Hằng năm cứ mỗi độ cuối đông, toàn thể Phật giáo đồ trên khắp
năm châu bốn bể, đều long trọng tổ chức lễ kỷ niệm ngày Ðức Phật Thích
Ca Mâu Ni thành đạo (vào ngày mùng tám tháng mười hai âm lịch). Thật vậy
cách đây hơn hai ngàn năm trước, sau sáu năm khổ hạnh tu tập, Ðức Bổn
Sư của chúng ta đã chứng đạo dưới cội Bồ Ðề, thuộc vùng Uruvela (Ưu Lâu
Tần Loa) gần thị trấn Gaya (nay là Bodhgaya - Bồ Ðề Ðạo Tràng), tiểu
bang Bihar, đông bắc Ấn Ðộ.
Sự giác ngộ, chứng đạt chân lý tối thượng của Ngài là một sự kiện vô
cùng trọng đại, một chương mới mở ra cho lịch sử tư tưởng của nhân loại,
một ánh sáng chân lý mới xuất hiện ở đời này. Nhân ngày kỷ niệm thành
đạo của Ngài, chúng con cần ôn lại một vài điều quanh sự kiện giác ngộ
của Ngài để nhắc nhở, củng cố thêm niềm tin Chánh Ðạo của mình trên bước
đường tu tập.
Pháp tu khổ hạnh:
Trải qua một thời gian dài lang thang khắp lưu vực sông hằng để cầu học
những bậc Thầy danh tiếng, rồi cuối cùng khép mình vào những kỷ luật
khắc khe nhất trên thế gian. Ðó là theo pháp tu khổ hạnh, chỉ ăn mỗi
ngày một hạt kê, một hạt mè, và uống một ngụm nước, để sống cầm hơi
trong suốt sáu năm dài, nhưng Ngài vẫn không thấy ánh sáng giác ngộ qua
lý thuyết và cách thực hành ấy. Thân hình đẹp đẽ, tráng kiện xưa kia,
nay trở thành suy nhược, da xanh nhợt nhạc, máu cạn, gân rút, thịt teo,
mắt mờ, chỉ còn lại bộ da bộc xương, cái chết đang tiến đến gần, nên
Ngài đã từ bỏ Khổ hạnh lâm (Dungsiri) và thay đổi pháp môn tu khác, Ngài
chọn con đường Trung đạo để tìm đến áng sáng giác ngộ.
Tiếp đó Ngài đến sông Ni Liên Thiền (Neranjara), tắm rửa sạch sẽ để sửa
soạn cho một cuộc hành trình mới. Hành động tắm gội ở đây là một biểu
tượng cho quyết tâm loại bỏ một pháp tu lệch lạc và bắt đầu một cuộc tìm
kiếm chân lý khác. Ðể khởi đầu lộ trình này, không gì hơn là phải tẩy
sạch tất cả những bụi bặm trên thân xác và tinh thần của Ngài.
Ngài khó khăn lắm mới bước được lên bờ và nhận được một bát sửa của nàng
Sujata (Tu-sà-Ða) dâng cúng. Không ai rõ lý do nào mà nàng Sujata, một
người con gái của vị Trưởng làng Tuna gần đó, dâng tặng bát sửa cho
Ngài, tuy nhiên, chính nhờ bát sửa ấy mà Ðức Phật đã nhanh chóng lấy lại
sức khỏe và sinh lực, để tiếp tục con đường còn lại cho tiến trình tìm
kiếm chân lý của mình. Tiếp đó, Ngài cũng nhận được một bó cỏ Cát tường
của Svastika, một cậu bé chăn trâu trong làng, Ngài tự tay trải làm tọa
cụ dưới cội Tất Bát La (ngày nay gọi là Bồ Ðề) và ngồi kiết già, quay
mặt về hướng Ðông và phát một lời đại nguyện rằng: "Thân tứ đại này dù
mai kia có biến thành cát bụi, nhưng Ðạo quả chưa đạt thành, tòa cỏ này
quyết không đổi thay".
Sau khi phát lời đại nguyện xong, Ðức Phật bắt đầu thiền tọa dưới cội Bồ
đề, với tư thế ngồi "liên hoa" hay "kiết già", đây là cách ngồi tiêu
chuẩn của pháp môn Thiền Ðịnh. Ở tư thế này, hai chân bắt chéo, bàn chân
này nằm ngửa trên lòng bàn chân kia, hai tay thu trước bụng, lòng bàn
tay ngửa, tay trái đặt trên tay phải. Ðây là tư thế ngồi được xem là ổn
định nhất, vững chắc nhất, giúp cho ta có cảm giác chắc chắn, đôi tay và
đôi chân luôn được kiểm soát và tâm trí không bị buông thả.
