MỤC LỤC
[00] Lời nói đầu
KỆ NHẬP MÔN
[01] Quyển I.
PHẦN I - MẪU ÐỀ (MĀTIKĀ)
Chương I: MẪU ÐỀ TAM
Chương II: MẪU ÐỀ NHỊ
Chương III: NHỮNG BỘ KINH (SUTTAS)
PHẦN II: PHÂN TÍCH CÁC THUẬT NGỮ
Chương I: MẪU ÐỀ TAM VỀ THIỆN PHÁP
[02] PHẦN III: PHÁP VỀ ‘MÔN’ (hoặc ‘CỔNG’)
Chương I: ‘MÔN’ CHÍNH LÀ THÂN NGHIỆP
Chương II: ‘MÔN’ THUỘC KHẨU NGHIỆP
Chương III: ‘MÔN’ THUỘC Ý NGHIỆP
Chương IV: NGHIỆP (KAMMA)
Chương V: BẤT THIỆN NGHIỆP ÐẠO
Chương VI: THIỆN NGHIỆP ÐẠO
Chương VII: KẾT LUẬN
[03] PHẦN IV: KINH NGHIỆM TÂM THIỆN TRONG DỤC GIỚI
Chương I: BẢN TÓM TẮT TRẠNG THÁI TÂM
Chương II: BÀI PHÁP VỀ PHẦN CHÚ GIẢI
Chương III: PHẦN KẾT LUẬN
Chương IV: PHẦN NÓI VỀ TRỐNG RỖNG
Chương V: LOẠI TÂM THỨ HAI
Chương VI: LOẠI TÂM THỨ BA
Chương VII: LOẠI TÂM THỨ TƯ
Chương VIII: CÁC LOẠI TÂM THỨ NĂM, THỨ SÁU, THỨ BẢY VÀ THỨ TÁM
[04] PHẦN V: BÀI PHÁP TÂM THIỆN NƠI CÕI SẮC GIỚI
Chương I: HỆ THỐNG BỐN BẬC THIỀN
Chương II: ÐỆ NHỊ THIỀN .
Chương III: ÐỆ TAM THIỀN
Chương IV: ÐỆ TỨ THIỀN
Chương V: ÐỆ NGŨ THIỀN
Chương VI: BỐN ÐIỀU TIẾN HÀNH
Chương VII: BỐN ÐỐI TƯỢNG CỦA Ý
Chương VIII: MƯỜI SÁU ÐIỀU KẾT HỢP
Chương IX: ÐỀ MỤC HOÀN TỊNH (KASINA)
Chương X: NHỮNG ÐỀ MỤC KHÁC
Chương XI: BÀI PHÁP VỀ ÐỀ MỤC THẮNG XỨ
Chương XII: VỀ GIẢI THOÁT
Chương XIII: PHẠM TRÚ
Chương XIV: VỀ BẤT TỊNH
PHẦN VI: TÂM THIỆN VÔ SẮC GIỚI
PHẦN VII: TÂM THIỆN NƠI BA CÕI KHÁC NHAU
[05] PHẦN VIII: TÂM SIÊU THẾ (LOKUTTARA)
Chương I: SƠ ÐẠO
Chương II: NHỊ ÐẠO
Chương III: TAM ÐẠO VÀ TỨ ÐẠO
PHẦN IX: PHÁP BẤT THIỆN
Chương I: PHÁP TÓM LƯỢC CÁC TRẠNG THÁI TÂM
Chương II: LOẠI TÂM BẤT THIỆN ÐẦU TIÊN
Chương III: LOẠI TÂM BẤT THIỆN THỨ NHÌ VÀ CÁC LOẠI TÂM TIẾP THEO
[06] PHẦN X: TÂM VÔ KÝ
Chương I: NHỊ NGUYÊN NHẬN THỨC TRÍ TUỆ
Chương II: QUẢ THIỆN DỤC GIỚI
Chương III: TÂM QUẢ SẮC GIỚI VÀ VÔ SẮC GIỚI
Chương IV: QUẢ SIÊU THẾ
Chương V: QUẢ BẤT THIỆN
Chương VI: TÂM TỐ Ý THỨC GIỚI
Chương VII: KẾT LUẬN
[07] Quyển II. NHỮNG ÐẶC TÍNH SẮC PHÁP (RŪPA)
PHẦN I:
Chương I: SẮC PHÁP LÀ VÔ KÝ
Chương II: SẮC TỨ ÐẠI HIỂN
Chương III: NHỮNG ÐẶC TÍNH CỦA SẮC Y SINH
[08] PHẦN II: CHƯƠNG TOÁT YẾU (NIKKHEPA)
Chương I: TAM ÐỀ
Chương II: NHỮNG NHỊ ÐỀ VÀ CÁC NHÓM KHÁC
[09] Quyển III. Chương Trích Yếu
LỜI NÓI ĐẦU
Tại
Miến Ðiện, Atthasālinī[1] là một tác phẩm nổi tiếng nhất
do ngài Buddhaghosa biên soạn. Các vị Tỳ-khưu đã học hỏi nghiên cứu rất sâu
rộng và nhiều tác giả biên soạn các tác phẩm liên quan đến Vi Diệu Pháp (Abhidhamma)
thường xuyên trích dẫn. Cũng vậy đối với độc giả phương Tây, khi đọc qua bản
dịch tiếng Anh tác phẩm này, hiện đã ra mắt độc giả, đôi chỗ cũng không tán
thành cách đánh giá của ngài Buddhaghosa. Chính bản thân của tác phẩm cũng
