MỤC LỤC
Lời Tựa
Lời Giới Thiệu
|
CHƯƠNG I - Nhân ngữ (puggalakathā)
I. Ðiểm tranh luận: Bản ngã
II. Ðiểm tranh luận: Hoại lìa (Parihāni)
III. Ðiểm tranh luận: Phạm hạnh (brahmacariya) (tức là cuộc sống thánh đức)
IV. Ðiểm tranh luận: Thanh tịnh dần dần (tiệm tiến)(odniso)
V. Ðiểm tranh luận: Diệt Tà (điều ác) (Jahati: thanh lọc ô nhiễm).
VI. Ðiểm tranh luận: "Vạn vật tồn tại" (sabbamatthIIti).
VII. Ðiểm tranh luận: "Quá khứ uẩn" (AtIItakhandhā)
VIII. Ðiểm tranh luận: "Một số điểm (quá khứ và tương lai của chúng ta)
vẫn đang tồn tại." (Ekacca mathIIhi)
IX. Ðiểm tranh luận: "Niệm xứ" (sati patthāna)
X. Ðiểm tranh luận: "Các phương thức bất biến tồn tại ra sao." (Hevatthiti)
|
CHƯƠNG II
I. Ðiểm tranh luận: "Ô nhiễm của vị A-la-hán (parūpahāra)".
II. Ba điểm tranh luận: (1) Liệu vô minh có khả năng xảy nơi một vị A-la-hán
hay không (2) Liệu vị A-ha-hán có gặp rắc rối hay không. và (3) Ngài có khả
năng trổi vượt hơn người khác hay không.
III. Ðiểm tranh luận: "Phát âm khi nhập thiền" (vaci) (của người
nhập Thiền Jhāna).
IV. Ðiểm tranh luận: "Nhập Thiền quán do (thốt lên) từ "Phiền
Não".
V. Ðiểm tranh luận: "Tâm Ðình Trụ" (Cittaṭṭhiti).
VI. Ðiểm tranh luận: "Cõi đời giới này (giống như) một đống tro
tàn." (kukkula)
VII. Ðiểm tranh luận: "Thành tích dần được thể hiện"
VIII. Ðiểm tranh luận: "Ngôn ngữ của Ðức Phật" (Vehāra).
IX. Ðiểm tranh luận: "Diệt Ðế hay chấm dứt" (Nirodha).
|
CHƯƠNG III
I. Ðiểm tranh luận: "Lực hay Sức Mạnh" (Bala).
II. Ðiểm tranh luận: Phẩm chất (gọi là) thánh đức. (Ariyati)
III. Ðiểm tranh luận: "Giải Thoát" (vimuccati)
IV. Ðiểm tranh luận: "Tiến trình giải thoát" (vimuccamana).
V. Ðiểm tranh luận: "Người thứ tám (atthamaka)"
VI. Ðiểm tranh luận: "Quyền (Indriya) của người thứ tám".
VII. Ðiểm tranh luận: "Thiên nhãn" (dibbacakkhu).
VIII. Ðiểm tranh luận: "Thiên Nhĩ" (dibbasota).
IX. Ðiểm tranh luận: "Trí thấy hạnh nghiệp chúng sanh (Yathā
kamūpagatañāṇa)."
X. Ðiểm tranh luận: "Những Thu Thúc Ðạo Ðức (saṇvara)."
XI. Ðiểm tranh luận: "Cuộc Sống Vô Tưởng (asañña)."
XII. Ðiểm tranh luận: "Phi tưởng phi phi tưởng hữu (nevasaññānāsaññāyatana)".
|
CHƯƠNG IV
I. Ðiểm tranh luận: "Liệu một cư sĩ có trở thành
A-la-hán được không?" (gahisa arahāti)
II. Ðiểm tranh luận: "Một người có thể thành A-la-hán khi vừa tục
sinh".
III. Ðiểm tranh luận: "Không vướng phải nguyên nhân ô nhiễm (anāsava)."
IV. Ðiểm tranh luận: "Giữ lại Thánh quả" (samannā gata).
V. Ðiểm tranh luận: "Một vị A-la-hán được phú cho Lục Xả Vô Ký"
VI. Ðiểm tranh luận: "Nhờ hành vi Giác Ngộ, Ta trở thành ‘Ðấng Giác
Ngộ’."
VII. Ðiểm tranh luận: Quan điểm của phái Uttarapathakas
VIII. Ðiểm tranh luận: Bắt đầu được Bảo đảm. (Nyam’okkhanti)
IX. Ðiểm tranh luận: Tài năng thiên phú
X. Ðiểm tranh luận: Việc trừ khử tất cả gông cùm (Saṃyojana).
|
CHƯƠNG V
I. Ðiểm tranh luận: Giải Thoát (vimutta).
II. Ðiểm tranh luận: Tuệ của Bậc Vô học (asekha).
III. Ðiểm tranh luận: (nhận thức) sai lạc hay ảo giác (khi nhập thiền Jhāna).
IV. Ðiểm tranh luận: Thánh Ðạo Nhất Ðịnh (niyāma).
V. Ðiểm tranh luận: Tuệ Phân tích (Pati Sambhidā).
VI. Ðiểm tranh luận: Phàm tuệ hay tục trí (sammantiñāṇa).
VII. Ðiểm tranh luận: Ðối tượng tâm linh (cittāramaṇa).
VIII. Ðiểm tranh luận: Thiền Quán Tương Lai.
IX. Ðiểm tranh luận: Trí hiện tại.
X. Ðiểm tranh luận: Tuệ Quả (phalañāṇa).
|
CHƯƠNG VI
I. Ðiểm tranh luận: Ðịnh luật chắc chắn (niyāma).
II. Ðiểm tranh luận: Luật duyên khởi (Paticcasamuppāda).
III. Ðiểm tranh luận: Tứ diệu đế (Sacca).
IV. Ðiểm tranh luận: Bốn Cõi Vô Sắc Giới (arūpa)
V. Ðiểm tranh luận: Thành tích Nhập Ðịnh Diệt (Nirodha samāpatti).
VI. Ðiểm tranh luận: Không gian (ākāsu).
VII. Ðiểm tranh luận: Khoảng không có thể thấy (ākāsasanidassana).
VIII. Ðiểm tranh luận: "Phải chăng nguyên tố đất là hữu hình?"
|
CHƯƠNG VII
I. Ðiểm tranh luận: Phân loại các vật thể.
II. Ðiểm tranh luận: Các trạng thái tương ưng (samyutta).
III. Ðiểm tranh luận: Những đặc tính tâm linh (cetasika).
IV. Ðiểm tranh luận: Bố Thí (Dana)
V. Ðiểm tranh luận: Công đức hệ tại tính hưởng dụng (Paribhogamayapuñña).
VI. Ðiểm tranh luận: Quả do bố thí đem lại ngay trên cõi đời này.
VII. Ðiểm tranh luận: Trái đất này và kết quả của nghiệp đem lại (PathavII
kammavipāka).
