MỤC LỤC
Thư ngõ
Tựa
PHẦN MỘT:
TỔNG
LUẬN VỀ YẾT MA
1.1. YẾT-MA TRONG SINH HOẠT CỦA
CỘNG ĐỒNG
TĂNG LỮ
1. KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT VỀ CỘNG
ĐỒNG
TĂNG LỮ
2. THÀNH PHẦN CỦA TĂNG
3. PHÂN LOẠI TĂNG
4. CÁC NGUYÊN TẮC CHI PHỐI ĐỜI SỐNG CỦA TĂNG
i. Bảy pháp bất thối
ii. Bảy pháp diệt tránh
iii. Sáu pháp khả hỷ
2.2. PHÂN TÍCH NỘI DUNG CỦA YẾT
MA
1. YẾT MA LÀ GÌ?
2. ĐỐI TƯỢNG CỦA YẾT MA
3. PHÂN LOẠI YẾT MA
4. CÁC GIAI ĐOẠN TIẾN HÀNH CỦA YẾT MA
i. Tiền phương tiện
ii. Căn bản và hậu khởi của yết-ma
5. CÁC YẾU TỐ ĐỂ THÀNH TỰU YẾT
MA
6. GIÀ YẾT MA
7. PHI TƯỚNG CỦA YẾT MA
KẾT LUẬN
PHẦN HAI:
CƯƠNG
GIỚI
2.1. Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG
CỦA CƯƠNG
GIỚI
1. Ý NGHĨA CỦA CƯƠNG GIỚI
2. HIỆU LỰC CHI PHỐI CỦA CƯƠNG GIỚI
2.2. BẢN CHẤT CỦA CƯƠNG GIỚI
1. CƯƠNG GIỚI TỰ NHIÊN
2. CƯƠNG GIỚI ẤN ĐỊNH
i. Đại giới
ii. Giới trường
iii. Tiểu giới
iv. Các cương giới biệt xuất
3. THỦ TỤC TIẾN HÀNH YẾT MA KẾT
GIỚI
Dẫn
i. Chuẩn bị tác pháp
ii. Chính thức tác pháp
2.3. CÁC PHÁP YẾT MA KẾT VÀ GIẢI
GIỚI
1. VĂN KẾT ĐẠI GIỚI KHÔNG GIỚI
TRƯỜNG
2. VĂN GIẢI ĐẠI GIỚI
3. VĂN KẾT ĐẠI GIỚI CÓ GIỚI TRƯỜNG
4. GIỚI KHÔNG MẤT Y
5. KẾT TIỂU GIỚI
|
-ooOoo-
TỰA
Theo quan điểm Bộ phái Đàm Vô Đức, tức
các vị thọ
trì Luật Tứ phần thì một trong các dấu hiệu về sự diệt tận của
chánh pháp
là các pháp yết-ma hoàn toàn không được thực hiện, không có pháp
yết-ma sẽ
không có các Tỳ-kheo đác giới như pháp, bản thể của Tăng không
thành tựu.
Không có sự tồn tại của Tăng thì chánh pháp mà Phật giảng dạy
không có
người tu và chứng. Như vậy có nghĩa là Chánh pháp sẽ không tồn
tại. Cho
nên việc học hỏi các học xứ trong giới Kinh và thông suốt các pháp
yết-ma
là phận sự hàng đầu của Tỳ-kheo trong suốt 5 năm đầu kể từ khi đắc
giới cụ
túc. Đây là điều kiện căn bản tác thành tư cách bậc thầu hàng
Thượng tọa
trong Tăng chúng. Nếu Tỳ-kheo không hoàn tất phận sự học hỏi này
không bao
giờ được phép rời Y Chỉ sư dù cho tuổi đời 80 và tuổi hạ 60, nghĩa
là luôn
luôn phải sống nương tựa vào bậc Thượng tọa, không được phép thế
độ người
xuất gia. Đây là điều quiđịnh trong tất cả Luật Tạng, cần phải
nghiêm cấm
chấp trì vì sự tồn tại bền vững của Phật pháp.
Về các nguyên lý căn bản cũa yết-ma, tất
cả các
bộ Luật đều đồng nhất, nhưng sự tác pháp có rất nhiều khác biệt,
do điều
kiện lịch sử và địa lý nơi mà Tăng đoàn sinh hoạt. Nếu không có sự
lý giải
về các nguyên tắc căn bản, tất sẽ khó có thể hội thông các điều
sai biệt
này. do đó việc nghiên cứu và học hỏi, các phép Yết-ma cần phải
hội đủ hai
mặt: nắm vững sự lý giải và thông suốt tác pháp. tổng quát mà nói,
có hai
bộ phận chính của tất cả pháp yết-ma. Một bộ phận chi phối các
sinh hoạt
tập thể của Tăng, tức gồm các luật yết-ma như kiết giới, truyền
thọ cụ
túc, thuyết giới, tự tứ v. v… Bộ phận khác chi phối sinh hoạt cá
nhân một
Tỳ-kheo, tức các yết-ma trị phạt như sám Tăng tàn, ba dật đề….
