Chúng tôi chân thành xin mời tất cả bạn lữ gần xa, cùng ngồi
lại bên nhau để thưởng thức những tách trà thơm ngon tinh khiết. Xin
mời!
ĐÔI LỜI TÂM SỰ
Tôi lúc trước, si mê cùng lầm lạc. Gây biết bao, khổ não cho nhiều
người. Nhờ Tam Bảo, mẹ hiền đã tế độ. Tôi vượt qua, ngục tù trong muôn
khổ. Để rồi đây, kết nguyện với muôn loài. Hầu đền đáp, sẻ chia cùng tất
cả . Để cùng nhau, kết nối tình yêu thương.
Đã làm người trong thiên hạ, ai không một lần thất bại, nếu ta
ngồi yên hay đứng lại một chỗ thì không bao giờ vấp ngã. Càng bước đi,
càng dễ dàng vấp ngã, nhưng nó không làm chết đi những con người tài
đức, mà chỉ là thử thách tôi luyện thêm ý chí, lập trường cho người có
đức hạnh và tài ba. Ngược lại nó, sẽ quật ngã những kẻ mềm lòng, yếu
đuối, bạc nhược, dễ duôi, không có khả năng kiên nhẫn, chịu đựng, để rồi
rơi vào hố sâu của đam mê tội lỗi. Nghịch cảnh hay chướng duyên, không
phải là tảng đá lớn ngăn cản bước đi của chúng ta. Nó chỉ là thềm đá
rộng, để giúp cho bước chân chúng ta đi đều và vững vàng hơn, trong cuộc
hành trình trở về thế giới tâm linh của chính mình.
Giống như cục đất sét, khi chưa được nhào nặn để đưa vào lò nung
đúng độ, gặp trời mưa chúng sẽ rã ra, không còn xài vào việc gì được
nữa, thậm chí còn làm tổn hại đến cho nhiều người.
Ngược lại. Cục đất sét kia, sau khi đã được con người nhào nặn và
tôi luyện đúng độ trong lò nung, dễ trở thành một bình trà xinh xắn,
cuối cùng đã giúp cho con người có những tách trà thơm ngon.
Chúng tôi chân thành xin mời tất cả bạn lữ gần xa, cùng ngồi lại
bên nhau để thưởng thức những tách trà thơm ngon tinh khiết. Xin mời!
Đã làm người, ai không một lần vấp ngã hay thất bại! Vấp ngã nhiều
hay ít thực ra không quan trọng, mà quan trọng là sau khi vấp ngã chúng
ta có can đảm đứng dậy hay không? Chúng ta có dám mạnh dạn nhận diện lỗi
lầm để làm mới lại chính mình, hay biết mà vượt qua không nỗi để rồi
phải chịu mang họa vào thân. Cuối cùng bị mặc cảm, tự ti, hối hận suốt
cả cuộc đời chôn vùi trong khuất lấp và sống trong đau khổ lầm mê. Để
vượt qua lỗi lầm sau khi vấp ngã, chúng ta phải tự đứng lên mặc dù rất
khó. Nhưng nếu không nhận ra được lỗi lầm, dù có muốn làm mới lại cuộc
đời, làm mới lại chính mình, cũng phí công vô ích. Vì sao? Vì không thấy
mình sai, làm sao sửa sai?
Cho nên, người có lỗi lầm sau khi vấp ngã, hãy can đảm nhận ra điều
sai quấy của mình, nguyên nhân từ đâu đến, do khách quan hay chủ quan,
nếu là khách quan, ta hãy nên quán chiếu xem xét trở lại, tự mình an ủi
lấy mình, biết đây là nghiệp xấu đã gieo tạo từ trước, giờ đến hồi trả
quả. Một con người đáng được tán thán và ca ngợi không phải ở chỗ chưa
bao giờ vấp ngã, mà sau khi vấp ngã, người đó có dám mạnh dạn đứng lên
hay không?
Chúng ta đã biết, trong đời này có hai hạng người đáng được tán
thán và tôn kính. Hạng người thứ nhất chưa từng lầm lỗi, hạng người thứ
hai đã từng gieo tạo tội lỗi, nhưng biết ăn năn sám hối hứa chừa bỏ và
không còn tái phạm lỗi lầm. Giống như con cá khi đã bị mắc vào lưới, mà
còn tìm cách nhảy ra để được thoát thân không phải hay là gì? Cũng đồng
là cá, biết bao con khác phải nằm chờ chết, vì không đủ sức vùng vẫy
thoát ra, đành cam chịu số phận tối tăm.
Hình ảnh cá nhảy khỏi lưới, là dụ cho người mắc phải sai lầm làm
những điều tội lỗi, mà biết quay đầu làm mới lại chính mình. Thế gian
này vượt cạn lên bờ được mấy ai. Ý chí, niềm tin và nghị lực có thể giúp
chúng ta vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Ma túy, cờ bạc, rượu chè, đàng điếm…chúng ta có thể vượt qua một
cách dễ dàng, song để sống làm người không vì lợi ích riêng tư, luôn
sống vì tha nhân, lấy niềm vui thiên hạ làm niềm vui chính mình, đây mới
là điều khó làm nhất của một con người.
Ta không thể thay đổi hoàn cảnh hiện tại, nhưng ít ra ta cũng phải
thích nghi với cuộc sống thực tế, khi đối mặt với khó khăn và chướng
ngại. Người có khả năng tu tập, thì dễ dàng vượt qua sóng gió cuộc đời.
Người thiếu niềm tin về chính mình, thường không sáng suốt nhận định
đúng sai, dễ trở nên oán giận, thù hằn, tạo ra nỗi khổ niềm đau cho
nhau, cuối cùng chuốt họa vào thân và chấp nhận cuộc đời đen tối.
Ý chí niềm tin và nghị lực là ba điều không thể thiếu trong cuộc
sống, để chúng ta vững vàng bước đi những bước chân trên khắp nẻo đường,
mà cuộc sống vốn nhiều thay đổi và đầy gian nan thử thách. Chúng ta
phải tin rằng không có gì là cố định cả, mọi thứ đều có thể thay đổi
được. Nhờ có ý chí, chúng ta mới có thể học hỏi từ những thất bại đã
qua, cố gắng vươn lên vượt qua số phận, không nản lòng thất chí khi gặp
phải khó khăn chướng ngại.
Ai cũng có khả năng và sức mạnh của ý chí, đang tiềm ẩn nơi mỗi con
người chúng ta, để vươn lên làm mới lại chính mình. Muốn vượt qua số
phận, ta phải kiên nhẫn bền chí, can đảm dũng mãnh, siêng năng tinh tấn,
để làm mới lại cuộc đời.
Trong cuộc sống ít ai hoàn hảo về mọi mặt, vì đã gieo nhân tốt xấu
lẫn lộn. Muốn vượt qua cạm bẫy cuộc đời, chúng ta hãy nên chiêm nghiệm
câu thơ của Nguyễn Du đã viết trong truyện Kiều: “Tu là cội phúc, tình
là dây oan.”
Tại sao? Tu là cội phúc, tình là dây oan? Chữ tu ở đây không phải
là gì cao siêu mầu nhiệm, không phải cạo đầu vô chùa hay vào rừng sâu
núi thẳm mới gọi là tu. Tu có nghĩa là chuyển hóa thay đổi, buông xã
những gì chấp mắc, trói buộc làm chúng ta không được an vui hạnh phúc,
làm cho mình và người khổ đau.
Tình ở đây mang ý nghĩa thâm sâu hơn, tình là những thói quen xấu
có tính cách hại mình, hại người làm khổ đau cho nhau như tham lam, ích
kỷ, bỏn xẻn, hiểm độc hận thù, ganh ghét phá bỏ, triệt tiêu hủy diệt,
cho nên nói tình là dây oan. Một cục muối, một củ cà rốt, một quả trứng,
sau khi được đun sôi một thời gian, chúng ta sẽ thấy thế nào?
Cục muối với hình dáng bên ngoài coi vẽ rắn chắc, nhưng khi bỏ vào
nước từ từ sẽ bị hòa tan theo thời gian, củ cà rốt cứng chắc cũng mềm đi
khi bị nấu chín, còn quả trứng tuy vỏ mỏng manh nhưng khi được luộc qua
nước sôi nóng bỏng, lại trở nên cứng cáp hơn. Cũng vậy, nếu con người
không được tôi luyện trong gian khó, sẽ dễ dàng gục ngã trước phong ba
bão táp cuộc đời và khó có thể làm mới lại chính mình.
Bằng kinh nghiệm của bản thân, sau khi vấp ngã được Phật pháp cứu vớt
làm mới lại cuộc đời, chúng tôi có đôi lời chân thành xin được chia sẻ
cùng chư huynh đệ pháp lữ gần xa. Một chút tâm tình, mong được kết duyên
sâu cùng với tất cả mọi người.
Thường Chiếu ngày 10 tháng 8 năm 2010
Kính ghi
PHONG TRẦN CUỒNG NHÂN
VƯỢT QUA CẠM BẪY CUỘC ĐỜI?
Dòng đời nghiệt ngã, luôn cuốn trôi tất cả dù đó là nhân nghĩa của
một con người. Vì thế, vượt cạn lên bờ được mấy ai? Đường đời nhiều nỗi
gian nan trắc trở, đứng trước dòng thác lũ cuộc đời, với vô vàn sự cám
dỗ, nhiều chông gai, nhiều cạm bẫy. Muốn thưởng thức cái hoa hồng đẹp
chúng ta phải chấp nhận thân gai góc của nó. Hạnh phúc khổ đau, thương
yêu thù hận, hơn thua được mất, con người lúc nào cũng loay hoay lẩn
quẩn trong cái vòng ấy. Do đó chúng ta luôn bị dòng xoáy cuộc đời, nhấn
chìm và cuốn trôi. Muốn vượt qua dòng thác lũ cuộc đời không phải dễ
dàng và đơn giản. Nó đòi hỏi chúng ta phải có thời gian suy xét chiêm
nghiệm, tìm tòi quán chiếu soi sáng, nhờ vậy chúng ta thấu rõ được sự vô
thường của vạn vật, nên bớt tham lam, nóng giận và si mê.
Đã làm người ai không một lần vấp ngã, nhưng điều quan trọng hơn
hết là sau khi vấp ngã, chúng ta có chịu khắc phục sửa sai và làm mới
lại cuộc đời hay không? Người không có ý chí niềm tin về chính mình, sẽ
bị gục ngã trước phong ba bão táp của cuộc đời, nên dễ dàng buông xuôi
cho số phận, đành cam chịu sống trong phiền muộn khổ đau và chấp nhận
cuộc đời đen tối. Đức Phật là bậc toàn tri toàn giác, là tấm gương tiêu
biểu cho kiếp nhân sinh, là bậc minh sư chân chánh, là vị thầy dẫn đường
có một không hai trên thế gian này, giúp chúng ta vượt qua biển khổ
sông mê để làm mới lại chính mình.
Ngài đã vượt qua vòng xoáy cuộc đời, bằng kinh nghiệm xương máu
của chính mình. Ngày nay người con Phật được thấm nhuần lời dạy của
ngài, để vươn lên làm lại cuộc đời vượt qua khổ đau sanh tử. Ngài đã tìm
ra chân lý cho con người, không còn bị lệ thuộc vào đấng quyền năng
siêu hình. Làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau, không ai có
quyền ban phước giáng họa, cho rằng có một đấng tối cao sắp đặt và định
đoạt tất cả.
Đạo Phật đã mở ra một trang sử mới, một trang sử huy hoàng nhất
trong lịch sử nhân loại chưa từng có từ trước đến nay, giúp cho con
người tìm ra sự thật của chính mình và chúng ta là chủ nhân ông của bao
điều họa phước. Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành, mọi
người đều được bình đẳng như nhau. Đây là một câu châm ngôn bất hủ, chỉ
có trong đạo Phật được lưu truyền cho đến ngày nay.
Một hôm tại tịnh xá Kỳ Viên trời đã gần về khuya,
một ánh sáng chói chang, làm sáng cả
khu vườn Cấp Cô Độc.
Một chư Thiên ở cõi trời, xuống hỏi đức Phật:
Kính bạch đức Thế tôn, làm thế nào để chúng con vượt khỏi bộc lưu.
Phật dạy: Không đứng lại, không bước tới, ta vượt khỏi bộc lưu.
Qua bài pháp ngắn, chúng ta học được gì từ lời dạy của Thế Tôn, ngài
không nói gì cao siêu huyền bí, chỉ đơn giản một câu thật ngắn gọn và
xúc tích làm cho chư Thiên nhận ra đạo lý chân thật một cách rõ ràng,
không ngoài sắc thân hư dối tạm bợ này. Người đời vì mải mê chạy theo
danh lợi, tiền tài, sắc đẹp, ăn ngon, ngủ kỷ nên lúc nào cũng bị dòng
nước tham, sân, si cuốn trôi do đó bị phiền muộn khổ đau chi phối. Ngày
nay với nhận thức sáng suốt, chúng ta học đạo lý chân thật qua lời dạy
Thế Tôn, ai muốn sống an vui hạnh phúc thì phải biết gieo trồng phước
đức.
Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến là nhân dẫn đến đau khổ, bố thí
cúng dường, giúp đỡ chia sẻ, là nhân dẫn đến an vui hạnh phúc. Do bám
víu dính mắc chấp trước, nên người đời đam mê chạy theo dục vọng thấp
hèn, mà tham muốn của chúng sanh thì vô cùng tận, do đó chúng ta dễ dàng
bị cuốn trôi tất cả, dù đó là nhân nghĩa của một con người. Một cuộc
đời, một cuộc sống, luôn lẫn lộn sự buồn vui thương ghét, được mất hơn
thua, phải quấy tốt xấu, nên hư thành bại, cuối cùng ai ra đi cũng với
hai bàn tay trắng, không đem theo được gì và không biết đi về đâu?
Đa số mọi người trên thế gian này đều mắc phải lỗi lầm như thế,
nên Phật nói tất cả bị dòng nước cuốn trôi. Thế giới loài người chúng
ta luôn xảy ra chiến tranh, thiên tai, sóng thần, động đất, bão lũ, hỏa
hoạn, ô nhiễm môi trường cũng từ lòng tham con người mà ra. Tham lam,
sân hận, si mê, làm cho con người gây ra không biết bao là tội lỗi, nên
đa số đều sống trong đau khổ lầm mê. Vậy thế nào là bị dòng nước nhấn
chìm? Đây là chỉ cho những người đang tu hành, nhưng vì không gặp bậc
minh sư chân chánh, thầy lành bạn tốt hướng dẫn, do đó bị lạc vào đường
tà. Bị mắc mứu trong hang cùng ngõ cụt, trở lại phỉ báng Phật pháp, nên
chấp trước vào những giáo điều cấm thủ, như ở Ấn Độ tu tập theo cách
sống của lòai chó hoặc hành hạ sắc thân cho tàn hoại để được chứng đạo.
Vì vậy Phật nói bị dòng nước nhấn chìm, Phật do không chạy theo đam mê
dục lạc, không cố chấp hủy hoại thân này, nên ngài an nhiên tự tại giải
thoát và không còn bị sự ràng buộc của thế gian .
Với tâm nguyện từ bi bao la rộng lớn, đức Phật đã hiến dâng đời
mình trong công cuộc hoằng hóa độ sinh, dạy cho chúng ta biết đạo lý làm
người trong đối nhân xử thế hưởng được phước báo trời người, xa hơn nữa
ngài chỉ cho ta phương cách giác ngộ và giải thoát để vượt qua nỗi khổ
niềm đau của sanh tử.
Dù nói hay, dù nói giỏi, nhưng thiếu tu, chẵng khác gì, đãy đựng sách.
Không nói nhiều, nhẫn nhịn nhường, hay khiêm tốn, như hoa sen, vượt bùn lầy.
Học và tu, luôn song hành, dù nói ít, vẫn lợi lạc, khắp quần sanh.
Việc tu học không đơn giản như mọi người lầm tưởng, người trí thì
một nghe ngàn ngộ, tự điều phục chính mình. Còn phàm phu tục tử như
chúng ta, phải nương thầy lành bạn tốt, lánh xa người xấu ác, mới có thể
vượt qua cạm bẩy cuộc đời. Đạo Phật không đặt nặng ở chỗ nói hay nói
giỏi, mà trọng ở chỗ thực hành, nói và làm tương ưng với nhau, dùng thân
giáo để điều phục chúng sinh bằng những việc làm thiết thực tốt đạo,
đẹp đời.
Người tu theo đạo Phật, học mà không tu giống như đãy đựng sách,
học hiểu lời Phật dạy để biết được lẽ thực của cuộc đời, thật giả phân
minh. Khi hiểu được rồi chúng ta phải biết ứng dụng thực hành, chuyển
hóa những nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây
giờ. Người tu mà không học giống như tu mù, dễ dẫn đến lầm đường lạc
lối, nên vô tình phỉ báng Tam bảo. Người quá ham tu nghe ai nói tu từ ba
tháng hoặc một năm sẽ được chứng đạo nên không cần học hỏi, do đó tu mù
luyện quáng, cuối cùng rơi vào si mê tà kiến.
Vì vậy các tổ thường nói: “ Y kinh giải nghĩa oan cho chư Phật ba
đời, lìa kinh một chữ tức đồng ma nói”. Nhiều người chấp vào kinh từng
lời, từng chữ, ai nói khác đi một chút thì không chịu, cho rằng nói sai
lời Phật dạy. Nhưng họ không biết thời Phật còn tại thế chỉ truyền miệng
và được các thế hệ đệ tử đọc tụng sao này mới ghi lại bằng sách vở.
Kinh điển nguyên thủy thường được lặp đi, lặp lại nhiều lần, là để cho
người học dễ nhớ. Ngày nay qua nhiều đời dịch thuật để cho phù hợp với
phong tục tập quán các nước, nên đôi khi cũng có nhiều sơ xót, vì vậy
chúng ta không nên chấp vào từng lời, từng chữ trong kinh mà phê phán
đúng sai.
Người học Phật chân chánh, chỉ cần biết rõ nội dung Phật dạy những
gì nếu không sai ý Phật là được. Thời Phật còn tại thế, không cho người
xuất gia trụ xứ một chỗ, chỉ tùy duyên khất thực độ sanh, không cho
Tăng chúng bám víu vào tài sản sở hữu riêng, nên tu hành dễ dàng chứng
đạo. Ngày nay, do nhu cầu chung của xã hội không cho phép chư Tăng ni đi
khất thực, người xuất gia phải ở tại chùa thọ nhận sự cúng dường, của
đàn na tín thí đem đến. Nếu y theo lời Phật dạy ngày xưa, người tu trong
thời hiện tại vi phạm giới luật, đã phạm giới luật làm sao tu? Đạo Phật
ra đời là tùy bệnh cho thuốc, tùy theo phong tục tập quán, tùy theo căn
cơ trình độ sở thích nguyện vọng của mọi người, để làm lợi ích cho tha
nhân.
Thời xưa quan niệm người tu là phải lìa bỏ tất cả, không bám víu
vào sở hữu riêng tư, nên phải tùy duyên đi khất thực. Ngày nay xã hội
không chấp nhận như vậy, nên đạo Phật cũng linh động uyển chuyển theo
thời, để dễ dàng tu học và giáo hóa. Đạo đời không thể tách rời nhau và
theo lời Phật dạy: Tất cả mọi hiện tượng sự vật trên thế gian này, từ
con người cho đến muôn loài muôn vật đều phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo
tồn sự sống. Vì vậy chúng ta phải có trách nhiệm và bổn phận, yêu
thương giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã vị tha. Chúng ta thử làm
một bài toán so sánh, nếu y kinh giải nghĩa thì oan cho chư Phật ba đời,
còn nếu lìa kinh một chữ tức đồng ma nói. Nhà Phật có một công thức bất
di bất dịch là: tứ pháp ấn, tam pháp ấn, nhất pháp ấn.
Tứ pháp ấn là: vô thường, khổ, không, vô ngã.
Tam pháp ấn là: vô thường, vô ngã, niết bàn tịch tịnh.
Nhất pháp ấn là: Phật tánh hay cái biết sáng suốt nơi mỗi người chúng
ta. Ngoài ba công thức trên, Phật còn dạy chúng ta biết được đạo lý làm
người gìn giữ năm điều đạo đức, tu mười điều thiện ích, giúp mọi người
sống an vui hạnh phúc để vượt qua cạm bẩy cuộc đời. Dám làm, dám chịu
trách nhiệm về mọi hành vi tạo tác của chính mình không đổ thừa cho ai
hết.
Chỉ có giáo lý nhà Phật mới dạy cho ta được đầy đủ những điều
hay lẽ phải và ngài khẳng định rằng ta là chủ nhân ông của bao điều họa
phúc, không ai có quyền ban phước giáng họa. Luật nhân quả luôn âm thầm
tác động chi phối hành động của mọi người, mà cho ra kết quả tốt xấu
không ai giống ai, người giàu kẻ nghèo, người tốt kẻ xấu, người sang kẻ
hèn .v.v..
