Việc phân tích và hệ thống hoá lại lời dạy của Đức
Phật làm xuất hiện bốn trường phái chính trong tư tưởng triết học Phật
giáo tại ấn độ. Đó là : Nhứt Thiết Hữu Bộ ( Vaibhasika) Kinh Lượng Bộ (
Sautrantika), Du-Già ( Yogacara) và Trung Quán ( Madhyamika).
Học thuyết Duy thức được phát triển từ trường phái Du- già
và bác bỏ lại các dòng triết học đương thời đó chính là hai lý thuyết
cực đoan, một là mọi thứ đều hiện hữu của nhứt thiết hữu bộ, hai là mọi
thứ đều rổng không của trường phái Trung quán.
Học thuyết duy thức thiết lập sự thật của thức và chỉ có thức là duy
nhất, trên hết và loại bỏ sự hiện hữu của ngoại cảnh bên ngoài thức.
Đây chính là con đường trung đạo được giảng dạy bởi Đức Phật.
Trong một số kinh điển đại thừa Phật giáo bao gồm giáo lý Duy thức
học, ở đó kinh Giải Thâm Mật bảo rằng lời dạy của Đức Phật nói bản
chất của vạn pháp là không có thật. Lời dạy trên khẳng định một sự thật
tuyệt đối, đó là sự thấy biết của trí huệ bực Thánh.
Giải Thâm Mật giải thích rằng, sự phủ nhận hiện hữu của vạn pháp đã
được dạy trong kinh Bát Nhã không có nghĩa là sự vật không hiện hữu hay
tướng trạng của sự hiện hữu. Mà chúng hiện hữu trong lý nhân duyên
sanh và chuổi mắc xích nhân quả trong sự liên hệ của nó.
Sự thật tuyệt đối là bản chất của tất cả các pháp riêng biệt, đó là
bản thể của các yếu tố. Trên bề mặt tưởng tượng của vạn pháp xuất hiện
và có mặt vì có sự phân biệt của cái tên gọi, mà nó được đặt cho nó bởi
ý nghĩ suy diễn của chúng ta. Chúng không có sự thật về sự phân biệt
mà chỉ là sự quy ước và không phải là bản chất tự nhiên của vạn pháp.
Đây là thực chất không thật của vạn pháp.
Trong kinh Giải Thâm Mật nói thêm rằng lý thuyết trong kinh Bát Nhã
về Bất sanh và bất diệt…đã được dạy trong sự liên hệ với sự thật tuyệt
đối. Sự thật tuyệt đối (Parinispanna) hay còn gọi là Niết bàn, nó
chính là bản chất của vạn pháp (dharmata), Như Lai ( Tathata) và tánh
không (Sunyata). Nó là vô thỉ và vô chung không bao giờ thay đổi. Tâm
là sự sở hữu tất cả các hạt giống được gọi là a lại da thức ( còn gọi
là tàng thức) hay a đàn na thức ( thức của sự chiếm đoạt) .
Trong a lại da thức, hạt giống được sinh trưởng xuyên qua sự gắn bó
tham gia và ghi dấu của ý niệm tiềm tàng. Trong kinh Giải Thâm Mật cũng
có đề cập đến ý niệm ( idea).
Trong kinh Lăng Già dạy rằng Duy Thức được giải thích trong Thập Địa
Kinh Luận rằng: “ba cõi không thật , chỉ do thức tạo ra”. Nó thiết lập
cái không thật của thế giới và sự thật tuyệt đối của tâm và đưa ra ba
phương diện của sự nhận thức đó là: A lại da thức, Mạt na thức, và Thức
của sáu giác quan, được gọi là Tám thức. A lại da thức là thức căn bản,
nó được đồng nghĩa với sự thật tuyệt đối trong Niết bàn. Còn bảy thức
kia là tưởng tượng ( ảo) và bị bỏ lại sau khi đạt được niết bàn.
