pháp Bảo kiếm này của hành giả. Ấn pháp này rất oai hùng. Nếu có loài thiên ma
ngoại đạo nào không tuân phục ấn pháp, hành giả có thể trừng phạt ngay bằng Bảo
kiếm này.
51. Ba da ma na
Ba da ma na có
ba ý: Thứ nhất là “danh văn” nghĩa là tên của hành giả được lưu truyền khắp
mười phương thế giới. Nghĩa thứ hai là “Hỷ xưng” là mười phương thế giới đều
vui mừng khen ngợi công đức của hành giả. Thứ ba là “thành danh”, “nhất thiết
nghĩa thành tựu”. Có nghĩa là mọi danh tiếng, mọi công hạnh đều được thành tựu
thật nghĩa và rốt ráo.
Đây
là Bảo tiễn ấn pháp. Nếu quý vị hành trì
ấn pháp này thành tựu sẽ liền gặp được thiện hữu tri thức.
52. Ta bà ha
Trong
chú Đại bi, câu Ta bà ha rất
là quan trọng. Câu này được lặp lại đến mười bốn lần.
Ta bà ha. Hán dịch có sáu
nghĩa. Bất kỳ chữ này xuất hiện ở bài chú nào cũng có đủ sáu nghĩa này.
Nghĩa
thứ nhất là “thành tựu”. Khi trì niệm câu chú này, tất cả sở cầu, sở nguyện của
hành giả đều được thành tựu. Nếu quý vị chưa có được sự cảm ứng khi hành trì,
là do vì tâm chưa đạt đến sự chí thành. Nếu quý vị có tâm chí thành và có niềm
tin kiên cố, thì chắc chắn sẽ được thành tựu. Nhưng chỉ cần móng khởi một chút
tâm niệm không tin vào chú này, thì không bao giờ được thành tựu.
Nghĩa
thứ hai là “Cát tường”. Khi hành giả niệm câu chú này thì mọi sự không tốt
lành, đều trở thành tốt lành như ý. Nhưng quý vị phải có lòng thành tín. Nếu
quý vị có lòng thành tín hoặc nửa tin nửa ngờ khi trì chú này thì chư Bồ tát
đều biết rõ. Vì thế nếu quý vị muốn mọi việc đều được đến chỗ thành tựu thì
trước hết phải có niềm tin chắc thật. Ví như khi cha của quý vị có bệnh, muốn
cha mình được khỏi bệnh thì quý vị phải hết sức thành tâm và chánh tin. Trì
tụng chú này mới có cảm ứng.
Hoặc
khi quý vị nghĩ rằng: “Từ lâu mình chưa được gặp
người bạn thân. Nay rất muốn gặp anh ta”. Quý vị niệm chú này
một cách chí thành, liền gặp bạn ngay. Hoặc quý vị nghĩ: “Ta
chẳng có người bạn nào cả, muốn có người bạn tốt”. Quý vị trì chú này
một cách thành tâm và liên tục, liền có được bạn lành, ngay cả gặp được thiện
tri thức.
Nghĩa
thứ ba của Ta bà ha là “viên tịch”.
Khi
các vị Tỳ kheo xả bỏ báo thân hoặc nhập Niết bàn thì được gọi là “viên tịch”.
Nhưng ở đây, chữ “viên tịch” không có nghĩa là chết. Chẳng phải niệm câu
chú Ta bà ha là để cầu sự viên tịch. Thế
thì công dụng của câu chú này là gì?
“Viên
tịch” có nghĩa là “công vô bất viên”. Là công đức của hành giả hoàn toàn viên
mãn; “đức vô bất tịch” là đức hạnh của hành giả đạt đến mức cao tột cực điểm.
Chỉ có chư Phật và Bồ tát mới biết được công hạnh rốt ráo tròn đầy ấy chứ hàng
phàm phu không suy lường được.
Nghĩa
thứ tư là “tức tai”, nghĩa là mọi tai nạn đều được tiêu trừ.
Nghĩa
thứ năm là “tăng ích”, là sự tăng trưởng lợi lạc của hành giả. Khi niệm
câu Ta bà ha thì công hạnh đều được tăng
trưởng, hành giả sẽ đạt được chỗ lợi lạc an vui.
Nghĩa
thứ sáu của câu này, tôi thiết nghĩ trong quý vị ít có ai biết được. Vì trước
đây tôi chưa từng nói bao giờ.
Ta bà hà có nghĩa là “vô trú”.
Nghĩa “vô trú” này nằm trong ý nghĩa của câu “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”
trong Kinh Kim Cang.
