Ấn Quang Ðại Sư Gia Ngôn Lục
Lý Viên Tịnh
Chuyển ngữ: Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa
LỜI TỰA Pháp
môn Tịnh Ðộ lý cực cao sâu, sự cực giản dị. Do vậy, người thiên tư
thông mẫn, tri kiến cao siêu thường xem Tịnh Ðộ là pháp tu của bọn ngu
phu, ngu phụ, chẳng chịu tu trì. Nào biết đây là pháp môn rốt ráo để
mười phương tam thế hết thảy chư Phật, trên thành Phật đạo, dưới độ
chúng sanh, thành thỉ, thành chung. Họ thấy kẻ ngu phu, ngu phụ tu được
pháp này bèn coi thường, sao chẳng xét trong hội Hoa Nghiêm, bậc đã
chứng bằng với Phổ Hiền, bằng với chư Phật, vẫn phải dùng mười đại
nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc ngõ hầu viên mãn
Phật Quả? Miệt thị pháp môn Tịnh Ðộ chẳng chịu tu là coi những vị trong
hội Hoa Nghiêm thuộc hạng người gì? Chỗ quy tông cuối cùng của kinh Hoa
Nghiêm có đáng nên tôn trọng hay nên coi thường đây?
[Có thái độ như vậy] không có gì khác hơn là do chưa xét kỹ nguyên do
của từng pháp môn thông thường và đặc biệt, cũng như tự lực, Phật lực,
đại, tiểu, khó, dễ, nên mới đến nỗi như thế. Nếu đã xét kỹ, há chẳng học
đòi Hoa Nghiêm Hải Chúng, nhất trí tiến hành cùng cầu vãng sanh ư? Ấn
Quang tôi từ lúc búi tóc đọc sách, nhiễm ngay phải cái độc bài Phật của
Hàn, Âu, Trình, Chu, may là không có được cái tài như Hàn, Âu, Trình,
Chu. Nếu như có được chút tài như họ, ắt sẽ tự mình lầm, khiến người
lầm, thân còn sống mà đã hãm trong địa ngục A Tỳ mất rồi. Từ năm mười
bốn, mười lăm tuổi về sau, bệnh nặng nhiều năm. Từ đấy chiêm nghiệm khắp
xưa nay, xem kỹ kinh sách, mới hay những thuyết do Hàn, Âu, Trình, Chu
lập đó đều là những tri kiến quẩn quanh ngoài cửa ngõ, tuyệt chẳng đạt
đến những sự huyền áo trong nhà.
Nhược
quan (1) được một năm, tôi liền xuất gia làm Tăng, chuyên tu Tịnh
nghiệp. Thề trọn một đời này làm một kẻ tự tu, chẳng lập môn đình, rộng
thâu đồ chúng đến nỗi con cháu đời sau làm Phật pháp bại hoại, kéo cả Ấn
Quang tôi vào trong địa ngục A Tỳ chịu khổ với chúng. Ðến năm Quang Tự
19 (Quý Tỵ - 1893), hòa thượng Hóa Văn chùa Pháp Vũ ở Phổ Ðà Sơn lên
kinh đô thỉnh Ðại Tạng Kinh, nhờ tôi coi sóc việc ấn loát. Xong việc,
Hòa Thượng mời tôi cùng về núi. Biết tôi chẳng thích tham gia Tăng sự,
Ngài cho tôi ở riêng một liêu, tùy ý tu trì. Ðến nay đã hơn ba mươi lăm
năm rồi. Ở núi lâu ngày, có việc phải dùng đến bút mực viết lách, tuyệt
chẳng dùng đến tên gọi Ấn Quang. Ngay cả những văn tự cần phải ký tên,
cũng chỉ tùy tiện viết hai chữ là xong. Vì thế trong hai mươi năm qua,
không có người khách nào đến thăm, cũng không có thư từ qua lại làm
phiền.
