Phật pháp quan trọng nhất là thực hành. Có bà cụ một chữ cũng
không biết, hoàn toàn không hiểu kinh dạy, chỉ biết ăn chay, lạy Phật,
chí thành niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật mà được vãng sanh.
1. Hiếu dưỡng cha mẹ
Đức
Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹ là pháp môn căn
bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
Chúng ta nghĩ thử ngay cả loài chim muông còn biết báo ân nuôi mớm. Nếu
như chúng ta không hiếu dưỡng cha mẹ thì chẳng phải không bằng loài cầm
thú hay sao?
Cha
mẹ là ruộng phước lớn nhất đời này của chúng ta. Công đức hiếu dưỡng
cha mẹ và công đức cúng dường Đức Phật như nhau, không hiếu dưỡng cha mẹ
thì bị coi là sai lầm lớn nhất của đời người. Người bất hiếu một chút
tư cách cũng không có nói gì đến học Phật.
Ngoài
ra, chúng ta còn khuyên cha mẹ có Tín, Nguyện, niệm Phật, cầu sinh về
Tây phương mãi mãi thoát khỏi nỗi khổ sinh tử luân hồi, mới là hiếu đạo
cứu cánh viên mãn.
2. Làm tròn bổn phận
Làm
người ở thế gian, ai cũng có bổn phận và trách nhiệm của mình. Người
học Phật trên cương vị công việc của mình phải nỗ lực tinh tấn làm gương
mẫu cho gia đình, xã hội và quốc gia. Hiếu thuận với cha mẹ, giáo dục
con cái, yêu thương gia đình, làm lợi ích cho xã hội, báo đáp tổ quốc
mới đúng là người học Phật. Tự mình trốn tránh trách nhiệm, không làm
tròn bổn phận, học Phật mà nói khoác lác đều là dối mình lừa người thì
không thể thành tựu được.
3. Tin sâu nhân quả
Cốt
lõi của toàn bộ Phật pháp, chính là hai chữ “nhân quả”. Chúng ta trồng
nhân thiện được quả thiện, trồng nhân ác nhất định chịu quả ác, báo ứng
nhân quả không sai tí nào, không phải là không có báo ứng mà chỉ vì thời
gian chưa đến. Người học Phật phải tin sâu nhân quả, lấy giới làm thầy,
mỗi ngày tự kiểm điểm, luôn luôn sửa đổi. Ngoài ra, người niệm Phật tin
sâu trồng nhân thiện niệm Phật, chắc chắn được quả thiện thành Phật.
Đây là nhân quả rất thâm diệu.
4. Không sát sinh, ăn chay
Người
học Phật không làm các việc ác, nỗ lực đoạn trừ tất cả hành vi tội ác.
Trong tất cả tội ác, tội ác nặng nhất là sát sinh, ăn thịt. Bởi vì, mạng
của chúng sinh rất quý báu, không nên vì thân mạng mình mà giết, ăn
thịt nó thì nó vô cùng căm hận, kết oán thù sâu nặng, đời sau nó sẽ giết
lại chúng ta báo thù đòi nợ, máu trả nợ máu, quả ác rất là thảm khốc.
Vì thế, chúng ta không làm các việc ác, không sát sinh, ăn chay là việc
cần gấp.
5. Phóng sinh cứu mạng
Người
học Phật phải làm các điều thiện, bất cứ việc thiện nào, chỉ cần có cơ
hội thì ra sức làm. Trong tất cả việc thiện, phóng sinh là đứng đầu. Bởi
vì, phóng sinh là hành vi cứu mạng cấp bách, công đức rất lớn, chẳng
phải việc thiện nhỏ có thể so sánh được. Thân mạng chúng sinh rất quý,
chúng ta thả nó, cứu nó thì nó vô cùng cảm kích, kết thiện duyên tốt với
nó thì đời sau chúng ta được quả báo thiện, phước đức không thể nghĩ
bàn. Cho nên, trong các điều thiện lấy phóng sinh cứu mạng làm đầu.
6. Chí tâm thành kính
Chí
tâm thành kính là nền tảng thành tựu bất cứ sự nghiệp nào trong thiên
hạ. Đại sư Ấn Quang chỉ dạy chúng ta phải dốc hết tâm lực, lấy hai chữ
thành kính làm điểm quan trọng. Chúng ta có một phần thành kính thì có
một phần công đức, có mười phần thành kính thì có mười phần công đức.
Đây là bí quyết tuyệt vời học Phật thành công, mọi người tuyệt đối phải
ghi nhớ kỹ trong lòng.
7. Phát tâm Bồ đề
Công
đức nhiều hay ít của người học Phật theo tỉ lệ thuận với tâm lượng của
mình, tâm lượng rộng lớn thì công đức được nhiều. Vì thế, người học Phật
phải có tâm lượng rộng lớn, làm bất kỳ việc gì tuyệt đối không nên vì
tự tư tự lợi, nhất định phải phát xuất từ tâm chân thành, chân thật vì
lợi ích cho tất cả chúng sinh. Chúng ta trên cầu Phật đạo, phát tâm
thành Phật; sau đó, có năng lực độ khắp chúng sinh. Chúng ta dưới thì
hóa độ chúng sinh bằng cách phát tâm hễ gặp cơ duyên thì nhất định phải
đem điều tinh yếu của Phật pháp truyền bá cho đại chúng. Ngoài ra, tâm
phải chí thành niệm Phật cầu sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc; đó là
chân chính phát tâm Bồ đề.
