Phật Học Online

Áo lam màu Huế
Lê Mỹ Ý

Sau nhiều năm ở Huế, hình như tôi đã phát hiện ra Huế không chỉ là Huế tím mà còn có một sắc Huế khác lung linh hơn, thâm trầm hơn và cũng làm tôi thấy mình được hạnh ngộ nhiều hơn: Huế của những áo lam màu khói.

Những ngày đầu đến Huế, tôi tò mò lắm về một “Huế tím”, Huế của những áng thơ, câu hát mà từ trước đến nay tôi đều được nghe, được mô tả như một biểu tượng của xứ sở dịu dàng khôn xiết. Ngay cả nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường – nhà Huế học cũng đã từng láy đi láy lại nhiều lần về cái màu tím của Huế, kể cả Huế ở một thời xuống đường tranh đấu, và Huế ở thời hiện đại, trong những tùy bút nổi tiếng của ông. Nhưng, sau nhiều năm ở Huế, hình như tôi đã phát hiện ra Huế không chỉ là Huế tím mà còn có một sắc Huế khác lung linh hơn, thâm trầm hơn và cũng làm tôi thấy mình được hạnh ngộ nhiều hơn: Huế của những áo lam màu khói.

Ấy là một buổi chiều vào mùa đông, tôi là sinh viên năm thứ nhất khoa Văn lơ ngơ đi trong giảng đường sư phạm, chợt nhiên tôi nhìn thấy tà áo màu lam thoáng qua. Áo lam đến giảng đường! Hình như trong tâm trí của người con gái nhà quê như tôi, một chốn quê rất ít chùa chiền, thì đó là điều nơi phố thị làm tôi ngạc nhiên nhất. Được trò chuyện cùng với nhà sư ni cô ngay trên giảng đường đại học, với tôi, lúc đó còn hơn chuyện hoang đường nữa. Đầu óc ngu dại vì chưa được đi xa, chưa được mở rộng tầm mắt của tôi vẫn đinh ninh rằng: cuộc sống tu hành và cuộc sống thế tục là hai thế giới hoàn toàn khác nhau, muốn tu hành thì phải buông bỏ tất cả để bước chân vào cửa Không. Không – với tôi là không còn gì lưu luyến, gắn bó cùng thế sự bên ngoài, là không có chuyện nhà sư học cùng người thường. Và lúc đó, trong tâm trí của tôi, nhà sư – nôm na đều là những người ở chùa, đi tu, ăn chay niệm Phật, nói chung đó là một hình ảnh thật cao xa, thật cách biệt.

Có lẽ vì những ý nghĩ như vậy, nên ngay khi trong lớp học của tôi hiện diện một ni cô, thì điều đó trở thành một sự kiện. Ban đầu, tôi nhìn ni cô đó với vẻ  “kính nhi viễn chi”, kèm theo rất nhiều tò mò không dấu diếm. Cô ấy học hành để làm gì nhỉ? Người ta học để lấy bằng cấp, để đi ra đua tranh với đời. Đã là người đi tu, bằng cấp, danh vọng đâu còn ý nghĩa. Hay là làm nhà sư… nhàn rỗi quá, mà cô ấy đi học cho qua ngày tháng…?!!! Những ý nghĩ ấy lướt qua trong tôi, gặp những ý nghĩ con trẻ nhà quê vụng dại đồng niên, đồng khóa khác, thế là chị trở thành câu chuyện, thành ngô rang bung ra mỗi lúc thoáng màu áo lam nơi cửa lớp.

Cửa lớp ở giảng đường và cửa lớp của một ngôi trường đạo hạnh có gì khác biệt, mà tôi thấy người ni cô học hành chăm chỉ lắm. Người không khác gì với tất cả bọn tôi, ngoại trừ sự ít nói, sự thung dung và nghiêm cẩn nhưng không quá nghiêm trọng hiển hiện trên nét mặt. Bạn bè trong lớp tôi gọi nhà sư nữ ấy là cô. Cô, có lẽ đúng với giới chức của chị. Nhưng một thời gian sau, hầu như đứa nào cũng gọi cô là chị. Một người chị gần gũi và thân thiết, không phải vì khoảng cách tuổi tác, mà vì ai nấy đã bắt đầu cảm nhận được cái thân tình của một người chị trong đại gia đình lớp tôi, và đôi khi, nó như là cái thân tình của những người em đối với huynh trưởng trong một đại gia đình Phật tử.