Năm đầu Dân Quốc (1911), cư sĩ Cao Hạc Niên đem mấy thiên văn cảo đăng
trên Phật Học Tùng Báo, chẳng dám dùng tên Ấn Quang, mà dùng tên Ấn
Quang thường tự xưng là Thường Tàm Quý Tăng. Vì thế, ký tên là Thường
Tàm. Cư sĩ Từ Uất Như và Châu Mạnh Do tưởng lầm là Kiến Thường, nghe nói
[lầm như vậy] cả ba bốn năm chẳng hề biết. Sau Mạnh Do lên núi bái yết,
xin quy y, đem mấy thiên bản cảo tệ hại gởi cho Uất Như, đưa in ở kinh
đô, đặt tên là Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao khiến cho văn tôi gai mắt khắp
mọi người cao nhã nên càng thêm hổ thẹn.
Năm
Dân Quốc thứ bảy, thứ tám (1918-1919), họ lại lôi ra thêm mấy thiên
nữa, soạn thành sách Tục Biên, in chung với cuốn Sơ Biên. Năm Dân Quốc
thứ chín, giao cho Thượng Hải Thương Vụ Ấn Thư Quán sắp chữ thành hai
cuốn để làm bản lưu. Mùa Xuân năm Dân Quốc thứ 10, sách in xong. Quang
tôi lại qua Dương Châu, đem bản sắp chữ năm Dân Quốc thứ 9 khắc thành
một bản, chia làm bốn cuốn. Năm Dân Quốc thứ 11, lại giao cho Thương Vụ
Ấn Thư Quán in thành bốn cuốn. Khi ấy, các cư sĩ chỉ yêu cầu in hai vạn
bộ, nhưng đến khi Thương Vụ Ấn Thư Quán in xong, gởi ra bán, số ấy vẫn
chẳng đủ!
Mùa
Ðông năm Dân Quốc thứ 14 (1925), lại giao cho Trung Hoa Thư Cục in bản
tăng quảng (bản mở rộng – do thêm vào những bài mới), cũng chia thành
bốn cuốn, dày hơn lần in trước một trăm tờ. Mùa Hạ năm nay in sách, do
phong trào công nhân đấu tranh, giá in rất cao, chỉ in được hai ngàn
bản. Bản gốc đã đem đánh máy ra thành bốn bản sao thì nhà in giữ lại hai
bản, trả về cho Quang hai bản. Tôi bèn giao cho Hàng Châu Chiết Giang
Ấn Loát Công Ty in trước một vạn bản, sau đó sẽ in tiếp.
Một
nhân duyên tình cờ nữa là cư sĩ Viên Tịnh Lý Vinh Tường trong mấy năm
qua, chuyên tâm học Phật, đối với luận Khởi Tín, kinh Lăng Nghiêm, kinh
Viên Giác đều viết sớ giải. Quang bảo: “Người thanh niên nên thiết thực
dụng công niệm Phật trước đã, đến khi nghiệp tiêu trí rạng, chướng tận,
phước dày rồi sẽ lại phát huy, tự có thể xiển minh Phật ý truyền khắp vũ
trụ”. Khi ấy, ông Lý chẳng chịu là đúng. Sau vì dụng tâm quá độ, tinh
thần, thân thể mỗi ngày một suy, mới hay lời tôi nói chẳng sai.
Ông
bèn đọc kỹ Văn Sao, hoan hỷ khôn xiết nên trích lục những nghĩa trọng
yếu, chia thành từng môn, từng loại, soạn thành một cuốn, tính dùng giấy
in báo in một ngàn cuốn để đáp ứng nhu cầu cần đọc ngay của độc giả.
Tháng Năm, ông đến thưa chuyện cùng Quang, rồi cùng vợ thọ quy y. Tháng
Tám sách in ra, chẳng lâu sau sách được thỉnh hết. Thư yêu cầu nườm nượp
gởi tới, tôi bèn bảo giám ngục Tào Hà Kinh sắp đặt việc in sách. Cư sĩ
Trần Ðịch Châu xin đảm nhiệm việc trình bày, cũng như chịu phí tổn đánh
máy bốn bản sao. Ông lại chịu tiền in hai ngàn bản, một lúc bỏ ra gần
hai vạn.