Ngài đã trải qua bảy tuần lễ tu tập thiền định như thế, quán chiếu nội
tâm, thấy rõ được thật tướng của vạn pháp là vô ngã giai không, và cuối
cùng, đêm thứ bốn mươi chín, trong trạng thái đại định, với tâm thanh
tịnh, Ngài đã chuẩn bị bước vào ngôi vị chứng đắc thì Ma Vương (Màra)
xuất hiện cản trở tiến trình tu tập của Ngài.
Nhiếp phục Ma Vương:
Trong giáo lý nhà Phật rất thường đề cập đến vấn đề Ma vương (Màra) (1)
và cho rằng đây là một loại thử thách khó khăn hàng đầu trước khi đạt
được Chánh quả. Ở đây việc cám dỗ của Ma vương có tầm quan trọng lớn lao
đối với việc hiểu được Phật, bởi vì Ðức Phật đã bước lên ngôi vị Chánh
Ðẳng Giác chỉ sau khi đánh bại được sức mạnh cám dỗ của Ma vương và đạo
quân của chúng.
Trong Kinh mô tả rằng, lúc Ðức Phật sắp bước vào ngôi vị Phật Vương, Ma
Vương tỏ ra hãi hùng, vì sợ mất tầm ảnh hưởng thống trị của chúng, nên
đã tìm cách ngăn cản, không cho Ngài chứng đạo và chuyển pháp luân :
"Này đạo sỹ, thân thể của ông gầy còm, da dẻ xám xanh, gần kề với cái
chết. Cơ may sống còn của ông là một phần ngàn, ông phải sống, vì có
sống mới có thể làm được việc có ích. Dù gì đi nữa, những nỗ lực của ông
hôm nay cũng hoài công vô ích, vì con đường đến với chân lý là gian
khổ, đau đớn và không bao giờ đến được". (Lược theo Sutta Nipata -
Padhana Sutta)
Nói xong, Ma vương đã tiến hành biến hóa ra trăm ngàn ma quỷ để tấn công
nhằm khuất phục được Phật, nhưng Phật không chút sợ hãi hay dao động.
Ðức Phật đã lên tiếng để nhiếp phục vị Ma Vương này như sau : "Này Ma
Vương, ngươi đến dây chỉ vì mục đích riêng của các ngươi. Ta không cần
danh vọng, ngươi hãy nói những điều đó với những kẻ hám danh vọng. Ta có
niềm tin, lòng dũng cảm và trí tuệ. Tại sao ngươi lại đòi ta phải sống
giống như mọi người ? (...). Khi xác thịt hao mòn, tâm ta trở nên an
tịnh. Khi ta sống như vậy, ta đạt được cảm thọ cuối cùng, tâm ta không
còn tham dục. Hãy biết rằng sự thanh tịnh luôn ở nơi ta. Tham dục là ma
quân thứ nhất của ngươi. Hai là đố kỵ. Ba là đói khát. Bốn là ái dục.
Năm là hôn trầm, thùy miên (lười biếng, uể oải). Sáu là sợ hãi. Bảy là
hoài nghi. Tám là phỉ báng và cố chấp. Chín là sự thành đạt, danh tiếng,
và vinh quang. Mười là tự khen mình và khinh chê kẻ khác. Này Ma Vương,
đội quân của nhà ngươi là thế, chúng luôn trú ẩn trong những con người
xấu xa đê tiện, kẻ hèn yếu sẽ không thể nhiếp phục được chúng, nhưng nếu
hàng phục được chúng sẽ đạt được chân hạnh phúc. Ta thà chết vinh trong
chiến trận còn hơn sống mà thất bại...". (Lược theo Sutta Nipata -
Padhana Sutta)
Nhằm muốn đè bẹp Ðức Phật, nên Ma Vương đã thay đổi chiến thuật dữ dội
hơn, bằng cách cho các ái nữ xinh đẹp nhất để cám dỗ hầu lôi kéo Phật
trở về với chúng, nhưng dưới con mắt thanh tịnh của Phật các nàng đều
biến thành xấu xí và bất tịnh. Cuối cùng Ma vương đành thối lui và tuyên
bố rằng: "Sau bảy năm đã theo đuổi bước chân chàng trai dòng họ Thích,
ta vẫn không sao tìm cách để vào phá được vị Ðại giác siêu phàm này.