“Vô
trú” nghĩa là không chấp trước, không vướng mắc hay bám chấp một thứ gì cả.
Tâm
vô trú là không có một niệm chấp trước vào việc gì cả. Không chấp trước nghĩa
là tâm tùy thuận với mọi việc, thấy mọi việc đều là tốt đẹp. Đây chính là
trường hợp: “Vô vi nhi vô bất vi” (không
khởi niệm tác ý nhưng điều gì cũng được thành tựu). Vô
trú chính là vô vi theo nghĩa ở trên, và vô vi chính là vô trú.
Khi
quý vị vừa móng khởi lên một niệm tưởng, đừng nên vướng mắc vào một thứ gì cả,
đó là nghĩa thứ sáu của Ta bà ha.
Quý vị đừng nên trụ vào các niệm tham, sân, si, mạn, nghi. Nếu quý vị có tất cả
các tâm niệm trên thì phải nhanh chóng hàng phục chúng, chuyển hóa chúng để tâm
mình không còn trụ ở một niệm nào cả. Hàng phục, chuyển hóa được những tâm niệm
chúng sinh ấy gọi là vô trú. Dùng cái gì để chinh phục chúng? Dùng Bảo
kiếm ấn pháp này để hàng phục. Quý vị nói rằng tâm quý vị bị đầy dẫy
niệm tham chế ngự. Tôi sẽ dùng Bảo kiếm này để cắt sạch. Nếu tâm quý vị có đầy
ma oán, tôi cũng sẽ dùng Bảo kiếm này đuổi sạch. Nếu tâm quý vị bị ma si mê
chiếm đoạt, tôi sẽ dùng kiếm trí tuệ này chặt đứt chúng từng mảnh.
Tôi
sẽ chặt đứt tất cả các loài ma ấy bằng Bảo kiếm Kim cang vương này, tức là dùng
kiếm Trí tuệ để hàng phục. Nếu quý vị muốn hàng phục thiên ma ngoại đạo thì
trước hết quý vị phải chuyển hóa được mọi vọng tưởng của mình. Khi quý vị chuyển
hóa được vọng tưởng trong tâm mình, thì thiên ma ngoại đạo cũng được hàng phục
luôn, cho dù chúng có muốn đến để quấy phá, chúng cũng chẳng tìm được cách nào
để hãm hại được cả.
Trên
đây là sáu nghĩa của Ta bà ha.
Bất luận câu chú nào dưới đây có chữ Ta
bà ha đều
mang đầy đủ sáu nghĩa trên.
53. Tất đà da
54. Ta bà ha
55. Ma ha tất đà da
56. Ta bà ha
Chữ Tất
đà da có
năm nghĩa: Thứ nhất là “Thành tựu đốn kiết”.
Thứ hai là “thành biện”. Thứ ba là “thành
lợi”.Thứ
tư là “nhất thiết nghĩa thành tựu” và
thứ năm là “sở cung xưng tán”.
Thành
tựu đốn kiết nghĩa là khi sử dụng thần chú này, thì mọi sở cầu, sở nguyện của
hành giả liền tức khắc (đốn) được an lành (kiết), toại nguyện.
Có
người hỏi: “Tại sao tôi cũng trì chú Đại Bi, mà không
được toại nguyện tức thì”? Vì sự trì niệm chú Đại Bi đòi hỏi phải
có sự tương ứng từ nỗ lực dụng công. Nếu không có sự nỗ lực hành trì tương ứng,
thì sẽ không có sự thành tựu. Nếu có sự cảm ứng, dung thông thì mọi sở cầu, sở
nguyện của hành giả đều được thành tựu.
Tất đà dạ còn có nghĩa là
“thành biện”. Nghĩa là hành giả làm bất cứ việc gì thì kết quả đều đạt được
viên mãn.
Cũng
gọi là “thành lợi” là vì mọi việc làm đều được thành tựu lợi ích.
Nhất
thiết nghĩa thành tựu có nghĩa là làm bất kỳ việc gì cũng đều được thành tựu.
Sở cung
xưng tán có nghĩa là mọi người đều đến khen ngợi, cung kính tán dương công đức
của hành giả.
Ma ha tất đà dạ. Ai cũng đều biết Ma
ha có
nghĩa là lớn. Câu chú này có nghĩa là hành giả đạt được mọi sự nghiệp to lớn,
thành tựu được công đức thù thắng và đạo nghiệp viên mãn. Trong mọi việc, hành
giả đều đạt được sự thành tựu viên mãn cao tột.