VIII. Ðiểm tranh luận: Lão, tử và thành quả của nghiệp (Jāramaraṇavipāka).
IX. Ðiểm tranh luận: Các hiện trạng trí tuệ thánh đức và những Thánh quả từ
đó mà ra (quả của Thánh nghiệp).
X. Ðiểm tranh luận: Những Pháp quả tạo ra Pháp quả (vipākovipāka
dhammadhamnioti).
|
CHƯƠNG VIII
I. Ðiểm tranh luận: Các cảnh giới tái sanh (gati) (đa
dạng).
II. Ðiểm tranh luận: Hiện trạng tái sinh trung gian (Thân trung ấm) (antorābhava:
Trung hữu).
III. Ðiểm tranh luận: Những khoái cảm thọ quan (Kāmaguṇā).
IV. Ðiểm tranh luận: Các dục vọng giác quan.
V. Ðiểm tranh luận: Nguyên tố (uẩn) Sắc giới (Rūpadhātu).
VI. Ðiểm tranh luận: Vô Sắc Giới cũng vậy. Ở đây ta nên hiểu ý nghĩa bằng
cùng một phương pháp nêu trên.
VII. Ðiểm tranh luận: Xứ nơi cõi Sắc Giới.(rūpadhātuyā-āyatana).
VIII. Ðiểm tranh luận: Sắc pháp nơi Cõi Vô Sắc Giới. (arūpe rūpa)
IX. Ðiểm tranh luận: Sắc hành động (rūpaṃ kammanti).
X. Ðiểm tranh luận: Mạng quyền (Jivitindriya)
XI. Ðiểm tranh luận: Nghiệp là nhân duyên (kammahetu).
|
CHƯƠNG IX
I. Ðiểm tranh luận: (Giải thoát nhờ quả phúc) Ðiều
thiện.(ānisaṃsa)
II. Ðiểm tranh luận: Bất Diệt là đối tượng suy tư.
III. Ðiểm tranh luận: Sắc có thể biết đối tượng là tâm linh (Rūpaṃ
Sārammaṇati).
IV. Ðiểm tranh luận: Tùy miên không có cảnh không có đối tượng tâm linh (anusayā
anārammaṇti).
V. Ðiểm tranh luận: Trí quán không biết cảnh (Ñāṇaṃ
anārammaṇanti).
VI. Ðiểm tranh luận: Những quan điểm cảnh quá khứ. (atIItārammaṇa)
VII. Ðiểm tranh luận: Ðiểm áp dụng tâm linh tiên khởi.
VIII. Ðiểm tranh luận: Âm thanh như là cách truyền tải các ứng dụng tâm linh
tiên khởi và kéo dài.
IX. Ðiểm tranh luận: Lời nói không phù hợp với tư tưởng (nayathā cittassa
vācātika).
X. Ðiểm tranh luận: Hành động (hay tác nghiệp) không khớp với tư tưởng.
XI. Ðiểm tranh luận: Chứng đạt về kinh nghiệm quá khứ và tương lai còn hiện
hữu.
|
CHƯƠNG X
I. Ðiểm tranh luận: Việc kết thúc (Diệt - Nirodha).
II. Ðiểm tranh luận: Cho rằng sắc pháp (của bất kỳ ai đang tu luyện Thánh
đạo) cũng gộp cả trong Thánh Ðạo đó.
III. Ðiểm tranh luận: Ðạo Tuệ Tưởng của người đang có được Ngũ Thức Căn.
IV. Ðiểm tranh luận: Hai luật đạo đức.
V. Ðiểm tranh luận: Nhân đức tự động mà có.
VI. Ðiểm tranh luận: Nhân đức không được tiến hành theo đúng như tư tưởng.
VII. Ðiểm tranh luận: Công đức không tiến triển theo đúng việc nắm giữ giới
luật.
VIII. Ðiểm tranh luận: Các hành vi tiên liệu việc công đức.
IX. Ðiểm tranh luận: Hành vi đạo đức không được tiên liệu là phi đạo đức.
|
CHƯƠNG XI
I. Ðiểm tranh luận: Ba sự kiện liên quan đến các khuynh
hướng tiềm tàng, có nghĩa là (i) vô nhân (ahetu) (không rõ ràng, mập mờ.)
(II) vô ký (abyākatā). và (IIi) không tương ưng tâm.
II. Ðiểm tranh luận: Tuệ quán (ñāṇa).
III. Ðiểm tranh luận: Tuệ không liên kết với tư tưởng.
IV. Ðiểm tranh luận: "Ðây chính là Khổ Ðế!"
V. Ðiểm tranh luận: Phép Thần Thông (iddhi)
VI. Ðiểm tranh luận: Nhập định (Dục thần túc) (Samāthi).
VII. Ðiểm tranh luận: Ðịnh đề nơi vạn vật. Pháp được tiên liệu (dhamaṭṭhitatā).
VIII. Ðiểm tranh luận: Tính Vô Thường (aniccatā).
|
CHƯƠNG XII
I. Ðiểm tranh luận: Tự kiềm chế là một nghiệp (tích cực)
(Saṃvaro
kammanti).
II. Ðiểm tranh luận: Nghiệp.
III. Ðiểm tranh luận: Tiếng nói được coi như là dị thục quả (saddo vipākoti).
IV. Ðiểm tranh luận: Sáu giác quan.
V. Ðiểm tranh luận: Bậc Thất Lai.
VI. Ðiểm tranh luận: Người chiếm được thứ bậc cao hơn nơi Thánh Ðạo bậc một,
và điều liên quan đến "người giao hạt" nên được hiểu theo cùng một
cách thức như trên.
VII. Ðiểm tranh luận: Tội giết người (JIIvitavoropana).
VIII. Ðiểm tranh luận: Khổ cảnh giới (dugati).
IX. Ðiểm tranh luận: Kẻ nào đã đạt đến tái sanh lần thứ bảy.
|
CHƯƠNG XIII
I. Ðiểm tranh luận: Ðịa ngục vô gián trọn kiếp (kappattha).
II. Ðiểm tranh luận: Phần thưởng suốt đời dành cho người đạt được thành tích
tốt.