Do bị ảnh hưởng bởi vô minh ( avidya) nhiều thức khác nhau xuất hiện
vì chủ thể và đối tượng vượt ra ngoài Thức tạng ( the store
consciousness) nhưng sự thật còn lại do tiền lục thức chuyển tiếp tất
cả tính hai mặt ( nhị nguyên) của chủ quan và khách quan.
Thức A lại da được so sánh với nước đại dương và trên bề mặt sóng là
7 thức trước. Tức là năm giác quan, thức thứ 6 căn bản trên tâm, thức
thứ bảy là thức nhiễm ô hay Klistamanas bị khuấy động của vô minh (
avidya) cuốn đi mà không có chổ dừng lại.
Nhưng chiều sâu của đại dương hay nền móng ( lớp đáy) của đại dương
vẫn cứ liên tục, ở đây có nghĩa là alaya là kho chứa của tất cả trí
huệ cả hai tuyệt đối và tương đối. Alaya thức là bản chất trong sạch và
được đồng nhất với sự thật tuyệt đối.
Lại nữa, trong kinh Lăng Già, thức alaya đôi khi được đồng nghĩa với
Như Lai tạng ( tathagatagarbha) , Phật tánh, hay sự thật tuyệt đồi.
Thức alaya cũng chính là nguyên nhân của sanh và tử. Nó là sự dính líu
kỳ lạ trong dòng tinh thần cấu uế lúc đó nó chứa đựng những chủng tử
nhiễm ô. Cho nên đôi khi nói alaya thức là bản chất thanh tịnh đôi khi
cũng bị nhiễm ô. Alaya là phương diện nhận thức của Như lai Tạng.
Học thuyết Duy thức được phát triển bởi Ngài Vô Trước ( Asanga)
người đã thành lập nên hệ thống Du –già ở ấn độ. Yogacara ( Du-già) có
nghĩa là sự thực tập thiền định. Trong việc thực tập thiền định thế
giới bên ngoài ( ngoại cảnh) thoát ra khỏi kiến phần thức .
Phái Du-già sau này phát triển thành trường phái Duy Thức . Những
tác phẩm và những luận giải của Ngài Vô Trước bị nghi ngờ rằng chúng
được diễn tả bởi ngài Di Lặc bồ tát. Có một truyền thuyết khác nói rằng
Di Lặc Bồ Tát là Thầy của ngài Vô Trước và hai người cùng hợp tác viết
một vài tác phẩm về học thuyết Du –già.
Theo truyền thống của Trung Hoa và Tây Tạng, Bồ Tát Di Lặc (
Maitreyanatha) là tác giả của một vài tác phẩm trên hệ thống Du-già và
Du già-Tánh Không (Yogacara-Madhyamika). Có 6 tác phẩm chính của
Ngài Vô Trước đó là:
1. A Tỳ Đạt Ma Tạp Luận ( Abhidharmasamuccaya)
2. Nhiếp Đại thừa Luận ( mahayanasamgraha)
3. Biện trung biên luận ( madhyatavibhaya)
4. Đại thừa trang nghiêm kinh luận ( Mahayanasutralamkara)
5. Du-gìa sư địa luận (Yogacarabhumisatra)
6. Dharmadharmatavibhaya.
Sự lý giải về duy thức học của ngài Vô Trước căn bản trên sự hiểu sâu
sắc của tạng A tỳ đàm (abhidharma) thuộc trường phái Nhứt Thiết Hữu Bộ
(sarvastivada) Tánh không ( sunyata) và lý bất nhị của Trung Quán
luận ( madhyamika) .
Trong A Tỳ Đạt Ma Tạp Luận , ông ta đã đưa ra 100 pháp mà trong đó
thức A lại da là một trong 8 thức . Ba tánh của vạn pháp là : Biến kế
sở chấp, Y tha khởi tánh và Viên thành thật tánh cũng được đưa ra thảo
luận.