Với
xuất xứ của mỗi câu trong bản này, thuộc quyển nào, trang nào, ông Lý
đều ghi kỹ để người đọc có thể đối chiếu với quyển Văn Sao. Do chỉ chép
lấy những nghĩa trọng yếu trong các bài văn, xếp vào một loại nên trong
mỗi thể loại, ý nghĩa [từng đoạn trích] khá giống nhau, nhưng tôi chẳng
lược bớt đi, ngõ hầu người đọc được khuyên đi, khuyên lại nhiều lần sẽ
đoạn ngay được lòng nghi, phát sanh lòng tin. Xuất xứ từ quyển nào,
trang số mấy đều dựa theo cách đánh số trong bản Tăng Quảng Văn Sao để
làm bản lưu thông vĩnh viễn, sau này không phải in lại nữa.
Lại vì Văn Sao ý nhiều, nghĩa lắm, có lẽ kẻ sơ cơ khó lòng phân biệt,
hiểu rõ dễ dàng được, nên tôi thuận theo cơ nghi, muốn cho họ trước hết
thấy được những điều trọng yếu của pháp môn, từ đấy sẽ thiết thực tấn
tu, tự đạt đến chỗ cùng cực, khỏi phải đến nỗi nhìn biển than dài hoặc
đến nỗi lui sụt. Nhân đây, chép cả mục lục cuốn Văn Sao Tuyển Ðộc Biên
vào sau mục lục cuốn Gia Ngôn Lục để người chưa từng nghiên cứu Phật học
dễ theo dõi. Tôi trình bày duyên do như thế để mong người đọc đều biết
rõ.
Nguyện
người thấy, người nghe đừng cho lời tôi nói là tầm thường, quê mùa rồi
bỏ qua, chỉ toan cầu lấy điều cao thâm, huyền diệu. Ðạo của Nghiêu Thuấn
chỉ là hiếu đễ mà thôi. Ðạo của Như Lai chỉ là Giới - Ðịnh - Huệ. Thực
hành được việc tầm thường, quê mùa, hành đến cùng cực thì lý cao thâm
huyền diệu há còn phải cầu nơi nào khác nữa ư? Nếu không thì chỉ cao
thâm huyền diệu nơi đầu môi chót lưỡi, khi sanh tử xảy đến chẳng dùng
được mảy may! Xin độc giả hãy lưu tâm!
Mồng Tám tháng Chạp năm Ðinh Mão, Dân Quốc 16 (1927), Cổ Tân Thường Tàm Quý Tăng Thích Ấn Quang cẩn soạn.
(*)
Gia có nghĩa là tốt, lành, đáng khen ngợi. Gia Ngôn là lời nói tốt đẹp,
tận thiện. Như vậy, Ấn Quang Ðại Sư Gia Ngôn Lục nghĩa là cuốn sách tập
hợp những pháp ngữ tận thiện, tận mỹ của đại sư Ấn Quang.
(1)
Nhược quan: là 20 tuổi. Thời cổ, con trai đến 20 tuổi làm lễ đội mũ
(nhược quan), công nhận là một người trưởng thành. Theo Ấn Quang Niên
Phổ, đại sư trốn nhà đi xuất gia năm 21 tuổi, vào năm Quang Tự thứ 7
(Tân Tỵ - 1881) tại chùa Nam Ngũ Ðài Liên Hoa Ðộng Tự ở núi Chung Nam,
thờ hòa thượng Ðạo Thuần làm thầy.