III. Ðiểm tranh luận: Kẻ xúi dục phạm nghiệp vô quán (autarāpayulta).
IV. Ðiểm tranh luận: Những vị Bồ-tát nhất định (niyatajjaniyāma).
V. Ðiểm tranh luận: Những ai bị chướng ngại (nivārana) ngăn cản (nivutta).
VI. Ðiểm tranh luận: Người "buộc phải giáp mặt" với những gông cùm.
VII. Ðiểm tranh luận: Người nhập và đạt đến bậc thiền Jhāna (Samāpanna
assadesi).
VIII. Ðiểm tranh luận: Lòng tham muốn đối với những điều khó chịu.
IX. Ðiểm tranh luận: Pháp ái đối với pháp vô ký.
X. Ðiểm tranh luận: Pháp ái (dhammataṅhā) không phải là nguyên nhân tạo Khổ.
|
CHƯƠNG XIV
I. Ðiểm tranh luận: Tính liên tục hỗ tương giữa thiện và
bất thiện.
II. Ðiểm tranh luận: Lục Xứ.
III. Ðiểm tranh luận: Liên tục trực tiếp nơi giác quan.
IV. Ðiểm tranh luận: Thân, khẩu của một vị thánh.
V. Ðiểm tranh luận: Những khuynh hướng tiềm ẩn tách riêng ra một bên.
VI. Ðiểm tranh luận: Những bộc phát tùy miên (anusya).
VII. Ðiểm tranh luận: Sắc ái "gồm chung lại"
VIII. Ðiểm tranh luận: Những gì chưa được khám phá.(Abyākata)
IX. Ðiểm tranh luận: Không liên quan (đến luân hồi). (apariyāpanna)
|
CHƯƠNG XV
I. Ðiểm tranh luận: Mối tương quan (nhân quả đặc biệt cố
định) (paccaya)
II. Ðiểm tranh luận: Nhân duyên hỗ tương. (annamannapaccaya)
III. Ðiểm tranh luận: Tương tục (santati) thời gian. (addha)
IV. Ðiểm tranh luận: Những chốc lát, những lúc, những giây lát ngắn ngủi
V. Ðiểm tranh luận: Những lậu hoặc (tức là những nguyên nhân đồi bại) (āsava).
VI. Ðiểm tranh luận: Lão và tử. (Jarāmarana)
VII. Ðiểm tranh luận: Diệt, Tưởng, Thọ, Thức (thuộc lãnh vực siêu phàm).
VIII. Ðiểm tranh luận thứ nhì về Tưởng và nhận thức
IX. Ðiểm tranh luận thứ ba về Tưởng và nhận thức
X. Ðiểm tranh luận: Việc đạt đến vô tưởng.
XI. Ðiểm tranh luận: Nghiệp và việc tích lũy những nghiệp đó.
|
CHƯƠNG XVI
I. Ðiểm tranh luận: Ðiều khiển [tâm tha nhân.]
II. Ðiểm tranh luận về hỗ trợ tâm tha nhân
III. Ðiểm tranh luận: Tạo hạnh phúc nơi tha nhân. (sukhānuppabāna)
IV. Ðiểm tranh luận: Chăm lo cho chúng sanh cùng một.
V. Ðiểm tranh luận: Sắc pháp và nhân thiện (rūpaṃhetūti).
VI. Ðiểm tranh luận về vật chất đi kèm với những nhân duyên đạo đức
VII. Ðiểm tranh luận: Vật chất hiểu là điều thiện và điều bất thiện dưới góc
độ đạo đức.
VIII. Ðiểm tranh luận: Vật chất là (chánh) quả.
IX. Ðiểm tranh luận: Vật chất thuộc cõi Sắc Giới [Phạm Thiên (Brahma)] và Cõi
Vô Sắc Giới.
X. Ðiểm tranh luận: Tham dục suốt đời nơi cõi Sắc Giới và Vô Sắc Giới.
|
CHƯƠNG XVII
I. Ðiểm tranh luận: Vị A-la-hán đã tích lũy công đức như
thế nào (atthi arahato punnupaccayoti).
II. Ðiểm tranh luận: Vị A-la-hán không phải trải qua cái chết không đúng thời
(Natthi arahato akālamaccūti).
III. Ðiểm tranh luận: Cho toàn bộ là do nghiệp mà ra. (Sabbamidaṃkammatoti)
IV. Ðiểm tranh luận: Tất cả đều qui về khả năng cảm thọ.
V. Ðiểm tranh luận: Chỉ được giải thoát nhờ Chánh Ðạo
VI. Ðiểm tranh luận: Không nên nói: Tăng Bảo nhận của bố thí.
VII. Ðiểm tranh luận: Chẳng nên nói : "Tăng Bảo tẩy uế của bố thí"
VIII. Ðiểm tranh luận: Chẳng nên nói: Tăng Bảo hưởng của bố thí.
IX. Ðiểm tranh luận: Không nên nói rằng: Bất kỳ điều gì dâng cho Tăng Bảo
cũng đều mang lại phần thưởng to lớn.
X. Ðiểm tranh luận: Chẳng nên nói: Bất kỳ điều gì được dâng cho Ðức Phật đều
mang lại phần thưởng to lớn.
XI. Ðiểm tranh luận: Việc tinh luyện của bố thí.
|
CHƯƠNG XVIII
I. Ðiểm tranh luận: Nơi ở của Ðức Thế Tôn trên cõi phàm
này (manussaloka).