Trong báo pháp luật và cuộc sống số 27 tháng 9 năm 2010 có đăng
tin, một người tình, một người vợ vĩ đại với tấm lòng vị tha, đã cảm hóa
một tướng cướp từng bị truy nã gắt gao bằng tình yêu chân thành của
mình. Và giờ đây anh là một giám đốc doanh nghiệp, ăn nên làm ra với một
người vợ ngoan hiền dễ thương, cùng các đứa con xinh xắn. Anh thật sự
đã hoàn lương và xứng đáng là người chồng, người cha, nhờ người vợ nhân
hậu với tấm lòng bao dung và độ lượng. Nếu không có chị, thì giờ đây anh
phải sống trong ngục tù tội lỗi. Anh thầm cảm ơn chị, đã đem đến cho
anh một tình yêu thương chân thành nhất, để giờ đây anh mới cảm nhận
được thế nào là an vui hạnh phúc.
Phạm văn Bình tức (Bình bò) là biệt danh của tướng cướp từng gây
nhiều trọng án, từng gây ra nỗi kinh hoàng và sợ hãi cho nhiều người. Từ
nhỏ anh ta được bố mẹ chiều chuộng quá mức, nên đua đòi theo chúng bạn
xấu ác làm những điều sai quấy như trộm cắp, móc túi, giựt dọc và từng
bảo kê một vài tụ điểm nỗi tiếng. Tuổi đời tuy chưa được mười hai, anh
ta đã phải vào trường dành cho thiếu niên hư hỏng. Sau khi được mãn hạn
giáo dục trở về, tưởng anh ta cố gắng tu chí làm ăn, nhưng không ngờ với
chứng nào tật đó. Anh ta trở nên lì lượm bản lỉnh, bắt đầu tập hợp các
tay anh chị ma cô tổ chức cướp giựt có vũ khí bằng cách đánh nhanh rút
gọn, gây sự chú ý hoang mang cho nhiều người và làm đau đầu các nhà chức
trách.
Anh ta một thời tung hoành ngang dọc, cùng đám bạn giang hồ thứ
thiệt tại các tỉnh miền Bắc. Vì quá nỗi danh nên anh ta coi thường thiên
hạ, thật ra anh ta chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, chưa đi mưa chưa thấy
lạnh và chắc chắn đi đêm cũng có ngày gặp ma. Trong một phi vụ cướp
giựt ở Hà Nội anh ta cùng đồng bọn bị sa lưới và được đưa đi cải tạo lâu
dài. Thời gian ở tù bẩy năm đã làm cho anh ta chai lì và hung dữ hơn.
Anh ta giống như một con thú hoang điên cuồng chưa được điều phục hung
hăng dữ dằn, đã tổ chức trốn trại rồi cướp vũ khí của một cán bộ quản
giáo và bắn một công an bị thương.
Sau khi trốn khỏi trại giam Thanh Cẩm Thanh Hóa anh ta phải trốn
chui, trốn nhũi, luôn sống trong lo âu và sợ hãi. Những ngày tháng ấy
Phạm văn Bình sống lang thang vất vưỡng như con ma đói và chỉ mong làm
sao qua mắt được pháp luật, ngày nào hay ngày đó. Anh ta thật sự chưa có
một ngày an vui hạnh phúc, vì luôn sống trong phập phòng lo sợ, để rồi
mai đây không biết số phận của mình sẽ ra sao? Mỗi một ngày trôi qua là
một ngày anh ta thở phào nhẹ nhõm, vì chưa bị ai phát giác ra mình, là
kẻ tội phạm trốn lệnh truy nã đặc biệt.
Giờ thì anh đang sống êm đềm hạnh phúc bên mái ấm gia đình, với
người vợ thủy chung nhân hậu tuyệt vời và các con ngoan hiền xinh xắn.
Thật là một điều kỳ diệu nhiệm mầu không thể ngờ, nếu ngày ấy không có
cô thôn nữ Phạm Thị Huyền hy sinh và cao thượng, thì bây giờ cuộc đời
của anh sẽ ra sao? Gông cùm, tù tội và khổ đau. Anh bây giờ là một giám
đốc có uy tín, luôn đem lại bình an và hạnh phúc cho nhiều người, không
bao giờ làm ai phiền muộn về mình, nếu ai có duyên gặp anh. Sự đổi thay
này như có một phép mầu vô tận, nhờ tấm lòng vị tha của người vợ ngoan
hiền đã chịu đựng hy sinh suốt cả thời gian dài, để giúp anh làm mới lại
cuộc đời làm mới lại chính mình, bằng tình yêu thương chân thành nhất.
Anh nhớ lại những ngày mới trốn trại và lây lất sống qua ngày,
bằng cái nghề móc túi trên các chuyến xe khách Bắc Nam. Trong thời gian
này, anh phải lòng cô thôn nữ diệu hiền bán hàng nước ở đất Phú Xuyên Hà
Tây. Anh dấu bật tung tích của mình và nói dối với nàng ấy rằng, anh là
tài xế lái xe Bắc Nam với tên Tuấn. Cứ thế ngày lại, ngày qua sau nhiều
lần trò chuyện tâm tình, cùng với những món quà hết sức ấn tượng, trái
tim hai người đã bắt đầu rung động theo nhịp đập của con tim. Họ đã thật
sự yêu nhau tha thiết và đắm đuối. Với thân phận một tên tướng cướp
đang bị lệnh truy nã, xưa nay chưa từng làm việc nặng nhọc. Nhưng vì sức
mạnh của tình yêu đã giúp anh hăng say lao vào công việc đồng áng một
cách nhiệt tình và tích cực, nhờ vậy anh được lòng cả gia đình chị.
Dù được chị yêu thương, nhưng anh vẫn cứ phập phòng lo sợ, vì quá
khứ tội lỗi của mình. Anh tự suy nghĩ bâng quơ, rồi đây mình sẽ vĩnh
viễn mất hết tất cả, khi mọi người biết được sự thật anh là tên tội
phạm. Tình yêu giữa hai người càng ngày càng gắng bó và sâu đậm, đó là
dấu hiệu báo trước cuộc tình ta tan vỡ kể từ đây. Rồi chuyện gì đến sẽ
đến, anh đã bị phác giác. Biết được chuyện tình của hai người không thể
tách rời nhau được, các công an chuyên án dùng tình yêu thương để thuyết
phục anh. Nhờ chị động viên an ủi và khuyên anh ra đầu thú, để hưởng
chính sách khoan hồng.
Như sét đánh ngang tai, một sự thật quá phũ phàng chị không ngờ
người mình yêu là tướng cướp đang bị lệnh truy nã khẫn cấp. Cả gia đình
chị, ai cũng đều bàng hoàng sửng sốt về người rễ tương lai. Chị không đủ
can đảm và nghị lực để bỏ anh, vì chị đã yêu anh thật sự. Chị quá đau
khổ vì đã trót lỡ yêu anh, nhưng dứt không được, bỏ thì không đành. Bằng
tất cả sức mạnh tình yêu và nghị lực phi thường, chị chấp nhận hy sinh
tất cả để động viên khuyên anh ra đầu thú, cùng với những lời hứa hẹn
thủy chung. Em sẽ chờ anh, em sẽ đợi anh về và chỉ có anh là hình bóng
để cho em nương tựa suốt cả cuộc đời. Anh yên chí học tập cải tạo tốt,
để mau sớm trở về đoàn tụ với gia đình. Em sẽ là mãi mãi của riêng anh.
Những lời nói ấy lúc nào cũng văng vẵng bên tai anh, như được rót
mật vào lòng. Bao nhiêu dự định toan tính để chuẩn bị vượt biên trong
vài ngày nữa, bổng phút chốc tan thành mây khói. Anh ra đầu thú theo
tiếng gọi của tình yêu và nhờ vậy anh đã làm mới lại chính mình để vươn
lên, vượt qua số phận tội lỗi.
Phép mầu thứ nhất từ người vợ ngoan hiền đã yêu anh chân thành và
chấp nhận hy sinh tất cả, giúp anh vượt lên mặc cảm tội lỗi quá khứ, để
làm mới lại cuộc đời. Trong thế gian này nếu không có tình yêu thương
nhân loại, tình người trong cuộc sống và tình yêu lứa đôi thì cuộc đời
này trở nên khô cằn, héo hon. Nhờ tình yêu lứa đôi con người mới tự hoàn
thiện chính mình, xây dựng hạnh phúc gia đình và dấn thân phục vụ, góp
phần an vui vào cộng đồng xã hội. Phép mầu thứ hai là nhờ lòng bao dung
và sự cảm thông của cha mẹ vợ, khiến anh cảm nhận được tình người trong
cuộc sống. Và chính cha mẹ vợ anh, chấp nhận cho anh cùng con gái cưới
nhau trước khi vào trại để lãnh án tù mà không sợ tiếng đời bêu rếu. Cảm
động trước tình yêu chân thành của người vợ trẻ và được sự hun đúc động
viên của cha mẹ vợ, anh như người chết đi sống lại thức tỉnh cơn mê
muội, quyết định làm mới lại cuộc đời.
Anh thật sự hạnh phúc hơn bao giờ hết, vì được tất cả mọi người
quan tâm ưu ái và tạo tất cả mọi điều kiện thuận lợi nhất, để giúp anh
làm mới lại chính mình. Nhờ vậy, anh không còn phải bận tâm lo lắng và
yên chí bền lòng một mực cố gắng học tập cải tạo và lao động tốt, để mau
sớm trở về đoàn tụ với gia đình. Ước mơ của anh đã trở thành sự thật,
anh được nhà nước ân xá và giảm án gần một nửa thời gian. Chị ấy, người
vợ nhân hậu thủy chung, đã cảm hóa anh bằng tình yêu thương chân thật,
từ tấm lòng hy sinh cao cả và sức chịu đựng bền bỉ kiên cường. Thật ra
anh quá diễm phúc gặp được người vợ hiền lương mẫu mực, nhân từ và đạo
đức. Nhờ cô thôn nữ hiền thục, đã hết lòng vì anh hy sinh hết tất cả và
chị còn rước đứa con riêng của anh, về nhà chăm sóc nuôi nấng, tử tế
đàng hoàng, để anh yên tâm học tập cải tạo tốt.
Ngày anh trở về, cha mẹ vợ đã cho anh miếng đất để cất nhà ở và
còn cho anh mượn sổ đỏ để anh thế chấp vay vốn làm ăn. Trời đã không phụ
người biết ăn năn hối cải, để làm mới lại cuộc đời và giờ đây anh thật
sự hoàn lương sống hạnh phúc bên mái ấm gia đình. Anh luôn tự hào hãnh
diện về sự chung thủy của vợ mình, khi chưa lấy anh có rất nhiều người
đến dạm hỏi, nhưng cô ta đều một mực từ chối. Cảm động trước tấm lòng hy
sinh cao cả của người vợ và sự hổ trợ đắc lực của cha mẹ vợ, cùng với
chính sách khoan hồng và sự độ lượng của quý ban chính quyền các cấp, để
anh sớm hoàn lương trước thời hạn gần một nửa.
Để động viên và an ủi chồng những năm tháng ở tù. Chị càng cố
gắng làm lụng siêng năng hơn và chấp nhận nhín ăn, bớt mặc, để đủ tiền
nuôi đứa con riêng của anh và dành dụm chút ít hàng tháng đến thăm anh.
Nếu không có người vợ ấy, chắc chắn cuộc đời anh đã chết chìm trong tội
lỗi. Đây là câu chuyện khó tin nhưng mà có thật, để những ai còn đang
say mê đắm chìm trong vũng bùn tội lỗi, hãy nên sớm hồi tâm quay đầu làm
mới lại chính mình cùng vươn lên, vượt qua số phận u mê và tối tăm. Anh
Bình đã hư hỏng và phạm tội, do thói quen tham muốn hưởng thụ quá
nhiều, nên từ nhỏ đã móc túi trộm cắp, lường gạt nhiều người, vì vậy
cuộc đời của anh luôn gắn liền với tù, tội. Ấy thế mà, nhờ tình yêu
thương chân thành của người vợ, đã dám hy sinh tất cả để giúp anh hoàn
lương làm lại cuộc đời và làm mới lại chính mình.
Hiện tại anh Bình là một giám đốc doanh nghiệp ăn nên làm ra, đảm
bảo nuôi sống gia đình và cùng tham gia góp phần xây dựng, đem lại lợi
ích thiết thực cho xã hội. Chúng ta thử nhìn lại quá khứ của vị giám đốc
này xem sao, từ nhỏ đã ma cô theo thói côn đồ, móc túi trộm cướp, bảo
kê một vài tụ điểm. Được đưa đi giáo dưỡng các trại thanh thiếu niên hư
hỏng, tưởng đã hoàn lương làm lại cuộc đời. Không ngờ sau khi được giáo
dục trở về, vẫn chứng nào tật đó và ngựa quen đường cũ. Anh ta bắt đầu
tham gia vào các phi vụ cướp giựt có quy mô tổ chức lớn, nên cuối cùng
bị sa lưới pháp luật trở lại.
Thông thường các tội phạm bị giam giữ lâu ngày trong các trại
giam, không được nghe các câu chuyện về các bậc thánh nhân vĩ đại, để
học hỏi những điều hay lẽ phải và bắt chước làm theo cái hay của các
ngài. Chính vì thế, có nhiều người mới ban đầu chỉ phạm tội nhẹ do một
phút bốc đồng nóng giận, nhưng sau khi ra tù lại gây tội ác tày trời như
lường gạt, cướp của giết người, một cách dã man. Bởi vì, trong tù hằng
ngày phải tiếp xúc với nạn đại bàng lộng hành chuyên trấn lột và áp bức
tù nhân. Cuộc sống trong tù hằng ngày phải tiếp xúc với các tay giang hồ
bịp bợm, đầu trộm đuôi cướp, ích kỷ và độc ác, nên càng ở tù lâu càng
dễ bị tiêm nhiễm những thói hư tật xấu.
Vì thế trại tù chỉ là nơi giam giữ tạm thời, chứ không có phương
pháp giáo dục cụ thể, cho nên vấn đề hoàn lương là một vấn nạn cần phải
nghiên cứu và hội thảo để tìm ra quyết sách tốt đẹp. Nhớ lại quá khứ tội
lỗi của mình khi xưa, tôi phải thầm tán dương người đã hoàn lương trong
câu chuyện này. Bản thân tôi khi ra tù, quyết định làm lại cuộc đời,
nhưng cầm tờ đơn xin việc trên tay đi đến đâu, cũng đều bị từ chối hết.
Lý lịch đen đã làm cho tôi đau khổ tột cùng, mặc cảm, tự ti với thân
phận thấp hèn của mình, nhưng biết làm sao đây?
Điên tiết, buồn chán, hận thù và bất mãn lên tột đỉnh, muốn làm
lại cuộc đời mà chẳng được. Thật ra ai cũng có ước mơ đáng quý và trân
trọng nhưng vì thiếu hiểu biết và mê muội nên hành động trong vô minh.
Muốn có một cơ hội tốt làm mới lại cuộc đời và có một việc làm ổn định
để nuôi sống bản thân. Cuộc sống của chúng ta sẽ không còn giá trị nữa,
khi phải ăn bám cha mẹ hoặc sống nhờ vào người thân.
Chán chường, buồn tủi, héo sầu, cô đơn với những giây phút vô
cùng bi quan chán nản. Trong cơn tuyệt vọng não nề chúng tôi cảm thấy
phiền muộn hận thù nhiều hơn. Mặc cảm, tự ti trong tâm trạng khổ đau vô
cùng, tôi luôn oán than trách móc xã hội, hận đời đen bạc. Nhớ lại khi
xưa mình đã đã làm lại cuộc đời nhờ tham gia vào lực lượng TNXP phục vụ
các vùng kinh tế mới. Thế là còn chút hy vọng mong manh tôi đã xin trở
lại Lực lượng TNXP để làm mới lại cuộc đời. Các bạn bè của tôi ngày xưa
ai cũng thăng quan tiến chức hết, riêng tôi phải sống trong mặc cảm dày
dò, chính vì thế mà tôi bắt đầu sa ngã trở lại.
Nhưng rồi thời gian cũng trôi qua tôi đã có vợ có con, hoàn cảnh
cuộc sống lúc này càng khó khăn hơn. Tôi đã tán tận lương tâm bỏ ra đi,
để lại nỗi đau người vợ trẻ và hai đứa con thơ khi đứa con thứ hai mới
vừa đầy tháng tuổi. Tôi tiếp tục lao vào các cuộc vui chơi trác táng với
một suy nghĩ nông cạn “ Chết là hết không có ngày mai” và lần này tôi
hoàn toàn bị bế tắc tưởng chừng như không còn lối thoát. Chính Phật pháp
đã cứu đời tôi, nhờ sự hướng dẫn và sự hy sinh cao cả của người mẹ.
Anh Bình nhờ tình yêu thương chân thành của người vợ đã chấp nhận
hy sinh tất cả, bất chấp mọi đàm tiếu dư luận thế gian, nhân tình thế
thái, nàng vẫn một lòng chung thủy và kiên nhẫn bền chí chịu đựng. Đây
là mối tình đẹp như mơ làm nên lịch sử có một không hai trên thế gian
này, để lại tiếng thơm muôn thuở cho đời, như hương thơm luôn bay ngược
chiều gió. Nhờ sức mạnh của tình yêu lứa đôi, cùng với sự hy sinh cao cả
của người vợ, nhờ lòng bao dung và tha thứ, cảm thông và độ lượng. Hồi
gia và hoàn lương để làm lại cuộc đời cho những con người lầm lỗi, không
phải là chuyên đơn giản và dễ làm, đó là vấn nạn cho những người đang
nắm cán cân công lý và trách nhiệm của gia đình .
Mới đây trong báo công an đã thông tin nhân đạo, ông Liên Khui
Thìn người đã có sáng kiến đề xuất và thành lập quỷ hoàn lương được nhà
nước chấp nhận, hiện đang hoạt động chính thức. Đây là điều kiện thứ
nhất làm cho người hoàn lương không bị tổn thương tự ái và mặc cảm, nhờ
bảo mật lý lịch quá khứ. Thứ hai là giúp cho người hoàn lương phải có
đời sống kinh tế ổn định, với việc làm chân chánh. Thứ ba là được sự hổ
trợ và giúp đỡ của gia đình, không bị người thân hất hủi coi thường và
khinh khi. Thứ tư là phải sám hối phát nguyện hứa chừa bỏ, không tái
phạm lỗi lầm vì biết được sự tác hại của nó. Thứ năm phải có ý chí, niềm
tin, nghị lực và tin sâu nhân quả, đây là điều kiện tiên quyết để người
hoàn lương thật sự vươn lên, vượt qua số phận của chính mình. Thứ sáu
hoàn lương đối với con nghiện ma túy là một vấn đề nan giải và phức tạp,
bởi vì khả năng để khắc phục cơn ghiền lâu dài đối với tệ nạn này quả
thật rất khó. Theo sự tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay chỉ số con nghiện
hoàn lương thật sự có kết quả tối đa, từ ba đến sáu phần trăm là cùng.
Theo kinh nghiệm của chúng tôi, qua thời gian tiếp xúc với nhiều
con nghiện ma túy, hầu như đại đa số đều bó tay xin chào thua, không đủ
khả năng để vượt qua cơn nghiện lâu dài. Nó giống như cơn bệnh ung thư
phải dùng hóa chất cực mạnh để cầm cự, ma túy làm cho con người thèm
khát đến cực độ và vật vã đến tột cùng. Chúng tôi cũng không phải là
người hay ho tài giỏi gì, ngày xưa vượt qua được, là nhờ đam mê đậm đà
thứ khác và chỉ thật sự vượt qua chính mình là nhờ gặp Phật pháp. Hiện
nay chỉ có một phương pháp duy nhất là cách ly con nghiện hoàn toàn với
một trung tâm giáo dục lâu dài, nếu làm được như vậy thì xã hội sẽ giảm
bớt tổn thất thiệt hại về kinh tế quốc gia, giảm bớt thiệt hại về con
người, giảm bớt các chứng bệnh của thời đại và nhiều thiệt hại khác
không thể tính kể. Nếu không thì, nhân loại sau này sẽ sống chung với ô
nhiễm đa năng, cùng các bệnh ngặt nghèo của thế kỷ và sẽ làm cho con
người bị băng hoại đạo đức. Bị thiệt hại tổn thất nặng nề về con người
và kinh tế, tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng đã đến hồi báo động. Ngay
bây giờ các nhà lãnh đạo đất nước kết hợp với các ban nghành đoàn thể,
cùng ngồi lại hội thảo vấn nạn ma túy toàn cầu. Nếu không có biện pháp
thích hợp để ngăn chặn tệ nạn ma túy và giải pháp hoàn lương đúng đắn,
thì sự thiệt hại tổn thất quá lớn lao không thể tính kể đối với con
người và xã hội về sau này.
DO ĐÂU SANH LẦM LỖI?
Đã làm người trong trời đất, ai cũng muốn công danh tột đỉnh, giàu
sang phú quý, quyền cao chức trọng. Chính vì vậy, con người bất chấp mọi
hiểm nguy, chỉ biết hưởng thụ cho riêng mình, nên động cơ lập nghiệp do
lòng tham lam sai sử làm tổn hại nhiều người. Có người đạt được công
danh hiển hách, công thành danh toại, có người cũng đuối sức oằn oại,
rơi vào hố sâu vực thẳm, rốt cuộc chỉ còn tay trắng. Chỉ vì, động cơ lập
nghiệp từ sự ham muốn quá độ, mà lòng tham con người, thì không bến bờ
nhất định, như giếng sâu không đáy.