DUYÊN KHỞI TÁI BẢN CUỐN ẤN QUANG ÐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC
Cổ đức nói: “Pháp chẳng thể phát khởi một mình mà cần phải có nhân
duyên”. Rõ ràng là người có thể hoằng đạo, chứ đạo chẳng thể hoằng
người, pháp chẳng tự hoằng, đao chẳng thể tự sát thương, toàn là phải
nhờ vào con người hoằng dương, vận dụng. Nay muốn in hơn ngàn cuốn ắt
cũng phải có nhân duyên. Vì thế, tôi nay chia ra ba điều duyên khởi để
thuật rõ gốc ngọn, ngõ hầu độc giả biết được một đôi điều, sanh ý tưởng
khó gặp gỡ, sanh tâm khánh hạnh (1). Do Văn - Tư - Tu, khởi Tín - Nguyện
- Hạnh, nhập Niệm Phật tam muội, ai nấy cùng thấy Di Ðà, người người
chứng địa vị Bất Thoái. Ðấy chính là điều tôi thắp hương cầu khẩn vậy.
Thứ nhất là thực hiện nguyện cũ: nhớ lúc năm Dân Quốc 57 (1968), tôi
đến học tại Trung Quốc Phật Giáo Nghiên Cứu Viện, có dịp đọc được trong
thư viện cuốn Ấn Quang Ðại Sư Gia Ngôn Lục, chẳng ngăn nổi vỗ tay, giậm
chân, hớn hở vô lượng, nhận thấy đây là một tác phẩm ngàn đời khó thấy,
ngàn kiếp khó gặp, chẳng gieo trồng cội đức dễ đâu được gặp mà nay được
gặp gỡ. Tôi bèn hạ quyết tâm đọc một mạch, không dưới mấy mươi lần, ngộ
được chẳng ít Phật lý. Trong tác phẩm này có rất nhiều đạo lý tôi chưa
từng bao giờ biết đến, và có cảm giác phải nghiền ngẫm phi thường. Tôi
nhận ra hết thảy những Phật pháp được nhắc đến trong Văn Sao đều là
những của báu có sẵn trong nhà mình, chẳng đến từ bên ngoài, khác nào
đếm của gia bảo, vói tay liền được.
Nhân
đó, tôi đọc đi đọc lại những kinh điển, luận tạng được nhắc đến trong
Văn Sao như ba kinh Tịnh Ðộ, Tịnh Ðộ Thập Yếu, Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục,
Long Thư Tịnh Ðộ Văn, Tây Quy Trực Chỉ, Liên Tông Bảo Giám, Niệm Phật
Luận, Tịnh Nghiệp Chỉ Nam v.v... Trong mỗi một cuốn ấy, câu câu đều là
lời vàng, chữ chữ đều quy tông. Tu theo đó thì đều do hữu niệm chứng
nhập vô niệm, chuyển nhiễm niệm thành tịnh niệm, tự chứng tối thượng
thừa “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”.
Trong
cuốn Gia Ngôn Lục, đại sư Ấn Quang đã giãi bày trọn vẹn lẽ sai biệt
giữa Tự Lực và Phật Lực, giới hạn của Thiền tông và Tịnh tông, phân tích
rõ ràng, khiến kẻ sơ học đoạn nghi sanh tín, biết nên lấy bỏ những gì,
càng vào càng sâu. Tu theo đó, ngàn người tu, ngàn người được vãng sanh,
vạn người tu vạn người vãng sanh.
Nhất
là chữ “Tử” (chết) do đích thân đại sư Ấn Quang viết chính là diệu dược
vô thượng để tiêu phiền não, trừ khử vọng niệm. Mọi loài chúng sanh dựa
vào chữ Tử ấy, nghĩ đến địa ngục, phát tâm Bồ Ðề, dùng tín nguyện sâu
xa trì danh hiệu Phật, lâm chung gặp Phật, vãng sanh Tây Phương chẳng
biết là bao nhiêu. Bởi thế, ngay khi ấy, tôi liền phát nguyện rằng:
“Trong tương lai, ngày nào đó, khi có nhân duyên diễn giảng Phật pháp
cho đại chúng, tôi nguyện sẽ đề xướng ấn loát và giảng giải cuốn Gia
Ngôn Lục hòng đại chúng hiểu rõ yếu nghĩa tâm này làm Phật, tâm này là
Phật, tự tánh Di Ðà, duy tâm Tịnh Ðộ mới thôi!” Ðây chính là nhân duyên
thứ nhất vậy.