II. Ðiểm tranh luận: Việc (Ðức Phật) thuyết pháp.
III. Ðiểm tranh luận: Lòng Ðại Bi (Ðức Thế Tôn đã cảm thấy) (Karuṇā)
IV. Ðiểm tranh luận: Những mùi thơm (nơi con người Ðức Phật) (gandhajāti)
V. Ðiểm tranh luận: Chánh Ðạo duy nhất và có một không hai (Ekamagga).
VI. Ðiểm tranh luận: Sự chuyển hóa giữa các bậc thiền Jhāna.
VII. Ðiểm tranh luận: Kẻ nhập Thiền Jhāna vẫn có thể nghe thấy tiếng động.
VII. Ðiểm tranh luận: Chúng ta có thể nhìn thấy đối tượng thị giác bằng mắt
trần (khi nhập thiền Jhāna)
|
CHƯƠNG XIX
I. Ðiểm tranh luận: Khử trừ ô nhiễm. (kilesajahana)
II. Ðiểm tranh luận: Trống Rỗng (Sunnatā)
III. Ðiểm tranh luận: Sa-môn quả (Sāmannāphala). (là vô vi).
IV. Ðiểm tranh luận: Thành tích đạt được (là vô vi). (patti: chứng ngộ)
V. Ðiểm tranh luận: Như thị (như như) (tathāta)
VI. Ðiểm tranh luận: Ðiều thiện xét dưới góc độ đạo đức. (kusala)
VII. Ðiểm tranh luận: Thành tích đạt đến Nhất định (viyama).
VIII. Ðiểm tranh luận: Quyền (Indriya)
|
CHƯƠNG XX
I. Ðiểm tranh luận: Tội ác không cố ý. (Asañcicca)
II. Ðiểm tranh luận: Tuệ giác (Naṇa).
III. Ðiểm tranh luận: Những lính canh địa ngục.(Nirayapāla)
IV. Ðiểm tranh luận: Súc sinh [nơi cõi bên kia] (Tiracchāna)
V. Ðiểm tranh luận: Chánh Ðạo. (Magga)
VI. Ðiểm tranh luận: Tuệ giác (Nāṇa)
|
CHƯƠNG XXI
I. Ðiểm tranh luận: Giáo Lý [của chúng ta](Sāsavā)
II. Ðiểm tranh luận: Kinh nghiệm về những gì tồn tại riêng rẽ. (Avirittathā)
III. Điểm tranh luận: Gông cùm. (Saṃyojana)
IV. Ðiểm tranh luận: Phép Thần Thông Biến Hoá. (Iddhi)
V. Ðiểm tranh luận: Các Phật nhân. (Buddha)
VI. Ðiểm tranh luận: Ðức Phật hiện diện khắp mọi nơi. (Sabhadisa)
VII. Ðiểm tranh luận: Ðạt-ma (Dhamma)
VIII. Ðiểm tranh luận: Nghiệp (Kamma).
|
CHƯƠNG XXII
I. Ðiểm tranh luận: Sự viên tịch (Parinibbāna).
II. Ðiểm tranh luận: Tâm đạo đức. (Kusalacitta)
III. Ðiểm tranh luận: Tâm điềm tĩnh. (Anenja)
IV. Ðiểm tranh luận: Am hiểu Giáo pháp
V. Một bào thai đạt đến Bậc A-la-hán như thế nào
VI. Ðiểm tranh luận: Ðiều vô ký (abyākata)
VII. Ðiểm tranh luận: Tương quan tái tục.
VIII. Ðiểm tranh luận: Tính nhất thời. (Sát-na - khaṇa)
|
CHƯƠNG XXIII
I. Ðiểm tranh luận: Quyết tâm tác hợp.
II. Ðiểm tranh luận: Những biểu hiện bề ngoài nơi các vị A-la-hán.
III. Ðiểm tranh luận: Thành tích đạt được qua tham quyền cố vị.
IV. Ðiểm tranh luận: Tình trạng giả vờ trước tính ái và v.v...
V. Ðiểm tranh luận: Những gì chưa rõ ràng.
|
LỜI BẠT
|
LỜI TỰA
Tập Chú Giải Thuyết Luận Sự (Kathavatthu) là bản dịch tiếng
Anh đầu tiên, do ngài Minayeff (J.P.T.S. 1889) biên tập. Khác với tập Chú Giải
Bộ Pháp Tụ (Atthasalini) hay Sammohavinodanti [1] ở chỗ, tập Chú Giải này không
đặt tựa đề riêng cho từng Chương như trong bộ Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), có tên
là tập Chú Giải Thuyết Luận Sự (Kathavatthuppakarana)
Tập Chú Giải Thuyết Luận Sự
(Kathavatthu) là một trợ giúp không thể thiếu cho việc nghiên cứu các kinh văn
Pāli, có nhiều đoạn không được rõ ràng. Tập Chú Giải này, sẽ giúp chúng ta làm
rõ nhiều điểm gúc mắc trong kinh văn Pāli, vô cùng quan trọng xét dưới góc độ
lịch sử.
Kinh văn giới thiệu cho chúng ta
những cuộc tranh luận diễn ra giữa các Tăng già Nguyên thuỷ và các trường phái
Phật giáo vào thời kỳ đầu, đặc biệt không nhắc đến tên các nhà tranh luận hiện
hành và có khả năng tiềm tàng. Tập chú giải cung cấp cho chúng ta tên tuổi của
những người ủng hộ những điểm tranh luận này. Họ không phải chỉ thuộc một hay
nhiều trường phái trong số mười bảy trường phái ly giáo nổi lên trước triều đại
nhà vua Asoka. Cũng cần lưu ý là những tường thuật về mười tám trường phái đầu
tiên lại dựa trên thẩm quyền bản Biên Niên Sử Pāli ngay từ giai đoạn đầu. Ðó là
tập Ðảo sử (dipavamsa) được trích dẫn đích danh (trang 3-5). Có một điểm mới là
trong bản Chú Giải của chúng tôi Bahulikas được biết đến với tên là Bahusrutikas
(tr. 2)
Trong lời giới thiệu, tập chú
giải đề cập một cách hệ thống đến sáu Trường Phái Hậu Asoka -- đó là
Hemavataka, Rajagirika, Siddhatthika, Pubba-seliya, Apara-seliya và Vajiriya
(tr. 5)- trong khi đó trong thân bài lại qui một số điểm cho các trường phái
như Uttarapathaka, Andhaka, Vetulyaka, Hetuvada và Maha-Sannatavadins, nhưng
lại không đả động gì đến các trường phái Vajiriyas và Hemavatakas.