Cả
hai câu chú hợp lại Tất đà dạ ta bà ha Ma ha
tất đà dạ ta bà ha là Bảo
kinh thủ nhãn ấn pháp. Bảo Kinh là sự quý giá vô ngàn của Kinh
điển, chính là Pháp bảo. Nếu quý vị tu tập ấn pháp này thì sẽ đạt được lợi lạc
vô cùng vô tận. Trong tương lai, trí tuệ và sức ghi nhớ của quý vị sẽ rất tinh
anh. Nghĩa là có được khả năng “bác văn cường ký” – nghe nhiều, nhớ kỹ.
Ký
ức của chúng ta thường hoạt động theo một lối riêng. Cũng như không thể nào đi
nếu không có cây gậy. Sau khi đọc được điều gì, chúng ta không thể nhớ rõ ràng
hết được. Chỉ khi nào cần cho sự học tập của mình, chúng ta mới lục lại tìm
kiếm hay tra cứu lại những ghi chép. Tại sao trí nhớ của mình lại quá kém. Vì
quý vị chưa từng hành trì Bảo kinh thủ nhãn ấn
pháp này.
Nếu quý vị hành trì ấn pháp này, quý vị sẽ đạt được sự hiểu biết thông tuệ và
kiến thức rất đa dạng. Giống như Tôn giả A Nan, là đệ tử đa văn đệ nhất của đức
Phật. Có thể nói Ngài A Nan đã hành trì Bảo
kinh ấn pháp mà
chẳng nghi ngờ gì. Ngài đã thành tựu ấn pháp này từ vô lượng kiếp rồi, nên khi
nghe được điều gì, thì không còn quên nữa. Ngay cả Ngài có thể nhớ được những
điều Ngài chưa từng nghe. Tại sao tôi nói như vậy? Vì Tôn giả A Nan ra đời cùng
ngày đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo. Như thế nên hai mươi năm trước, khi A
Nan chưa xuất gia, thì những bài thuyết pháp của đức Phật Ngài A Nan chưa được
nghe. Thế thì làm sao A Nan có thể kết tập toàn bộ Kinh điển sau khi đức Phật
nhập Niết bàn? Vì A Nan được nghe các vị trưởng lão giảng lại những bài Kinh mà
đức Phật đã thuyết từ trước, hoặc chính do đức Phật giảng lại cho A Nan nghe
khi A Nan nhập định nên A Nan thừa biết rõ nguyên nhân của sự nhớ giỏi này là
nhờ đã hành trì Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp thành
tựu.
Có
người hỏi tôi: “Làm thế nào để có được trí nhớ tốt?” Câu trả lời đơn giản là
hãy hành trì Bảo kinh ấn pháp. Những người nhớ được Kinh
rõ ràng là có duyên với ấn pháp này.
Ở
trong đồ hình mạn đà la, đây là ấn pháp Bồ tát phóng quang. Ngài phóng ra hào
quang và tay cầm một tràng phan màu đỏ. Toàn thân Bồ tát phóng ra những luồng
hào quang sáng chói biểu tượng cho sự khai mở trí tuệ, sự cường ký, trí lực đa
văn quảng kiến và công đức thành tựu viên mãn.
57. Tất đà du nghệ
58. Thất bà ra dạ
59. Ta bà ha
Tất đà. Hán
dịch là “thành tựu lợi ích”.
Du nghệ. Hán
dịch là “Vô vi” hay còn gọi là “hư không”.
Thất bàn ra dạ. Hán dịch là “Tự tại”. Đây
là Bảo hiếp thủ nhãn ấn pháp. Hành
giả thành tựu ấn pháp này có thể sử dụng lấy tất cả các thứ châu báo ẩn giấu
trong lòng đất để làm lợi ích cho chúng sanh. Ý của câu chú này nói rằng ở nơi
thể tánh mà thường được tự tại và thành tựu vô lượng công đức.
60. Na ra cẩn trì
61. Ta bà ha
Na ra cẩn trì. Hán dịch là “ái hộ” nghĩa
là thường nỗ lực bảo bọc che chở tất cả chúng sanh. Câu chú này cũng mang ý
nghĩa đại Từ Bi.
Đây
là Bảo bình thủ nhãn ấn pháp.
62. Ma ra na ra
63. Ta bà ha
Ma ra. Hán dịch là “Như ý”
Na ra. Hán dịch là “Tôn thượng”.
Đây
là Quyến sách thủ nhãn ấn pháp. Ấn
pháp này có công năng mang lại sự an vui như ý đến cho hành giả, khiến cho các
thứ bệnh tật, chướng nạn đều được tiêu trừ.