Thứ hai là kinh nghiệm niệm Phật: kể từ khi đọc được Văn Sao Gia Ngôn
Lục rồi tôi thường đọc đi, đọc lại, cơ hồ gần chán, nhưng vẫn chưa hiểu
hết ý nghĩa. Tiếp đó, đọc hai cuốn Văn Sao thượng hạ, những chỗ chưa
hiểu lại đem thỉnh vấn lão sư. Tư duy, thọ trì đôi ba lượt như thế, đem
những chữ Tử do Ðại Sư viết dán đầy cả phòng, giờ giờ tự kinh hãi, khắc
khắc tự răn nhắc mình. Lúc ấy tôi mới mười bảy tuổi, suốt ngày chấp trì
danh hiệu, có thể nói là Phật chẳng lìa tâm, tâm chẳng rời Phật. Suốt
ngày hiếm mở miệng nói năng một đôi câu. Nếu ai hỏi đến cũng chỉ dùng
tay ra hiệu mà thôi. Có lúc thậm chí cả hai ba ngày tôi chẳng mở miệng
nói câu nào; bởi thế, những người thường gặp mặt tôi bèn hủy báng: “Ðồ
bệnh thần kinh, đồ ma dựa”. Tôi nghe riết thành quen, chẳng lưu tâm đến
nữa, cho rằng đấy là một đại nhân duyên để tiêu diệt tội nghiệp đời
trước của mình, khiến cho mình càng thêm dũng mãnh, tinh tấn, chẳng lười
nhác.
Dụng
công như thế mãi đến khi tôi tốt nghiệp ở Nghiên Cứu Viện vào năm Dân
Quốc 59 (1970). Lúc ấy tôi vừa 19 tuổi, thân thể yếu đuối, lắm bệnh,
nhưng luôn nhớ kỹ lời Ðại Sư khai thị cho hành giả trong Văn Sao: “Người
niệm Phật chẳng sợ sanh bệnh, chỉ sợ chẳng thể thấy Phật, niệm Phật.
Khi thân thể trở bệnh thường nghĩ đến cái chết, vạn duyên buông xuống,
nhất tâm niệm Phật. Như thế thì nếu tuổi thọ chưa hết sẽ chóng lành
bệnh, nếu hết tuổi thọ sẽ mau được vãng sanh. Là do tâm hợp với Phật,
tâm hợp với đạo vậy!” Do đấy, tôi lập công khóa nhất định, trong vòng
một ngày, Phật sự phải làm là lễ bái bốn mươi tám nguyện, trì tụng một
trăm lẻ tám biến thần chú Ðại Bi, niệm Phật hiệu vô số. Dụng công như
thế suốt một năm, chẳng những thân thể không khỏe hơn, lại càng thêm hư
nhược. Lúc ấy, tôi đang ở chùa Thập Phổ đường Nam Xương tại Ðài Bắc.
Khéo
sao, có một vị pháp sư tên là Tánh Quán bị ung thư gan đến thời kỳ thứ
ba, phải đưa vào bệnh viện. Ít lâu sau, bác sĩ bảo không còn cách nào
chữa được, đưa sang thiền đường chùa Lâm Tế chờ chết. Mấy ngày sau, sư
thượng thổ hạ tả (2), ói ra toàn là máu, được ít lâu thì chết. Khi đó,
tôi mới chỉ 20 tuổi, thân thể hư nhược đến cùng cực, thân như cây khô,
tinh thần yếu đuối. Người trong chùa thấy tình cảnh ấy, không ít người
bảo tôi: “Tôi xem thầy chẳng mấy chốc cũng giống như pháp sư Tánh Quán,
nhất định phải chết thôi!” Hoặc bảo: “Tôi xem thầy chẳng sống được bao
lâu nữa!” Lúc ấy đúng là đạo cao một thước, ma cao một trượng. Vừa phát
tâm dụng công thì ma chướng càng nhiều. Nghe toàn những lời nói như vậy,
vạn phần hoảng sợ, chẳng sao diễn tả nổi.