Trong khi đó sức người có hạn, càng tham lam bao nhiêu thì càng
mau tan hoại và sụp đổ bấy nhiêu. Vì vậy mà, cơ cầu xây dựng sự nghiệp
của mình bằng xương máu thiên hạ, thì sự nghiệp mau chóng điêu tàn. Bởi
tại sao? Vì tham cho riêng mình, nên càng vơ vét bóc lột nhiều của thiên
hạ, do đó dễ dẫn đến gây thù, chuốc oán. Đã gây thù chuốc oán, thì
trước sau gì cũng tàn sát giết hại lẫn nhau. Đó là quy luật vay trả, trả
vay theo tiến trình diễn biến của nhân quả. Để biết được lòng tham của
con người đến độ nào, nhà vua ra lệnh cho một người: “Kể từ rạng sáng
ngày mai, khi mặt trời mới mọc cho đến khi mặt trời lặn, ngươi khoanh
vùng chu vi đất được bao nhiêu ta sẽ cho hết.”
Nghe xong, người kia vô cùng mừng rỡ, liền trở về nhà bàn bạc với
vợ con, làm cách nào để có thật nhiều đất. Phen này gia đình chúng ta
sắp giàu to rồi, người thì bàn thế này, kẻ thì bàn thế kia, cuối cùng
anh ta quyết định, sẽ không lãng phí một phút giây nào, khi chưa hết giờ
đo đất. Hôm sau, anh ta đã có mặt sẵn từ tờ mờ sáng trước đền vua. Khi
mặt trời vừa ló dạng, anh ta cắm đầu chạy, không màng đến cơm nước gì
cả, nhìn lại thấy khoảng đất vẫn còn quá nhỏ, mặc dù đã mệt lã người,
nhưng anh ta vẫn tranh thủ không bỏ phí chút thời gian nào. Mặt trời đã
ngã về chiều, như báo hiệu sắp hết giờ đo đất, anh ta cố ráng thêm chút
nữa, nhưng sức người có hạn và cuối cùng anh ngã quỵ bên vệ đường.
Câu chuyện trên mang tính cách biểu trưng, minh họa cho lòng tham
không bờ bến của con người, như giếng sâu không đáy. Con người thì không
có tội lỗi gì, chỉ có tâm tham lam ích kỷ, điều hành sai sử, thân này
chỉ là vật phụ thuộc, muốn làm cái gì thì trước hết phải suy nghĩ, tính
toán rồi mới làm. Nhưng con người thường không biết, tưởng thân này là
chủ tể cố định nên làm cái gì cũng để phục vụ cho thân này, vì vậy mà
sinh ra si mê, tham đắm ích kỷ, cho thân này là thật ta và sẽ trường tồn
mãi mãi. Nếu nó là ta thì trước sau như một không thể thay đổi chuyển
biến, nhưng từ khi mở mắt chào đời cho đến khi khôn lớn, thân này luôn
thay hình đổi dạng tùy theo thời gian của mỗi người, mà có hình dáng và
tính cách khác nhau. Con người sống ở đời luôn phải chạy đua với thời
gian để tranh thủ sở hữu được nhiều thứ về mình. Chúng ta nếu không nhận
thức đúng về giá trị cuộc sống, thì cũng giống như chàng trai tham đất
trong câu chuyện.
Do lầm chấp thân này thật là ta, nên làm cái gì cũng vơ vét về
cho mình, do đó tham được thì càng thêm tham, tham không được thì sinh
ra thù hằn, giận dữ. Đã hận thù thì trước sau gì, cũng gây khổ đau cho
nhau, do đó sống trong bất an, lo âu và sợ hãi. Chúng ta lúc nào cũng lo
sợ đủ thứ, sợ thiếu ăn, sợ thiếu mặc, sợ mất mát, sợ thiệt thòi nên cố
giữ gìn, giữ không được thì sinh ra đau lòng tiếc nuối, cho nên khổ đau
bắt đầu có mặt. Ở đời ít ai bằng lòng với hiện tại lúc nào cũng ham muốn
khổ cầu lao tâm nhọc trí để được tiền tài, danh vọng, quyền lợi, địa
vị, sắc đẹp, ăn sung mặc sướng…
Nhưng mấy ai được thỏa mãn nhu cầu tham muốn của mình. Bởi lòng
tham con người không đáy và đời sống con người thì quá ngắn ngủi, mong
manh tạm bợ, có người sự nghiệp chưa thành đã ra người thiên cổ. Vì lòng
tham vốn vô hạn mà sức con người thì có hạn, nên người con Phật ngoài
việc làm ăn để sinh sống, cũng cần dành chút thời gian nghiên cứu học
hỏi, tu hành. Thế gian này là một chuổi dài nhân duyên, cái này có thì
cái kia có, cái này không thì cái kia không, tất cả đều nằm trong lý
tương đối, chúng ta không gieo nhân tốt mà đòi gặt quả lành làm sao
được.
Nhiều người không hiểu, chỉ biết làm sao để giành lấy về cho mình,
lấy không được thì sinh ra tức giận thù hằn ghét bỏ, rồi tìm cách trả
thù khi có cơ hội, cho nên càng thêm gây thù, chuốc oán. Chúng ta có
quyền tham muốn nhưng phải lấy nhân quả làm nền tảng, gieo nhân lành thì
được quả tốt, gieo nhân ác thì phải chịu khổ đau, quả trổ sớm hay muộn
là do các duyên phụ thuộc, dù trăm kiếp ngàn đời vẫn không mất, chúng
theo ta như bóng với hình. Khi chúng ta có mặt trong cuộc đời với hai
bàn tay trắng và khi ra đi cũng với chừng ấy, mà chỉ mang theo nghiệp
tốt xấu, lành dữ. Người con Phật hãy nên sáng suốt chọn lựa cho mình một
con đường hướng thượng, chớ đừng vì tham cầu cho cá nhân của mình quá
mức như chàng trai trên mà mang họa vào thân.
CÁ NHẢY KHỎI LƯỚI MỚI HAY
Trước những mất mát thiệt hại và khổ đau của nhân lọai, đời sống
con người thật là bấp bênh, trong bầu vủ trụ bao la này. Đã làm người ai
không khỏi một lần rơi nước mắt, kiếp luân hồi dài đăng đẵng, mệt mỏi
chán chường, thất vọng lo âu. Thức đêm mới biết đêm dài, đường xa mới
thấy càng thêm mệt mỏi, con người cứ mãi lăn lên lộn xuống, khi thì
hưởng phước báo cõi trời muốn gì được đó, vì không cần phải làm lụng vất
vã. Lúc thì tung hòanh ngang dọc khiêu chiến khắp các cõi trời người,
chẳng coi ai ra gì như các vị Thần A Tu La, khi thì nữa khóc nữa cười,
vui ít khổ nhiều trong thế giới Ta bà này. Có lúc khổ đau cùng cực, bị
hành hạ và đọa đày trong ngục tù tội lỗi không có ngày cùng, có khi thì
ngu si mê muội lạc loài không biết gì trong các lòai súc sinh và cam
chịu đói khát vật vờ trong tận cùng sâu thẳm của kiếp ngạ quỷ ( quỷ đói
). Nếu ai biết gieo trồng phước đức, gìn giữ năm điều đạo đức, làm mười
việc thiện, tu tập thiền định thì được đi ba đường trên. Ngược lại thì
bị đọa xuống ba đường dữ, để chịu khổ đau triền miên trong dòng đời vô
tận.
Ý thức được kiếp người vui ít khổ nhiều, luôn bị nhiều thứ ràng buộc
không có ngày hạnh phúc thật sự. Có hai huynh đệ trên đường đi tìm chân
lý, tình cờ đi ngang qua dòng sông thấy một ghe chài đang dùng lưới để
đánh bắt cá. Lưới đang được từ từ kéo lên ghe, một con cá nhảy vọt ra
khỏi lưới.
Vị sư huynh thấy thế liền vỗ tay, khen: “Hay quá! Hay quá! Con cá giống người tu.”
Vị sư đệ nói: “Có gì mà hay! Cá ở ngoài lưới mới hay.” Vị sư huynh nói : “Ngươi chưa hiểu hết thâm ý của ta.”
Hai người mới đi thêm một đoạn đường khoảng vài cây số, vị sư đệ
mới nhận ra được thâm ý sư huynh, nên thành tâm sám hối. Câu chuyện trên
đã cho ta một bài học sống ở đời, học chuyện xưa để ngày nay mọi người
chúng ta cùng nhau suy gẫm. Ai trong cuộc đời chưa từng một lần vấp ngã?
Vậy cá ở ngoài lưới mới hay, hay là cá nhảy khỏi lưới mới hay?
Nếu cá ở ngòai lưới thì còn gì để nói, cá đã vào lưới mà còn nhảy
ra được, thì mới thật là hay. Đạo lý nhà Phật dạy cho mọi người ngay nơi
nghiện ngập si mê, luôn bị phiền não chi phối và sai sử, chúng ta cố
gắng vượt qua được mới thật là hay. Sống ở đời trước sự cám dỗ của tiền
tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp, ngủ kỷ, nên đa số chúng ta
đều bị lưới ái tình xiết chặt làm cho mê muội đắm say, giống như cục năm
châm khi gặp sắt tự động hít vào. Con người lúc nào cũng khao khát thèm
thuồng, quyến luyến như dòng nước thấm ướt, mặc dù không ai chỉ bày dạy
bảo, mà con người vẫn tự cảm biết, nên khi gặp người khác phái thì trái
tim bị rung động thổn thức, dẫn đến yêu thương hò hẹn và kết tình chồng
vợ. Từ đó phát triển mạnh mẽ thêm nghiệp nhân tình ái, càng ngày càng
thêm sâu kín đậm đà.
Một nữ tử tù bị kết án tử hình vì tội tổ chức mua bán ma túy, trong
thời gian chờ đợi thi hành án. Nằm trong phòng biệt giam chờ ngày chết,
không biết ả đã cấu kết bằng cách nào, để làm xiêu lòng hai cán bộ quản
giáo cho phạm nhân vào quan hệ với ả, cuối cùng ả đã có bầu. Từ án tử
hình được giảm xuống còn án chung thân và ả nhờ đó mà thoát chết. Câu
chuyện này khó tin nhưng mà có thật, được đăng trên báo đời sống và pháp
luật. Vì vậy, Phật thường dạy thế gian này, nếu có cái thứ hai giống
nghiệp tình ái, bảo đảm không ai có thể tu chuyển được, mai mà chỉ có
một thứ ấy đã làm điêu đứng cả lòai người. Thực tế bây giờ, có một thứ
làm chết người trong thiên hạ đó là ma túy, ai dính vào vòng này khó bề
vượt qua, họa hoằng lắm chỉ có một vài người bỏ hẳn, không tái nghiện.
Nằm trong phòng biệt giam, đối diện với cái chết trong từng phút giây,
vậy mà ả vẫn có thể dùng mỹ nhân kế, để thuyết phục hai cán bộ quản giáo
và cuối cùng phải chịu chia án với ả, mỗi người sáu năm tù giam.
Tình đời là thế đó, nếu nó không có sức quyến rũ, hấp dẫn lạ kỳ, thì
người ta đâu phải mệt nhọc làm lụng vất vã, có khi phải bỏ mạng sa
trường cũng vì chút ấy. Như cuộc sống lòai tầm, tự nhả tơ quấn quanh
mình làm kén, bao che thân thể để bảo tòan mạng sống, nhưng khi được kín
đáo rồi, thì người ta cho vào nồi nước sôi luộc chết. Ngược lại, nữ tử
tù kia biết lợi dụng điểm yếu của đa số con người, khó ai thóat được cái
vòng lẩn quẩn ấy, nên đã cứu nàng thóat khỏi cái chết trong tầm tay.
Luật pháp dù nghiêm minh tới đâu vẫn còn kẽ hở, vì bị tiếng sét ái tình
chi phối, con người cũng vì chút đó mà rơi vào vòng lao lý, tù tội. Thế
nhân tự nghĩ lại xem, ai trong cuộc đời có đủ khả năng và bản lỉnh để
vượt qua nó, ngoại trừ các vị Bồ Tát và các bậc tu hành chân chánh. Cũng
đồng là cá, bao nhiêu con cá khác không thể vẫy vùng để nhảy ra khỏi
lưới, cuối cùng bị người đánh cá bắt bỏ vào giỏ, chờ giờ làm thịt. Vậy
con cá kia nhảy ra khỏi lưới, không giống người tu là gì! Nếu mới sinh
ra ai cũng là Thánh hết, chúng ta đâu cần phải tu làm chi cho mệt nhọc
và uổng công vô ích?
Chính chúng ta huân tập nhiều thói hư tật xấu, nghiện ngập đam mê,
đắm say đủ thứ, tham lam, sân giận, si mê, ích kỷ, ganh ghét và hận
thù. Nhờ gặp Phật pháp đã giúp cho chúng ta biết cách làm chủ bản thân,
để vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Vậy ngay bây giờ người con Phật hảy dùng
tuệ giác của chính mình, để chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau, thành an
vui hạnh phúc. Nếu ai chấp nhận số phận đã an bài, giống như bèo dạt mây
trôi, mặc tình đi theo dòng đời mê muội, ai làm sao mình làm vậy, chẳng
cần suy nghĩ tìm tòi, đành chịu chết chìm trong vũng bùn tội lỗi. Người
như thế thì trên trách trời, dưới óan ghét xã hội sao quá bất công, để
rồi mãi mãi phải chịu sống trong phiền muộn khổ đau.
Chúng ta vấp ngã ngay nơi đất, thì cũng từ đất đứng lên, không nên
oán trách đổ thừa cho ai cả, mà chính mình phải tự vươn lên để vượt qua
cạm bẩy cuộc đời. Phật và Bồ tát chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn cho chúng
ta, còn làm được hay không là phải do chính bản thân mình. Vì thế đứng
trước dòng thác lũ cuộc đời, nhưng chúng ta vẫn bình yên vô sự, nhờ biết
áp dụng lời Phật dạy. Ai cũng biết sự cám dỗ của tiền tài, sắc dục, lợi
danh luôn thôi thúc mời gọi chúng ta, nếu không có sức tỉnh giác ta sẽ
dễ dàng gục ngã trước dòng xoáy cuộc đời và sống trong đau khổ lầm mê.
Phật nói, trong đời có hai hạng người đáng được tôn kính và tán
thán ca ngợi: Hạng người thứ nhất, từ nhỏ đến lớn chưa từng vi phạm lỗi
lầm, nhưng luôn làm những đều thiện ích để giúp đỡ nhân loại. Hạng người
thứ hai, hay làm những việc xấu ác, hại mình hại người, nhưng biết ăn
năn sám hối quyết chừa bỏ, cố gắng khắc phục sửa sai, ý chí dũng mãnh,
tinh tấn tu hành, dám chịu từ bỏ những thói quen tật xấu để làm mới lại
chính mình.
Hình ảnh cá nhảy khỏi lưới là chỉ cho hạng người thứ hai, đã vào
lưới mắc lưới, mà còn nhảy ra được, không phải hay là gì! Vì vậy, thiền
sư khi thấy cá nhảy khỏi lưới mới khen rằng: “Hay quá! Con cá giống
người tu.” Người con Phật cần phải thấu đáo chỗ này, để cố gắng tiến tu.
Bởi có lỗi lầm nên quý vị mới đến chùa sám hối, tụng kinh, niệm Phật,
ngồi thiền và hay làm những điều phước thiện. Còn nếu chúng ta cứ chấp
nhận số phận như là một định mệnh, phó mặc cho thần linh thượng đế chẳng
cần phấn đấu vươn lên làm lại cuộc đời, thì vô tình đẩy ta vào con
đường cùng không lối thoát.
Đạo Phật không chấp nhận như thế, không thể đổ thừa cho số phận,
nếu nói theo thực thể cố định như có một cái gì quy định sẳn. Hạng người
nầy đáng thương hơn là đáng ghét vì họ thiếu hiểu biết, ít học hỏi,
chẳng bao giờ gieo trồng phước đức nên suy nghĩ và hành động không sáng
suốt, đành cam chịu chấp nhận số phận đã an bài, để rồi suốt cuộc đời
sống trong đau khổ lầm mê. Định kiến này sẽ không còn tác dụng đối với
người dám làm mới lại chính mình, dám từ bỏ những điều bất thiện và
quyết tâm khắc phục lỗi lầm, vì thế nhân quả có thể thay đổi được. Nếu
nói cái gì cũng là cố định hết, thì trên đời này không một ai tu được,
nếu có tu cũng chẳng lợi ích gì.
Trở lại câu chuyện cá nhảy khỏi lưới, đã bị vướng vào lưới mà còn
nhảy ra được, vậy không phải hay là gì? Do đó Thiền sư nói: “Hay quá!
Hay quá! Con cá giống người tu.”Vậy thế nào là người tu? Người tu ở đây
không hạn cuộc là người xuất gia hay tại gia, là người dám sửa đổi những
thói quen tật xấu của bản thân, dám thừa nhận lỗi lầm, để làm mới lại
chính mình. Biết sám hối hổ thẹn, quyết chí sửa sai, dám nhìn nhận sự
thật, dám từ bỏ không tái phạm nữa, đó là người tu. Tu có nghĩa là sửa,
là thay đổi và chuyển hóa. Đổi xấu thành tốt, đổi ác thành thiện, đổi dở
thành hay, nói chung là sửa đổi những thói quen có hại cho người và
vật.
Tu là cốt chuyển ba nghiệp ác thành ba nghiệp thiện, đây là nền
tảng của sự tu hành và là bước đầu của người học Phật. Muốn cất nhà lầu
ba tầng, thì trước tiên chúng ta phải biết xây dựng nền móng nhân quả,
chứ không thể cất ngay tầng thứ ba được. Vậy nghiệp là gì? Nghiệp là
năng lực, là hành động, được lặp đi lặp lại nhiều lần từ thân, miệng, ý,
của mỗi người lâu ngày trở thành thói quen. Thói quen đó có sức mạnh
lôi cuốn chi phối sai sử lại con người, đi theo hai chiều hướng tốt hoặc
xấu. Khi xưa chưa biết tu, thì ta luôn làm các việc xấu ác, ý suy nghĩ
rồi miệng nói năng và thân hành động làm khổ nhiều người, nay biết tu
rồi thì cũng ngay nơi đó mà chuyển ba nghiệp thân, miệng, ý, thành tốt
lành. Người tu thì việc ác lánh xa không làm, việc lành nên cố gắng thực
hiện, khi chưa biết tu thì thân có khi làm ác, miệng nói lời hung dữ, ý
nghĩ xấu, ganh ghét và hận thù. Nay biết tu rồi thì thân tâm luôn hướng
thượng, giúp đỡ và chia sẻ cho người khi gặp khó khăn, hoạn nạn. Miệng
nói lời hòa nhã dịu dàng dễ nghe, ý luôn nghĩ điều tốt lành thánh thiện.
Cứ sau một lần thất bại và vấp ngã, người không có niềm tin về
chính mình sẽ bị gục ngã trước, để rồi chấp nhận cuộc đời đen tối, mặc
cho dòng đời cuốn trôi. Và sau nhiều lần thất bại sẽ chôn vùi những con
người quá yếu đuối, bạc nhược, hèn nhát, kém cỏi. Ngược lại, sẽ giúp cho
những người có ý chí và nghị lực phi thường, đối với họ chỉ là thử
thách. Đạo Phật không dạy chúng ta trốn tránh cuộc đời, mà dạy chúng ta
dũng cảm đối diện với cuộc đời, dùng trí tuệ từ bi để làm mới lại chính
mình, vượt qua biển khổ sông mê, nhằm góp phần phục vụ lợi ích cho hạnh
phúc gia đình, xây dựng xã hội và thế giới hòa bình an lạc lâu dài.
Người thật tâm muốn làm mới lại cuộc đời, ngay nơi vấp ngã đó, hãy
can đảm đứng lên vứt bỏ hết tất cả. Giống như chú cá kia dám nhảy khỏi
lưới để thóat thân, vậy không phải hay là gì? Còn nhiều con cá khác vì
không đủ khả năng thoát ra đành cam chịu mắc lưới, để chờ ngày làm thịt.
Như người nghiện rượu, nếu ngày nào không có, tay chân run lẩy bẩy
không thể làm được việc gì, bắt buộc mỗi sáng phải đưa vô một hoặc hai
xị, mới có thể tỉnh táo trở lại. Đó là chỉ nói sơ về tác hại của người
ghiền rượu. Muốn bỏ những thói quen nghiện ngập si mê cũng không khó
khăn gì, chúng ta phải nhận thức được sự tác hại của nó, tin sâu nhân
quả, nhân nghiện ngập, quả si mê và cuối cùng dẫn đến cướp của, giết
người không gướm tay, để thỏa mãn cơn ghiền của mình. Chúng ta phải
quyết tâm dũng mãnh, vượt qua giai đoạn vật vã khốn khổ, đa số người đời
vì không chịu nỗi chỗ này, nên đành chấp nhận sống trong nghiện ngập và
đam mê si dại. Có nhiều người bỏ được thói quen xấu rồi, nhưng khi gặp
bạn bè nói bóng, nói gió, đàn ông không biết uống rượu là pê-đê, nghe
vậy tức quá. Để chứng minh cho mình không phải là pê-đê, nên tiếp tục
uống rượu trở lại, rốt cuộc rồi chứng nào tật đó, vì ai cũng thích được
khen hơn là bị chê, dù biết đó là lời khen lấy lòng. Cũng vậy con người
ai cũng thích cảm giác khoái lạc hơn, là bị những cơn vật vã hành hạ
khốn khổ.