8. Lạy Phật sám hối
Chúng
ta từ vô thủy kiếp đến nay tạo nhiều tội nghiệp, nếu có hình tướng thì
khắp hư không cũng chẳng dung chứa hết; bởi vì, chúng ta là phàm phu xấu
ác nghiệp chướng sâu nặng. Do đó, người học Phật phải phát tâm hổ thẹn
và chí thành sám hối, siêng năng lạy Phật. Bởi vì lạy Phật một lạy chí
thành thì tội diệt như số cát sông Hằng, lạy Phật sám hối là bày tỏ tâm
chí thành cung kính của chúng ta. Phương pháp tốt nhất là hổ thẹn tự xét
lỗi mình.
9. Tín, Nguyện và niệm Phật
Pháp
môn Tịnh độ là nương tựa Phật lực cứu giúp. Tín là tin thế giới Tây
phương Cực Lạc có Phật A Di Đà. Nguyện là mong muốn mình mau sinh về thế
giới Cực Lạc kia, chán lìa thế giới Ta bà này. Hạnh là phải chí thành
niệm, giữ một câu thánh hiệu Nam mô A Di Đà Phật. Chỉ cần đầy đủ ba tư
lương Tín, Nguyện, Hạnh thì sẽ nương theo đại thệ nguyện lực của Phật A
Di Đà cứu giúp, ra khỏi sinh tử, vĩnh viễn đoạn trừ luân hồi. Đây là
pháp môn vô cùng thâm diệu và tiện lợi nhất trong tất cả pháp môn mà Đức
Phật đã dạy.
Nói
theo lý, một câu A Di Đà Phật là nhờ Phật lực cứu vớt, chắc chắn bảo
đảm vãng sanh về Tây phương. Nhưng vì sao ngày nay người niệm Phật nhiều
mà người được vãng sanh lại ít? Đây là vấn đề rất quan trọng và nghiêm
túc, ngày nay người niệm Phật nhưng không được vãng sanh quan trọng là
do “thiếu Tín, Nguyện lại sợ chết, căn bản là không muốn vãng sanh”.
Ngày nay, người niệm Phật chỉ cầu sống lâu, cầu mạnh khỏe bình an, cầu
giàu sang, công việc thuận lợi, cầu tất cả lợi ích ở thế gian; nhưng
không cầu vãng sanh về Tây phương.
Một
chữ Chết thì có thể kiểm nghiệm người niệm Phật có đầy đủ Tín, Nguyện
hay không? Hãy tự hỏi lòng mình, chúng ta có sợ chết không? Nếu như chết
ngay lập tức thì Phật A Di Đà liền đón chúng ta vãng sanh về Tây
phương, chúng ta có bằng lòng không? Một người niệm Phật thật sự là
người chán lìa cõi Ta bà này, thích cầu về cõi Cực Lạc thì nhất định cho
sự chết là như trở về. Bất cứ lúc nào, họ cũng mong sớm theo Phật A Di
Đà về thế giới Tây phương Cực Lạc thì tuyệt đối không sợ chết, luôn mong
muốn vãng sanh liền. Còn người niệm Phật giả tạo trong ngoài khác nhau,
Tín, Nguyện không thật là người tham sống sợ chết, không muốn chết,
không muốn vãng sanh, cầu sống lâu, có rất nhiều lý do ràng buộc. Chúng
ta nên biết tâm người nào sợ chết, không muốn chết, không muốn cầu vãng
sanh thì trái với tâm Phật A Di Đà, không đủ ba tư lương Tín, Nguyện,
Hạnh thì làm sao họ thành tựu vãng sanh về Tây phương được?
Ngày
nay, một nghìn người niệm Phật thì có chín trăm chín mươi chín người
niệm Phật giả. Nếu người niệm Phật thật sự thì một chữ Chết thường ở
trong tâm, tự mình luôn kiểm nghiệm, chỉ cần người niệm Phật không sợ
chết, thích chết, bất cứ lúc nào cũng đón cái chết, luôn mong cầu sớm
được vãng sanh về Cực Lạc; đây là người niệm Phật thật sự “chán lìa Ta
bà, thích cầu Cực Lạc”. Như thế, một nghìn người niệm Phật, nghìn người
vãng sanh; vạn người niệm Phật vạn người vãng sanh, không một người nào
mà không sinh về Tây phương.
10. Nỗ lực thực hành
Phật
pháp quan trọng nhất là thực hành. Có bà cụ một chữ cũng không biết,
hoàn toàn không hiểu kinh dạy, chỉ biết ăn chay, lạy Phật, chí thành
niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật mà được vãng sanh. Bà học Phật thành
tựu vãng sanh, hơn hẳn những nhà thông thái biện tài vô ngại, tinh thông
tam tạng, quan trọng là có nỗ lực thực hành hay không. Người có tài
năng, hiểu biết mà không thực hành, giống như điểm binh trên giấy, nói
tên món ăn, đếm của báu cho người, đều là vô ích.
Nói
tóm lại, chúng ta học Phật chỉ cầu chuyên nhất, sợ nhất là xen tạp; chỉ
cần nắm chắc những điểm quan trọng rồi nỗ lực thực hành thì nhất định
đạt được lợi ích chân thật của Phật pháp.
Trích: Cửa Vào Tịnh Tông của HT. Tịnh Không
Việt dịch: TN. Viên Thăng (Tu Viện Huệ Quang)