Sáu
chữ hồng danh đây nguyên là Phạn âm (tiếng Thiên Trúc). Hai chữ đầu
(Nam mô) nguyên âm là Namo, ta quen đọc liền vần Nam mô, là lời tỏ lòng
thành kính, có nghĩa là quy y (về nương) và quy mạng (đem thân mạng
gởi về).
Chữ thứ sáu (Phật) nguyên âm là Buddha (Bụt Đa hay Bụt Thô), ta quen
đọc gọn là Phật, chỉ cho đấng hoàn toàn giác ngộ (đấng Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác).
Ba chữ giữa (A-mi-đà) là biệt danh của
đấng Cực Lạc giáo chủ, dịch nghĩa là Vô Lượng (Vô Lượng Quang, Vô Lượng
Thọ). Như trong kinh, đức Bổn Sư tự giải thích rằng: “Đức Phật ấy,
quang minh vô lượng, soi suốt các cõi nước ở mười phương không bị cách
ngại. Đức Phật ấy và nhơn dân trong nước của Ngài thọ mạng vô lượng vô
biên vô số kiếp”.
Trong Quán Kinh, nói: “Nếu người chí tâm
xưng danh hiệu của đức Phật đây, thời trong mỗi niệm diệt được tội
sanh tử trong 80 ức kiếp và được vãng sanh…”.
Trong kinh Chư Phật Hộ Niệm nói: “Nếu
người nghe danh hiệu của đức Phật đây mà chấp trì trong một ngày đến
bảy ngày, nhất tâm bất loạn thời được thành tựu nhiều thiện căn phước
đức. Đức Phật ấy và Thánh chúng sẽ hiện đến nghinh tiếp…”.
Kinh Văn Thù Vấn Bát Nhã nói: “Nếu người chuyên xưng danh hiệu thời đặng chứng Nhất Hạnh Tam-muội và chóng thành Phật…”.
Xem như lời của đức Bổn Sư Thích Ca,
đấng chân thật ngữ phán trên đây, thời thấy rằng ba tiếng hồng danh của
đức Giáo chủ Cực Lạc có những năng lực bất khả tư nghị. Muốn được kết
quả to tát như lời trong kinh, hành nhơn phải chí tâm xưng niệm, và
phải xưng niệm đúng âm vận, chớ không nên như người Pháp gọi danh từ
Chợ Lớn là Sôlông, hay Bà Rịa là Baria.
Ba chữ A-mi-đà, nguyên là Phạn âm. Người
Tàu đọc là A-mi-thô, và họ tụng xuôi là Á-mi-thồ. Danh hiệu ấy truyền
qua xứ Việt ta bằng chữ Tàu, biên sẵn trong các pho kinh sách Tàu.
Người Việt ta cứ theo lệ phổ thông, chữ đâu đọc đó nên đọc là A-di-đà.
Như đọc Nã-phá-luân để kêu Hoàng đế Napoleon (Na-po-lê-ông), cùng đọc
Ba-lê để kêu kinh đô Paris (Pari).
Với sự phiên âm bằng chữ Tàu, người Tàu
đọc giống gần với nguyên âm, mà người Việt ta đọc sai quá xa. Giá như
ta gặp Hoàng đế Pháp và gọi ông ta là Nã-phá-luân thời thật là đáng
buồn cười. Với A-di-đà để gọi đức Giáo chủ Cực Lạc cũng theo lệ đó.
Nhiều năm về trước, trong thời gian niệm
Phật theo thông lệ Nam mô A-di-đà Phật, khi chuyên niệm nhiều (mỗi
ngày từ hai vạn câu trở lên), tôi bị sự chướng là trệ tiếng trong lúc
niệm ra tiếng và lờ mờ trong lúc niệm thầm. Giữa lúc đó, tiếng “di” là
chủ của sự chướng. Vì thế, tôi mới để ý đến chính âm vận của sáu tiếng
hồng danh. Đồng thời, lời của Tổ Vân Thê trong Sớ Sao nói: “Hồng danh
Nam mô A-mi-đà Phật toàn là tiếng Phạn, chuyên trì không quên, thời
cùng với pháp trì chú của Mật tông đồng nhau”, lại thúc đẩy tôi vào sự
khảo cứu.
Với vần La Tinh, người Anh ghép Amita, mà tôi được thấy ở bộ Phật Học Đại Từ Điển.