Như người hút á phiện, chích xì ke chẳng hạn, nếu người hút chích
liên tục từ hai lần trở lên sẽ bị ghiền và rất khó bỏ. Có hai loại cảm
giác khoái lạc, làm cho con người đam mê say đắm khó rời xa, đó là khoái
lạc nam nữ và khoái lạc ma túy. Trong tình yêu lứa đôi nhờ biết cách
vung bồi cho nhau nên duy trì được hạnh phúc gia đình. Khoái lạc nam nữ
đã giúp cho nhiều người sống có trách nhiệm và bổn phận hơn, trong sự
nghiệp phát triển duy trì nòi giống nhân loại. Khoái lạc ma túy làm cho
con người bị sa đọa trầm trọng gây ra thảm họa cho loài người trong hiện
tại và tương lai. Tác hại của nó hơn gấp trăm ngàn lần các thứ khác, ai
dính vào vòng này coi như thân tàn ma dại, con người trở nên tàn ác vô
lương tâm và sẵn sàng hành động dã man để có tiền thỏa mãn cơn nghiện.
Người nghiện ma túy trăm người chỉ bỏ được một là cùng, hiện tại
đã đến hồi báo động cho thế giới loài người, cứ mỗi ngày có thêm một
trăm người bị bệnh sida. Tệ nạn xã hội càng ngày gia tăng, đến nỗi nhà
tù mọc lên như nấm, sự thiệt hại về con người và vật chất quá lớn do con
nghiện gây ra không sao tính kể. Thế kỷ thứ hai mươi mốt trở về sau,
con người sẽ sống chung với bệnh hoạn, sống chung với ô nhiễm môi
trường, sống chung với người nghiện ngập, sống chung với thiên tai, sống
chung với nhiều người không có tình yêu thương chân thật, vì đạo đức
suy đồi, nhân cách thấp kém, hiểu biết nông cạn. Chúng ta luôn bị lệ
thuộc vào nhu cầu vật chất quá lớn, nên tâm linh mai một, xã hội tha
hóa, con người trở nên ác độc với nhau nhiều hơn, vì không có tình yêu
thương chân chính.
Vì vậy chúng ta đang sống trong thời đại ô nhiễm, mà không si mê
nghiện ngập quả thật là một điều rất khó, nhưng khi đã vướng vào rồi mà
thoát ra được, mới là người đáng khâm phục và tôn kính. Như cá nhảy khỏi
lưới. Hay quá! Hay quá!
MA TÚY VÀ SỰ TÁC HẠI CỦA NÓ.
Tại sao hút chích và mua bán xì ke ma túy không có trong giới
cấm? Tuy không có trong giới cấm, nhưng nó nằm trong giới thứ năm không
được uống rượu và các chất gây say sưa nghiện ngập. Thời Phật tại thế
chắc chưa phát sinh tệ nạn ma túy, nên chúng ta không nghe Phật nói
trong các bản kinh. Nói đến cảm giác khóai lạc của người hút chích xì
ke, thì không thể nào diễn tả bằng ngôn ngữ cho hết được. Ngược lại, khi
cơn ghiền đã đến, con nghiện sẽ không làm gì được, ngáp ngắn ngáp dài
trong người bãi oải, dã dượi, vật vã, khó chịu tột cùng. Để làm giảm bớt
và xoa dịu cơn vật vã, ta phải đánh thật mạnh vào bắp vế non hàng trăm
cái, mới tạm thời giảm bớt nồng độ vật vã. Nếu gia đình nào đã tìm nhiều
cách để giúp cho con nghiện cai mà không được, thì chỉ còn cách duy
nhất là gởi con nghiện vào các trung tâm và cho lập nghiệp lâu dài. Đây
là giải pháp an tòan và hiệu quả nhất, có thể thay đổi chuyển hóa cuộc
đời con nghiện. Tạo công ăn việc làm tại chỗ, không cho con nghiện giao
thiệp tiếp xúc bên ngòai, đưa giáo lý nhân quả nghiệp báo, luân hồi tái
sanh, để giáo dục con nghiện ý thức được sự tác hại quá lớn trong hiện
tại và hậu quả nhiều kiếp về sau.
Có một bà mẹ nọ nhà rất khá giả, vì quá thương con nên bà ta
chiều chuộng con mình một cách thái quá, chúng muốn gì được nấy bà chẳng
cần tìm hiểu nguyên nhân. Nhờ có sắc đẹp mặn mà nên bà ta dễ làm các
nhân tình lớn tuổi đắm đuối say mê khó rời xa. Do đồng tiền có được
không phải bằng mồ hôi nước mắt của mình tạo ra, nên bà ta tiêu xài
hoang phí và chẳng cần quan tâm đến con cái. Hai đứa con của bà chẳng
thèm làm ăn gì hết, chúng ỷ lại vì có mẹ nuôi nên tối ngày la cà các trà
đình tửu điếm, cuối cùng vướng vào nghiệp ma túy.
Bà ta giàu có và sống được nhờ là vào sắc đẹp của mình nên để con
muốn làm gì thì làm, chúng đòi hỏi nhu cầu gì bà đều đáp ứng đầy đủ.
Nhưng phước báu con người có giới hạn ở không ăn riết núi cũng mòn. Tiền
cuổm được của các tình nhân già bao nhiêu, cũng không đáp ứng đủ cho
chúng. Mẹ thì dùng sắc đẹp của mình để lấy tiền các lão già mê gái, con
thì hút chích đàn điếm.
Thật lòng mà nói bà ta có vô số tình nhân lớn tuổi, nhưng cuối
cùng rồi tất cả đều phải chia tay, khi sự nghiệp của những người này
không còn nữa. Bởi vì mỗi một ngày bà ta đến một nhà hàng cao cấp và
sang trọng, nay thì đi với người này mai thì đi với người kia, bà thay
tình như thay áo mỗi ngày. Con bà vì quen thói được chiều chuộng từ nhỏ,
nên chúng đã hư hỏng và còn đam mê nghiện ngập khi tuổi đời còn quá
trẻ, cuối cùng hai đứa được đưa vào trung tâm cai nghiện, vì quá thương
con nên bà bằng mọi cách móc nối, để đem cái thứ chết người đó vào trung
tâm. Đứa con nhỏ vì phê quá liều nên bị chết, đứa con lớn thì đang
nghiện nặng và bị sida cũng đang chờ thần chết rước đi, cuối cùng bà ta
bị tán gia bại sản và phải ở nhà mướn.
Giờ này tuy bà ta tròn trèm gần sáu mươi tuổi rồi nhưng vẫn còn
hương sắc mặn mà, vậy mà vẫn có người thương và thuê phòng trọ ở với bà
ta, nếu chúng ta chỉ nhìn phía sau thì rất dễ lầm lẫn. Chúng tôi có thời
gian đi ăn hôi với bà mỗi ngày, nên hiểu rất rõ hoàn cảnh sống của bà.
Đồng tiền làm ra không chân chánh và nuông chiều con quá mức là căn bệnh
trầm kha của một số bà mẹ trong thời hiện đại, do đó nhiều gia đình
phải tan nhà nát cửa. Thảo nào ông bà ta thường nói: “Con hư tại mẹ,
cháu hư tại bà” là rất đúng chứ không sai.
Người thời xưa cho rằng á phiện là loại thuốc an thần giảm đau
cực kì hiệu quả, làm cho cơ thể thông minh sáng suốt lạ lùng, nó có tác
dụng chữa bệnh rất cao. Vì thế, người giàu sang mới có tiền dùng nó, còn
người dân bình thường không có khả năng với tới. Nó còn có tác dụng cầm
máu nhanh chóng và giảm đau cực kỳ hiệu quả, chỉ để sử dụng trong ngành
y học. Một người nữ đang mang thai, sắp đến kỳ khai hoa nở nhụy, bị cơn
đau bụng hành hạ dữ dội không cách nào chịu nỗi, oằn oại rên la rất là
thảm thiết. Vì quá đau chịu không nỗi, nên cô ta có ý định nhảy xuống
giếng tự tử.
Chồng cô là người nghiện xì ke ma túy sợ cô chết, đành ngậm đắng
nuốt cay chích cho cô một mũi. Nhờ vậy khống chế được cơn đau và từ đó
cô trở thành bạn chích với chồng. Thế là một thời gian sau, hai vợ chồng
bị bắt vô trung tâm cai nghiện, chồng cô bị sida và qua đời sau thời
gian ngắn. Cô vì có con nhỏ nên được cho về. Nhưng chứng nào tật nấy, vì
không đủ sức vượt qua cơn ghiền, nên cuộc đời cô ta chết chìm trong
nghiện ngập, nhà cửa đều bán sạch hết và trở nên thân tàn ma dại. Đây là
câu chuyện có thật xảy ra tại Quận Thủ Đức. Sau này cô ta phải mua phấn
bán hoa và bị bệnh sida, cuối cùng từ giả cõi đời để lại đứa con thơ
không nơi nương tựa. Vì vậy người con Phật phải khéo thận trọng trong
quan hệ giao tiếp, nên tránh xa bạn bè xấu ác, luôn thân cận học hỏi bậc
hiền Thánh, nếu không được như vậy thà sống một mình còn hơn, phải chịu
chết chìm trong si mê nghiện ngập.
Bồ tát là con người giác ngộ từng phần đang tiến bước trên con
đường Phật quả. Bởi giác ngộ nên bồ tát ngừa từ nhân, không dám làm việc
xấu ác. Còn chúng sinh chờ đến quả khổ, mới than trời trách đất, đổ
thừa tại bị thì là…cuối cùng đành nhắm mắt xuôi tay để cho nghiệp xấu
chi phối. Nhất là người bị nghiện xì ke khó lòng bỏ được chúng, vì nó đã
ăn sâu vào trong tâm thức. Người nào can đảm dũng mãnh lắm, mới bỏ được
hẳn không bị tái nghiện trở lại. Còn không thì phải đam mê thứ khác
thật sâu đậm, mới có thể vượt qua nỗi. Chính bản thân chúng tôi bỏ được,
cũng chỉ bằng cách đó mà thôi, ngọai trừ trường hợp đặc biệt do Bồ tát
thị hiện đi vào đời cứu độ chúng sanh, bằng không thì phải chấp nhận
sống trong nghiện ngập si mê.
Nhiều cha mẹ vì quá thương con, sợ con bị hành hạ dằn vặt chịu
không nỗi, nên vô tình giết chết con mình bằng cách tiếp tế chi viện mỗi
ngày. Thương con kiểu đó vô tình hại thêm, làm cho con mình thêm bệnh ỷ
lại, nên không chịu cố gắng kiên trì vượt qua. Con chịu si mê chết chìm
trong nghiện ngập, mẹ đồng lõa tiếp thêm tội lỗi và cuối cùng hai mẹ
con cùng đi chung một xuồng sa đọa. Gia tài sự nghiệp mấy chục năm chắt
chiu làm việc tích cóp bấy lâu nay, đều tan tành theo mây khói vẫn không
cứu được con mình. Chúng tôi có biết một người nghiện xì ke lớn hơn tôi
khỏang ba bốn tuổi, bị nghiện từ tuổi thiếu niên vì là cậu út con của
một gia đình giàu có tiếng tăm, biết con mình chơi cùng với nhiều người
bất hảo. Sợ ảnh hưởng đến uy danh và thanh thế gia đình, nên cha mẹ đã
bắt buộc anh ta, không được ra khỏi nhà và sẵn sàng cung cấp đầy đủ nhu
cầu cần thiết. Đây là giải pháp tạm an tòan, thuộc gia đình có nhiều
quyền lực và giàu có trong xã hội.
Phương pháp này tạm thời giúp cho người nghiện, không rơi vào
tình trạng cướp của giết người, không gây xáo trộn về an sinh xã hội.
Quản lý con nghiện chặt chẻ nhờ vậy giảm bớt tệ nạn xã hội. Cách giải
quyết trên chỉ tạm thời giúp cho con nghiện, không phạm pháp trong hiện
đời và kéo dài đời sống thêm năm mười năm nữa là cùng. Nhưng sẽ để lại
hậu quả rất nghiêm trọng cho nhiều đời về sau theo luật nhân quả luân
hồi của đạo Phật. Vì sao? Chúng ta không hóa giải nghiệp nhân trong hiện
tại, để cho bị chết chìm trong đam mê tội lỗi, coi như bao nhiêu phước
báo trong hiện đời con nghiện, đã hưởng hết và còn mang theo thói quen
nghiện ngập và si mê.
Theo luật nhân quả nghiệp báo, nhân si mê nghiện ngập trong hiện
tại nếu không hóa giải được, thì vô số kiếp về sau phải bị đọa lạc vào
chỗ khốn cùng. Như con thiêu thân lao vào lửa, như bướm lao đèn, tự
thiêu tự đốt hôn mê chẳng tỉnh, điên đảo dối sinh, đều do si nghiệp. Khi
được làm người trở lại thì bị thân thể xấu xí, hôn ám si muội, không
làm chủ bản thân dễ dàng rơi vào chỗ tối tăm mờ mịt. Vì không còn phước
nên hiện đời không ai giúp đỡ, đành lao vào việc trộm cướp để có tiền
hút chích. Nếu không may bị chủ nhân phát hiện, sợ quá bất đắc dĩ giết
luôn gia chủ để bịch đầu mối, cuối cùng tăng thêm tội nữa là tội giết
người. Thế là quả xấu chồng quả xấu, người này sẽ không còn cơ hội làm
mới lại chính mình, nên đời này kiếp nọ sống trong mù mịt tối tăm, khó
mà có cơ hội vươn lên làm lại cuộc đời và mãi mãi sẽ là người từ tối vào
tối. Nên trong bài kệ sám hối của vua Trần Thái Tông nói về nghiệp ngu
si là :
Căn tánh đần độn,
Ý thức tối tăm,
Chẳng hiểu tôn ti,
Không phân thiện ác.
Chặt cây hại mạng,
Giết gấu gãy tay,
Mắng Phật chuốc ương ,
Phun trời ướt mặt.
Quên ơn quên đức,
Bội nghĩa bội nhân,
Không tỉnh không xét,
Đều do si nghiệp.
Những tội như thế,
Rất nặng rất sâu,
Đến lúc mạng chung,
Rơi vào địa ngục.
Trải ngàn muôn kiếp,
Mới được thọ sanh,
Dù được thọ sanh,
Lại mắc ngu báo.
Nếu không sám hối,
Đâu được tiêu trừ,
Nay trước Phật đài,
Thảy đều sám hối.
Nếu ai đã lỡ vướng vào nghiệp tội si mê này rồi, thì khó có khả
năng được làm người trở lại. Nếu được làm người, làm người thấp kém bần
cùng và dễ dàng bị thói quen đam mê nghiện ngập cuốn hút. Do hết phước
nên sinh ra trong gia đình nghèo khó, lại nghiện ngập nữa nên phải trộm
cướp, cuối cùng rơi vào hố sâu tội lỗi như người bị mắc dưới bùn không
chân, càng nhích càng lún sâu, đành chịu chết dần chết mòn trong đau khổ
lầm mê. Cứ thế tội chồng tội, để rồi mãi sống trong tối tăm mờ mịt.
Cha mẹ con nghiện, muốn giúp cho con mình vượt qua được những
thói quen mê muội này, thường con nghiện không đủ sức tự cai một mình,
nên cần phải nhờ nhiều người thân hổ trợ. Gia đình cần phải cố gắng kiên
trì, bền chí chịu đựng để giúp con nghiện cai tại nhà như sau: Thứ nhất
là con nghiện phải chấp nhận cách ly hoàn toàn tuyệt đối, không cho
quan hệ và giao tiếp với bạn bè bên ngòai. Đây là điều cần yếu quan
trọng đầu tiên, nếu để con nghiện tự do đi lại, con nghiện dễ dàng bị
cám dỗ, lôi cuốn trở lại. Thứ hai hướng dẫn con nghiện phát nguyện sám
hối hứa chừa bỏ, không tái phạm và thường xuyên suy tư quán chiếu thấy
được tác hại của nó làm hao tài tốn của cho người thân có thể dẫn đến
tán gia bại sản, vợ con khốn khổ. Nếu gia đình không có khả năng đáp ứng
nhu cầu, con nghiện có thể lường gạt hoặc trộm cướp để có tiền hút
chích, không khéo dẫn đến tình trạng cướp của giết người không thương
tiếc. Đã dính vào nghiệp này rồi thì tiền mất tật mang, mê muội ngu si,
vô số kiếp sống trong đau khổ lầm mê, không có ngày thoát ra.
Đa số người nghiện xì ke ma túy đều là con nhà giàu, từ chỗ cha
mẹ thiếu quan tâm, chỉ biết thương con, chiều con muốn gì được nấy, đòi
gì được đó. Vô tình giết chết con mình! Cha mẹ do chạy theo nhu cầu sự
sống, mải mê làm giàu, bảo vệ công danh sự nghiệp sợ không bằng người,
cứ thế mỗi khi con cần gì chẳng cần quan tâm đến, cứ chu cấp thỏa đáng
theo nhu cầu của con mà chẳng cần tìm hiểu.
Như bản thân chúng tôi lúc còn chích xì ke, trong thời gian ở tù
vì tội móc ngoặc hối lộ, nhưng do khôn khéo luồn lách giỏi nên được làm
tù trưởng tự do đi lại bình thường. Chính vì thế, càng ở lâu trong tù
càng tạo thêm nhiều tội lỗi, chúng tôi móc nối các phạm nhân nghiện ma
túy mua một bán mười, đem vô cho họ chích trong trại giam tạo thành
đường dây lớn mạnh. Đời sống của tôi lúc đó như ông hòang con được bao
bọc che chở của nhiều thế lực, nên hiên ngang móc nối làm nhiều phi vụ
phi pháp tung hòanh ngang dọc một thời trong tù. Sau này khi đi tu rồi,
ngồi suy gẫm lại mới thấy tội lỗi vô cùng và sự tác hại lớn lao của nó.
Người có địa vị quyền lực càng cao nếu không biết tu sẽ gây ra vô số tội
lỗi, một xã hội nếu người lãnh đạo ít tham nhũng và ham sắc đẹp thì đất
nước đó mau tiến bộ và giảm nhiều tệ nạn xã hội.
PHẬT PHÁP ĐỘ VUA A DỤC HOÀN THIỆN
Cách thời Phật hiện tiền khoảng một trăm năm có vua A-dục, do có
tài nên ông ta bình thiên hạ dễ dàng nhưng thời kỳ này, người ta gọi ông
là ông vua độc ác. Khi sắp lên ngôi vua, ông đã giết gần hết số anh em
cùng cha khác mẹ, giết vô số quan lại và hàng trăm ngàn cung phi mỹ nữ.
Mỗi ngày ông thường đem nhiều phạm nhân ra hành hình, lấy thú vui giết
người làm niềm vui chính mình. Ông giết người không gớm tay, riết rồi
không còn phạm nhân để giết nữa. Một số quan cận thần thấy thế, mới tìm
cách khuyên nhủ nhà vua, tìm một truyền nhân giết người thay thế cho
vua, để vua bớt mang tiếng bất nhân, bất nghĩa. Điều kiện duy nhất, làm
sao tìm được một người có tâm giết hại giống như nhà vua. Lệnh được
truyền đi qua thời gian gần một tháng, mới tìm được người như ý muốn.
Tên này là một thợ săn khét tiếng, không những săn thú mà còn hành hung
người một cách tàn nhẫn. Để chứng tỏ mình là kẻ giết hại không gớm tay,
tên thợ săn liền giết cha mẹ hắn, để chứng minh cho hành động của mình.
Sau khi đến gặp nhà vua, hắn đưa ra điều kiện hễ ai vào đó thì không
được ra, dù là vua.
Thế là địa ngục trần gian được lập ra, dưới sự cai quản của hắn.
Bên ngoài trang trí giống như hoa viên du lịch để làm mờ mắt thiên hạ.
Một hôm, có thầy Tỳ kheo đi hóa duyên vô tình lạc vào địa ngục trần
gian. Bỗng một giọng nói đanh thép vang lên, này gã ăn mày kia, ngươi đã
lạc vào địa ngục trần gian, hễ ai đặt chân vào đây coi như tan thây mất
mạng. Này gã đầu trọc kia, ngươi đã tận cùng bằng số rồi nên mới lạc
vào đây, số mi thật xui xẻo, thôi thì hãy ngoan ngoãn chờ ta ban tội
chết cho. Ha! Ha! Biết khó bề thoát thân, thầy Tỳ kheo liền tìm kế hoãn
binh, nên nói với tên sát nhân rằng: Tôi là người tu hành, tôi không sợ
chết đâu, chỉ vì chưa chứng được đạo quả bồ đề, nên ông hãy thương tình
gia hạn cho tôi một tháng. Có lẽ nhờ sự gia hộ của chư Phật, tên sát
nhân đã kỳ hạn cho thầy Tỳ kheo bảy ngày.
Đây là cơ hội tốt nhất để thầy Tỳ kheo cố gắng tu tập, nhưng thời
gian bảy ngày quá ngắn ngủi. Đối diện với cái chết sắp kề cận bên mình,
ấy thế mà đã sáu ngày trôi qua, thầy Tỳ kheo vẫn không có một tia sáng
giác ngộ nào hết. Buổi chiều ngày thứ sáu, một phụ nữ được đưa vào với
tội danh ngoại tình lăng chạ với người khác, nên bị hành hình rất dã man
rồi cuối cùng chết liền tại chỗ. Nhìn thấy hình ảnh thảm thương đó,
thầy Tỳ kheo nghĩ đến thân phận con người rất mỏng manh tạm bợ, mạng
người không có giá trị gì hết, thấy đó rồi mất đó. Thầy Tỳ kheo chợt
nhận ra đạo lý vô thường ngay nơi thân này, không có gì là thường còn
vĩnh viễn, và cứ như thế thầy Tỳ kheo quán sát một cách rõ ràng tường
tận, nhờ miên mật tinh cần thầy đã chứng quả A-la-hán trong đêm cuối
cùng.