Sau
cùng bất đắc dĩ chẳng biết làm sao, suốt ngày chỉ nghe băng xướng niệm
thánh hiệu A Di Ðà Phật của pháp sư Sám Vân mà niệm theo, nhất tâm đợi
Phật tiếp dẫn vãng sanh. Suốt một năm như thế, chẳng những chưa vãng
sanh mà tình cờ sao, trong một lần đang niệm Phật, niệm đến mức tâm
không cảnh vắng, tâm tịnh Phật hiện, đích thân thể hội mùi vị “niệm mà
vô niệm, vô niệm mà niệm”.
Từ
đó, thân thể của tôi ngày càng khang kiện, máy cassette tặng cho người
khác, đem hết thảy tiền bạc mình dành dụm hoặc đồ cúng dường của tín đồ,
mỗi mỗi đều dùng làm phương tiện khuyên người khác niệm Phật, phỏng
theo cách của Liên Tông Tứ Tổ Pháp Chiếu Ðại Sư và Ngũ Tổ Thiếu Khang
Ðại Sư, xin tiền đem cho trẻ, dụ chúng niệm Phật, hoặc mua tự điển, bút
chì tặng cho trường tiểu học, hoặc mua bút máy, sổ nhật ký tặng cho học
trò bậc cao trung trở lên. Trước hết, dạy chúng lễ Phật, niệm Phật, rồi
mới tặng cho chúng thứ này, thứ nọ. Trong vòng khoảng một cây số, không
có trẻ nhỏ nào chưa từng nhận lãnh sự giáo hóa, bố thí của tôi. Ai nấy
thấy tôi đều kêu lên: “Tiểu sư phụ! A Di Ðà Phật!” Sau hơn một năm như
thế, lớn nhỏ đều biết niệm Phật.
Một
hôm, tôi nhận được công văn kêu đi nhập ngũ (3), ngày trình diện là
mồng Một tháng Năm năm Dân Quốc sáu mươi ba (1974), trong lòng thầm
nghĩ: “Lần này đi quân dịch, chuyện sanh tử khó lòng đảm bảo, vạn nhất
chết trận thì biết làm sao, chẳng bằng lúc còn sống phải dự bị ổn thỏa
mới nên!” Nhân đó, bèn đem bộ Tịnh Ðộ Tùng Thư 20 quyển mới mua chưa lâu
(lúc ấy, còn đang trong thời kỳ ấn hành, chưa in xong toàn bộ) tặng cho
Truyền Ðạo học trưởng, đem các tự điển Từ Hải và Khang Hy tặng cho pháp
sư Minh Quảng. Cố lão sư có tặng cho tôi một bản Thánh Giáo Tự của
Vương Hy Chi, mang từ Ðại Lục qua, thật là của báu vô giá, tôi cũng tặng
luôn cho bạn đồng học là Ngộ Khiết. Áo hải thanh và y ca sa tặng luôn
cho bạn đồng học là Ngộ Quán. Còn thì đồ đạc trong ngoài, dù lớn hay nhỏ
đều tặng hết cho đại chúng, chỉ còn mỗi một cái túi da xấu xí là chưa
tặng ai cả. Lòng nghĩ nếu như trong quân đội, vạn nhất mình may mắn bỏ
xác cũng là nguyện vọng của mình đã thành đạt. Vì sao vậy? Vì tôi đã sớm
chuẩn bị, nhớ kinh Ðịa Tạng có dạy: “Hết thảy công đức đã làm khi còn
sống, đều thọ được hết cả. Nhưng chết đi, làm hết thảy công đức thì bảy
phần chỉ được hưởng một phần”. Cho nên những điều mình có thể làm được
trong khả năng của mình thì đều làm hết.
Vì
thế, một hai ngày trước khi nhập ngũ, tôi đem số tiền tín đồ cúng dường
là bảy ngàn đồng, chia thành ba phần: Một phần là năm ngàn đồng tặng
cho công trình xây dựng Tịnh Giác Dục Ấu Viện (viện nuôi trẻ Tịnh Giác).