Tôi đem ba chữ A-mi-đà ra hỏi, thời các sư Tàu cũng như Cư sĩ Tàu đều đọc gằn từng tiếng một trước mặt tôi: A-mi-thô.
Hai tiếng đầu “A” và “Mi” đã nhất định,
và đồng thời quyết chắc đọc “di” là sai. Tôi còn thắc mắc ở tiếng thứ
ba, vì nếu đọc Amita như vần Anh, cùng A-mi-thô như người Tàu thời với
tiếng Việt có hai điều bất tiện:
1. Nghe không nghiêm và không êm.
2. Quá khác với thông lệ từ xưa.
Một học giả Pa-li và Phạn ngữ giải thích: Chữ “Đà” của Tàu dùng phiên âm Phạn ngữ có hai giọng:
1. Thô như danh từ “Bụt Thô” mà người Tàu đọc xuôi là “Bù Thồ”.
2. Đa cũng như danh từ “Bụt Đa” (Buddha).
Với giọng “Đa” để đọc chữ “Thô”, nó mở đường cho tôi ghép ba chữ lại: A-mi-đa và theo cách đọc xuôi đánh dấu huyền: A-mi-đà.
Ghép luôn cả sáu tiếng Nam mô A-mi-đà
Phật, tôi nhận thấy rằng tránh khỏi cái lỗi quá khác với nguyên âm, dù
vẫn chưa được toàn, nhưng có thể gọi là nhiều phần đúng, và không quá
cách biệt với cách đọc phổ thông theo cổ lệ, vì trong sáu tiếng đây chỉ
có đổi “Di” thành “Mi” thôi.
Sau khi tham cứu như trên xong, tôi bắt
đầu chuyên chí niệm Nam mô A-mi-đà Phật, và cũng bắt đầu từ đó tôi liền
nhận được kết quả.
1. Sáu tiếng hồng danh đây nổi rõ nơi tai cũng như nơi tâm, khác hẳn sự mờ mờ lọt sót của tiếng “di” trong thời trước.
2. Khi niệm ra tiếng, từ năm ngàn câu
mỗi thời trở lên, môi lưỡi càng lúc càng nhại, càng chuyên, càng lanh.
Khác hẳn sự trệ môi cứng lưỡi của những ngày niệm khi xưa.
3. Niệm ra tiếng với A-mi khỏe hơi hơn niệm ra tiếng của A-di khi trước, nhờ vậy mà mỗi thời niệm được lâu và nhiều.
Người chuyên niệm danh hiệu của Phật,
tầng cấp đầu tiên là đến mức bất niệm tự niệm, hay niệm lực tương tục.
Nếu khi niệm mà bị trệ, và tiếng Phật lại lờ mờ không nổi rõ nơi tâm
thời khó mong được kết quả trên. Còn nếu trái lại thời mới có hy vọng
đến đích.
Biết rằng niệm A-mi-đà được nhiều phần
đúng với nguyên âm, nó sẽ đem đến cho mình cái mãnh lực bất tư nghị,
diệt vô số kiếp tội thành đại thiện căn phước đức giống như pháp trì
chơn ngôn (thần chú) của Mật tông mà Tổ Vân Thê đã phán. Nó sẽ đưa mình
đến mức bất niệm tự niệm, vì tiếng niệm không bị trệ lụt và nổi rõ nơi
tâm. Nhất là niệm A-mi-đà được khỏe hơi, nhờ đó nên niệm được lâu và
nhiều. Niệm Phật được thuần thục là nhờ niệm nhiều câu, nhiều giờ và
tiếng niệm nhấn rõ nơi tâm. Và mức bất niệm tự niệm đây là phần bảo đảm
vãng sanh Tịnh Độ cho người chuyên niệm. Tôi tin rằng niệm gần với
nguyên âm, tức là gần đúng với thật danh của đức Giáo chủ Cực Lạc, tất
dễ được tương ưng và chóng được cảm thông với Phật. Và tôi đã tự cảm
thấy có lẽ đúng như thế.