Tờ mờ sáng, tên sát nhân đã vào với vẻ mặt lạnh lùng, giọng nói
oang oang nghe đến rợn người: “Giờ chết đã đến, ngươi còn ân hận gì
không” ? Thầy Tỳ kheo thản nhiên trả lời: “Hôm nay là ngày tốt, ông muốn
giết ta bằng cách nào cũng được.”Tiếng cười vang lên thật quái đản,
chúng ném thầy Tỳ kheo vào cái nồi đồng thật lớn, bên ngoài chất thật
nhiều củi rồi châm dầu đốt lửa, lửa đã cháy đỏ hừng hực thật lâu, khiến
cho nước trong nồi sôi lên sùng sục, kéo dài khoảng gần hai tiếng đồng
hồ, sức nóng đã làm cho tên sát nhân phải đứng xa ra. Tên sát nhân yên
trí rằng thầy Tỳ kheo đã chết, nên cho người mở nắp nồi ra xem. Không
ngờ ai nấy đều ngạc nhiên, chứng kiến vị Tỳ kheo đang ngồi kiết già, sắc
mặt người trong sáng lạ thường, tỏa ra một ánh hào quang diệu kỳ làm
cho tên sát nhân và mọi người hoảng hồn sợ hãi, liền tấu trình lên cho
vua A-dục biết.
Vua A-dục nhìn thấy tận mắt những đều chưa từng thấy từ trước đến
nay. Cuộc đời của ngài đã từng đi chinh chiến khắp nơi đánh đông dẹp
tây, tung hoành các nước để thỏa mộng ước bình thiên hạ, không một ai có
thể qua khỏi lưỡi gươm của ngài. Vậy mà thầy Tỳ kheo này, vẫn sừng sững
hiên ngang ngồi trong nồi đồng với nước sôi sùng sục. Chứng kiến tận
mắt, hình ảnh người tu hành có diệu dụng không thể nghĩ bàn, ngài bất
giác rơi lệ, quỳ xuống xin thầy Tỳ kheo tha thứ tội lỗi, ăn năn sám hối
hứa chừa bỏ những điều sai trái từ trước tới nay do mình gây ra.
Sau đó thầy Tỳ kheo giảng pháp cho nhà vua nghe về đạo lý làm
người và nhân quả nghiệp báo. Vua liền thức tỉnh phát nguyện quy y Tam
Bảo hộ trì chánh pháp, giúp dân chúng an cư lạc nghiệp, tin theo lời
Phật dạy giữ gìn năm điều đạo đức.
Thứ nhất không được giết người và hạn chế tối đa giết hại các
loài vật. Không gian tham trộm cướp của người một cách bất chính trộm là
lấy lén, cướp là công khai lấy, giành giựt lấy. Ba là không được tà
dâm, Phật tử có quyền lấy vợ lấy chồng, nhưng không được quan hệ với
người khác ngoài vợ chồng chính thức. Ăn ở với người cùng huyết thống
gọi là loạn luân, quan hệ giữa người và thú gọi là cuồng dâm. Tự mình
khoái lạc gọi là thủ dâm, quan hệ với người đồng phái gọi là đồng tính
luyến ái hay còn gọi là pê-đê, còn quan hệ nếu xảy ra với người trưởng
thành và trẻ chưa tới tuổi vị thành niên gọi là bạo dâm. Thứ tư là không
được nói dối để hại người. Thứ năm là không uống rượu và dùng những
chất gây say có hại cho sức khỏe và tinh thần. Nhà vua nghe xong phát
nguyện đời đời kiếp kiếp hộ trì Tam bảo giúp dân chúng an cư lạc nghiệp
theo tinh thần Phật dạy.
Một vị vua tàn bạo giết người không gớm tay nhưng nhờ gặp giáo
pháp của Như Lai thế tôn, bậc chánh đẳng chánh giác, vua A-dục đã được
thầy Tỳ kheo dùng thân giáo hóa để trở thành một người Phật tử thuần
thành, chuyện này từ xưa đến nay thật là hiếm có. Chỉ có chánh pháp của
Phật mới có công năng trị lành tất cả bệnh, nếu ai biết hướng tâm quay
về, dù người đó tàn bạo, độc ác tới đâu, cụ thể như vua A-dục. Một khi
đã thấm nhuần giáo lý Phật đà rồi, thì có thể trở thành con người hiền
lương đạo đức và không làm tổn hại cho ai. Ban đầu vua A-dục là một vị
vua khét tiếng tàn bạo và độc ác không ai bằng, lấy sự giết hại làm niềm
vui chính mình. Sau nhờ sự diệu dụng không thể nghĩ bàn của Phật pháp,
vua A-dục trở thành vị hoàng đế anh minh sáng suốt, hết lòng thương yêu
dân chúng như con đẻ của mình.
Ngày hôm nay, Phật giáo được lưu truyền rộng khắp là nhờ một phần
công lao của ngài, một người đã giác ngộ và phát nguyện hộ trì Tam Bảo.
Nếu không phải là giáo pháp của Như Lai thì làm sao có thể chuyển hóa
được vị hôn quân mê muội này. Giáo pháp của đức Phật không thể nghĩ bàn,
không những thuyết phục bằng lời nói, mà còn dùng thân giáo của chính
mình để đối tượng được cảm hóa tâm phục, khẩu phục, không còn lý lẽ nào
để nghi ngờ nữa. Nhờ được chuyển hóa mà vua A-dục trở nên người có công
rất lớn trong việc phát triển và mở mang đạo lý làm người truyền rộng ra
các nước phương xa. Cụ thể là con của ngài xuất gia đầu Phật và đã đến
đất nước Tích Lan để truyền bá Phật pháp.
VUA A DỤC DÙNG PHƯƠNG TIỆN GIÁO HÓA
Từ khi gặp được Phật pháp, vua A-dục mỗi khi ra ngoài đường, gặp
bất cứ vị Tỳ kheo nào cũng đều bước xuống xe đảnh lễ và chào hỏi rất tôn
kính, làm cho một vị quan đại thần tỏ vẻ không hài lòng và bất bình. Vị
quan này quen theo lối phân biệt giai cấp, cho vua là trên hết không ai
bằng. Người thời xưa quan niệm trời sinh ra vạn vật, nên các vị vua tự
xưng là thiên tử, tức con trời. Vua thay mặt trời trị vì thiên hạ, nên
vua là cao cả, là quí báu, thậm chí nếu thần dân thiên hạ lỡ đặt tên con
mình đồng tên với gia tộc của vua, đều bị mang tội khi quân. Do đó,
quyền lực của những ông vua thời phong kiến rất độc tôn, độc tài, muốn
giết ai thì giết, muốn phong quan tiến chức cho ai thì phong, tùy ý giết
người như vua A-dục thời kỳ chưa gặp Phật pháp.
Phật pháp có công năng gì mà chuyển hóa được vua A-dục, một con
người bạo ác trở thành vị vua anh minh sáng suốt, vì lợi ích nhân loại
và lợi ích muôn loài? Trở lại câu chuyện, vị quan đại thần không chấp
nhận các vị Tỳ kheo là người đáng tôn kính, đảnh lễ, thưa hỏi, cúng
dường. Người xưa quan niệm rằng vua là trên hết, vua là con trời, ai gặp
vua thì phải đảnh lễ cung kính, nếu không thì mang tội khi quân, sẽ bị
trị tội tùy theo mức độ nặng nhẹ. Nếu là ngày trước, vua A-dục chưa biết
Phật pháp, có lẽ quan đại thần ấy đã mồ xanh cỏ rồi, làm gì có thời
gian để giải bày. Do vậy, vua A-dục vẫn im lặng không thèm trả lời.
Để chứng minh cho sự hồi đầu của mình sau khi gặp Phật pháp, lấy
tình thương bao dung mà tha thứ và độ lượng. Nhà vua đã phương tiện giáo
hóa quan đại thần bằng cách ra lệnh cho tất cả quan văn võ trong triều,
mỗi người đều đem bán đầu súc vật, riêng vị quan đại thần phải bán đầu
người. Đầu súc vật, các quan đều bán được hết, riêng đầu người của quan
đại thần là không bán được. Vua A-dục mới hỏi cắc cớ, tại sao đầu người
lại không bán được, mà đầu súc vật lại bán được, vậy đầu người hèn hạ
nhất trên đời nầy hay sao? Vua lại hỏi thêm, chỉ cái đầu này hèn hạ hay
các cái đầu khác cũng vậy? Viên đại thần ấp úng, không trả lời được nên
cuối cùng đành im lặng, chờ sự chỉ giáo của vua A-dục.
Vua nói:Ta không nhờ Phật pháp thì đầu ngươi cũng chẳng kém chi
đầu này, Phật pháp không thể nghĩ bàn, ngươi lấy tâm phàm tục đo lường
thánh trí, giống như người mù sờ voi, ngươi cố ý muốn ngăn cản ta, đó là
điều tốt theo cách nhìn của ngươi, vì ngươi trung thành với ta, đó là
điều đáng khen ngợi, ta không phủ nhận điều ấy. Nhưng ngươi muốn ngăn
cản ta, đảnh lễ các thầy Tỳ kheo, đó là do ngươi quá cống cao ngã mạn,
thấy mình là trung tâm của vũ trụ, thấy mình là cao cả. Nếu mình là cao
cả, tại sao đầu người không bán được, mà đầu súc vật lại bán
được?
Con người dù hèn hạ đến đâu, một khi biết tu nhân tích đức làm
mới lại chính mình, thì ai thấy cũng tôn trọng quý kính. Các thầy Tỳ
kheo dám bỏ hết những gì đang có, để sống đời tỉnh thức rày đây mai đó,
trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh, nhà ngươi có làm được như
thế không, mà dám khinh khi coi thường. Đó là tâm niệm của ngươi quá nhỏ
nhoi và ích kỷ. Trong cuộc đời này nếu mình làm không được thì nên tùy
hỷ với người làm được, để được thêm tình yêu thương và hiểu biết. Tùy hỷ
với người có nhân cách phi thường, chúng ta sẽ có thêm nhận thức đúng
đắn về đạo đức và giá trị chân thật trong cuộc đời.
Ta nay nhờ gặp Phật pháp, nên làm mới lại cuộc đời, bằng tất cả
tấm lòng chí thành chí kính. Như vậy, ta có lầm lỗi chỗ nào mà ngươi dám
ngăn cản ta, như thế có phạm tội khi quân hay không? Nghe được những
lời nói chân tình của nhà vua, vừa là chỉ dạy, vừa là khuyên nhủ, vị
quan đại thần thức tỉnh nhận ra lỗi lầm của mình, ông cúi đầu lạy tạ sám
hối, nguyện từ nay về sau không còn nói những lời vô lễ ấy nữa. Một con
người vô đạo như vua A-dục, nếu không gặp Phật pháp thì làm gì có được,
những lời nói chân thành và hành động cao thượng như trên.
Phật pháp có công năng chuyển hóa tối tăm, u mê thành
trong sáng hiện thực, chuyển hóa khổ đau thành an vui hạnh phúc, ngay
tại đây và bây giờ. Chỉ có Phật pháp mới phù hợp với lòng người, con
người được quyền làm chủ bản thân, họa phúc đều do mình tạo lấy, mình
làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau. Phật pháp rất thực
tế và nhiệm mầu, ai phát tâm tu theo sẽ tự tin chính mình không còn bị
lệ thuộc và ỷ lại vào bên ngoài. Dám làm, dám chịu trách nhiệm hoàn toàn
trước những suy nghĩ, nói năng và hành động của mình, không đổ thừa cho
ai hết.
Nhờ tin sâu nhân quả, chúng ta không dám làm điều xấu ác, cái gì
hại mình và người thì tìm cách chuyển hóa, nếu đã lỡ lầm gây tạo tội
lỗi, thì cố gắng sám hối tìm cách từ bỏ, không lặp lại lỗi lầm xưa. Dám
chịu trách nhiệm đối với sự sai trái của mình, hứa nguyện không tái phạm
để mình và tha nhân ngày càng gắn bó nhau hơn, trong tinh thần đòan kết
yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.
KINH NGHIỆM NGỪƠI XƯA
Ca dao Việt Nam có câu:
Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.
Thông thường các bậc cổ nhân là những người đi trước lớn tuổi, đã
từng trải nghiệm trong cuộc sống, đã thắm thía cuộc đời nhiều nỗi đắng
cay. Nên các ngài thường lấy kinh nghiệm thực tiễn, để hướng dẫn cho
người sau có những kinh nghiệm quý báu, dù thời thế có thể đổi thay,
nhưng những lời dạy ấy, vẫn không bao giờ bị mai một.
Có một bầy rùa đang sống trong một hang động hoang dã xa xôi, nơi
đây ít người lui tới. Cách đó không xa, có một đồng cỏ xanh tươi bao
bọc chung quanh hồ nước trong vắt, rất thích nghi với đời sống loài rùa.
Vậy cớ sao, bầy rùa kia lại ở nơi hoang dã, để phải chịu cảnh sống cơ
cực bần hàn? Chính vì vậy, mà các rùa con hay thắc mắc với mẹ chúng, tại
sao chúng con không được sống nơi trù phú, phì nhiêu để hưởng thụ các
món ngon vật lạ, mà phải sống cơ cực nơi hang sâu núi thẳm vậy mẹ? Các
con không biết đó chứ! Tuy nơi đây cực khổ thiệt, nhưng đảm bảo được
tính mạng an toàn cho các con. Chỗ có nhiều lợi dưỡng, là nơi giăng bẫy
của một số người ác tâm, họ luôn rình rập chúng ta, sẵn sàng bắt lấy
chúng ta để làm thịt.
Mặc dù được nghe rùa mẹ giải thích cặn kẽ, nhưng đám rùa con vẫn
còn háo hức, thèm thuồng được một chuyến chu du miền hoa thơm cỏ lạ.
Chúng cùng to nhỏ với nhau, chắc là không có người ác tâm, như mẹ mình
nói đâu, một con trong bọn nói, mình lớn cả rồi lại thông minh lanh lợi,
nếu lỡ gặp người ác tâm bọn mình liền lặn ngay xuống đáy hồ, họ làm sao
bắt được? Hay quá! Hay quá! cả bọn rùa reo lên. Sợ nguy hiểm mà bỏ qua
thú vui trước mắt, thật là uổng phí quá chừng. Chúng ta phải ra đấy ngắm
cảnh xem hoa, để tận hưởng khoái lạc cuộc đời, há chi phải tự giam cầm
nơi hang cùng hiểm hóc và nhỏ hẹp này.
Trong lòng nghĩ như vậy, nhưng chúng vẫn còn lo sợ. Do ham muốn
và thèm khát thôi thúc, cả bầy rùa đồng quyết định ra hồ chơi một chuyến
cho biết. Cuộc phiêu lưu bắt đầu, chúng âm thầm xuống khe núi, lặng lẽ
bò đến bờ hồ, lòng vô cùng phấn khởi và thích thú trong chuyến du hí đầu
tiên. Nhớ lời rùa mẹ dặn, chúng cảnh giác coi có sự cố gì xảy ra không?
Nhưng nhìn quanh, nhìn quẩn, chẳng thấy có dấu hiệu gì là đáng nghi ngờ
và nguy hiểm, nên chúng không còn lo sợ nữa, vô tư đùa nghịch với nhau
không cần cảnh giác. Chúng tự nhủ thầm tiếc quá, bấy lâu nay bị giam hãm
nơi nước độc rừng sâu, bỏ phí bao tháng ngày vui thú đầy khoái lạc hấp
dẫn này. Tưởng chừng như cuộc vui được kéo dài trọn vẹn, nào ngờ đâu
giông bão đang kéo đến, mà chúng vẫn không hay biết gì.
Bất thình lình, từ trên không trung, một tấm lưới phủ trùm trên
đầu chúng chụp xuống, lũ rùa cố gắng hết sức bò thật nhanh nhưng không
còn kịp nữa, tấm lưới đã tóm gọn tất cả! Chỉ có một con trong bọn nhờ
tinh mắt, nhanh chân nên đã trốn thoát, về được tới nhà. Rùa mẹ biết
chuyện không may đã xảy ra, khi thấy rùa cả trở về một mình, liền hỏi lũ
em con đâu rồi sao không thấy, chắc tụi con lén ra hồ chơi phải không?
Mẹ đã bảo rồi mà, các con chẳng chịu nghe. Rùa anh buồn bã nói với rùa
mẹ, con nhớ lời mẹ dặn, cảnh giác trước mọi tình huống xảy ra, nên con
đã thoát được lưới tử thần của những người ác tâm, còn các em con do mải
mê vui đùa hưởng lạc thú, nên đã bị bắt hết cả rồi.
Rùa mẹ nghe nói, liền khóc rống lên, con ơi là con. Mẹ đã bảo
rồi mà, các con không chịu nghe, nên mới xảy ra chuyện đáng tiếc như thế
này. Xưa nay, ông tổ nhà rùa chúng ta đã từng khuyên nhủ con cháu, phải
nên sống trong rừng sâu núi thẳm mà tu thân tích đức, đừng vì ham chỗ
đẹp đẽ cao sang quyền quý, mà phải chuốc họa vào thân. Các con còn quá
nhỏ, ăn chưa no, lo chưa tới, không chịu nghe lời mẹ dặn, nên đã tự giết
mình khi tuổi đời còn non trẻ.
Câu chuyện ngụ ngôn trên đã cho chúng ta một bài học sống ở đời,
con người vì quá đam mê lạc thú trần gian, nên bỏ ngoài tai những lời
chỉ dạy của người xưa đã qua thời gian trải nghiệm trong cuộc sống.
Những bậc hiền nhân, những người đi trước từng có nhiều kinh nghiệm,
trong trường đời danh lợi và đã đứng lên từ những vấp ngã, để vượt qua
cạm bẩy cuộc đời.
Do ỷ tài cậy sức, học cao hiểu rộng, một số người xem thường lời
dạy cổ nhân và nghĩ rằng thánh nhân thời xưa lạc hậu, nên họ nói: “Tuổi
trẻ thời nay khôn hơn người xưa nhiều” nhưng họ đã quên mất một điều,
người xưa nhờ có tu tập, biết quán chiếu và xem xét, khi muốn làm việc
gì. Người trí khi nghe lời dạy thánh nhân, biết được tai hại đam mê
hưởng thụ quá đáng, nên tránh được những sai lầm đáng tiếc. Còn chúng
ta, vì quá mê muội và tự mãn trong sự hiểu biết của mình, chẳng thèm
lắng nghe những lời chỉ dạy của người xưa nên mới bị mang họa vào thân.
Vì thế, cổ nhân từng răn nhắc chúng ta: “Không thầy đố mày làm nên”
chúng ta quá coi thường lời dạy người xưa, không thèm học hỏi lắng nghe ỷ
lại tài năng và sức lực của mình. Những lời chỉ dạy bổ ích của bậc
trưởng thượng đều xuất phát từ tấm lòng yêu thương chân thật, giúp chúng
ta không rơi vào hố sâu tội lỗi. Chúng ta đã biết, sự sống trên thế
gian này muốn tồn tại, phải tương tàn tương sát lẫn nhau, mạnh hiếp yếu,
lớn hiếp nhỏ, đó là nói sự sống của loài súc sanh. Còn con người thì
sao? Con người nhờ có trí khôn và sự hiểu biết nên có thể nhận định suy
xét, tìm hiểu đúng sai, nhưng một khi con người đã làm ác rồi, thì không
ai bằng.
Bởi vậy người xưa do kinh nghiệm một đời, đã từng học hỏi cổ nhân
qua sách vỡ và thực tiển, nên các ngài lúc nào cũng thương tưởng chúng
ta, đắng môi, mỏi miệng, để truyền đạt cho nhân thế những lời dạy quý
báu, bổ ích. Nhưng chúng ta không chịu nghe, đến khi gặp nạn rồi đành
chịu chết chìm trong tội lỗi, có sám hối ăn năn cũng không làm sao kịp.
Lũ rùa kia không nghe lời dạy của mẹ, cả đàn ngốc nghếch ngông nghênh để
tự làm hại mình, như chú bé con vì ham chút mật ngọt trên dao bén, mà
phải chịu họa đứt lưỡi.
Riêng chú rùa đàn anh, luôn nhớ lời mẹ dạy và lúc nào cũng cảnh
giác cao độ, nên đã thoát khỏi lưới tử thần trong đường tơ kẽ tóc. Nhiều
người tự cho mình có đủ khả năng, ngang dọc tung hòanh trong thiên hạ,
đến khi mang họa vào thân, mới thấy lời dạy cổ nhân thật là chí lý, có
ăn năn hối hận thì cũng đã muộn màng. Chúng ta thường quên mất một điều,
bậc thánh nhân, người hiền đức, các ngài đã từng trải qua bao gian nan
trắc trở, nhờ đó mà kinh nghiệm sống thường rất chừng mực và sâu sắc.