Quyến sách thủ nhãn ấn pháp có
rất nhiều diệu dụng. Hành giả có thể kết một sợi dây ngũ sắc rồi hành trì quyến
sách ấn pháp vào sợi dây ấy. Thành tựu rồi thì khi phóng sợi dây này ra, các
loài yêu ma quỷ quái, ly mỵ vọng lượng đều bị trói chặt. Không thể nào chạy
thoát được. Từ đó sẽ tìm cách giáo hóa cho các loài ấy hồi tâm hướng thiện. Đây
là diệu dụng của ấn pháp này. Mới xem qua thì có vẻ bình thường nhưng công năng
thật khó lường.
Trong
đạo giáo gọi ấn pháp này là “Khổn tiên thằng”.
64. Tất ra tăng a mục khư da
65. Ta bà ha
Tất ra tăng. Hán dịch là “thành tựu –
ái hộ”. Nghĩa là thường đem hết sức mình để bảo hộ che chở cho tất cả chúng
sanh.
A mục khư da. Hán dịch là “bất không,
bất xả”.
Bất
không có nghĩa là hữu. Nhưng đây có nghĩa là diệu hữu.
Bất
xả có nghĩa là “Bất xả nhất pháp”. Không từ bỏ một việc gì, phải thông thạo tất
cả các pháp. Nên có câu kệ:
“Chân
như lý thượng bất lập nhất trần.
Phật
sự môn trung bất xả nhất pháp”.
Nghĩa
là:
“Trên phương diện bản thể, lý tánh tức chân
như, thì không cần lập một thứ gì nữa cả, dù chỉ là hạt bụi.
Nhưng về mặt sự tướng, có nghĩa là việc hành
trì, tu đạo thì không được bỏ qua một pháp nào cả”.
A mục khư da còn có nghĩa nữa là
“ái chúng, hòa hợp”. Nghĩa là thương yêu, hòa hợp, thường cứu giúp tất cả chúng
sanh.
Câu
chú này còn có nghĩa khác là trong tự tánh của mỗi chúng sanh đều có đủ tánh tự
tại và tánh công đức thường vẫn tròn đầy.
Đây
là Bảo phủ thủ nhãn ấn pháp.
Khi hành trì ấn pháp này thành tựu, hành giả có thể tránh được nạn tù tội, bất
kỳ nơi đâu, bất kỳ mọi lúc, hành giả đều không bị vướng phải các chướng nạn về
quan quyền nữa.
Quý
vị sẽ hỏi: “Nếu tôi tu tập ấn pháp này, liệu tôi có thể phạm pháp mà vẫn không
bị bỏ tù hay sao?”
Không!
Là Phật tử, quý vị không được phạm pháp. Nếu quý vị đã thông hiểu Phật pháp và
phát tâm tu học Phật pháp rồi, thì làm gì có chuyện phạm pháp nữa? Còn nếu quý
vị làm chuyện phạm pháp, tất nhiên phải bị bắt và ở tù.
Tuy
nhiên, đôi khi có những người vô tội bị bắt ở tù. Đây là vì họ chưa bao giờ tu
tập Bảo phủ thủ nhãn ấn pháp này.
66. Ta bà ma ha a tất đà dạ
67. Ta bà ha
Như
quý vị đã biết, thế giới chúng ta đang sống là thế giới Ta bà. Ta bà có nghĩa
là “kham nhẫn”. Còn được dịch là “nhẫn ái”. Còn dịch là “Thiện thuyết, thiện
đáo”.
Kham
nhẫn có nghĩa là chúng sanh như chúng ta khó có thể chịu đựng nổi những sự
thống khổ ở cõi giới Ta bà này.
Nhẫn
ái có nghĩa là chúng sanh thế giới Ta bà này không những có thể chịu đựng mọi
khổ đau mà còn sanh khởi lòng thương yêu mọi loài nữa.
Thiện
thuyết, thiện đáo nghĩa là, luôn luôn nói lời tốt đẹp, lợi ích khi ở trong thế
giới Ta bà. Cùng khuyến khích mọi người hiện thân đến ở cõi giới Ta bà này.
Ma ha là lớn. Đây có nghĩa
là pháp Đại thừa, tức là Bồ tát đạo.
A tất đà dạ. Hán dịch là “vô lượng
thành tựu”. Nghĩa là tu tập pháp Đại thừa của hàng Bồ tát có công năng đưa hành
giả đến bờ bên kia một cách rốt ráo và thành tựu vô lượng công đức.