khiến cho nhiều người phải nghi ngờ với ngài, trong khi Tuệ giác về những học
thuyết chính yếu của Ðức Phật và triết học Phật giáo là điều cần thiết đến
nhường nào, nếu như ngài Buddhaghosa được đánh giá chính xác, và đối với ngài
điều đó không thể thực hiện được trừ phi rõ ràng là ngài có cảm tình với tư
tưởng Phật giáo. Trong tác phẩm hiện hành Buddhaghosa không nhắm mục tiêu quảng
bá bất kỳ học thuyết đặc thù nào; ngài chỉ quan tâm đến việc giải thích ý nghĩa
các từ xuất hiện trong cuốn Dhammasaṅganī.
Thực hiện công việc này ngài Buddhaghosa thực sự đã gieo những viên ngọc quí
thuộc hệ tư tưởng của ngài ở bất kỳ cơ hội thuận tiện nào và như vậy ngài đã
nâng cao giá trị tác phẩm. Những định nghĩa các từ rất tẻ nhạt, (và đôi khi còn
vô nghĩa) đối với một học giả Châu Âu lại vô cùng quan trọng đối với các sinh
viên Phật học, họ phải hiểu được ý nghĩa các từ khái niệm trước khi có thể hiểu
được chân lý tuyệt đối. Chính vì vậy chúng ta phải lướt qua định nghĩa các từ trong
cuốn sách này, trước khi đi sâu vào hệ tư tưởng trong đó.
Các
công trình nghiên cứu về Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) đã thực hiện bước đi như vậy
kể từ khi Bà Rhys Davids lược dịch tác phẩm Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) đầu tiên
sang tiếng Anh, tức là cuốn Dhammasaṅganī
vào năm 1900 - rất nhiều thuật ngữ tâm lý học được sử dụng trong bản dịch đó
chính bà đã thay đổi đôi chút thông qua việc tham khảo với ngài S.Z Aung. Chính
tôi cũng tận dụng được cách cải tiến này, và đã đưa các từ đó vào bản dịch Dhammasaṅganī như đã được các vị tiền bối phiên dịch tác
phẩm Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) chấp thuận. Tôi đã ghi lại ở các chú giải cuối
trang trong bản dịch này. Một số trường hợp chính tôi cũng đã đưa vào một vài ý
nghĩa mới của tôi nữa.
Tôi
chẳng phải thêm thắt điều gì vào những gì Bà Rhys David đã nói, trong cuốn Tâm
lý Ðạo đức Phật giáo của bà. Về cuốn Chú Giải Bộ Pháp Tụ (Atthasālinī) gồm có
thời điểm viết và tầm quan trọng của tác phẩm này. Nhưng tôi chỉ tận dụng cơ
hội này để ghi lại sự việc đánh giá đúng đắn về Tuệ giác uyên bác đã khiến bà
Rhys Davids cho dù không có bất kỳ trợ giúp nào từ phía tiếng Miến Ðiện, nhưng
đã đúc kết được trong Chú Giải Bộ Pháp Tụ (Atthasālinī) những ghi chú cuối
trang mang tính gợi ý của bà. Ðiều này chẳng phải là một thắng lợi nhỏ đối với
Tuệ giác về Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) mà dịch giả Anh ngữ dịch cuốn đầu tiên
trong bộ Vi Diệu Pháp và các vị tiền bối đi tiên phong phương Tây về chủ đề
này, sau một chuỗi thời gian nghiên cứu liên tục hai mươi năm nên biên tập lại
và rà soát lại bản dịch hiện hành tập chú giải này.