Giống như chú quạ bay qua một mỏm đá lại mơ tưởng đó là miếng mồi béo
bở, ngọt ngào. Làm sao thấy được vị ngọt ở nơi mỏm đá ấy, quạ phải bay
đi...". (
Lược theo Sutta Nipata - Padhana Sutta)
Ánh sáng Giác Ngộ:
Sau khi chinh phục được ma quân, Ðức Phật đã từng bước đi vào bốn tầng
bậc thiền để tiến đến giác ngộ. Pháp thiền này giúp cho tâm trí hành giả
có khả năng đạt được giác ngộ. Bốn giai đoạn thiền này được mô tả trong
Kinh Trung Bộ như sau: Giai đoạn thứ nhất: (sơ thiền) là loại bỏ dục
vọng và các bất thiện pháp và đạt được trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh.
Giai đoạn thứ hai, (nhị thiền): diệt trừ tạp niệm, phát triển nội tỉnh
và nhất tâm, đạt được trạng thái hỷ lạc do định sanh. Giai đoạn thứ ba,
(tam thiền): vượt qua niềm hỷ lạc, đạt đến bình thản và an lạc. Giai
đoạn thứ tư, (tứ thiền): diệt trừ các cảm thọ lạc và khổ, đạt tới cảnh
giới thanh tịnh không còn vui buồn, âu lo và hoan hỷ.
Sau khi tinh thông qua bốn tầng thiền trên, tâm trí của Ðức Phật trở nên
sáng suốt, thanh tịnh và linh hoạt một cách lạ thường, hướng tâm đến
Tam Minh (Te-vijja), Ngài thấy rõ được chân tướng, gốc rễ của khổ đau,
Ngài biết rõ rằng: "do cái này có, nên cái kia có; do cái này sanh mà
cái kia sanh; do vô minh có hành, do hành có thức, do thức có danh sắc,
do danh sắc có lục nhập, do lục nhập có xúc, do xúc có thọ, do thọ có
ái, do ái có thủ, do thủ có hữu, do hữu có sinh, do sinh có lão tử và
sầu bi khổ ưu não". Do quán chiếu như vậy mà Ngài đã bước vào quả vị thứ
nhất, Túc Mệnh Minh (Pubbe-nivàsànussati Nàna) vào canh đầu (khoảng
chín giờ tối đến nửa đêm) Ngài nhớ lại tất cả những kiếp quá khứ mà Ngài
đã trải qua.
Sau khi loại bỏ được màn vô minh dầy đặc của bóng đêm quá khứ khổ đau
sinh tử, Ngài đạt đến Thiên Nhãn Minh (Cutùpapàta Nàna) ở canh thứ hai,
thấy rõ những đời sống quá khứ của hết thảy chúng sanh với hành nghiệp
thiện và ác của họ. Ngài biết rằng một người do hành động, lời nói và ý
nghĩ hướng đến điều ác xấu, thì kết quả khổ đau, cay đắng sẽ đeo đuổi họ
như cổ xe luôn theo sau con vật kéo. Cũng một người với hành động, lời
nói và ý tưởng hướng điều thiện lành, có đức tin chân chánh, có nếp sống
lành mạnh, kết quả an lạc và hạnh phúc sẽ đến với người ấy như bóng
theo hình. Với loại trí tuệ này, Ngài thấy rõ được tình trạng tan rã và
nhóm hợp trở lại của chúng sanh.
Ðến canh cuối, Ðức Phật tác ý nghịch chiều duyên khởi như sau : "Do cái
này không có, nên cái kia không có, do cái này diệt, nên cái kia diệt,
do vô minh diệt nên hành diệt, do hành diệt nên thức diệt, do thức diệt
nên danh sắc diệt, do danh sắc diệt nên lục nhập diệt, do lục nhập diệt
nên xúc diệt, do xúc diệt nên tho diệt, do thọ diệt nên ái diệt, do ái
diệt nên thủ diệt, do thủ diệt nên hữu diệt, do hữu diệt nên sinh diệt,
do sinh diệt nên lão tử và sầu bi khổ ưu não diệt".
Lúc ấy ánh sao mai vừa ló dạng, Ngài ngộ được chân lý tối thượng, chứng
đắc Lậu Tận Minh (Àsavakkhaya Nàna), đoạn tận gốc rễ của lậu hoặc (2).