Thậm chí có những điều ta chưa biết, nhưng các ngài đã biết, rồi bằng
kinh nghiệm của chính mình, để chỉ cho chúng ta biết được điều hay lẽ
phải, tránh được tai nạn trong đời. Ấy thế mà có người chẳng chịu nghe,
ngược lại còn phê phán người xưa sau quá lạc hậu.
Ngày nay trên đà tiến bộ của văn minh khoa học, vật chất, đã góp
phần giúp cho con người cải thiện đời sống ngày càng tốt đẹp hơn. Nhưng
ngược lại kéo theo nhiều tệ nạn xã hội, do nhu cầu hưởng thụ quá mức dẫn
đến tình trạng cướp bóc giết hại lẫn nhau, bất chấp luân thường đạo lý
làm người. Người sau, do tiếp thu nền văn minh vật chất hiện đại nên đa
phần tiến bộ hơn người xưa, do đó sanh ra ỷ tài cậy sức. Tự cho mình là
thầy thiên hạ, chẳng chịu nghe lời khuyên nhủ, thiếu kinh nghiệm tu tập,
cho rằng mình thông minh lanh lợi, sinh tâm cống cao ngã mạn. Ai tán
thán ngợi khen nịnh hót tâng bốc thì hoan hỷ, ai thành tâm khuyên nhủ,
góp ý, thì cho rằng người đó là bần cố nông dốt nát. Thường hay bảo thủ
không lắng nghe ý kiến người khác, chỉ biết làm theo ý mình một cách mù
quáng, nói và làm trái ngược nhau. Người ở xa không biết, cho rằng người
đó là thánh sống, nhưng khi có dịp gần gũi thân cận, mới thấy sự thật
quá phũ phàng.
Nhiều người hiểu biết sai lầm, tưởng ai lý luận giỏi là người đắc
đạo. Hiểu như vậy vô tình phỉ báng Phật pháp. Lý luận giỏi chưa hẳn là
người đạt đạo nói và làm tương ưng mới thật là người đạt đạo. Đạo không
nằm trong ngôn ngữ lời nói, mà đạo thể hiện nơi hành động thực tế, nói
và làm không trái ngược nhau, nói được phải làm được, không thể nói việc
trên trời, mà làm việc dưới đất. Lúc nào cũng muốn thay đổi thiên hạ mà
không tự thay đổi chính mình. Muốn thiên hạ theo mình, mà mình không tự
làm tốt, biết khuyên mọi người hãy sống với thực tế, mà mình lại vu vơ
huyền hoặc. Mình sống bằng lý luận môi mép, mà lại khuyên mọi người sống
chân thật, thực là lời nói việc làm trái ngược nhau, nói một đường làm
một nẻo.
Trong nhà Phật thường nói: “Mình không biết lội, mà muốn cứu
người chết đuối, thật là vô lý.” Vậy mà có một số người chẳng biết lội
lại thích cứu người, đúng là mâu thuẫn cuộc đời. Hiểu biết và thực hành
khác xa một trời một vực. Nhiều người giỏi nghiên cứu nhưng không có khả
năng thực hành, chỉ nghiên cứu suông, nói suông. Thực tế đã cho chúng
ta thấy rất nhiều nhà lãnh đạo giỏi, không có trình độ chuyên môn cao,
nhưng họ biết thích nghi nhu cầu cuộc sống, nên đa phần đều dễ thành
công đem lại lợi ích thiết thực đến cho nhiều người.
Còn những nhà nghiên cứu suông, nhờ có biện tài ngôn ngữ và có
phước duyên lợi khẩu, nên dễ thuyết phục mọi người tin theo, nhưng thực
tế lại rất phũ phàng, vì lời nói việc làm trái ngược nhau. Cho nên, học
kinh nghiệm của người xưa thật là quý báu vô cùng. Tuy các ngài nói ít!
Nhưng, lời nói đó không thể mai một theo thời gian, vì các ngài biết cân
nhắc tuỳ thời tuỳ duyên, biết nương theo phong tục tập quán của xã hội
để làm lợi ích cho nhân loại. Do sự phát triển quá nhanh chóng, con
người cứ mải mê chạy theo nhu cầu vật chất, nên coi thường lời dạy của
người xưa. Có người tuy không bị vật chất cám dỗ, nhưng lại bị danh vọng
trói buộc.
Chúng tôi may mắn gặp được Phật pháp, nhờ có môi trường tốt nên
chúng tôi cũng đã từng bước vượt qua nhưng không phải dễ dàng, nếu tự
mãn cho là đủ thì vẫn bị thói quen xấu chi phối. Để thấy, cái gì đã trở
thành thói quen thâm căn cố đế, nếu muốn thay đổi chúng ta phải trả một
giá rất đắc như người chết đi sống lại, thì mới thật sự chuyển hóa
chúng. Nếu đơn giản và dễ dàng, thì người ta đâu cần phải tầm sư học
đạo, đâu phải khổ công rèn luyện tinh cần miên mật, mới có thể vượt qua
cạm bẩy cuộc đời. Người càng học cao hiểu rộng thì sự chấp trước càng
lớn, nếu không biết tu tập và buông xả. Cho nên, nhà Phật không đặt nặng
vấn đề văn hay chữ giỏi hoặc biện tài lưu loát. Ngày xưa Tổ Huệ Năng
không biết một chữ, khi vào chùa chỉ biết giã gạo nấu cơm làm công quả,
sau này trở thành vị Tổ thứ sáu Thiền sử Trung Hoa để lại nhục thân cho
đến bây giờ. Đó là một sự thật không thể chối cãi được. Tại miền Bắc đất
nước Việt Nam chúng ta hiện nay, có đến năm nhục thân của các vị thiền
sư để lại là do nhờ công năng tu tập.
Người tu chứng không phải do học cao hiểu rộng mà được, mà chỉ
thấy rõ thân này là một tổ hợp vật chất, do nhiều yếu tố thành hình,
không có cái ngã thực thể cố định. Biết được như thế, chúng ta làm tất
cả việc mà không thấy mình làm. Người học cao hiểu rộng, nếu không có sự
tu tập thì sự chấp ngã càng lớn. Do đó dễ làm tổn hại cho nhiều người,
khi họ lợi dụng quyền hành thế lực.
BỐN ĐIỀU CĂN BẢN ĐỂ THAY ĐỔI CUỘC ĐỜI
Phật pháp có nhiều cách để tu tập và hành trì. Hôm nay, chúng ta
rút ra bốn điều căn bản để mỗi người tự chiêm nghiệm và quán xét, để
giúp chúng ta thăng tiến trên bước đường tu tập và chuyển hóa đổi thay
những gì xấu xa tội lỗi. “Điều ác chưa phát sinh, tìm cách không cho
phát sinh, nếu lỡ phát sinh rồi, thì tìm cách ngăn dừng, không cho phát
sinh nữa. Điều thiện chưa sinh thì tìm cách cho tăng trưởng, nếu điều
thiện đã sinh, thì tìm cách duy trì gìn giữ.” Bốn điều này là nền tảng
căn bản để đưa ta đến an vui hạnh phúc, an lạc thảnh thơi, dù người có
tàn ác đến đâu thậm chí phạm tội ngũ nghịch như giết cha, giết mẹ, giết
A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, làm cho thân Phật chảy máu “hay phá hủy hình
tượng Phật” cũng có thể làm mới lại chính mình như trường hợp vua A-dục
đã nói ở trên.
Khi điều ác chưa sinh, ta tìm cách không cho nó phát sinh. Vậy ác
là gì? Ác là những hành động làm khổ mình, khổ người trong hiện tại và
tương lai, người tạo việc ác là kẻ xấu, thường bị mọi người tránh xa
không thích gần gũi. Những việc ác cụ thể như giết hại, trộm cướp, tà
dâm, lường gạt, bóc lột, hà hiếp, lợi dụng, phỉ báng, vu khống, ganh
ghét, tham lam, ích kỷ, sân si… nói chung những gì làm tổn hại cho người
và vật đều gọi là ác. Muốn thay đổi được điều ác chưa sinh không cho
phát sinh rất là khó. Trong khi đó, cuộc sống của chúng ta chỉ cái ăn
thôi là đã giết hại rồi, huống hồ là còn biết bao vấn đề khác làm sao
tránh khỏi.
Cho nên theo lời Phật dạy từ con người cho đến muôn loài, muôn
vật, muốn bảo tồn mạng sống phải biết nương nhờ lẫn nhau. Do đó, đạo
Phật chủ trương hòa mình cùng nhân loại và muôn loài, để kết nối tình
yêu thương giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã vị tha. Đạo Phật là
đạo của con người, vì con người và sự sống của muôn loài, là đạo của từ
bi và giác ngộ, là đạo của tình yêu thương và hiểu biết, cùng với sự cảm
thông, bao dung và tha thứ.
Giác ngộ để thấy biết đúng sự thật, giúp chúng ta thấu rõ bản chất
cuộc đời là một trường đau khổ, vì vậy mọi người hãy nên cố gắng không
làm các việc ác để không làm tổn hại cho nhau. Ngược lại hay làm các
việc lành, để cùng nhau chia sẻ nỗi khổ niềm đau, giúp người vượt qua
cơn khốn khó và thấy ai cũng là người thân người thương của mình, nên
chúng ta phải có trách nhiệm và bổn phận thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn
nhau. Thái tử Sĩ Đạt Ta lúc còn 7 tuổi, nhân dịp theo cha làm lễ hạ điền
khởi công làm ruộng đầu năm, ngài đã nhìn thấy được cảnh tương tàn,
tương sát, giết hại lẫn nhau của bầu vũ trụ bao la này. Buổi lễ bắt đầu,
từng luống đất đã được cày lên, nhiều thân xác côn trùng được phơi bày,
bên cạnh đó không biết bao nhiêu loài chim, đang chực chờ mổ lấy các
côn trùng đó để tìm sự sống, nhưng chúng đâu biết rằng khi chúng đam mê
để tìm kiếm miếng mồi béo bở, thì mạng sống của chúng như sợi tơ đang
treo trước gió, vì những con chim cắt đang chực chờ để vồ những con chim
nhỏ đó. Cứ như thế theo luật tuần hoàn, bọn chúng ăn nuốt lẫn nhau, lớn
hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu, cho đến con người, muốn bảo tồn sự sống thì
phải giết hại không biết bao là loài khác để nuôi sống bản thân mình.
Sau khi giác ngộ dưới cội bồ đề, đức Phật đã chủ trương và hướng
dẫn cho chúng ta thực hành từ, bi, hỷ, xả. Người xuất gia thì phải dừng
hẳn các việc xấu ác, bằng cách khất thực tùy duyên, không khởi tâm tham
đắm, mong cầu, để dễ dàng chuyển hóa những tâm niệm xấu xa đê tiện.
Nhưng ngày nay, do ảnh hưởng của sự tiến bộ khoa học vật chất, xã hội
không chấp nhận người tu sĩ khất thực ngoài đường, vì đa số đều có chùa
và có chỗ định cư rõ ràng. Phần lớn sự sống của người tu sĩ là nhờ vào
sự đóng góp cúng dường của đàn na tín thí, nên việc khất thực dần dần
hạn chế.
Tướng cướp Ương Quật Ma La là tên giết người tàn bạo, một thời đã
làm cho đất nước Kiều Tát La hoảng loạn và không ai dám ra đường vì sợ
bị giết. Thuở nhỏ chàng là một sinh viên thông minh tài trí, được đưa
đến học đạo với vị thầy nổi tiếng. Tuổi trẻ tài cao khôi ngô tuấn tú,
nên đã rơi vào mắt xanh của vợ thầy mình, không thuyết phục được người
tình trẻ, bà ta điên cuồng tìm cách mưu hại chàng cho bỏ ghét. Yêu không
được nên sinh ra thù hận, cô vợ bèn giả dối thuật lại hành vi đê tiện
của tên đệ tử cho chồng nghe, tưởng là sự thật nên ông thầy liền nỗi tam
bành lục tặc, bừng bừng, giận dữ. Cô vợ nham hiểm, khéo léo chỉ bày cho
chồng một diệu kế không thể tưởng tượng được.
Sao đó ông thầy gặp người đệ tử bảo rằng, thời gian con học đạo
với thầy, con rất xứng đáng là người được kế thừa sự nghiệp của ta.
Nhưng con muốn được thừa hưởng pháp bí truyền của thầy, thì phải tuyệt
đối thanh tịnh trong sáng và phải rửa sạch ác nghiệp quá khứ bằng máu
của một ngàn người, khi nào làm được như vậy, thì ta sẽ truyền tâm ấn
cho con. Nghe thầy mình chỉ dạy xong, làm cho Ương Quật chết điếng cả
người, không biết phải làm sao? Chàng trai lúc này còn đang do dự, bán
tín, bán nghi, nhưng ông thầy cứ thúc giục mãi, cuối cùng chàng trai
đành phải chấp nhận ra đi, nhưng trong lòng thì lại hoang mang hoảng
loạn.
Ương Quật Ma La tài ba lỗi lạc, võ nghệ cao cường, nên việc giết
người đơn giản và dễ dàng, người đầu tiên đã bị chàng hạ gục trong tích
tắc, mặc dù vẫn còn bàng hoàng sửng sốt trong điên dại. Rồi từ đó gặp ai
chàng cũng chém giết bất kể là nam hay nữ lớn hay nhỏ, tin đồn lan xa
đến tai vua Ba Tư Nặc. Được sự trợ giúp của quan quân, nhưng tất cả đều
bó tay và bất lực, vì không ai đủ sức để đương đầu với hắn. Cảnh mất
cha, người mất mẹ, cha mất con, vợ mất chồng, gây ra cảnh tan nhà nát
cửa, thịt đổ xương rơi, người chết bị giết nằm ngổn ngang, người sống
sót thì vô cùng kinh hoàng lo sợ, không biết rồi số phận của mình sẽ ra
sao? Tên điên cuồng đó, sao khi giết người xong, chặt lấy ngón tay xõ
lại thành từng xâu, rồi đeo vào người giống như một báu vật, dân chúng
quá lo âu và sợ hãi kêu chàng là người điên loạn.
Về sao chuyện này đến tai Phật, thấy được nhân duyên tốt để độ
tên tướng cướp, Phật cố ý chọn con đường để đi đến chỗ hắn đang hoạt
động, nhiều người biết được khuyên Phật không nên đi đến đó. Lúc này
Ương Quật Ma La đã giết (999) người và người thứ một ngàn chính là mẹ
của hắn. Hắn đang mừng thầm trong bụng, để chờ đón nhận cái ngày ấy sắp
đến, bỗng nhiên từ đằng xa Phật đi tới, hắn đổi ý định giết mẹ, vì có
người đã chuẩn bị nạp mạng thế. Thấy bóng ngài, hung thủ càng đi nhanh
hơn, để mau hoàn thành sứ mạng cao cả, chiếc gươm hắn cầm sẵn trên tay
chuẩn bị ra chiêu sát thủ. Đức Phật bình thản ung dung từng bước đều như
không có chuyện gì xảy ra, nhưng tên tướng cướp vẫn không tài nào đuổi
theo kịp, dù hắn ráng cố sức chạy thật nhanh, cuối cùng hắn đành phải
dậm chân tại chỗ gọi lớn: Này Sa môn đầu trọc!
Sao ông đi nhanh thế, hãy dừng lại ! Phật bình thản nói : Dù Như
Lai đang đi, nhưng Như Lai đã dừng từ lâu, chỉ có con là chưa dừng bước?
Tên tướng cướp ngạc nhiên thầm nghĩ: Chắc Sa môn đầu trọc không bao giờ
nói láo, ta đang dừng, ổng đang đi, mà ổng lại nói, ổng đã dừng, còn ta
đang đi. Sao lại như thế được? Hắn tức quá liền hỏi: Này Sa môn! Tôi
mới là người đang dừng, còn ông là người đang đi, cớ sao ông lại nói
năng ngược ngạo như vậy? Chắc ổng có ý gì đây! Thật vậy, này anh bạn trẻ
ạ! Như Lai đã dừng từ lâu và mãi mãi như thế, Như Lai đã từ bỏ không
gây thương đau, hay giết hại một chúng sinh nào dù là một sinh vật nhỏ
bé nhất. Như Lai không bao giờ gây đau khổ cho ai. Còn con sự giết người
không gướm tay chỉ vì chấp trước sai lầm, nên gây đau thương tang tóc
cho nhiều người, làm khủng hoảng và chấn động cả đất nước Kiều Tát La
này, vì mưu cầu lợi ích cá nhân. Như Lai đã dừng, còn con thì đang giết
người không gớm tay, tội lỗi ấy biết bao giờ mới trả hết được?
Lời nói của Phật khiến tên tướng cướp cảm thấy bàng hòang sửng
sốt, như đứa con thơ dại khát sữa lâu ngày, giờ mới gặp được sữa mẹ! Một
hồi lâu, chàng ta mới lấy lại bình tỉnh, nhớ lại thời thơ ấu thường
nghe thiên hạ đồn rằng: Có Sa môn Cồ Đàm trước kia là hoàng thái tử dám
từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, để ra đi tìm đạo và đã giác
ngộ. Ngài đã hướng dẫn và giúp đỡ nhiều người vượt qua khổ đau sanh tử,
ngài luôn từ bi cao thượng cứu giúp chúng sinh, chắc chắn đây là ngài
rồi! Nghĩ như thế tên tướng cướp liền vứt bỏ gươm và quỳ xuống đảnh lễ
đức Phật kính cẩn thưa rằng: Kính bạch đức Thế tôn con có mắt như mù nên
đã lầm đường lạc lối. Nay nhờ gặp ngài đã vén mây mù cho con, như người
dựng đứng những gì đã ngã, thật hạnh phúc thay cho con đã được ngài tế
độ.
Đúng vậy, này chàng trai trẻ ạ! Bây giờ con đã vứt bỏ thanh kiếm,
con cần Như Lai giúp đỡ điều gì? Kính bạch đức Thế tôn con như con thú
hoang điên cuồng. Đã từ lâu con chưa bao giờ biết khuất phục một ai, con
gặp ngài không bằng uy quyền thế lực, con cảm thấy bình an và thơ dại
trước tấm lòng từ bi bao la rộng lớn của ngài. Con muốn làm lại cuộc đời
thuần lương để được sống yêu thương và hiểu biết, nhưng ai có thể giúp
được cho con, khi con đã giết cả ngàn người như vậy? Con tội lỗi quá
chừng! Này Ương Quật Ma La trên đời này có hai hạng người được xem là
đáng tôn kính:
Hạng thứ nhất là người chưa bao giờ gây tạo tội lỗi, lại hay luôn
giúp đỡ người khác làm điều tốt lành. Hạng người thứ hai là kẻ đã từng
gây tạo tội lỗi nhưng biết ăn năn sám hối chừa bỏ, không bao giờ tái
phạm trở lại. Nếu con tha thiết muốn làm người lương thiện, thì ta có
thể giúp đỡ cho con được. Bạch đức Thế tôn con cũng muốn như thế lắm,
nhưng tội lỗi của con đã gây ra quá nhiều, chưa bao giờ có người giết
hại như con. Con làm sao đủ tư cách để làm người lương thiện, huống hồ
là được làm đệ tử của ngài. Một con người chưa từng làm xúc não cho ai?
Con người ta thường hay mặc cảm tự ti quá khứ lỗi lầm, nên không
dám mạnh dạn quay đầu dù đã có người giúp đỡ. Họ cứ bị ác nghiệp quá khứ
dày dò, bị ám ảnh bởi việc làm xấu trước kia, không dám can đảm sám hối
từ bỏ tội lỗi, không dám chấp nhận sự thật. Không dám tự tin chính mình
có khả năng thay đổi cuộc đời, nên đành chấp nhận xuôi tay phó mặc cho
số phận định đọat, cuối cùng sống trong đau khổ lầm mê.
Có người bước đầu vì một phút sai lầm nho nhỏ không kiềm chế được
cơn giận, nên đã vướng vào con đường tù tội. Sau khi hồi gia lại gây ra
những vụ án giết người khủng khiếp làm đau khổ nhiều người. Một số người
mới đầu chỉ phạm tội nhẹ do một phút bốc đồng trong lúc nóng giận,
nhưng khi vào tù một thời gian, sau này trở thành tội phạm nguy hiểm dã
man. Tại sao? Khi ở tù lại tiếp xúc với nhiều thành phần bất hảo, giang
hồ thứ thiệt. Được các đàn anh kể lại thành tích huy hòang một thời khi
chưa bị bắt. Lại trong trại giam không có phương pháp giáo dục cụ thể
chỉ là nơi giam giữ tạm thời. Rồi tình trạng đại bàng lộng hành trong
nhà tù cấu kết cán bộ quản giáo, làm cho con người tăng thêm tội lỗi,
học thêm được những mánh khóe xão quyệt như đàn áp trấn lột công khai,
ma mới ăn hiếp ma cũ. Mỗi ngày sống trong nhà tù vô tình tạo cho phạm
nhân, huân tập thêm những thói hư tật xấu, nhất là những phạm nhân đại
bàng, khi ra tù chưa về đến nhà đã phạm tội trở lại.