Đây
là Bồ đào thủ nhãn ấn pháp. Khi
quý vị tu tập thành tựu ấn pháp này thì trong miệng hành giả thường có vị ngọt
của nho, còn hơn vị ngọt của đường. Quý vị hãy chú ý điểm này, trong khi hành
trì ấn pháp này mà thấy trong miệng có vị ngọt nghĩa là bắt đầu có sự cảm ứng.
Khi thành tựu ấn pháp này rồi, khi quý vị có trồng trọt các loại nông sản, ngũ
cốc, thì sâu bọ côn trùng không thể phá hoại mùa màng của quý vị. Còn các loại
cây ăn quả như cam, đào, hạnh, lê, … sẽ sinh trưởng rất nhanh và có vị ngọt
khác thường. Công năng của Bồ đào ấn pháp này
rất lớn và sự thành tựu của pháp Đại thừa là vô lượng vô biên.
Tất la tăng a mục khư da. Ở
trong đồ hình mạn đà la là hình ảnh biểu tượng cho bổn thể của Dược Vương Bồ
tát, người đã dùng vô số phương tiện, dược liệu để chữa bệnh cho chúng sanh.
Ta bà ma ha a tất đã dạ ta bà ha là
bổn thể của Bồ tát Dược Thượng, người cũng thường dùng vô số phương thuốc để
chữa lành bệnh cho chúng sanh.
68. Giả kiết ra a tất đà dạ
69. Ta bà ha
Giả kiết ra a tất đà dạ.
Hán dịch là “Kim cang luân”. Còn gọi là Kim cang Bạt chiết la. Kim cang luân
này có hình tròn nhưng có khác so với Kim cang luân khác. Câu chú này còn có
nghĩa là “Hàng phục oán ma”. Khi trong tâm luôn luôn sinh khởi xung khí và bất
bình thì gọi là ma. Khi ấy họ thường phê phán mọi điều. Họ nói “Chư Phật thường
làm những việc sai trái, cho đến hành Bồ tát, A la hán, chư Thiên, Diêm Vương
cũng đều như thế”. Họ phản đối kịch liệt và hằn học đối với tất cả mọi điều.
“Tất cả đều là tà vạy”. Họ giống như kẻ cuồng si, chẳng để ý gì đến pháp luật
nữa. Họ luôn xung khắc với toàn cả thế gian. Trong nhân gian gọi loại người này
là điên cuồng. Trong hàng quỷ thần thì hạng người này được gọi là Ma. Nộ khí
của loài ma oán này thường xôn g khắp cõi Trời. Nó thường giận dữ: :Ai cũng đều
quá vô lễ với ta!”. Hoặc nó nói: “Phật hả? Ta sẽ đánh bại ngay. Bồ tát hay A la
hán ta cũng hạ gục luôn. Còn loài người, ta sẽ ăn thịt hết. Ma quỷ thì ta sẽ
chà nát dưới gót chân. Ta sẽ xé nát thân chúng ra cho đến chết!” Oán khí loại
ma này thật ghê rợn.
Đây
là Bạt chiết la thủ nhã ấn pháp.
Với Kim cang luân, hành giả có thể đập tan các loài thiên ma ngoại đạo, quỷ
thần thành từng mảnh vụn. Bất luận đó là loại ma nào, nó đều bị thu phục và
vâng lời khi hành giả dùng Kim cang luân để thi hành ấn pháp này. Ma oán sẽ
cung kính đảnh lễ hành giả và thưa: “Con nguyện quy phục ấn pháp. Nguyện theo
mọi quy luật, không dám xâm hủy”.
Kim cang luân ấn pháp không
những chỉ có công năng hàng phục thiên ma ngoại đạo, mà còn có công năng phát
ra âm thanh chấn động. Đạo giáo gọi âm thanh này là “Ngũ Lôi Oanh Đảnh”.
Sấm
sét vốn thường phát sinh từ trên Trời, nhưng các Đạo sĩ Lão giáo có thể phóng
ra tiếng sấm từ lòng bàn tay khi họ kết một loại ấn gọi là Chưởng tâm lôi.
Tiếng sấm sét vang ra khiến cho thiên ma bị chấn động, thậm chí còn có thể
khiến thịt da nó bị tan tành từng mảnh.
Khi
giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tôi có nói về một người bạn thân, có khả năng sử
dụng được ấn pháp này. Khi quý vị hành trì thành tựu ấn pháp này rồi, thì sấm
sét sẽ vang rền khi quý vị sử dụng ấn pháp và tiếng vang của nó sẽ hàng phục
được tất cả các loài ma oán.