Huế những ngày đó mưa nhiều lắm. Đất trời nhạt nhòa lúc nào cũng như khói, như sương. Huế buồn và lặng lẽ như một giấc mơ thiếu nữ bất thành khiến mỗi đứa xa nhà chúng tôi dẫu có tụm năm, tụm bảy, tụ họp nhau lại vẫn thẫn thờ ngơ ngác. Một hồi còi tàu rúc đâu đó phía cầu Bạch Hổ cũng làm bao khuôn mặt rã rời một nỗi xa quê. Bây giờ, tôi vẫn còn giữ nguyên cảm giác của ngày đầu ở Huế ấy. Ai mới đến Huế lần đầu, trong những mùa đông mưa, sẽ cũng thấm thía cảm giác xa xôi và đau đáu ấy mà thôi. May sao, ở giảng đường, ngoài giờ lên lớp, chúng tôi bắt đầu thấy ấm áp, bớt trống trải hơn nhờ những chiếc kim đan mà Ni cô đã tập cho chúng tôi vào những giờ ra chơi. Mùa đông lê thê đầu tiên đã trôi qua trong những đêm thức nhớ nhà, nhớ mẹ bằng chiếc khăn tôi tự tay đan được. Tôi đã tặng chiếc khăn – sản phẩm đầu đời mà mình làm ra ấy cho mẹ tôi trong ngày lễ Vu Lan báo hiếu năm sau, khi chúng tôi được nghỉ hè. Đó cũng là lần đầu tiên tôi ý thức một cách sâu sắc về ngày lễ Vu Lan hiếu hạnh. Chúng tôi bắt đầu quen với những bữa cơm chay chị nấu, hiểu được ý nghĩa của những câu chuyện, những món quà mang hơi hưởng nhà chùa do tay chị làm lấy trong mỗi kì sinh nhật của mỗi đứa trong lớp, hay mỗi khi ai đó trong lớp có chuyện vui.

Tôi vẫn thường theo chân chị lên chùa. Những cây thông đàn Nam Giao reo vi vu cùng tiếng chuông chùa thỉnh lên trầm mặc. Trong không gian tĩnh mịch và u trầm ấy, những bóng áo màu lam nhẹ nhàng múa lên những màu sắc tươi tắn của giấy màu, bóng kính. Họ đang chuẩn bị làm lồng đèn và đèn hoa đăng phóng sinh cho mùa Phật Đản sắp đến. Những góc học tập giản dị với các tủ sách ngay ngắn chất đầy kinh Phật. Những chú điệu nhỏ tuổi chắp tay “Mô Phật” rồi thoắt đi đâu đó, thoáng sau, những mâm cơm chay đã được dọn ra mời khách. Hình như, hôm đó cũng là ngày rằm… Người đến chùa rất đông nhưng không ai khuấy động không khi yên tĩnh của chùa. Tôi cũng thấy mình như đang rón rén. Và những lúc ấy, mọi lo toan bề bộn của một cuộc sống tự lập dường như lắng lại.
Mùa Vu Lan năm ấy lại đến, câu chuyện về Mục Kiền Liên làm chúng tôi cảm động. Người chị ni cô mời chúng tôi cùng đi xem rước thuyền và thả đèn phóng sinh trên sông Hương. Hàng trăm chiếc thuyền lộng lẫy được làm bởi những nhà sư ở các ngôi chùa trong – ngoài thành Huế lặng lẽ trôi trên sông Hương. Và hàng ngàn chiếc đèn phóng sinh lung linh, hoan hỷ tựa hàng ngàn bông sen được thả trôi về cuối nguồn. Tôi đã bắt đầu cảm nghiệm được một đời sống tâm linh thiêng liêng, khởi đi ngay tự chính tâm mình, qua sự hành trì của những người chân tu với mong ước về một sự thăng hoa toàn thiện, toàn mỹ hơn cho đời và cho đạo.

Đông qua. Thu tới. Xuân tàn. Những mùa hạ rồi cũng kéo nhau đi. Chúng tôi đã rời xa giảng đường mỗi người một ngả. Nhưng mỗi lần nhớ Huế, trong tôi lại vang lên trầm mặc một tiếng chuông chùa. Tiếng chuông ấy đánh thức những cảm niệm bí ẩn nào đó vẫn ngủ yên trong tôi, những cảm niệm mà chính tôi cũng không sao hiểu nổi. Nó khiến tôi ngạc nhiên về bản thân mình và khiến tôi nhìn thấy sự trống rỗng của mọi ham muốn trong cuộc sống bấn loạn nhiều tranh đoạt, đua chen. Và những lúc ấy, tôi lại nhớ tới màu áo lam an bình, dịu nhẹ như khói, như sương, màu áo đã đưa tôi qua dòng sông vốn vô thủy vô chung của cõi hữu hạn để đến với bến bờ tâm thức tinh khiết, chảy trôi…

Theo: Liễu Quán Huế/Văn hóa Phật giáo


© 2008 -2024  Phật Học Online | Homepage