Một sự thỏa thuận chung giữa
truyền thống, một bên là các trường phái xuất hiện trong tập chú giải của ngài
Ðại đức Buddhaghosa, và bên kia trong các tác phẩm của Vasumitra. Bhavya,
Vinitadeva và các nhóm khác do bà Rhys David thảo luận đến trong lời tựa của bà
tập cho rằng Những Ðiểm Tranh Luận (Points of Controversy) sau này, là bản dịch
của tập Thuyết Luận Sự, do S.Z.Aung chia sẻ. Ðối với tôi, nói một cách chính
xác, điều còn lại của tập chú giải, là tên của Andhaka gồm bốn trường phái khác
nhau sau đây: Pubba-seliya, Aparaseliya, Rajagirrika và Siddhatthika (I. 9). Việc bỏ qua Vajiriyas, chính xác là tên xuất phát
từ Vajira, một địa danh nằm ở vùng Tây Bắc Ấn Ðộ, rất có thể sự kiện các địa
danh này đồng nhất với Uttarapathakas mà ra. Nhưng mối tương quan này đã được
vạch ra ở đâu đó. Khả năng rất có thể ai đó có tên Pāli là Vetulyaka hay là
Vetullaka, đây có thể do viết sai từ chữ Vepulyaka hay là Vepullaka, tiếng Phạn
viết là Vaipulyakas,
Một điều rất thú vị cần lưu ý,
là Nhà Chú giải đã liên kết Vetulyakas với Mahasunnatavadins nơi một số mạch
văn (XVII. 6-10) tác phẩm sau này, là một tên thích hợp dành cho trường phái
Prajna, hay là Vajira thuộc phái Nam tông. Ông này không cho chúng
ta biết, người Hetuvadins là ai. Cho dù một số điểm dứt khoát được gán cho họ.
Toàn bộ những điểm như vậy cần được xem xét một cách kỹ lưỡng.
Tập Chú Giải cuốn I cụ thể là về
Puggalakatha, thực sự rất quan trọng về khía cạnh lịch sử Tăng già, cùng với
một số ít các Thuyết sư (Katha). Toàn bộ những tập còn lại, chỉ là sự phát
triển tiệm tiến đối với chính kinh văn mà thôi.
Tôi vô cùng biết ơn bà Rhys
Davids, vì đã biên tập và thông qua bản thảo tay của bản dịch này và giúp tôi
bằng nhiều đề nghị quí báu. Tôi vô cùng biết ơn bà, vì đã chấp nhận bản dịch
của tôi trong số các bản dịch thuộc Hội P.T.S.
BIMALA CHURN LAW
43, Kallas Boss Street Calcutta.
Ngày 23 tháng chín năm 1939.
LỜI GIỚI THIỆU
Cung kính đức Thế Tôn, Ðấng A-la-hán Toàn Giác.
Ngự giữa cõi chư Thiên có đoàn
quần thần chư Thiên đông đảo bao quanh, ngài là Ðấng Vô Song. Bậc Thế Tôn nơi
cõi trần gian và cõi chư Thiên, kiệt xuất không ngôn từ và quan điểm nào kể
xiết - nhân vật siêu phàm, kết thúc bài thuyết pháp của mình chỉ định rõ như
sau: Ðịnh rõ bản chất nhân loại v.v... công bố đường nét cho cuốn sách viết veà
Những Ðiểm Tranh Luận (P. of C.), đưa ra bản tường trình về "Bản
Ngã"và những điểm tranh luận tương tự. Chỉ nhìn qua bản nội dung, được bắt
đầu kiến thiết những toà nhà hết sức phong phú như vậy, ngay trên cõi đời này,
con trai của Moggali đã lấp đầy bằng toàn bộ những chi tiết phong phú. Giờ đây,
do bởi những phương án chú giải đã được đề ra, tôi xin được chấp bút lời bình
về những gì được ghi lại trong cuốn sách này. Xin hãy lắng nghe một cách nghiêm
túc.
Sau khi đã thực hiện Song thông
(Twin-Miracle), Ðức Thế Tôn đã nhập an cư kiết hạ, tại thành phố Tam Thập Nhất
(Thrice Ten), ngay dưới cây cổ thụ Coral, trên đỉnh ngọn núi Pandukambala. (Và
tại đó) có sự hiện diện của mẹ ngài để chứng kiến mọi việc diễn ra, ngài đã
thuyết pháp cho toàn thể các vị chư Thiên, về các vấn đề bổ sung cho Giáo pháp.
Sau khi ngài đã diễn giảng Dhammasangani, Vibhanga, Dhatukatha và tập tài liệu
Puggala-pannatti. ngài nghĩ: Trong tương lai, sẽ đến lượt diễn giảng tập Thuyết
luận sự (Kathavatthu), thì đồ đệ của thầy, ngài Hòa thượng Tissa đầy khôn
ngoan, con trai của Moggali, sau khi đã tẩy sạch những vết nhơ nổi lên trong
Giáo pháp (sasana) và tổ chức Ðại hội lần thứ Ba, ngài chủ tọa giữa Tăng già,
ngài đã chia bản biên tập này thành một ngàn tập kinh (suttana), năm trăm bản
kinh được gán cho quan điểm của chính những người phái Sakavadins của ngài, năm
trăm bản kinh còn lại thuộc quan điểm của các phái đối nghịch theo phái
Paravadins. Tạo ra cơ hội này, bắt đầu việc nghiên cứu gồm tám Chương bàn về
"bản ngã" (person) tóm gọn trong bốn câu hỏi, mỗi câu hỏi gồm hai
Chương, chia ra thành năm đoạn, tôn trọng theo một qui trình được chọn lọc
trong toàn bộ các bài tranh luận. Ngài đã để ra một bản nội dung, bằng một đoạn
văn chưa hoàn chỉnh, làm thành một đoạn để "tụng". Rồi sau đó, ngài
đã diễn giảng đầy đủ chi tiết Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), sau khi đã kết thúc an
cư kiết hạ, ngài đã rời cõi trời Tam Thậpp Tam Thiên bằng chiếc thang đá quí,
nằm giữa hai chiếc thang vàng và bạc, bắc từ cõi chư Thiên, xuống tận thành phố
Sankassa, và như vậy ngài hoàn tất công trình tế độ cho chúng sanh và nhập
Níp-bàn (Paranibbana).[2]
Ngay sau đó, có sự hỗ trợ của
nhà vua Ajatasattu, một nhóm những người ủng hộ ngài, dẫn đầu là Ðại đức Ca
Diếp (Kassapa), đã sưu tầm một bộ phận những giáo lý (Giáo pháp) và giới luật.