A tất đà dạ. Hán dịch là “Vô tỷ thành
tựu”. Hành giả trì chú này sẽ được thành tựu công đức rất lớn; không có gì so
sánh được, cho nên mới khiến cho các loài ma oán đều quy đầu phục thiện.
70. Ba đà ma yết tất đà dạ
71. Ta bà ha
Ba đà ma. Hán dịch là “Hồng liên
hoa”.
Yết tất đà dạ. Hán dịch là “Thiện
trắng”.
Hồng
liên hoa này là siêu việt tất cả mọi loài và thành tựu vô lượng công đức. Khi
quý vị tu tập Hồng liên hoa thủ nhãn ấn pháp này
thành tựu rồi, nếu quý vị muốn sanh ở cõi Trời thì ước nguyện ấy rất dễ thành
tựu như ý.
72. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ
73. Ta bà ha
Na ra cẩn trì. Hán dịch là “Hiền thủ”.
Hiền
là thánh hiền.
Thủ
là giữ gìn, canh giữ hộ trì.
Bàn đà ra dạ dịch nghĩa là Quán
Thế Âm, Quán Tự Tại.
Đây
là Thí vô úy thủ nhãn ấn pháp mà
Bồ tát Quán Thế Âm thường dùng để cứu độ chúng sanh, giúp cho mọi loài không
còn sợ hãi trong mọi lúc, mọi nơi.
74. Ma bà lợi thắng yết ra da
75. Ta bà ha
Ma bà lợi thắng. Hán dịch là “Đại dõng”,
cũng dịch là “anh hùng đức”, nghĩa là đức hạnh của bậc đại anh hùng. Bồ tát
Quán Thế Âm cũng được gọi như thế.
Yết ra da. Hán dịch là “sinh tánh”
hoặc là “bổn tánh”. Nghĩa là tự tánh bản hữu của chúng sanh vốn sẵn có đức hạnh
của bậc đại anh hùng. Đức hạnh của đại anh hùng chính là do hành trì Tổng
nhiếp thiên tý thủ nhã ấn pháp, ấn pháp này có công năng hàng phục mọi loài
ma oán không chỉ ở thế giới này mà khắp cả đại thiên thế giới.
Hành
giả tu tập ấn pháp này nên biết đây là ấn pháp quan trọng nhất trong tất cả bốn
mươi hai ấn pháp. Vì khi hành trì ấn pháp này, thì tất cả bốn mươi hai ấn pháp
kia đều có đủ trong ấn pháp này.
Quý
vị có thể thắc mắc: “Thế thì tôi chỉ cần hành
trì một ấn pháp này thôi cũng đủ, chẳng cần hành trì bốn mươi mốt ấn pháp kia
nữa”.
Nếu
quý vị lười biếng thì cứ làm. Nếu không phải là kẻ lười biếng, thì nên hành trì
tất cả bốn mươi hai ấn pháp. Mặt khác, quý vị muốn làm kẻ lười biếng và thích
tu tập để trở thành một vị Bồ tát lười thì cứ tu tập ấn pháp cuối cùng này
trong bốn mươi hai ấn pháp kia. Sẽ phải mất khá nhiều thời gian mới thành tựu
được. Tuy nhiên, vì quý vị là người lười biếng nên sẽ không được thành tựu sớm
là điều hiển nhiên. Thế nên các pháp đều là bất định. Nếu quý vị không muốn trở
thành một vị Bồ tát lười, quý vị sẽ chẳng bận tâm thời gian lâu hay mau để tu
tập các ấn pháp này.
76. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
Câu
này đã được giảng rõ ở phần đầu Kinh văn rồi. Nhưng có trường hợp quý vị bị
quên, nên tôi sẽ giảng lại lần nữa. Những người tuy có nhớ, nhưng không được rõ
ràng, nghe lại lần này sẽ được rõ thêm. Những người đã nhớ kỹ rồi, nghe được
một lần này nữa lại càng hiểu sâu hơn.
Nếu
tôi giảng chưa rõ, quý vị cứ hỏi tôi ngay tức khắc, vì cách tôi giảng Kinh hoàn
toàn khác với các Pháp sư. Tôi không dùng tài liệu hoặc các luận giải.
Nam mô có nghĩa là “Quy y”.
Quy y gì? Con xin uy y Tam bảo.
Hắc ra đát na có nghĩa là “bảo”:
quý báu.
Đá ra dạ dịch là “Tam”: ba
Toàn
câu nghĩa là con nguyện quy y Tam bảo. Con nguyện đem cả thân tâm tánh mạng để
quy y. Như những Phật tử tại gia đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Đó là
quy y Tam bảo.