Trong Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận, sự thật tuyệt đối được diễn
tả như là một sự hiện hữu hoặc là không hiện hữu, nó vượt ra ngoài vô
minh và trí hiểu biết. Sau khi tu tập con đường Thánh đạo và nhận ra sự
vô ngã và sự không hiện hữu của những yếu tố. Theo quan niệm của tánh
không thì sự thật tuyệt đối sẽ được nhận ra. Trong tác phẩm này sự thật
và bản chất của thức được nhấn mạnh.
Thức Alaya, Thức Mạt na ( defiled mind) và sự không hiện hữu của
ngoại cảnh được thảo luận để thiết lập sự thật bên trong của thức. Tuy
nhiên, trong thiền định thức của các vị bồ tát cũng biến mất. Sự thật
chỉ là thức , nó được nhận ra bởi người tu tập lúc mà hành giả vượt qua
tính nhị nguyên của chủ thể và đối tượng . Thức không bị tác động bởi
các hiện tượng và là bản chất thanh tịnh.
Trong Biện Trung Biên Luận, biến kế sở chấp là cái không thật người
ta tưởng tượng chỉ là thức. Tánh không biến mất trong biến kế sở chấp
vì có sự trống vắng của người nhận thức và đối tượng nhận thức. Đó là
bản chất tự nhân của sự thanh tịnh , nhưng trong tánh không cũng xuất
hiện biến kế sở chấp với hạt giống tiềm tàng của thế giới chủ quan và
khách quan. Tánh không là bản chất thanh tịnh, nhưng có thể bị ô nhiểm
bởi sự tưởng tượng. Phật tánh trong mỗi cá thể con người là bản chất
thanh tịnh nhưng nó không được giải thoát một lần bởi vì bản chất tuyệt
đối của biến kế sở chấp có thể chỉ là trực cảm do sự chuyển đổi tính
hai mặt của đối tượng khách quan và chủ quan. Sự nhận ra tánh rổng
không của mọi sự mọi vật là con đường đưa đến thanh tịnh và nhận ra sự
thật, đồng nghĩa với bản thể của sự vật, như lai tạng là chân lý tuyệt
đối; bản chất sau cùng của mọi vật ( pháp thân).
Trong Biện Trung Biên Luận, Pháp thân ( Dharmadhatu) đồng nghĩa với
tánh không vì tánh không là bản chất thanh tịnh và không bị dính líu
bởi luân hồi. Thức là thanh tịnh trong phương diện trừu tượng của nó,
nhưng khi nó hoạt động với thế giới bên ngoài bị ảnh hưởng bởi vô minh.
Trong Du-già Sư Địa luận chính yếu diễn tả về các cấp độ tu của Bồ
Tát . Trong cấp độ tu này Bồ Tát tham gia trong sự thực tập thiền định
xuyên qua đó mà họ có thể nhận ra sự không thật của thế giới bên
ngoài. Với sự nhận ra như vậy tính hai mặt của chủ thể và đối tượng, sự
diễn tả này như là một phiên bản của sự thật.
Trong Nhiếp Đại Thừa Luận, Thức A lại da còn gọi là tâm hay thought
consciousness. Nó là nguồn căn bản của tất cả các đối tượng. Nguyên tố
của sự hiện hữu tốt hoặc xấu là sự biểu hiện của thức A lại Da. Nó bao
gồm cả hạt giống thiện ( không nhiễm ô) và hạt giống bất thiện ( nhiễm
ô) của tất cả sự hiện hữu. A lại Da hay Tâm ( citta) hay thức, có hai
phương diện, vì nguyên lý thay đổi liên tục nên nó là kinh nghiệm thật
sự của thức. Tuy nhiên A lại da thức được giải thoát từ tính cách chủ
quan và khách quan là sự thật cuối cùng trên phương diện tuyệt đối của
thức.