Từ
bản chất nội dung cuốn Chú Giải Bộ Pháp Tụ (Atthasālinī) là một cuốn sách rất
khó dịch. Chính vì thế tôi đã phải cố gắng hết sức một cách phóng khoáng ngay
cả đôi khi phải hy sinh cả lối hành văn chỉ nhằm làm rõ ý nghĩa mà thôi. Trong
quá trình thực hiện bản dịch, tôi đã khám phá ra rất nhiều điểm sai và bỏ sót
trong bản in đã được biên tập cho Hội Thánh Ðiển Pāli (P.T.S) do giáo sư Edward
Muller thực hiện, Chính vì thế dựa trên căn bản bản dịch của tôi về hai cuốn
sách bằng tiếng Miến Ðiện, một do Sāsanajotika Pitaka Press, Rangoon xuất bản
vào năm 1913, và cuốn kia xuất bản trong loạt bài báo trong tạp chí nổi tiếng
Pyigiy-Mandaing Press Series do ngài Saya Pye, Aggamahapandita thực hiện. Tôi
cũng đã rút tỉa được khá nhiều trợ giúp từ hai bản dịch tiếng Miến Ðiện này về
cuốn Chú Giải Bộ Pháp Tụ (Atthasālinī) cụ thể là cuốn Old Nissaya do MS.
Bernard Free Library, Rangoon) do ngài Ariyālaṅkāra thực hiện vào nửa đầu thế kỷ 18, và cuốn New Nissaya mới (được in
tại Kemmendine, Rangoon, vào năm 1905) do ngài Pyi Sadaw thực hiện vào nửa thế
kỷ 19. Tôi cũng đã trích các tập chú giải Pāli hay và các tập chú giải phụ khác
nữa mang tên tác phẩm Chú Giải Bộ Pháp Tụ (Atthasālinī) Sau đây:
-
Phân đoạn (Tīkā) hay MulaTīkā do Ananda thực hiện tại Ceylon.
-
Anutīka, một cuốn chú giải phụ về MulaTīkā, do ngài Hộ pháp Dhammapala thực
hiện tại Ceylon.
-
Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhimagga) phân đoạn (Tīkā) (cũng được gọi là Paramatthamañjūsā
phân đoạn (Tīkā) hay là Mahatika) do Hộ pháp Dhammapala thực hiện tại Ceylon.
-
Saratthadipani, do Xá Lợi Phất (Sāriputta) thực hịên tại Ceylon.
-
Chú Giải Bộ Pháp Tụ (Atthasālinī) Do tuần (yojana), do Sirimangala thực hiện
tại Miến Ðiện vào thế kỷ 14.
-
Abhidhana Phân đoạn (Tīkā) do một vị bộ trưởng Sirimahacaturangabala thực tại
Miến Ðiện, thế kỷ thứ 4.
-
Manidipa, một tập chú giải phụ về MulaTīkā do Ariyavamsa thực hiện tại Miến
Ðiện vào thế kỷ 15.
-
Vinayālaṅkāra, do Tipiṭakālaṅkāra
thực hiện tại Miến điện vào thế kỷ 17.
-
Chú Giải Bộ Pháp Tụ (Atthasālinī) Ganthi (pada) do Patamagyaw Aung Zan Hta
Sayadaw thực hiện vào thế kỷ 18.
Chính
bản MSS các tác phẩm này có thể được tra cứu tại thư viện Bernard Free, Rangoon. Sáu tập đầu tiên
cũng đã được in tại Rangoon.
Tôi không biết ba tập cuối đã được in chưa.
Những
trích đoạn tôi đã thực hiện từ các tác phẩm này giúp rọi sáng một chút tác phẩm
Chú Giải Bộ Pháp Tụ (Atthasālinī) cũng sẽ dùng để chứng tỏ tầm quan trọng trong
việc nghiên cứu tiếp các vị học giả phiên dịch một đoạn sách từ tiếng Pāli vào
thời xa xưa. Ðó là giá trị lịch sử phát triển của bất kỳ điểm tín lý nào, kẻo
chúng ta không để mất đi các đoạn trích khác chỉ mang tính tự điển học đã được
chỉ định tỷ như trường hợp của bà Rhys Davids, thành một chú giải đem lại lợi
ích lớn cho các sinh viên nghiên cứu tiếng Pāli.[2]
Tôi
cũng phải chân thành cảm ơn Ông Shwe Zan Aung, B.A. người đã hết sức ưu ái đọc
qua bản dịch nháp ngay khi tôi vừa kết thúc bản dịch bài “pháp” về ‘Môn’ (tr.
140). Và tôi cũng xin được gửi lời cám ơn rất nhiều đến bà Rhys Davids, người
đầu tiên đã động viên tôi thực hiện công việc khó khăn này. Với một sự nhã nhặn
hiếm thấy đã chỉ vẽ cho tôi thấy hàng loạt những từ cần thiết, kèm theo nhiều
điều khuyên và lời nhắc, lời bình và nhiều đề nghị khác nữa.
Cuối
cùng, tôi cũng phải cảm ơn một người bạn rất thân yêu của tôi đã giúp tôi rất
nhiều trong việc dịch các bài kệ tiếng Pāli.
Ðại
học Rangoon, MAUNG TIN
Tháng 4, năm 1920