Quy
y Tam bảo tức là quy y với toàn thể chư Phật trong ba đời, khắp cả mười phương,
cùng tận hư không pháp giới. Cũng tức là quy y với tất cả pháp trong ba đời,
mười phương, cùng tận hư không pháp giới. Cũng chính là đem hết thân tâm tánh
mạng quy y với tất cả các bậc Hiền thánh tăng trong ba đời, mười phương, cùng
tận hư không pháp giới.
Hư
không, chẳng bao giờ cùng tận. Tất cả các cõi nước đều nằm trong pháp giới này.
Có tất cả mười pháp giới, trong đó bốn cõi giới của các bậc Thánh Hiền và sáu
cõi giới của chúng sanh phàm phu. Bốn cõi giới của bậc Hiền Thánh là: Phật, Bồ
tát, Thanh văn, Duyên giác.
Sáu
cõi giới phàm phu là: Trời, người, A tu la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục.
Mười
phương là: Bắc, Đông, Nam, Tây, Đông Bắc, Tây Bắc, Đông Nam, Tây Nam, đó là tám.
Thêm phương trên và phương dưới tất cả là mười.
Ba
đời là quá khứ, hiện ại, vị lai. Chúng ta quy y với Phật bảo trong suốt khắp
mười phương ba đời. Những lời đức Phật dạy được gọi là Pháp bảo. Tam tạng Kinh
điển được diễn đạt qua mười hai phần Kinh văn (bộ Kinh). Tất cả Kinh điển do
đức Phật nói ra được gọi là Pháp bảo. Pháp bảo không chỉ hiện hữu và lưu hành
trong nhân gian mà còn lưu hành khắp cả hư không và pháp giới.
Khi
nào quý vị có được ngũ nhãn, lục thông rồi thì quý vị mới thâm nhập được vào chân
Kinh. Có nghĩa là quý vị đọc được “vô tự chân Kinh”. Trong hư không, bất kỳ lúc
nào thích, quý vị đều đọc được chân kinh mà không cần hở môi. Lục Tổ đã từng
nói:
“Khi mê Pháp Hoa chuyển
Khi ngộ chuyển Pháp Hoa”.
“Vô
tự” không có nghĩa là Kinh không có chữ. Mà chính là hàng phàm phu không thấy
được chữ. Tuy nhiên, khi quý vị nhìn sâu vào hư không, quý vị có thể thấy được
chư Phật đang tụng Kinh. Một số vị đang tụng Kinh Pháp Hoa, một số vị đang tụng
Kinh Thủ Lăng Nghiêm và một số vị khác đang tụng Kinh Hoa Nghiêm. Chư Phật đều
đang tụng Kinh và trì chú như thần chú Thủ Lăng Nghiêm. Chư Phật luôn luôn hành
trì các thời khóa tụng ấy. Nhờ thế nên Pháp bảo được hiện hữu và lưu truyền
suốt khắp tận hư không pháp giới.
Chúng
ta cũng quy y Tăng bảo suốt cả ba đời, cùng tận hư không pháp giới. Thành phần
nào tạo thành Hiền Thánh Tăng? Chính là các đại Bồ tát, các đại A la hán, các
đại Tỳ kheo tăng.
Đá ra dạ có nghĩa là “tam”:
ba. Chúng ta quy y với Tam Bảo trong suốt mười phương, ba đời cùng tận hư
không pháp giới.
Da có nghĩa là “đảnh
lễ”. Là quy y và cung kính đảnh lễ trước Tam Bảo.
77. Nam mô a lị da
Nam mô.
Hán
dịch là “quy y”.
A lị da. Hán dịch là “Thánh giả”,
cũng có nghĩa là “Thánh Hiền”. Câu chú này thể hiện sự quy y với tất cả các
Hiền Thánh Tăng.
78. Bà lô kiết đế
Bà lô kiết đế. Hán dịch là “quán”.
79. Thước bàn ra da
Thước bàn ra da. Hán dịch là “tự tại”.
Toàn câu Bà lô kiết đế thước bàn ra da có
nghĩa là Quán Tự Tại tức là Bồ Tát Quán Thế Âm.
80. Ta bà ha
Bồ
tát Quán Tự Tại đã thành tựu tất cả mọi công đức. Ta
bà ha có
nghĩa là thành tựu công đức vô lượng vô biên.
81. Án tất điện đô
Nay
phần kinh văn của thần chú đã được tụng rồi. Tiếp theo là phần chân ngôn. Thông
thường có chữ Ánluôn
luôn dẫn đầu cho phần chân ngôn này. Nên chữ Án mang
ý nghĩa “dẫn sinh nghĩa”.