Cuộc sưu tầm kéo dài một trăm năm mới kết thúc, chư vị Tỳ-khưu Vajjipattaka
công bố giảm nhẹ các qui luật gồm mười điểm[3]. Nghe thấy vậy Trưởng lão Yasa,
con trai Brahmin Kakandaka với sự giúp đỡ của vua Asoka, con trai của Susunaga,
liền chọn bảy trăm Trưởng lão trong số mười hai ngàn vị Tỳ-khưu và sau khi đã
hủy bỏ mười giới luật đó, sưu tầm thêm một bộ Tín Lý và Luật tạng mới. Lại bị
chính những Trưởng lão đã thực hiện bộ tín lý và luật tạng đó bác bỏ, mười ngàn
vị Tỳ-khưu thuộc giáo phái Vajjiputtaka, sau khi thu thập các đồ đệ và chỉ kiếm
được sự ủng hộ nội bộ yếu ớt, họ tách ra và thiết lập một giáo phái riêng
(nghĩa đen là nhóm Thế Tôn) gọi là (1) giáo phái Mahasanghika. Ly khai khỏi
giáo phái này, lại xuất hiện hai giáo phái khác là: (2) Gokulikas và (3)
Ekobboharikas. Ly khai khỏi giáo phái Gokulikas, nổi lên hai giáo phái khác nữa
đó là: (4) giáo phái Pannattivadins và (5) giáo phái Bahulikas, hay cũng thường
được gọi chung là (6) Cetiyavadins. Như vậy xuất phát từ giáo phái
Mahasanghikas, vào thế kỷ thứ hai, có năm giáo phái nổi lên. Những giáo phái
này cùng với giáo phái Mahasanghikas làm thành sáu giáo phái Phật giáo.
Vào thế kỷ thứ II, chiû có hai
giáo phái ly khai khỏi phái Phật giáo Nguyên thủy (Theravada): đó là giáo phái
(1) Mahimsasakas và giáo phái (2) Vajjiputtakas.
Lúc này, lại có bốn giáo phái
khác nổi lên, ly khai khỏi giáo phái Vajiputtkas đó là (3) giáo phái
Dhammuttariyas, (4) giáo phái Bhadrayanikas, (5) giáo phái Channagarikas và
giáo phái (6) Sammitiyas. Còn nữa, cũng trong thế kỷ thứ II, lại có hai giáo
phái ly khai khỏi giáo phái Mahimsasakas, đó là (7) giáo phái Sabbatthivadins
và giáo phái (8) Dhammaguttikas. Rồi lại nữa, ly khai khỏi giáo phái
Sabbatthivadins, ta thấy lại nổi lên giáo phái (9) Kassapikas và giáo phái
Kassapikas, sau đó lại phân chia và nổi lên thành giáo phái (11) Suttavadins.
Như vậy, ly khai khỏi Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) là mười một giáo phái
khác. Cùng với giáo phái Phâït giáo Nam tông nguyên thuỷ (Theravadins)
là mười hai giáo phái khác nhau.
Như vậy cùng với mười hai giáo
phái này, cộng với sáu giáo phái thuộc nhóm Mahasanghikas, làm thành tất cả
mười tám giáo phái nổi lên vào đầu thế kỷ thứ III. Họ còn được biết đến, là
mười tám nhóm và được coi như là mười tám môn phái. Trong số mười tám môn phái
này, có mười bảy môn phái được coi như là môn phái ly giáo. Chỉ có phái Phật
giáo Nguyên thủy Nam
tông (Theravada) là không thuộc ly giáo mà thôi. Hơn thế nữa, ta thấy nói đến
trong Ðảo sử (dipavamsa) như sau:
"Các vị Tỳ-khưu đồi bại,
tức nhóm Vajjiputtakas, đã bị các Hòa thượng (Trưởng lão) phạt vạ Tuyệt Thông
(excummunicated), lại thành lập một phe nhóm khác, gồm nhiều người chủ trương
tà kiến. Có mười ngàn Tỳ-khưu đã tụ tập lại, làm thành một Ðại Hội. Chính vì
thế, cuộc diễn tập giáo pháp này, được gọi là một cuộc tổng diễn tập (Great
Recital)
"Các vị Tỳ-khưu tham dự
cuộc tổng diễn tập này, đã ấn định một giáo lý (ngược hẳn lại với đức tin chân
chính). Sửa đổi hẳn những bài viết nguyên thuỷ và đã lập ra những biên chép
hoàn toàn mới. Họ đã hoán đổi Kinh Phật, thuộc một bộ sưu tầm này rời đến chỗ
khác, họ đã phá bỏ ý nghĩa đích thực và những lời dạy của Ðức Phật (Giáo pháp)
trong Luật tạng (Vinaya) và trong ngũ Kinh. Những vị Tỳ-khưu đó, không hề biết
chút gì, đã được diễn giảng về những bài chú giải thực hành và thuộc đức tin,
cũng như ý nghĩa được gán cho các bài chú giải đó, kể cả ý nghĩa từ đó suy ra.
Họ đã thiết lập một giáo lý với ý nghĩa hoàn toàn khác. Các vị Tỳ-khưu này, đã
phá bỏ một số lớn ý nghĩa chính thống dưới chiêu bài các văn bản, chối bỏ những
đoạn riêng rẽ trong Kinh Phật và trong Luật tạng (Vinaya) sâu xa. Họ đã soạn ra
nhiều Kinh và Luật tạng (Vinaya) khác, chỉ mang dáng vẻ bề ngoài giống nguyên
bản mà thôi. Chối bỏ các văn từ khác - có thể nói, họ chối bỏ các Phụ tùng Luật
giáo (Parivana) (tức là những nội dung trừu tượng trong Luật tạng (Vinaya) --
gồm sáu Chương Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), Vô Ngại Giải Ðạo (patisambhida), Kinh
Nghĩa Thích (niddesa), và một vài phần trong Kinh Bản Sinh (Jataka), đồng thời
họ đã biên soạn những bản khác.[4] Họ đã đổi tên các phần đó, đổi luôn cả hình
thức và bỏ qua luôn cả bản chính.
Những người nào theo cuộc tổng
diễn tập (the Great Recital), chính là những người ly giáo đầu tiên; theo gương
họ, lại nổi lên rất nhiều người ly giáo khác. Sau đó, một cuộc ly giáo mới, lại
nổi lên ngay trong giáo phái mới này; đó là giáo phái Gokulikas; và các vị
Tỳ-khưu Ekabyohara lại chia ra làm hai phe. Sau đó, lại có hai cuộc ly giáo
diễn ra trong giáo phái Gokulikas; các vị Tỳ-khưu Bahussutaka và Pannatti lại
chia thành hai nhóm và chống lại các nhóm này, là những người Cetiyas (một nhóm
khác) thuộc giáo phái Mahasangitikas. Họ loại bỏ ý nghĩa (trung thực) giáo lý
và một số đoạn trong bộ sưu tập; gác sang một bên một số đoạn khó. Họ liền thay
đổi các đoạn ấy đi, bỏ qua giáo lý nguyên thủy như: Tên, nội dung, các tu
chính, sắc thái và biến chúng thành các kinh khác hoàn toàn.