Và khi sao mai hửng sáng rõ ràng, Ngài cảm thấy sức sống của mình như
bừng nở và trong chớp nhoáng Ngài nhận ra cái hiện thực tối thượng của
mọi sự vật, trong khoảng khắc ấy Ngài chứng đắc Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác (3), trở thành Phật (4), một vị giác ngộ ngay giữa cõi đời
khổ đau này, cánh cửa bất tử (the door of deathlessness) đã mở cho tất
cả chúng sanh từ thời điểm ấy, trang sử Phật cũng bắt đầu từ đấy, con
đường giải thoát và giác ngộ mà trước đây chưa một ai tìm thấy, nay đã
hiển lộ. Ngài liền nói cảm giác vui sướng của mình rằng : "Giải thoát đã
đạt trọn vẹn, đây là đời sống cuối cùng, sẽ không còn tái sanh nữa" (My
emancipation is assured, this is my last birth, there will be no more
re-becoming) (MN 26.21).
Ngài cũng đề cập đến cảm tưởng sau khi đạt giác ngộ như là mình như vừa thoát khỏi ngục tù:
"Lang thang bao kiếp sống
Trong sanh tử luân hồi
Ta tìm nhưng chẳng gặp
Người xây dựng nhà này
Tái sanh thật khổ thay.
Ôi người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi
Ngươi không làm nhà nữa,
Ðòn tay ngươi gãy rồi
Kèo cột người tan nát,
Tâm ta đạt an ổn
Tham ái thảy tiêu vong"
(Pháp Cú 153 & 154).
(Through many births I have wandered in the samsàra round
Seeking, but not finding the buider of the House,
Painful is birth again and again.
O House Builder, I have seen you. You shall build no house again,
All your rafters are broken and your ridge - pole is shattered.
The mind ar rest in Nibba2na, has attained the destruction of cravings)
(Dhammapada verse 153 - 154)
Lúc ấy trời đất hân hoan, chim chóc reo vui, chư thiên trong mười phương
rải hoa cúng dường, chào đón Ðức Thế Tôn, bậc Thầy của chư thiên và
loài người vừa xuất hiện. Thật đúng là:
Ðêm trăng tròn ánh sao mai vừa điểm
Cây Bồ Ðề rực rỡ ánh hào quang
Khắp nơi nơi ngào ngạt tỏa thiên hương
Nhạc thành đạo cả bầu trời vang động
Sáu ngã luân hồi vui không xiết kể
Mười phương hướng về chào đón Thế Tôn
Hoa Từ Bi lòng người đều bừng nở.
(Thơ của Thích Quảng Thiệp)
Ðêm ấy là ngày trăng tròn tháng Tithakhu (theo lịch của Ấn Ðộ), tức nhằm
ngày mùng tám tháng 12 theo lịch của Trung Hoa. Ðó là năm Ngài 35 tuổi,
đúng vào năm 590 trước Tây Lịch, tại tụ lạc Ưu Lâu Tần Loa (Uruvelà),
cách thành phố Già Da (Gaya) về phía Ðông Nam khoảng 7 dặm, thuộc nước
Ma-kiệt-đà (Magadha). Vì lý do ấy, nơi đó về sau nơi này được gọi là
Phật Già Da (Buddha-Gaya), ngày nay gọi Bồ Ðề Ðạo Tràng (Bodh-Gaya)
thuộc tiểu bang Bihar, đông bắc Ấn Ðộ.
Kể từ thành đạo Bồ Ðề:
Sau khi Ðức Phật thành đạo, ánh sáng giác ngộ của Ngài đã chiếu khắp mọi
nơi, hàng vạn người dân Ấn, từ sỹ, nông, công, thương, mọi tầng lớp của
xã hội Ấn đều thừa hưởng được kết quả giác ngộ của Ngài. Ðến cuối đời
của Ngài, Chánh Pháp đã có mặt ở khắp Ấn Ðộ và lan tỏa đến các quốc gia
láng giềng. Từ hạ lưu của sông Hằng đi về phía đông, phía nam tới bờ
sông Caodaveri, phía tây tới bờ biển Arập, phía bắc tới khu vực
Thaiysiro, đâu đâu cũng có sự ảnh hưởng của giáo lý Phật Ðà, và người
dân nơi ấy sống trong sự hòa bình và hạnh phúc. Trong triều đại của
Hoàng Ðế Asoka thuộc vương triều Maurya (thế kỷ thứ 3 trước TL), Phật
giáo đã bắt đầu truyền bá sang các vùng biên giới của đại lục, đông tới
Miến Ðiện, Nam tới Tích Lan, tây đến Xyri, Ai Cập.... Và cuối cùng Phật
giáo đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo thế giới.