Sự tiến bộ phát triển càng nhanh khiến con người không theo kịp
trào lưu cuộc sống, cứ mải mê chạy theo nhu cầu vật chất mà quên đi phần
tinh thần tâm linh. Thật đau đầu nhức óc đối với nghành quản giáo phạm
nhân, hiện nay chưa tìm ra giải pháp tối ưu để hướng dẫn cho phạm nhân ý
thức được những việc làm sai trái của mình. Ngày nay trên đà phát triển
của văn minh thế giới, các nước tiến bộ đều nhờ các nhà giáo dục tâm
linh đạo đức vào trại để hướng dẫn phạm nhân hành thiền. Sau đó chia sẻ
cho họ hiểu được lý nhân quả nghiệp báo luân hồi, không phải chết là
hết, mà chết là thay hình đổi dạng chuyển sang kiếp sống mới tùy theo
phước nghiệp của mọi người làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ
đau, để giúp cho họ có lòng tin nhân quả sau này hồi gia họ sẽ sống
lương thiện hơn.
Ở Việt Nam thầy Nhật Từ đã vào trại giam K20 Tỉnh Bến Tre, ngòai
những món quà vật chất để góp phần năng cao đời sống phạm nhân, thầy còn
chia sẻ cách thức làm mới lại chính mình với những chủ đề: Quay đầu là
bờ. Tự do nội tại. Bỏ kiếp giang hồ. Làm lại cuộc đời. Đứng dậy sau vấp
ngã. Đã giúp cho phạm nhân vượt qua mặc cảm tội lỗi của quá khứ và tin
sâu nhân quả, nên anh chị em nơi đây đã sống tốt hơn. Con người thời nay
do chú trọng về mặt vật chất quá nhiều, nên chúng ta không có thời gian
để ngồi lại suy gẫm, chỉ một bề lo hưởng thụ vật chất do đó dễ dàng bị
sa đọa. Phương tiện vật chất dồi dào sung mãn, thì mặt tâm linh đạo đức
bị mai một, dẫn đến nguy cơ suy đồi nhân cách, do đó tệ nạn xã hội càng
ngày càng gia tăng.
Nhan nhãn mỗi ngày, hình ảnh giết người cướp của rất dã man, chỉ
vì vài trăm ngàn đồng hoặc chỉ vài triệu bạc mà phế bỏ đi mạng sống con
người. Ngồi gẫm lại, mà thật đau lòng xót dạ! Thế nhân bây giờ, bị tha
hóa đến mức không thể tưởng tượng được, chỉ vì một chút vật chất cỏn
con, mà ta đành lòng nhẫn tâm giết hại đến thế sao? Đạo đức suy đồi, tâm
linh mai một, con người sa ngã, thấy biết sai lầm, đam mê hưởng thụ,
đời sống thấp kém, chẳng biết đúng sai, gây thù chuốc oán, không có ngày
cùng. Trong các tội khổ, tội giết hại là tội nặng nhất ! Nhất là giết
người, luật pháp còn không thể tha thứ, huống là luật nhân quả luôn âm
thầm chi phối vay trả, trả vay vô cùng tận, vậy mà tình trạng giết người
cướp của trên thế gian này, vẫn xảy ra ngày càng nhiều hơn.
Sự sống hưởng thụ quá mức không ý thức được sự tác hại của nó, ỷ
lại vào gia đình, cha mẹ thiếu quan tâm, chỉ biết cấp dưỡng theo nhu
cầu để con cái sống phóng túng biếng nhác, nên dễ dàng bị sa đọa. Đau
lòng xót dạ hơn, tuổi trẻ ngày nay còn trong màu áo ngây thơ, ấy thế mà
giết người không gướm tay như vụ án bé Ngọc và Đức Huy mười lăm và mười
bẩy tuổi đăng trên báo đời sống và pháp luật “cố ý giết người để cướp
của chỉ là chiếc xe honda” khi bị bắt Ngọc và Huy tỉnh bơ, coi như
chuyện bình thường không có gì gọi là hối hận cả. Tên Huy giã vờ ngất
xỉu để nhờ nạn nhân đến cứu, rồi sao đó dùng dao đâm cho đến chết, thật
khủng khiếp thay mạng sống con người quá rẽ. Tệ nạn thông tin hình ảnh
bạo động công khai, dẫn đến con người bị lờn thuốc qua sách báo, phim
ảnh đồi trị, tác động đến sự hiếu kỳ của tuổi trẻ, chúng làm thử coi
mình có giống nhân vật trong phim hay không?
Ngày nay nền giáo dục nhân phẩm đạo đức bị xuống cấp trầm trọng,
xã hội vẫn chưa có chủ trương chính sách cụ thể, để làm sao giảm bớt tệ
nạn xã hội. Điều đáng mừng nhất hiện nay là tại Trung tâm bảo trợ xã hội
Chánh Phú Hòa Tỉnh Bình Dương đã mạnh dạn xây một ngôi chùa mang tên
Phước Thiện và một giảng đường để cho các trại viên hàng tháng được sinh
họat chương trình kết nối yêu thương, từ thiện duyên lành, sẻ chia cuộc
sống, do thầy Phổ Giác hướng dẫn. Mỗi lần sinh họat như thế các trại
viên được ăn chay một bửa, do nhóm phật tử đoàn từ thiện duyên lành phát
tâm ủng hộ. Ngòai ra còn chương trình ca hát văn nghệ phục vụ thường kỳ
cho các trại viên do nhóm ca sĩ Nguyên Phượng, nhạc sĩ Vũ Ngọc Tỏan,
nhóm nghệ sĩ Giang Linh, nhóm ca sĩ Kim Hà Bình Dương. Chương trình kết
nối yêu thương luôn đem đến niềm vui cho nhiều người, không những bằng
lời ca tiếng hát ngọt ngào êm dịu, còn hướng dẫn các trại viên sám hối
để tiêu trừ nghiệp chướng và hành trì niệm Phật để mọi người được an vui
hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ, trong tinh thần đoàn kết yêu thương
giúp đỡ lẫn nhau. Sau đó là những lời chia sẻ chân tình của người đã
từng bị vấp ngã, được Phật pháp cứu vớt giúp cho mọi người thêm vững
niềm tin trong cuộc sống. Nhờ vậy, sau thời gian dài họat động chương
trình kết nối yêu thương đã giúp cho các trại viên không còn than phân
trách phận, trên thì óan trời dưới trách móc xã hội. Mọi người ý thức
được trách nhiệm vai trò sống trong hiện tại, cố gắng tu tập và sống tốt
hơn để chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc ngay
tại đây và bây giờ.
PHẬT ĐỘ TÊN TƯỚNG CƯỚP
Lúc này tên cướp thiết tha muốn trở thành người lương thiện, đang
trông chờ vào sự giúp đỡ của Như Lai, biết được nhân duyên đã chín mùi
Phật bảo này chàng trai trẻ: Có một gian phòng tối tăm suốt một thời
gian dài, nếu có ngọn đèn được thắp sáng lên, thì bóng tối đó có còn hay
không? Chắc chắn là không còn bóng tối, dạ thưa ngài! Đúng thế này
chàng trai trẻ, dù con đã giết quá nhiều người, nhưng nếu con thực tâm
biết ăn năn sám hối, luôn thắp lên ngọn đèn trí tuệ, thì ác nghiệp tối
tăm của con sẽ dần dần được tiêu trừ, bóng tối sẽ không còn nữa. Con vẫn
có cơ hội được làm người tốt trở lại và có thể tu chứng như bao nhiêu
người khác. Đây là điều kiện bình đẳng của tất cả mọi người, Như lai xác
quyết với con như thế, nếu con muốn làm người lương thiện. Ương Quật ma
la được nghe điều chưa từng nghe và hôm đó được xuất gia làm Tỳ kheo,
trước sự ngỡ ngàng của nhiều thầy trong tăng đoàn.
Cuộc đời chàng đã được thay hình đổi dạng kể từ đây, được tu tập
dưới sự hướng dẫn của Như Lai thế tôn, như đứa con thơ lưu lạc lâu ngày,
tìm được cha trao cho gia tài sự nghiệp kế thừa. Lúc này vua Ba Tư Nặc
mất ăn mất ngủ mấy tháng nay, mới đến gặp Phật cầu sự chỉ dạy về tên
tướng cướp giết người dã man. Đại vương, nếu bây giờ có ai báo cáo tên
cướp đang ở gần đại vương, thì đại vương sẽ nghĩ sao? Vua Ba Tư Nặc liền
đứng ngay dậy mặt mày tái mét, con sẽ giết hắn liền lập tức để diệt trừ
hậu quả cho nhiều người. Phật nói, nhưng nếu hắn muốn hòan lương, cạo
bỏ râu tóc xuất gia làm tỳ kheo, thì đại vương sẽ đối đãi với y ra sao?
Vua nói, chuyện này không thể có được, tên ác ôn đó làm sao đủ khả năng,
thay tâm đổi tánh nhanh như thế được? Như lai có thể làm được khi hội
đủ nhân duyên.
Thật hy hữu thay, ai đầy đủ phước duyên nên được sinh ra trong
thời có Phật và được Phật giáo hóa để trở thành một con người tốt. Như
trường hợp của Ương Quật ma la chân thành tha thiết muốn được làm người
hoàn lương và thật sự ăn năn hối cải nên mới được Như Lai điều phục bằng
tâm từ tỏa sáng. Vua thưa nếu quả thiệt là như vậy, con xin đảnh lễ bậc
thầy ba cõi, có một không hai trên thế gian này, chỉ có ngài mới làm
được điều đó. Phật chỉ một vị sa môn trẻ đang ngồi trên tảng đá, dáng dẻ
khôi ngô tuấn tú hiền hòa. Này đại vương, vị Tỳ kheo đang ngồi đó, cách
đây một tuần được dân chúng gọi là ác quỷ ngón tay. Vua BaTư Nặc bàng
hòang sửng sốt một hồi lâu, mới lấy lại bình tỉnh, khi chính mình mất
thấy tai nghe, nên vua cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm, vì từ nay về sau
không còn phải lo lắng, bất an và sợ hãi nữa.
Ngày xưa, các vị vua rất quý trọng người tu hành chân chánh, nên
người nào đã được Phật hóa độ, dù người đó gây tội ác tày trời vẫn được
tha thứ và khoan hồng. Có người chỉ làm ác nhỏ mà thân phải bị đọa ngục
chịu nhiều sự khổ, còn Ương quật ma la tuy giết hại nhiều người, nhưng
được Phật độ xuất gia hưởng phước tu hành, vậy thì nhân quả không công
bằng hay sao? Thật ra nhân quả không cố định một chiều như chúng ta
thường nghĩ trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, nó chỉ đúng cho
người nào chấp nhận số phận đã an bài. Và ngược lại nhân quả có thể thay
đổi tùy theo nhân duyên mà chuyển biến linh động, trải qua ba thời quá
khứ, hiện tại, vị lai, nếu nói giết hại phải đền mạng, thì dù có tu cũng
vậy thôi, đâu có được lợi ích gì?
Kinh nhân quả nói : Giả sử trăm ngàn muôn kiếp nghiệp đã tạo
không mất, khi hội đủ nhân duyên quả báo đến mình phải chịu. Tuy nhiên
nhân quả không cố định, cũng đồng tạo nghiệp xấu nhưng có kẻ khổ người
vui, còn tùy thuộc vào sự tu tập nhiều đời và sự thành tâm khẫn thiết
của người đó trong hiện tại, cho nên có kết quả sai biệt. Từ nhân đến
quả có sự thay đổi liên tục nhiệm mầu, thế nên nếu bảo là cố định thì
thế gian này không ai tu được, vì có tu cũng vậy thôi, ác cố định là ác,
thiện cố định là thiện. Nó đã như vậy có tu cũng uổng công vô ích, vô
tình đưa người ta vào con đường tội lỗi, hết hy vọng thay đổi làm mới
lại chính mình.
Như bản thân chúng tôi là một bằng chứng thiết thực, xưa kia tạo
nghiệp si mê nghiện ngập tứ đổ tường, nếu nói cái gì cũng cố định, thì
giờ đây tôi đã rũ xương trong lao tù nghiện ngập. Bởi do trước kia hiểu
biết thấp kém nông cạn cho rằng chết là hết, nên mặc tình hưởng thụ ngập
chìm trong tội lỗi, cuối cùng làm khổ mình hại người. Ngày nay nhờ gần
gũi, thân cận bậc minh sư chân chánh chư huynh đệ pháp lữ hiền nhân, ai
cũng ý thức được trách nhiệm bổn phận của mình qua lời Phật dạy, nên
cùng nhau sống hòa hợp, đòan kết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, trên tinh
thần tu học và lao động.
Một em bé khi còn nhỏ chưa biết gì nhờ cha mẹ khéo dạy bảo, cho
học hành đàng hòang, lớn lên cậu bé trở thành người khôn ngoan hiểu
biết, giúp ích cho nhân loại. Một miếng đất hoang, nếu người nông dân
biết gieo trồng chăm sóc, nó sẽ biến thành những luống rau, liếp cải để
phục vụ cho con người. Tất cả mọi hiện tượng sự vật trên thế gian này
cũng đều như thế, không có gì là cố định cả, thế nên ai nói nhân nào quả
nấy là chưa đúng hẳn, nó chỉ đúng khi con người chấp nhận số phận đã an
bài. Nếu nói ác cố định là ác, thiện cố định là thiện, thì còn ai tu
tập làm gì cho tốn công vô ích? Vì thế, có người làm ác nhỏ hiện tiền
chịu nhiều quả khổ lớn, cũng việc ác đó người có phước báu lớn không
chịu quả khổ vì người này biết tu giới, tu thân, tu tâm niệm rộng lớn
nên chuyển được quả xấu.
Ương quật ma la nhờ nhiều đời trước đã gieo trồng phước đức, tuy
hiện tại làm tội ác tày trời do gặp bạn xấu thầy tà xúi giục, không phải
do mình cố tâm muốn làm. Sau nhờ gặp Phật giáo hóa tâm phục khẩu phục,
nên đã nhận ra sai lầm của mình, tha thiết ăn năn hối cải làm lại cuộc
đời. Các vua thời Phật tại thế rất tôn trọng đạo pháp, biết cung kính
người tu hành chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, thay gì bị tội chết
theo luật pháp thế gian, ngược lại được ân xá nhờ tu hành.
Đó là tinh thần từ, bi, hỷ, xả, của đạo Phật, không đưa người ta
vào con đường cùng khi đã lỡ lầm gây tạo tội lỗi. Ngược lại, còn tìm
cách giúp cho người đó phát tâm hướng thượng làm mới lại chính mình. Vì
vậy ngày nay, có một số nước trên thế giới đều bỏ án tử hình, để người
phạm tội có cơ hội sống mà suy gẫm lại, những việc làm sai trái của
chính mình. Đó cũng là phương cách tốt nhất, để giúp người vượt qua lỗi
lầm và tội ác. Nếu tin theo số phận đã an bài không thể thay đổi được,
vô tình đưa người ta vào con đường cùng không lối thoát, đành chịu chết
chìm trong tội lỗi.
Nhờ tấm lòng từ bi bao la rộng lớn của Phật, tên tướng cướp Vô
Não được xuất gia làm Tỳ kheo và luôn cố gắng siêng năng tinh tấn tu
hành. Tuy nhiên do ác nghiệp cũ quá nặng nề, nỗi ám ảnh về các nạn nhân
bị giết hại do thầy gây ra lúc trước, lúc nào tiếng rên la cũng văng
vẳng bên tai, làm cho thầy luôn bất an và sợ hãi. Mỗi ngày thầy đi khất
thực, đều bị gia đình các nạn nhân chọi đá, đánh đập, chửi rũa, họ nhìn
thầy với đôi mắt căm phẫn, thù hằn. Để gia đình các nạn nhân không làm
hại thầy, vua Ba Tư Nặc đặc biệt ra lệnh ân xá và khuyên tất cả người
dân hãy nên tha thứ và thông cảm cho thầy.
Sự chết chóc và mất mát của người thân, làm cho gia đình họ bị
thiệt thòi về nhiều phương diện, cảnh vợ mất chồng để mẹ góa con côi,
không ai nuôi nấng dỗ dành, con mất cha bơ vơ sống lạc loài, mẹ mất con
trong nỗi niềm thương tiếc.v..v… Vì thế, ngày nào thầy cũng bị thương
tích đầy người trong rất thảm thương, nhưng thầy vẫn không than óan,
trách móc một ai, cứ như thế âm thầm chịu đựng trước sự thù hằn, giận dữ
của nhiều gia đình nạn nhân.
Một hôm, trên đường đi khất thực tôn giả gặp một thiếu phụ sanh
khó, đang nằm rên siết oằn oại bên vệ đường, nhờ thầy giúp đỡ. Tôn giả
nói, tôi mới vào đạo chưa biết pháp này, chỉ có thầy tôi là Phật mới có
thể giúp được chị. Nói xong, tôn giả về gặp Phật trình bày sự việc như
thế! Phật dạy: Con hãy đến gặp chị ấy và thành tâm chúc lành như sau.
Chào chị, từ ngày tôi biết đạo đến nay chưa từng sát sanh, mong chị được
mẹ tròn con vuông. Sau khi nghe lời Phật dạy, tôn giả liền vội vàng đi
đến chỗ người thiếu phụ, chúc lành đến cho nàng. Thật kỳ diệu thay, đứa
bé được chào đời trong niềm vui của nhiều người, từ ngày đó trở về sau
chư huynh đệ pháp lữ đồng tu đều gọi thầy, là người đem bình an và hạnh
phúc đến cho nhân loại.
Ở Việt Nam, thường có tập tục ăn mừng đầy tháng, có nghĩa là sau
khi sinh con được một tháng. Tập tục này nếu hiểu theo đúng nghĩa là
mừng mẹ tròn con vuông. Bởi vì người phụ nữ từ khi mang thai cho đến lúc
khai hoa nở nhụy, không biết bao nhiêu là chuyện rắc rối xảy ra, khó
bảo tồn được mạng sống. Chuyện mang nặng đẻ đau, cho đến khi được thuần
buồm xuôi gió là cả một quá trình nhọc nhằn khổ sở. Vì vậy dân gian Việt
Nam có câu:
Đàn ông đi biển có đôi
Đàn bà đi biển mồ côi một mình.
Do đó khi sinh con được một tháng, chúng ta thường mời cha mẹ người
thân bè bạn đến để ăn mừng. Thực tế đó là mừng mẹ tròn con vuông, mẹ vẫn
còn sống, con vẫn mạnh khỏe, mừng hai mẹ con đều được bình an suông sẽ.
Nhờ nhân duyên đó, tôn giả càng thêm vững niềm tin với chánh pháp, nên
cố gắng tinh cần tu tập và một thời gian sau tôn giả đã chứng quả A la
hán với lực dụng không thể nghĩ bàn. Nhiều nguời thắc mắc, tại sao một
con người hung tàn bạo ngược như thầy, đầy dẫy tội lỗi xấu xa lại được
chứng quả nhanh như thế, trong khi ngài A nan nhiều phước báu hơn thầy
vẫn chưa chứng được.
Để giải quyết mối nghi ngờ của đại chúng, Phật dạy: Mọi người
trên thế gian này đều bình đẳng như nhau ở khả năng giác ngộ và si mê. A
nan tuy thông minh lanh lợi, nhưng do sự học hỏi hiểu biết được huân
tập từ bên ngòai vào, cho nên chỉ thông suốt về văn tự chữ nghĩa, còn
dính mắc ở ngôn ngữ, do đó không đạt được đỉnh cao của sự giác ngộ và
giải thoát. Thầy Ương quật ma la trước kia tuy là người hung tàn bạo ác,
nhưng do tinh cần miên mật tu tập, phát sáng được trí tuệ sẵn có của
chính mình, nên đã chuyển hóa được ác nghiệp. Giống như có một căn phòng
tối tăm ngàn năm, nay được thắp sáng bởi ngọn đèn, vậy căn phòng đó có
còn tối tăm nữa hay không? Khi ánh sáng ngọn đèn có mặt, thì tối tăm
biến mất, giác ngộ và si mê cũng lại như thế. Lời dạy của ngài được tóm
tắt bằng một bài kệ:
Người không sợ hãi luôn cao thượng,
Như bậc đại thánh đã vượt qua.
Không còn bị dục vọng chi phối, không còn bị nhiễm ô, thật sự giác ngộ.
Người ấy Như Iai gọi là Bà la môn.
Như có một thiền sư trước kia làm nghề đồ tể, đang thọc huyết heo
bỗng nhiên giác ngộ, liền đi xuất gia trước sự ngạc nhiên của nhiều
người. Ngài có làm bài kệ.
Hôm qua tâm dạ xoa,
Hôm nay mặt Bồ tát,
Bồ tát cùng dạ xoa,
Chẳng cách một sợi tóc.
Mới hôm nào tâm địa độc ác như quỷ dữ, luôn làm tổn hại cho nhiều
người, mà giờ đây đã hiền lành ngoan ngoản hay giúp người, cứu vật.
Xưa nay chỉ một tâm
Khi mê là phàm phu
Khi tỉnh liền giác ngộ
Phiền não tức bồ đề.
Một con người dù làm ác tới đâu, một khi đã giác ngộ rồi, có thể
thay đổi nghiệp nhân xấu ác trở thành nghiệp nhân tốt lành. Khi mê thì
làm việc xấu ác, khi ngộ thì làm việc thiện ích, mê và ngộ chỉ cách nhau
một sợi tóc, nhờ vậy con người ta mới thay đổi và chuyển hóa được những
thói quen tật xấu.