Ngài Thế Thân ( Vasubandhu) là em trai ruột của Ngài Vô Trước, là
một người lỗi lạc của hệ thống Du- Già Duy Thức . Theo truyền thống của
Người Trung Quốc, ông ta đã viết được những tác phẩm trên trường phái
Duy Thức như:
1. Câu xá luận ( abhidharmakosa)
2. Nhiếp đại thừa luận
3. Thập địa kinh luận
4. Diệu pháp Liên Hoa Kinh ưu bà đề xá
5. Vô Lượng Thọ kinh ưu bà đề xá
6. Kim Cang Bát Nhã Ba la mật kinh luận
7. Duy thức nhị thập tụng ( vimsatika)
8. Duy thức tam thập tụng ( trimsika)
9. Đại thừa bách pháp minh môn luận
10. Luận đại thừa ngũ uẩn….
Và những bản luận giải trên bộ Luận Trung Biên Luận, Đại Thừa Trang
Nghiêm Kinh Luận và Nhiếp Đại Thừa Luận.
Thế Thân đã thành lập sự ưu việt của giáo lý duy thức học . Theo
ông ta, sự thật cuối cùng như là thanh tịnh tâm thức, ông ta biện luận
quan điểm thực tế về việc sự hiện hữu độc lập của các đối tượng bên
ngoài. Theo ông ta thức biểu thị chính nó như là chủ thể và đối tượng.
Tất cả hình tướng ( sắc) và cả lĩnh vực của kinh nghiệm là không có gì,
nhưng đó là sự biểu hiện của các hạt giống tiềm ẩn trong thức. Mọi thứ
là không có thật mà chỉ là trong sự liên hệ đến sự thật mà đó là thức.
Bạch Tịnh Thức ( thứ thứ 8) không bị dính chặt bởi sự hiểu biết, nhưng
sự hiện hữu của nó không thể phủ nhận được vì nó là căn bản của tất cả
mọi sự hiện hữu.
Sự thật tuyệt đối là thức thanh tịnh ( pure consciousness) vạn pháp
xuất hiện như chủ thể và đối tượng là sự tưởng tượng hoặc trong sự liên
hệ nhân duyên. Trong sự thật tuyệt đối không có chủ thể và đối tượng,
trạng thái được biểu thị như là bản thể của vạn pháp. Bản thể là không
là gì cả nhưng là thức thanh tịnh chúng ta có thể nhận ra nó một cách
trực tiếp trong kinh nghiệm tinh thần.
Người tu tập trong thiền định có được sự giải thoát vượt ra ngoài
tính chủ quan và khách quan và còn lại một sự kiên định trong thanh
tịnh tâm thức trí huệ cao nhất được sinh ra không thể hình dung được.
Đó là một trạng thái an lạc hoàn toàn. Thức này đồng nghĩa với
Dharmadhatu.
Theo Vasubandhu chúng ta có thể tìm thấy sự hợp lý cao nhất của tiến
trình tinh thần trong du- gìa. Học thuyết duy thức học không bám chặc
đến giáo lý, chủ trương tất cả đều không vì nó có sự thừa nhận sự có
mặt của thức. Đây là con đường trung đạo. Sự nhận ra trung đạo trong
việc tránh hai thái độ cực đoan thiết lập phương diện tôn giáo của duy
thức học.
Sau Ngài Thế Thân có nhiều sự giải thích khác nhau về Duy Thức học.
Ngài Đức Tuệ ( Gunamati) 420-500 và Ngài An Tuệ (sthiramati) 470-550
đã biện minh với lý thuyết tránh luôn cả hai chủ thể và đối tượng (
nirakaravijnanavada) .
Dòng tư tưởng này được truyền đến Trung Hoa bởi Ngài Chân Đế
(Paramartha 499-590). Ông ta đã thành lập Phái Nhiếp Luận (Mahayana
samgrahasastra) trên căn bản của bộ luận này. Trong một khuynh hướng
khác nirakaravijnanavada được biện minh bởi ngài Trần Na (dignaga)
400-80, căn bản trên chủ thuyết này cho rằng đối tượng ngoại cảnh là
không thật nhưng chủ thể là có thật.