Nhưng trong kỳ kiết thất 49 ngày ở tịnh
thất nơi chùa Linh Sơn Cổ Tự, một hôm tôi bỗng có ý nghĩ: “Mình dù
thiển trí bạc đức, song cũng là người tai mắt trong Tăng giới, và cũng
có đôi phần uy tín đối với gần xa, riêng mình tự tu đã đành không ngại
gì, song rồi đây, tất có người vì tin tưởng nơi mình, mà họ sẽ tự noi
theo chỗ làm của mình, nghĩa là họ sẽ niệm Nam mô A-mi-đà. Một người
như thế, lần lần sẽ có nhiều người như thế, tất sau này khó khỏi đôi
điều thắc mắc:
1. Bàng quan sẽ cho mình lập dị, riêng phái, phá sự đã phổ thông của cổ lệ.
2. Đem sự ngờ vực cho người niệm A-di
khi những người này chưa hiểu thế nào là A-di và thế nào là A-mi. Và sự
ngờ là điều rất chướng của pháp môn niệm Phật”.
Tôi tự giải thích: “Cổ lệ đã sai thời sự
sửa đổi là điều cần (tôi tự sửa đổi riêng tôi). Mình không có quan
niệm lập phái riêng hay lập dị, thời cũng không ngại gì với sự thị phi
phê bình của bàng quan”. Và với sự ngờ của những người chưa nhận chơn,
sẽ giúp họ tìm tòi khảo cứu, nhờ tìm xét họ sẽ thấu rõ sự sai với đúng,
và họ sẽ thâu hoạch được kết quả tốt cũng như mình”.
Mặc dù tôi tự giải thích với tôi như thế, nhưng trong thâm tâm vẫn mãi băn khoăn gần suốt ngày.
Chiều hôm ấy, khi đứng dựa cửa sổ ngó
mong về phía mặt trời sắp lặn, tôi bỗng thấy chữ A-mi nổi bật giữa
khung trời xanh sáng, gần giống như chữ điện ở trước cửa của những hiệu
buôn chiếu sáng trong đêm. Tôi thử ngó qua hướng khác thời không thấy,
khi ngó trở lại hướng Tây thời chữ A-mi vẫn nổi y nơi chỗ cũ, khổ chữ
lớn lối bốn tấc Tây bề cao, và hiện mãi đến trên 30 phút mới ẩn.
Tối hôm ấy, tôi chiêm bao thấy mình đi
vào một khu vườn cây cao cảnh đẹp. Giữa vườn, một dãy nhà cất theo kiểu
trường học, và nghe rõ trong ấy một người xướng và số đông người hòa:
Nam mô A-mi-đà Phật! Tôi tự bảo: “Ủa lạ! Câu Nam mô A-mi-đà Phật, tưởng
là chỉ riêng của mình cải cách, riêng mình tín hướng và riêng mình
chuyên niệm. Bất ngờ ở đây, người ta cũng đồng niệm như vậy rồi!”. Tôi
đứng dừng trước ngõ trường chăm chú nghe xướng hòa như thế hơn 10 lần
mới choàng tỉnh. Bấy giờ mới biết là mình nằm mơ.
Do hai điềm trên đây (chữ A-mi hiện giữa
trời và chiêm bao nghe xướng hòa Nam mô A-mi-đà Phật), bao nhiêu nỗi
thắc mắc và băn khoăn nơi lòng tôi đều tan rã như khối tuyết dưới ánh
nắng trưa hè…
Từ hồi nào, dù với hàng đệ tử, tôi chưa
từng bảo ai bỏ niệm A-di mà niệm A-mi. Song, do ảnh hưởng ngấm ngầm mà
lần lần có một số đông người xuất gia cũng như hàng tại gia niệm
A-mi-đà. Đó phải chăng là do cơ duyên thời tiết nó nên như thế! Và cũng
vì cớ ấy mà hôm nay có bài thuyết minh và tự thuật này.
Tôi viết bài này chỉ với mục đích giúp
thêm sự nhận chơn về câu Nam mô A-mi-đà Phật cùng lịch sử của nó, cho
các bạn đồng tu đã chuyên niệm như thế. Và bài này cũng chỉ truyền bá
trong phạm vi giữa các bạn đây thôi.
Tôi xin khuyên nhắc các bạn, đối với
những vị đã quen niệm hay đã sẵn tín tâm nơi câu Nam mô A-di-đà Phật,
nhất là người ở trong hoàn cảnh thiếu tiện lợi, các bạn nên để yên cho
các vị ấy niệm theo sự phổ thông cổ lệ để tránh sự ngoại chướng cho họ
và cho họ khỏi sự do dự trên đường hành trì mà họ có thể vướng phải.
Theo
HT.Thích Trí Tịnh - ĐPNN