Giáo phái Phật giáo Nguyên thuỷ
thuộc các vị Trưởng lão (Theras), lại xảy ra một cuộc ly giáo khác nữa; các vị
Tỳ-khưu Mahasanghika và Vajjiputtaka đã tách ra thành hai nhánh. Trong giáo
phái Vajjuputtakas, có bốn phái nổi lên đó là: Dhammutarikas, Bhaddayanikas,
Channagarikas và Sammitis. Thời gian sau này, có hai nhóm khác lại nổi lên
trong nhóm Mahimsakakas; các vị Tỳ-khưu Sabbatthivada và Dhammagutta lại tách
ra làm hai. Xuất phát từ nhóm Sabbatthivadins, lại nổi lên phái Kassapikas. Từ
nhóm Kassapikas có nhóm Sankantivadins, sau đó lại tách thành một nhóm khác, đó
là Suttavadins, tách từ nhóm Sankantikas. Mười một giáo phái này đã tách ra từ
Phật giáo Nguyên thủy (Theravada), bỏ qua ý nghĩa thực sự và giáo lý cùng với
một phần bộ sưu tập Kinh Phật. Gác sang một bên các đoạn khó, thay đổi nội
dung, bỏ qua cả bản nguyên thủy như: Tên, nội dung, tu chính các cách đúng, có
nghĩa là biến Kinh Phật thành khác hoàn toàn.
Có tới mười bảy giáo phái ly
giáo và một không phải là ly giáo. Cùng với nhóm không phải là ly giáo đó, đã có
tới mười tám giáo phái khác nhau. Trong đó, nhóm Phật giáo Nguyên thuỷ (Nam
tông), giống như một cây đa cổ thụ to lớn, cũng là phái nổi tiếng nhất: Gồm
giáo lý hoàn hảo của người thắng phái đối nghịch, thoát khỏi quên lãng hay sát
nhập chung với các phe nhỏ khác. Các giáo phái khác, nổi lên như là gai quấn
quanh thân cây. Trong thế kỷ đầu tiên, không có một cuộc ly giáo nào diễn ra.
Vào thế kỷ thứ II, nổi lên mười bảy giáo phái ly giáo, trong số giáo lý của
người thắng phái đối nghịch.
Tiếp theo đó, là sáu giáo phái
khác: Hemavatikas, Rajagirrikas, Siddhatthikas, Pubbaseliyas, Aparaseliyas và
Vajjiriyas, đã nổi lên từng giáo phái một. Ðối với các giáo phái này, không có
nhiều điểm đối chiếu được ghi lại.
Hiện nay, đứng đầu mười tám giáo
phái lúc ban đầu, là giáo phái Giáo pháp (sasana) và khi nhà vua Asoka, một vị
vua công chính, đã nhận đức tin, thì hàng ngày, ngài đều bố thí cho một khoản
tiền trợ cấp là năm trăm ngàn, một trăm ngàn cấp cho công việc thừa tự Ðức
Phật, Giáo pháp và Tăng Già. Một trăm ngàn để trợ cấp cho Thế Tôn của nhà vua,
một trăm ngàn cho Trưởng lão Nigrodha, và một trăm ngàn dùng để phát chẩn ở bốn
cổng thành, như vậy đã đem lại vinh dự lớn và sự trợ giúp đắc lực cho giáo phái
Giáo pháp (sasana). Vị thầy của nhiều giáo phái khác, không được hưởng vinh dự
và sự tài trợ này, vì thế họ không thể ngay cả kiếm được đủ để ăn, liền tìm
kiếm vinh dự và sự tài trợ bằng cách gia nhập vào Tăng già, rồi lại công bố mỗi
người mỗi điều sai lạc của họ, nói rằng: Ðây chính là giáo pháp, đây chính là Giới
luật, và đây chính là đạo giáo của ngài Thế Tôn (Ðức Phật ). Ngay một số trong
họ còn chưa nhận Ðại Thọ Giới, cũng đã tự xuống tóc, mặc áo cà sa mầu vàng, đi
khắp các thiền viện, gia nhập các Tăng già vào những buổi lễ Bố tát (Uposatha)
và trong nhiều dịp lễ khác nữa.
Cho dù họ không bác bỏ Tăng già
(Order), giáo pháp và giáo điều của Ðức Phật, các vị Tỳ-khưu này, vì không đại
diện cho hàng ngũ Giáo pháp và Giới luật chính thống, nên đã gây ra rất nhiều
điều đốn mạt, nhiều vết nhơ và phiền toái cho Giáo pháp (sasana). Một số trong
họ, còn thờ thần lửa; một số lại chủ trương, tu luyện năm loại khổ hạnh sức
nóng; một số chạy lại thờ thần mặt trời, số khác lại đấu tranh cách này cách
khác, nói rằng: Chúng ta sẽ phá bỏ Giáo pháp và Giới luật.
Chính vì thế mà Tăng Già không
thể giữ Bố tát (Uposatha) hay Tự tứ (Pavarana) với những hạng Tỳ-khưu đó. Bố
tát phải bị đình chỉ trong bảy năm tại thiền viện Asoka, khiến cho nhà vua phải
can thiệp, nghỉ rằng: Ta sẽ ra chiếu chỉ cho duy trì các việc thờ tự đó. Nhưng
vẫn không thể làm gì được. Không những thế, nhà vua còn cảm thấy hối hận, khi
mà chỉ vì một phái đoàn ngu xuẩn của ngài, một số các vị Tỳ-khưu đã bị giết
hại. Vì muốn làm dịu đi nỗi hối hận, cũng như ảnh hưởng hư đốn đã nổi lên trong
giáo phái Giáo pháp (sasana), nhà vua yêu cầu Tăng Già làm rõ: Lúc này, ai là
người có thẩm quyền trong Tăng già về vấn đề này? Khi nhà vua được biết câu trả
lời: Chính Trưởng lão Tissa, con trai của Moggali, thì nhà vua đã nhân danh
Tăng già, mời Trưởng lão rời khỏi Ahoganga. Và khi nhà vua nhận ra Trưởng lão
đang thực hiện một phép lạ, ngài rất tin tưởng vào khả năng của Trưởng lão và
đã tham khảo ngài về những điều đã gây cho hoàng thượng không ít đau khổ. Và
làm dịu bớt nỗi niềm đau khổ cho ngài. Trưởng lão cũng lưu lại một thời gian
bảy ngày trong công viên hoàng gia để diễn giảng giáo pháp cho đức vua.