Phật giáo Nam Truyền (Theravada) xuất phát từ miền nam Ấn độ, Phật giáo
được truyền sang Tích Lan, rồi từ Tích Lan truyền qua Miến Ðiện, Thái
Lan, Campuchia, Lào.... Ðạo Phật Nam Truyền được lan tỏa đến các nước
Miến Ðiện, Thái Lan, Lào... PG tại các quốc gia này tụng Kinh bằng ngôn
ngữ Pali.
Phật Giáo Bắc Truyền (Mahayana), từ miền Bắc Ấn Ðộ vượt qua dãy núi
Hindu và sông Amua ở miền Trung Afghanistan, rồi vượt qua cao nguyên
Pamia, vào Tân Cương Trung quốc, từ đó đến Hà Tây, Trường An và Lạc
Dương. Tiếp đó PG từ Trung Hoa truyền đến các nước lân cận như Triều
Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Và một con đường khác là từ Ấn Ðộ truyền
sang Nepan, vượt qua dãy núi Hymalaya, vào Tây Tạng, rồi từ Tây Tạng
truyền vào một số tiểu quốc của Trung Hoa và một số vùng thuộc bộ tộc
Buryat của Mông Cổ và Xiberi. PG trong các quốc gia này tụng Kinh phần
lớn bằng ngôn ngữ Sanskrit hoặc được dịch sang tiếng mẹ đẻ của mình.
Và đến cuối thế kỷ thứ 18, Ðạo Phật được chính thức truyền sang các nước
Châu Âu (1788) và Châu Mỹ (1875), và đến cuối thế kỷ thứ 20, PG lại
được truyền qua Châu Phi. Như vậy Chánh Pháp đã có mặt ở khắp hoàn cầu
tính cho tới thời điểm này.
Lời kết:
Quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Giác của Ðức Phật, cuộc đời của Ðức Phật là một
minh chứng hùng hồn, một cảm hứng tuyệt vời cho tất cả chúng ta. Ngài
là một nhà triết học và một nhà tư tưởng vĩ đại nhất của nhân loại. Qua
kho tàng kinh điển của PG, ta thấy rằng Ðức Phật không đơn giản chỉ là
một nhà lãnh tụ tôn giáo kiệt xuất, một triết gia, một nhà xã hội, một
nhà giáo dục, mà còn là thầy thuốc thiên tài trong trường đời, có khả
năng chữa khỏi tất cả các loại bệnh trên thế gian này. Chúng ta cần phải
khắc sâu hình ảnh của Ngài, nếu không chúng ta sẽ lúng túng trước một
kho tàng giáo lý khổng lồ do chính Ngài diễn giảng về con đường tu tập
và kết quả chứng đắc liên quan.
Quả thật vậy, ngày nay khi bàn về câu chuyện thành đạo của Ngài chúng ta
vô cùng lúng túng, khó hiểu, khó thấu, khó đạt được trọn vẹn trên mặt
văn tự, huống hồ việc áp dụng, chứng đạt như Ngài.
Biết rõ điều này, nên Ðức Phật đã hơn một lần trấn an cho chúng ta rằng:
"Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Ta là Phật đã thành và các con là
Phật sẽ thành". Trên tinh thần đó, không gì hơn là chúng ta phải bắt tay
vào việc, tu học và thực hành theo giáo pháp mà Ngài đã để lại. Nếu học
đúng và áp dụng đúng pháp, chúng ta sẽ chứng đạt như Ngài.
Tóm lại tu tập và đạt được giác ngộ, giải thoát là giấc mơ bất tận của
mọi đệ tử Phật. Dù biết rằng con đường ấy quả thật đầy chông gai và thử
thách, nhưng không phải chúng ta không có, không đủ khả năng để đạt
được, vấn đề là mỗi người chúng ta có khởi sự ngay từ bây giờ hay là
không. Nguyện cầu cho tất cả chúng ta có đủ sức khỏe, nghị lực và quyết
tâm để tiếp tục theo đuổi con đường mà Ðức Phật đã đi qua và thành đạt
hơn hai ngàn năm trước.
Melbourne, Mùa Thành Ðạo 2000
Thích Nguyên Tạng