Tất nghĩa là “thành tựu”.
Điện đô. Hán dịch là “ngã giới” là
đạo tràng, lãnh thổ, cương vực của mình đã được kiết giới thành tựu. Phạm vi
kiết đại giới là 800 do tuần (yojanas) và trung giới là 600 do tuần. Trong phạm
vi đã được kiết giới này, hành giả thường được an lạc và yên tịnh, tất cả mọi
công đức đều được thành tựu và bản nguyện đều được như ý.
Chẳng
hạn như khi tôi đã kiết giới đạo tràng trong phạm vi địa hạt San Francisco (Cựu
Kim Sơn) thì trong toàn bộ vùng này sẽ không xảy ra động đất hoặc những thiên
tai khác. Vì các vị hộ pháp, thiện thần đều phải hộ trì cho nguyện lực của đạo
tràng được thành tựu.
Phạm
vi và ý nghĩa kiết giới lớn làm sao! Một hạt vi trần cũng rộng lớn bao la rồi.
Vì một hạt vi trần của hành giả là bao hàm vô lượng vi trần vô lượng thế giới,
và vô lượng vi trần trong thế giới cũng chỉ hàm ẩn trong một vi trần. Vì vậy,
nếu một vi trần hoại diệt thì vô lượng vi trần đều hoại diệt. Một hạt vi trần
tồn tại thì vô lượng vi trần cũng tồn tại. Đó là sự vi diệu của sự kiết giới.
82. Mạn đà ra
Mạn đà ra. Hán dịch là “đạo tràng”,
cũng dịch là “Pháp hội”. Nghĩa là đạo tràng của hành giả nhất định phải thành
tựu. Pháp hội của hành giả nhất định phải thành tựu.
83. Bạt đà da
Bạt đà da dịch là “Toại tâm
viên mãn”. Chẳng hạn như khi tôi muốn một vi trần kh6ng hoại thì nó sẽ không
hoại. Nếu tôi muốn tất cả các vi trần không bị tan hoại thì các vi trần ấy sẽ
kết hợp lại với nhau. Khi tôi niệmÁn,
tất điện đô mạn đà ra bạt đà da ta bà ha với tâm nguyện sẽ
không có nạn động đất xảy ra ở San Francisco (Cựu Kim Sơn), hoặc nếu có nạn
động đất lớn thì nạn ấy biến thành nhỏ, nạn nhỏ thì biến thành không có. Nhờ
vậy nên không có nạn động đất, không có ai sợ hãi. Thế nên gọi là sự thành tựu.
Tùy theo tâm nguyện mà đều được như ý (toại tâm viên mãn). Nếu quý vị có niềm
tin chí thành, thì thấy rất là màu nhiệm. Còn nếu quý vị không tin, là vì quý
vị chẳng thích thú gì với những điều mầu nhiệm như trên.
84. Ta bà ha
Ta bà ha dịch là “thành tựu”.
Thành tựu điều gì? Thành tựu mọi thệ nguyện của hành giả. Bất luận quý vị phát
tâm nguyện gì, quý vị sẽ đạt được như ý khi niệm Án
tất điện đô mạn đà ra bạt đà da ta bà ha.
Những vị khi làm lễ thế
phát xuất gia cũng trì niệm câu chú này. Có nghĩa là ước nguyện việc xuất gia
tu học Phật pháp sẽ được như ý thành tựu viên mãn.
Đến đây thì Kinh Đại Bi
Tâm Đà La Ni và chú Đại Bi đã được giảng giải xong. Nay tôi cũng đã giảng hết
bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, đó là phần sau của Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni. Còn
phần sau nữa là khoa nghi hành trì, là phương pháp tu hành, nay tôi không nhắc
lại nữa.
Năm trước, một số đệ tử
có tâm nguyện được nghe giảng chú Đại Bi. Đến nay quý vị nghe giảng gần một
năm. Pháp hội này được xem như thành tựu viên mãn.
Tôi nguyện rằng quý vị
có phát tâm hành trì điều gì cũng được như ý, tất cả đều được Bạt đà da ta bà ha, tức là thành tựu viên mãn tâm nguyện của mình.
Mỗi người có sự phát nguyện khác nhau, nên sự thành tựu cũng không đồng, nhưng
đều viên mãn cả.
Nguyện cho tất cả Phật
tử có duyên được nghe Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni này đều sớm thành tựu quả vị
Phật, vì đây là ước nguyện của những người thâm tín chư Phật.
Một khi quý vị đã chứng
được quả vị Phật tức là mọi việc đều “toại tâm mãn nguyện” rồi.