THAY LỜI KẾT
Nghiệt ngã thay dòng đời mê muội, bởi thấy biết sai lầm nên mới
chuốc họa vào thân, dù biết đó là tai hại, khổ đau, nhưng nhiều người
vẫn chịu chết chìm trong tội lỗi. Động lòng trắc ẩn bi thương trước dòng
xoáy cuộc đời với vô vàn sự cám dỗ, nhiều chông gai, nhiều cạm bẫy,
tình đời luôn thay trắng đổi đen. Con người cứ thế loanh quanh lẩn quẩn
trong nỗi khổ niềm đau, để rồi làm chết đi các hột giống tốt lành, gieo
đau thương khổ não cho nhiều người. Thế gian là một trường đời ô hợp
luôn chất chứa muôn ngàn sóng gió lành dữ đúng sai, phải quấy tốt xấu,
buồn thương giận ghét. Tình đời là thế đó, một kiếp người chẳng đáng là
bao, vậy mà nhiều người vẫn bị dòng nước cuốn trôi và nhấn chìm.
Chỉ có đấng Thế tôn vị cha già đáng kính ngài đã vượt qua cạm bẩy
cuộc đời, rống lên tiếng rống sư tử, trên hai ngàn sáu trăm năm, làm
muôn loài thú phải nép mình trong sợ hãi. Ngài đã xua tan bóng tối mê
lầm từ dạo ấy, đem lại quyền làm chủ cho thế giới loài người, đem lại
niềm tin và chân lý mãi sáng ngời trong nhân loại. Thật hạnh phúc thay!
Cho loài người chúng ta, đã biết được những điều chưa biết, đã thấy được
những điều chưa thấy, đã nghe được những điều chưa nghe, mỗi người hãy
tự thắp sáng lên ngọn đuốc của chính mình, thì thế gian này sẽ tỏ sáng,
rực sáng trong niềm an vui hạnh phúc. Ngược lại, nếu ai chấp nhận số
phận đã an bài thì người đó sẽ sống mãi trong tối tăm mê muội, trong
ngục tù tội lỗi.
Ta có quyền vươn lên từ sức mạnh của ý chí, niềm tin và nghị lực,
thì mọi việc sẽ có thể thay đổi tốt đẹp. Nhân quả khác với số phận là
có thể thay đổi được, còn số phận thì không. Người tin sâu nhân quả sẽ
làm mới chính mình bằng sức mạnh của trí tuệ, nên dễ dàng vượt qua sóng
gió cuộc đời, bằng nhận thức sáng suốt và việc làm chân chánh. Người
chấp nhận số phận đã an bài thì dễ dàng buông xuôi cuộc sống, yếu đuối
bạc nhược, cuối cùng bị dòng đời cuốn trôi, để rồi phải sống trong đau
khổ lầm mê. Nếu chúng ta chấp nhận cái gì cũng cố định cả, dù có tu
cũng chẳng lợi ích gì. Như bản thân chúng tôi đã từng nghiện ngập đam mê
đủ thứ, nếu không thay đổi được thì giờ đây, tôi đã rũ xương trong lao
tù nghiện ngập. Nhiều người vì không hiểu thấu lý nhân quả, nên chấp
nhận cuộc đời giống như bèo dạt mây trôi, cứ nghĩ rằng ai làm sao tôi
làm vậy, ai làm bậy tôi làm theo, chẳng biết suy nghĩ tìm tòi, mặc tình
cho dòng đời cuốn trôi. Cái quan niệm đó chỉ hợp với thời đại xa xưa và
ngày nay khoa học đã chứng minh rằng, không có cái gì do một nhân mà
hình thành.
Cờ bạc, rượu chè, hút xách, đàng điếm, liều lĩnh, bất mãn, buông
lung phóng túng và sa đọa chúng tôi đã từng mắc phải từ lúc còn thơ dại,
vậy cái gì đã thúc đẩy tôi khi tuổi đời còn non kém, để mắc phải sai
lầm đáng tiếc. Đó là do sự tác nghiệp của quá khứ quá sâu đậm, nên bây
giờ khi hội đủ nhân duyên liền bị hút vào dòng xoáy của đam mê tội lỗi.
Tuy nhiên nhân quả rất đa dạng và phức tạp, chúng ta không thể nào một
sớm, một chiều, mà thấu rõ được hết. Trong kinh Phật dạy nếu người nào
trước kia lỡ gây tạo nghiệp xấu ác, hiện tại biết tu giới, tu thân, tu
tâm hay làm các điều phước thiện thì nhân quả xấu nhiều đời có thể thay
đổi được tùy theo khả năng tu tập của mình.
Xưa nay hiền thánh thường khen ngợi
Thật đáng khâm phục người biết lỗi.
Ai sống mà không có lỗi
Có lỗi mà biết sửa đổi hay thay.
Đã làm người dù ít hay nhiều, ai cũng có thể vấp phải lỗi lầm.
Phật pháp chính là chiếc thuyền từ cứu vớt chúng sinh, làm mới lại chính
mình vượt qua dòng sông tội lỗi. Cái hay của Phật pháp là giúp chúng ta
vững niềm tin nơi chính mình, từ đó chúng ta có thể tự mình đứng lên,
vượt qua số phận một cách dễ dàng sau khi vấp ngã. Người trí thì không
cần nương tựa vào ai, mà tự mình chiêm nghiệm quán xét để không bị rơi
vào dòng đam mê tội lỗi. Còn người đang bị mê lầm chưa đủ niềm tin, thì
phải nương thầy lành bạn tốt, tránh xa bạn bè xấu ác và được sự hổ trợ
đắc lực của gia đình, thì mới có thể làm mới lại cuộc đời. Chính bản
thân chúng tôi đã nhiều lần bị vấp ngã, khi chưa gặp Phật pháp, mặc dù
đã cố gắng quyết tâm hết sức mình, để vượt qua những lỗi lầm nhưng không
thể nào vượt qua nỗi. Khi chưa gặp duyên xấu thì không sao, nhưng khi
gặp rồi thì chứng nào tật nấy, như ngựa quen đường cũ khó mà dứt ra. Đây
chính là tập khí nhiều đời của chúng ta đã từng huân tập. Tập là tập
quen được lặp đi lặp lại nhiều lần, từ những ý nghĩ, lời nói rồi hành
động, bởi vì huân tập lâu ngày nên nó có sức mạnh chi phối và sai sử ta
chạy theo thói quen đó. Từ vô thủy kiếp đến nay, ai cũng từng luân hồi
vô số kiếp nên chất chứa nhiều thói quen tật xấu, muốn thay đổi và
chuyển hóa chúng, ta phải có thời gian dài quán chiếu xem xét và tu tập
thì mới có thể buông bỏ được.
Thực tế chúng tôi không phải là người hay ho tài giỏi gì, nhờ
nhân duyên nhiều đời đã gieo trồng phước đức, nên ngày nay hội đủ nhân
duyên mới gặp được thầy lành, bạn tốt. Và chúng ta đi khắp cả thế gian
này không ai tốt bằng mẹ. Mẹ là người đã giúp chúng tôi vượt qua cạm bẫy
cuộc đời để gặp được Tam bảo. Nếu ai bây giờ còn mẹ, đó là một phước
báo to lớn vô cùng, vì còn có cơ hội hiếu kính phụng dưỡng báo đáp công
sinh thành dưỡng dục, của hai đấng sinh thành nhất là ơn mẹ rất khó đền!
Nhờ mẹ tôi biết đường tu,
Nếu không có mẹ tôi giờ ra sao?
Cũng nhờ có được mẹ hiền,
Tôi vào cửa Phật tu hành đến nay.
Tình thương của mẹ đối với tôi thật là cao cả và quý báu, dù tôi tu
có thành Phật đi chăng nữa cũng không thể nào trả hết công ơn của mẹ.
Trong cuộc đời này, tôi không thể nào kiếm đâu ra được như người mẹ của
tôi bây giờ, bà như hiện thân bồ tát Quán Thế Âm đi vào đời để cứu giúp
chúng sinh. Nơi nào có khổ đau là nơi đó có Bồ tát, hơn nữa đời người,
tôi làm khổ mẹ quá chừng vậy mà khi tôi gặp nạn, hoặc lường gạt ai, bà
sẵn sàng đền bù tất cả, để giúp tôi vượt khỏi vòng lao lý. Ngày nay tuy
tôi được an ổn tu hành, nhưng vẫn không có nhiều cơ hội để được chăm sóc
mẹ trong khỏang đời còn lại.
Ngược lại, bà lúc nào cũng thương tưởng nhớ đến tôi, luôn hỏi
thăm các em tôi coi thầy Phổ Giác lúc này có còn tu nữa hay không? Một
hôm vì muốn thăm tôi, bà nói gạt với mấy đứa em có người nói tôi ra đời
để có cớ lên Thường Chiếu, khi gặp tôi bà cười hì! hì! Ra chiều thoải
mái lắm, mặc dù bà đang bệnh phải đi xe lăn. Tấm lòng của mẹ đối với tôi
thật là bao la và cao cả! Tôi không biết phải lấy gì, để đền đáp hết
công ơn mẹ, chỉ thầm nguyện trong lòng cố gắng tu hành viên mãn, để cùng
mẹ đi trên con đường giác ngộ.
Trên thế gian này, chắc có lẽ không có tình yêu thương nào thiêng
liêng và cao quý hơn tình mẹ. Từ khi mở mắt chào đời mẹ đã mớm sửa cho
con và nâng niu che chở bằng lời ru tiếng hát ngọt ngào, để con yên giấc
ngủ. Mẹ vẫn âm thầm thức khuya dậy sớm, không quản ngại thân gầy, để lo
cho con từ miếng ăn giấc ngủ, chiến cơm manh áo, mong con được mau khôn
lớn. Đôi lúc mẹ vì con trẻ, mà chịu nhiều gian lao cực khổ và thậm chí
chấp nhận gây tạo tội lỗi, để giúp cho con được an vui hạnh phúc. Khi
con chập chững biết đi, mẹ vui mừng và sung sướng. Đến lúc con trưởng
thành mẹ lo cho con ăn học, xây dựng tương lai sự nghiệp, dựng vợ gã
chồng để đắp xây hạnh phúc gia đình. Ôi, tình mẹ thật là cao cả và sâu
nặng. Mẹ đã hy sinh cho con suốt cả cuộc đời, mà không nghĩ đến bản
thân. Ai còn mẹ hãy nên biết ơn và đền ơn, đừng để mẹ buồn, mẹ khổ.
Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng mẹ.
Tần tảo sớm hôm, mẹ nuôi con khôn lớn.
Bao bọc chở che, khi con gặp hoạn nạn.
An ủi vổ về, khi con phải đi xa.
Mẹ vẫn bên con, dù biển cạn núi mòn.
Gánh nặng cuộc đời, mẹ mang cả hai vai.
Ai còn mẹ, xin đừng làm mẹ buồn khổ.
Không có mẹ, con đã ra người thiên cổ.
Mẹ là cả bầu trời, thương yêu dịu ngọt.
Mẹ là cả bầu trời, che mát cho con.
Quả thật đi hết trái đất này, tôi không thể tìm ra được người mẹ
nào, như mẹ tôi bây giờ. Mẹ đã cho tôi tất cả, để được bình yên tận cõi
lòng, tôi thầm cám ơn mẹ và quyết chí tu hành để đền đáp công ơn mẹ.
Thật ra bà không chỉ thương mình tôi, mà tám anh em tôi, bà cũng đều
thương yêu như nhau! Đứa làm ăn nên ra bà cũng thương, đứa nghèo khổ bà
càng thương hơn và có những đứa chỉ làm hại hòan tòan như tôi bà vẫn
thương, nhờ tình thương của mẹ, đã giúp cho tôi vươn lên chính mình vượt
qua số phận tối tăm. Ai bây giờ còn mẹ, thì hãy hết lòng hiếu dưỡng
không một phút giây nào xao lãng, đừng để khi mẹ ra đi rồi mới tiếc núôi
thương xót mẹ hiền, thì hãy nên xem xét lại. Nhiều người khi cha mẹ còn
sống không cung phụng cấp dưỡng chu đáu, chờ đến khi chết mới làm đám
linh đình nói là báo hiếu cha mẹ. Người thật tâm cung kính và có hiếu là
phải biết lo khi cha mẹ còn sống, giúp cha mẹ an vui hạnh phúc khi tuổi
già. Khi xưa chúng tôi hiểu biết sai lầm, nên hơn nữa đời người sống
trong đau khổ lầm mê. Nhờ mẹ đã giúp cho tôi vượt qua vũng bùn tội lỗi.
Thất chí, bất mãn, buông lung, liều lĩnh, nghiện ngập, si dại trong đam
mê tội lỗi và cuộc đời của tôi nếu không có mẹ bây giờ ra sao?
Ngày nay nhờ tắm mình trong giáo pháp chư Phật, được sự trực tiếp
chỉ dạy của chư hiền Thánh tăng, trên có Hòa Thượng Trúc Lâm tôn sư là
vị Phật sống. Thầy chúng tôi là Bồ tát tái lai trụ trì Thiền viện Thường
Chiếu, viện trưởng Thiền viện Trúc Lâm Trí Đức với số chúng Tăng ni hơn
cả ngàn người. Trên một ngàn là thiện hữu tri thức, còn tôi chỉ là hàng
sơ cơ học đạo đang từng bước chập chững trên con đường Phật đạo, như
người chết đi sống lại được Phật pháp cứu vớt, với chút kinh nghiệm bản
thân, chúng tôi có đôi lời tâm tình xin gởi đến các pháp lữ gần xa,
những ai còn đang mải mê đắm say trong dòng sông tội lỗi, xin hãy cùng
chúng tôi vượt qua cạm bẫy cuộc đời?
Trong khoảng thời gian bị đam mê nghiện ngập và nợ nần chồng chất
không có khả năng chi trả, bế tắc khổ đau cùng cực, lại bị sự hăm dọa
của chủ nợ. Chúng tôi lo sợ, khủng hoảng không biết làm cách nào, cùng
đường đành nghĩ đến giải pháp chết là hết cho xong chuyện, nghĩ vậy rồi
tôi liền trở về nhà thăm mẹ lần cuối. Nhờ vậy tôi được mẹ khuyên đi tu
và mẹ tôi đã khẳng định đi tu sướng lắm con ơi. Lúc đó tôi nghĩ thầm
trong bụng đi tu làm sao sướng, đi tu khổ thấy bà. Ấy thế mà, lời khuyên
của mẹ đã rót vào tim tôi lúc nào không hay, tôi tự suy nghĩ lại, đi tu
để khỏi phải chết, may ra còn chút hy vọng. Đêm hôm đó tôi thầm cảm ơn
mẹ, nếu không có mẹ giờ đây tôi đã bị đọa lạc vào chốn địa ngục a tỳ.
Làm gì hôm nay có thời gian để cùng chia sẻ với các pháp lữ gần xa một
chút tâm tình.
Con tu là nhờ mẹ
Cả cuộc đời thương con
Không quản ngại thân gầy
Công ơn mẹ khó đền.
Mẹ là ánh trăng soi
Xóa tan bao phiền muộn
Mẹ cho con tất cả
Bình yên tận cõi lòng.
Nhờ có môi trường tốt như thế, nên tôi từng bước cố gắng vượt qua
những thói quen xấu một cách dễ dàng và tu học cho đến bây giờ. Con
người có đầu mình và hai tay, hai chân để lao động, làm việc, phục vụ,
dấn thân, vì lợi ích nhân loại. Lao động để thấu rõ sự nhọc nhằn của đàn
na tín thí, họ nhín ăn bớt mặc để cúng dường Tam bảo mong Tam bảo luôn
được trường tồn ở thế gian này để chúng sinh có nơi nương tựa và tu học.
Nhờ có lao động mà chúng ta cảm thông được từ con người cho đến muôn
loài, nếu muốn bảo tồn sự sống thì phải nương nhờ lẫn nhau. Để có cơm
ăn, áo mặc con người làm tổn hại không biết bao loài vật khác. Lao động
như ăn cơm, học hỏi như uống nước, tu sữa như hơi thở, lao động là lẽ
sống thiết thực để phục vụ đời sống cho con người, lao động đem lại giá
trị đóng góp giúp cho con người ổn định nhu cầu ăn mặc ở ngủ nghĩ được
chu đáo. Lao động để hiểu được giá trị đích thực của nó, để bào tồn sự
sống, để được đóng góp và phát triển trong tình yêu thương nhân loại và
muôn loài.
Con người nếu không có lao động sẽ không tồn tại, vì không đáp
ứng đủ nhu cầu sự sống. Ngoài ra lao động còn là phong cách rèn luyện
cho cơ thể được điều hòa, làm cho tinh thần được minh mẫn sáng suốt.
Trong lúc lao động, chúng ta vẫn áp dụng tu tập được bằng những phương
pháp trì niệm và lao động là một nhu cầu sống không thể thiếu trong xã
hội. Nhờ lao động chúng ta sẽ dễ dàng cảm thông sự nhọc nhằn cực khổ của
nhiều người vì miếng cơm manh áo, vì sự sống của thân này mà chúng ta
làm tổn hại biết bao loài vật khác, do đó mọi người cố gắng tu hành
không dám ỷ lại.
Kho tàng vô giá của con người là nhờ làm việc, lao động, phục vụ,
dấn thân vì cộng đồng xã hội nhờ vậy nhân loại mới tồn tại. Nếu chúng ta
sống trên cõi đời này mà không biết siêng năng, cần mẫn và bằng bàn tay
khối óc luôn làm việc không biết mệt mỏi, thì làm sao tìm được kho tàng
vô giá nếu không có sự tinh cần nổ lực lao động. Thiếu nó chúng ta dễ
rơi vào sự hưởng thụ quá độ và làm băng hoại nhân cách đạo đức của con
người, để rồi phải rơi vào hố sâu của đam mê tội lỗi.
Trong cuộc sống, muốn thăng tiến trên con đường công danh sự
nghiệp để trở thành người hiền tài đóng góp cho xã hội, thì mọi người
phải cố gắng ra sức học tập rèn luyện tu dưỡng đạo đức.
Học để biết lời Phật dạy, để biết được điều hay lẽ phải, biết được
nhân nào dẫn đến an vui hạnh phúc, nhân nào dẫn đến sa đọa khổ đau. Cái
hay đạo Phật là khi nghe lời dạy của ngài không bắt buộc chúng ta phải
tin liền, mà cần phải có thời gian quán xét chiêm nghiệm, tư duy cho đến
khi nào thấy được lợi ích thiết thực rồi mới tin. Tin như vậy là tin
sâu, tin khi trí tuệ đã được phát sinh. Trong nhà Phật thường dạy: Muốn
thấu rõ chân lý thì phải văn tư tu, văn là nghe lời Phật dạy, sao khi
nghe thì phải suy tư quán chiếu, tìm tòi nghĩa lý sâu xa của nó, rồi tu
là biết cách dừng những nghiệp xấu ác, chuyển hóa khổ đau thành an vui
hạnh phúc. Nên có bài thơ rằng:
Lỗi lầm sám hối ăn năn
Lấy làm hổ thẹn nguyện hằng sửa sai.
Trong tâm nở một nụ cười
Sống trong tỉnh giác tương lai sáng ngời.
Và trong cuộc đời,
Nếu ai chỉ lỗi cho mình
Hãy nên kết làm tri kỷ
Bởi có bạn hiền như thế
Luôn làm tốt thêm cho ta.
Vâng, ít nhất trong cuộc đời ai cũng có thể có một lần lầm lỗi, nhưng
được người chỉ lỗi quả thật là điều hiếm có, đa phần chúng ta sống đắc
nhân tâm nhiều hơn, do đó kiếm bạn đồng hành rất khó, vì sự thật mất
lòng? Trong cuộc sống nếu chúng ta không có bạn hướng thượng, thà chấp
nhận sống một mình còn hơn. Người xưa thường nhắc nhở con cháu phải biết
chọn bạn mà chơi. Bạn bè khá quan trọng ảnh hưởng đến việc nên hư thành
bại của đời người. Nhiều người công thành danh toại, nhờ biết quan hệ
tốt với bạn bè thân hữu. Nhưng có một số người tán gia bại sản, thân bại
danh liệt vì kết thân với một số bạn bè xấu. Trong kinh Phật dạy: Nếu
không tìm được người hơn mình, hoặc ngang với mình, thà quyết sống một
mình, chớ không nên kết bạn với người thấp kém hơn.
Ai trong chúng ta chưa thật sự giác ngộ, giải thoát, thì hãy nên
dè dặt chọn bạn mà chơi. Bởi vì giữa dòng đời nghiệt ngã tôi và bạn có
thể gặp nhau, nếu hai người cùng đi chung con đường hướng thượng cùng
nhau sẻ chia những nỗi khổ niềm đau và chan hòa tình yêu thương. Bạn và
tôi là chỗ trú ẩn cho nhiều người nương tựa. Có được một người bạn tốt
như vậy, quả thật chúng ta sẽ có một cuộc sống hết sức tuyệt vời. Còn
ngược lại thì sao? Sẽ cùng nhau rơi vào hố sâu của đam mê tội lỗi và
chúng ta sẽ chấp nhận một cuộc đời đen tối. Ai cũng có ước mơ đáng quý
và trân trọng hết, nhưng vì lỡ lầm chọn bạn mê muội, nên đành chôn vùi
cuộc đời trong tối tăm mờ mịt. Và tôi và bạn sẽ nối kết tình thân với
nhau trong một duyên tình cờ, để rồi chúng ta cùng nhau kết nối tình yêu
thương và sẻ chia những nỗi khổ niềm đau trong cuộc sống. Chân thành
thay!
Tôi có ngã, để cùng người thông cảm.
Đem tình thương, chia sẻ đến nhiều người.