Ðược giảng giải như vậy, vào
ngày thứ bảy, nhà vua đã triệu tập Tăng già trong thiền viện Asoka lại, chính
nhà vua đã thượng vị, trong một đại sảnh ngài đã cho xây dựng. Sau khi đã phân
loại, sắp xếp các vị Tỳ-khưu thành nhiều nhóm khác nhau, theo quan điểm họ đang
chủ trương và cho mời lần lượt từng nhóm một, rồi hỏi: Ðức Thế Tôn đã giảng dạy
loại giáo lý nào vậy?[5] Phái chủ trương vĩnh cửu trả lời: Ngài là người theo
phái vĩnh cửu. Một số người khác trả lời: Ðức Phật đã dạy vĩnh cửu thuyết hạn
chế, sinh hồn bất tử, sinh tử ngẫu nhiên, có tiềm thức, linh hồn hữu thức hay
vô thức sau khi chết, linh hồn đoạn diệt[6]. Những vị Tỳ-khưu nào chủ trương
Níp-bàn chỉ tồn tại trong cuộc sống này, đều yêu sách nhà vua không kém.
Sau khi đã tìm hiểu giáo pháp,
nhà vua đã phân biệt được rõ ràng, các vị Tỳ-khưu này không phải là các vị
Tỳ-khưu chân chính, mà chỉ là các vị theo tà đạo mà thôi, rồi ngài loại họ khỏi
Tăng già. Nhà vua đã phân phát áo trắng cho họ, là thứ quần áo dành cho những
người dân thường. Số những vị Tỳ-khưu này lên tới 60.000 vị. Rồi nhà vua lại
triệu tập các vị Tỳ-khưu khác nữa và hỏi các ngài: Ðức Thế Tôn đã giảng dạy
giáo lý nào vậy?[7] Họ trả lời: Tâu Hoàng thượng, ngài là một người chủ trương
phân tích. Với câu trả lời này, nhà vua liền hỏi: Trưởng lão nói rằng: Thưa
Hoàng thượng, đức Thế Tôn có chủ trương phân tích hay không?[8] Ngài trả lời:
Tâu hoàng thượng, đúng vậy. Rồi nhà vua xuống chỉ: Thôi được rồi, thưa ngài
Trưởng lão phái Giáo pháp (sasana) coi như được thanh tịnh. Chớ gì Tăng già của
các vị Tỳ-khưu, hãy nắm giữ Bố tát (Uposatha). Ðể lại những lính canh, nhà vua
trở lại thành phố. Theo đúng thoả thuận Tăng già đã nhóm họp lại và tổ chức bố
tát (Uposatha). Trong Tăng Già đó có khoảng sáu mươi ngàn vị Tỳ-khưu hiện diện.
Chính trong cuộc hội họp này,
Trưởng lão Tissa, con trai Moggali, để ngăn chận toàn bộ những cơ sở tà đạo đã
nổi lên, và sẽ có thể nổi dậy trong tương lai, ngài đã phân tích đến từng chi
tiết những chủ đề tranh luận, áp dụng phương pháp Ðức Phật đã truyền dạy. và
lập thành năm trăm lời tuyên bố chính thống và năm trăm lời không chính thống.
Cả thảy có một ngàn được công bố và gộp lại thành một sưu tập[9] Thuyết luận sự
(Kathavatthu) hay Những Ðiểm Tranh Luận (Points of Controversy), nét đặc trưng
nổi lên của cuốn sách này là dẹp tan toàn bộ những quan điểm lệch lạc.
Ngay sau đó, một ngàn vị Tỳ-khưu
là những người có kiến thức vững vàng về Tam tạng và giỏi giang về Tứ Vô Ngại
Giải Ðạo (Patisambhida), như Trưởng lão, Ðại đức Ca Diếp (Kassapa) (tại Ðại Hội
Thứ Nhất) đã tụng Giáo pháp và Giới luật. Sau khi đã dẹp tan hết mọi vết nhơ,
ngài đã tổ chức Ðại Hội thứ Ba trong đại hội này ngài cũng tụng như vậy. Và khi
tụng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) ngài đã hợp nhất toàn bộ thành một sưu tập này.
Người ta kể lại rằng, Chính Ðức
Phật đã đưa ra những đường nét chính của bộ sưu tập "Thuyết luận sự
(Kathavatthu)" này và lại đưa ra cả một bài tường trình về nội dung. Sau
đó Trưởng lão, con trai của Moggali đã lấp đầy những chi tiết lập thành một
cung điện nguy nga trên cõi đời này, gồm đầy đủ mọi chi tiết.
Ðến đây bởi vì việc chú giải đã
hoàn tất. Tôi sẽ chú giải về vấn đề này. Xin hãy cẩn thận mà lắng nghe."[10]
[1] Các tập chú giải về hai cuốn
sách này trong bộ Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma Pitaka)
[2] Anupadisesaya nibbnadhatuya.
[3] Dasavatthubi, đưa ra danh
sách mười điểm, xin đọc các kinh văn Luật tạng (Vinaya texts) (S.B.E.)
Cullavaya, ch. xii.
[4] Xin đọc với "B", annani
[5] Kim Vadi: nghĩa đen, Ðức
Phật đã...
[6] Xin đọc. Brahmajaha suttanta
(Digha I).
[7] Như trên
[8] Xin đọc Trung Bộ Kinh
(Majjhima Nikaya), ii. 197; Những điểm tranh luận tr. 7 ch. th. 1.
[9] pakaranam. đó là một tựa đề
đặt cho cuốn sách này (có nghĩa là cuốn Katha của "Những Ðiểm Tranh Luận"
hay là Chú giải Thuyết Luận Sự).
[10]
Xin đọc bản dịch của Shwe Zan Aung và Bà Rhys David trong tác phẩm Points of
Controversy (tr. 1-7.) - [xem "Những Điểm Dị Biệt", Tâm An và Minh
Tuệ dịch Việt. Ngoài ra, còn có bộ "Ngữ Tông" do ngài Hòa thượng Tịnh
Sự dịch từ bản Pali-Thái