Ngài Asvabhava 450-530 và ngài Hộ Pháp (dharmapala) 530-61 sau này
đã hệ thống hoá tư tưởng này. Từ lời giải thích của ngài Hộ Pháp được
truyền đến ngài Huyền Trang bởi Ngài Giới Hiền (silabhadra) tại trường
đại học Nalanda ấn độ.
Sau khi trở về Trung hoa Ngài Huyền Trang đã giới thiệu và xuyển
dương học thuyết duy thức học này. Nó được phát triển với tên gọi là
Pháp Tướng Tôn ở Trung hoa và Phái Hosso ở tại Nhật bản. Một dòng khác
nữa trong sự phát triển Duy thức tại ấn độ là Ngài Nanda và Jayasena,
nhưng không được phát triển nhiều tại ấn thổ.
Ngài Trần Na đã nghiên cứu tỉ mĩ nhận thức luận căn bản của duy
thức. Theo ông ta vật chất là không thật, thức xuất hiện chính nó qua
hình dáng của một đối tượng bên ngoài mà có đặc tính là phân biệt đối
tượng không tồn tại mà chủ thể là tồn tại. Ngài Hộ Pháp đã phát triển
lý thuyết thế giới bên ngoài là không tồn tại chỉ có thức tồn tại. Ông
ta giải thích sự có mặt của thế giới hiện tượng bên ngoài là từ tám
thức.
Về sau này hệ thống du-già duy thức có lượng văn học khổng lồ. Ngài
An Huệ đã viết luận giải trên Ba mươi bài tụng ( Trimsika) Biện Trung
Biên luận và Câu xá luận và A tỳ Đạt Ma Tạp luận. Ngài Đức Huệ đã viết
bản luận giải trên những tác phẩm của ngài Thế Thân, Phật Thuyết Duyên
Khởi Thánh Đạo Kinh và Bộ luận Laksananusarasatra. Tác phẩm của ngài
Trần Na bao gồm Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, Quán Sở Duyên Duyên
luận, A Tỳ Đạt Ma Câu Xá luận…
Sớ giải của Ngài Asvabhava trên Nhiếp Đại Thừa Luận được dịch bởi
ngài Huyền Trang vào trong Tiếng Trung Hoa. Tác phẩm của ngài Hộ Pháp
được cất giữ trong tiếng Hoa đó là Thành Duy Thức luận- sớ giải trên 30
bài tụng Duy thức; sớ giải trên Nhị Thập tụng; sớ giải trên Quán Sở
Duyên duyên luận…
Hệ thống Du-già - Kinh Lượng Bộ của Ngài Trần Na được phát triển
thêm nữa bởi Ngài Dharmakiti 650 AD bàn về sự thật của thức và sự thật
của kinh nghiệm, tính chất duy nhất được thừa nhận trong các giác quan
thanh tịnh.
Ngài Sautaraksita 680-740 và Kamalasila 700-50. Hai người đã phát
triển và tổng hợp hệ thống tánh không và du-già. Sautaraksita bác bỏ
sự tồn tại của thế giới bên ngoài và chấp nhận sự thừa nhận của thức
như là một sự thừa nhận duy nhất từ quan điểm của du-già. Tuy nhiên,
ông ta không xem thức như là một sự thật sau cùng. Kamalasila đã phê
bình tất cả các trường phái triết học và đã thiết lập phương pháp của
du già- tánh không.
(Yogacara-Madhyamika ) sự tổng hợp của tánh không và du-già được nói
rõ trong tác phẩm Madhyamakalamkara đượcbiên soạn bởi Santaraksita.Sau
Ngài Santaraksita, hệ thống Du-già- Duy thức không được phát triển
nhiều và dần dần trở nên bị tàn lụi tại ấn độ.