Một phần là sáu trăm đồng cúng dường cho huynh đệ đồng tu. Còn tự mình
chỉ mang 1.400 đồng đi nhập ngũ mà thôi.
Sau
đấy, suốt ba tháng tại trung tâm huấn luyện, chịu cam khổ như mọi
người. Có tháng, tiền chỉ còn ba trăm năm mươi đồng, lại cần phải mua
thức ăn chay. Lúc ấy mới hay tiền chẳng đủ dùng, tiền là trọng yếu. Xong
hai năm quân dịch, chẳng những không chết, thân thể còn càng thêm cường
tráng, khang kiện. Thế mới biết công đức Niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn,
quả báo cũng chẳng thể nghĩ bàn. Hiện tại tôi đã giải ngũ hơn năm năm
rồi, phải làm lại hết thảy từ đầu. Muốn mua kinh sách gì, hoặc là thành
lập đạo tràng và những thứ cần dùng hằng ngày đều hoàn toàn cậy vào sự
nỗ lực của chính mình. Do đó, đến nay đã ba mươi tuổi đầu rồi mới bắt
đầu xây dựng đạo tràng, ngoài việc giảng kinh, thuyết pháp, chẳng quên
đề xướng ấn loát bộ Ấn Quang Ðại Sư Gia Ngôn Lục. Ðấy là nhân duyên thứ
hai.
Thứ ba chính là để kết duyên lành. Kinh dạy: “Lúc chưa thành Phật nên
rộng kết nhân duyên”. Kinh còn dạy: “Phật đạo kiến lập trên thân chúng
sanh. Nếu không có chúng sanh nào để độ thì chư Phật chẳng thể thành
Chánh Giác”. Bởi thế, sau khi giải ngũ, tôi liền đối trước Phật phát
nguyện: “Phàm là ai có lòng muốn học Phật pháp thì nghĩa vụ của con là
phải dạy dỗ họ cho đến khi họ học hiểu mới thôi!”
Tiếp đó, duyên khởi in cuốn Gia Ngôn Lục là do cư sĩ Kim Bích Hoa và cư
sĩ Ngô Cẩm Hoàng giới thiệu nên tôi được quen biết cư sĩ Khưu Bính Lân
và vợ là cư sĩ Khưu Ngô Sắc. Họ nói trước đây đã từng học hiểu cuốn Tứ
Kinh Hợp Ðính Bổn, hiện tại muốn học Tam Muội Thủy Sám, xin tôi phát tâm
giảng dạy cho họ. Tôi liền đáp: “Ðược”. Lúc đó Ngô cư sĩ và tín đồ của
họ đang có mặt đều phát tâm muốn học, muốn đến chùa tôi, xin tôi mỗi một
tuần chọn một ngày nhất định đến chỗ họ giảng dạy. Tôi nói: “Trước mắt,
Phật Quang Viện chưa lạc thành, dự định ngày 19 tháng Sáu năm nay, đúng
ngày thành đạo của Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ làm lễ khai quang thánh tượng
(khéo sao, ngày ấy lại đúng vào Chủ Nhật). Hiện tại trong Phật Tổ Hội
đang tích cực quyên góp. Hội này do hai vị cư sĩ Kim Bích Hoa và Ngô Bảo
Ngọc cùng phát khởi. Một hội chọn ra tên hai người, lần lượt chia phiên
nhau xuất ra năm trăm đồng trong một tháng nào đó, định hạn là hai mươi
tháng, cho đủ một vạn đồng. Trong ấy có người thanh toán trong một lần,
có người chia ra hai lần đóng góp tùy sức mỗi người (mục đích là đại
chúng hóa, phổ biến hóa, để người hữu duyên có cơ hội tham dự công đức
đúc kim thân Phật)”.
Khưu cư sĩ nghe xong liền phát nguyện đúc tượng Tây Phương Tam Thánh,
ngoài ra thì tham gia một hội hoặc hai hội khác nhau. Kinh nói: “Lục độ
vạn hạnh, bố thí làm đầu, trong các nhiệm vụ cấp bách của việc phát tâm
thì hỷ xả là bậc nhất”. Chúa trời Ðao Lợi xưa làm cư sĩ, trông thấy
tượng Phật bị hư nát không chịu nổi, bèn phát tâm rủ rê bè bạn ba mươi
hai người, tạo kim thân Phật. Do nhân duyên ấy, sau khi mạng chung, sanh
làm Ðế Thích Thiên Chúa, tục gọi là Ngọc Hoàng Ðại Ðế. Ba mươi hai
người kia mỗi người làm chúa một cõi trời, thống trị nhân dân trong nước
mình, phước đức, trí huệ vô lượng, được người đời lễ bái.
Bởi
vậy, kính mong chư vị đại đức đều sanh lòng hoan hỷ hớn hở, phát lòng
tùy hỷ, xuất tiền, xuất lực, tam luân không tịch (4), vô trụ sanh tâm,
công đức vô lượng. Hiện tại muốn ấn loát hơn một ngàn cuốn Gia Ngôn Lục,
riêng Khưu cư sĩ đã phát tâm xin in một ngàn cuốn. Ðem công đức này hồi
hướng pháp giới chúng sanh cùng sanh Tịnh Ðộ. Ðấy là nhân duyên thứ
ba.
Ba điều duyên khởi vừa lược thuật trên đây đều nói đúng theo sự thực,
chứ chẳng phải là lời thêu dệt, cốt để bày tỏ những điều ấp ủ trong lòng
tôi, nhằm nói lên nguyện lực Phật Di Ðà rộng sâu, công đức niệm Phật
thù thắng, đọc Văn Sao lợi ích vô tận. Chỉ nguyện bậc trưởng bối xem
đến, phát lòng từ bi chỉ dạy, người ngang hàng nghe đến, sanh ý niệm
tham khảo, tùy hỷ. Kẻ vãn bối biết đến sẽ sanh lòng hỗ trợ, tăng trưởng
pháp. Từ một truyền mười, mười truyền trăm, trăm truyền ngàn, ngàn
truyền vạn, cha mẹ dạy bảo con cái, thầy dạy trò, quan trên dạy bảo cấp
dưới, từ gần lan ra xa, phổ độ hữu tình, chỉ mong mình lẫn người cùng dự
trong Liên Trì Hải Hội, chúng u minh cùng nhập Di Ðà Nguyện Hải, đều
thành Chánh Giác, cùng hóa độ chúng sanh.
Con
chỉ mong mười phương Tam Bảo, hộ pháp long thiên cùng xét soi tấm lòng
thành khẩn của con đỏ, cùng rủ lòng từ mẫn gia bị. Phổ nguyện thập
phương thiện tín, chư vị đại đức, đều sanh tâm từ bi hỷ xả, cùng khởi ý
niệm ủng hộ Tam Bảo. Chỉ mong những ai thấy nghe đều phát Bồ Ðề tâm, hết
một báo thân này, cùng sanh về Cực Lạc. Nếu được như thế thì pháp môn
may mắn lắm, chúng sanh may mắn lắm!
Trung
Hoa Dân Quốc năm thứ 71 (1982), tháng Giêng âm lịch, tiết Nguyên Tiêu,
Bản Kiều Thường Tàm Quý Tăng Thích Ngộ Tông kính soạn
(1) Khánh hạnh: mừng rỡ, nhận biết là mình may mắn mới gặp được việc gì đó.
(2) Thượng thổ hạ tả: trên thì ói, dưới thì tiêu tiện không kiểm soát được.
(3)
Tại Ðài Loan, chư Tăng không được miễn quân dịch. Toàn bộ tăng sĩ trẻ
phải nhập ngũ, thi hành quân dịch một thời gian, trước khi được trở về
chùa tu tiếp.
(4) Tam luân không tịch: Bố thí mà không thấy mình đang cho, không thấy có người nhận, không thấy có vật được mình bố thí.
|