Bộ luật này gồm có hai phần:
Phần thứ nhất là YẾT MA YẾU CHỈ, trình
bày các
nguyên lý căn bản của yết-ma song song với tác pháp.
Phần thứ hai là TỨ PHẦN HIỆP CHÚ, giảng
giải các
thiên tụ của giới bổn.
Bộ luật này ra đời là do kết quả nhiều
năm giảng
dạy luật cho Tăng chúng tại các Phật học viện: Báo Quốc, Hải Đức,
Quảng
Hương Già Lam. Nhưng sự biên tập được hoàn thành là do công đức
đóng góp
của các thầy ĐỔNG MINH và NGUYÊN CHỨNG. Hai vị đã cố gắng rất
nhiều trong
công việc ghi chép lại những điều tôi đã giảng giải, tham khảo các
luật
bộ, đối chiếu và thảo luận đả thông những điểm sai biệt giữa các
luật bộ.
Ở đây tôi ghi nhận công đức đóng góp của
hai vị
và cùng hồi hướng công đức này cầu nguyện chánh pháp tồn tại lâu
dài ở thế
gian để lợi lạc hữu tình.
Quảng Hương Già Lam,
Mùa hạ, PL. 2527 – 1983
Tỳ-kheo THÍCH TRÍ THỦ
-ooOoo-
THƯ NGÕ
Tôi dự định hoàn tất tập Yết-ma yếu chỉ
này trước
khi bắt đầu mùa an cư để làm tài liệu cho các thầy tân tỳ-kheo tu
học.
Nhưng ngoại duyên không thuận, cho nên phải tạm thời dừng lại chỉ
mới ở
chương hai. Hy vọng điều kiện thuận tiện hơn một chút để tôi có
thể hoàn
tất trong mùa an cư này.
Bản thảo được biên tập cách đây đúng hai
mươi
năm. Lần xuất bản đầu tiên, tôi không may mắn được biết và được
thấy.
Trong đó có nhiều sai sót, hoặc cắt bỏ. Phần lớn là vì lý do kỹ
thuật.
Ngoài ra, còn lý do gì nữa thì tôi không biết. Nó không xứng đáng
với ý
định của người biên tập. Cho nên, tôi tự hứa, phải cố gắng khắc
phục những
chướng ngại để sách có thể hữu ích trong nhiều trường hợp. Và rồi,
chướng
ngại vẫn chưa được khắc phục.
Tuy sự đạo Phật được truyền bá trên một
phạm vi
không gian rất rộng, hoà nhập với nhiều trưyền thống dân tộc khác
nhau,
với nhiều bộ phái học thuyết khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau
như hai
thái cực; nhưng nhìn vào giới bổn Ba-la-đề-môc-xoa, và đặc biệt là
các
pháp yết-ma được hành trì trong nhiều bộ phái Phật giáo khác nhau,
người
nghiên cứ đạo Phât sẽ thấy có một nền tảng không thay đổi trong
suốt nhiều
thế kỷ, trên nhiều khu vực địa lý khác nhau. Chính trên nền tảng
này,
người nghiên cứu và học Phật mới có thể tìm ý nghĩa chân thật của
Giáo
pháp của Đức Thích Tôn.
Truyền thuyết nói, Luật tạng được kết tập
ngay
lần kết tập đầu tiên do Trưởng lão Ma-ha Ca-diếp làm Thượng thủ,
và Trưởng
lão Ưu-ba-ly trùng tuyên. Nhưng người nghiên cứu Luật tạng cũng dễ
dàng
tìm thấy dấu vết phát triển theo thời gian qua những giải thích
các học xứ
của tỳ-kheo của các bộ phái khác nhau. Cho nên, trên một phương
diện, các
pháp yết-ma không đơn giản chỉ là vựng tập dùng trong sinh hoạt
nội bộ của
tỳ-kheo. Sự phát triển của các định chế chính trị, xã hội qua các
thời
đại, trong các Vương quốc cát cứ, trên lãnh thổ mà từng cộng đồng
tỳ-kheo
cư ngụ và hành đạo, đã có những dấu vết nhất định trong các pháp
yêt-ma.
Vì ý nghĩa lịch sử này mà người nghiên cứu yết-ma không thể quan
niệm các
thủ tục hành sự như là những nguyên tắc tiên thiên, hay thần bí,
được quy
định bởi chính đức Phật, một lần nhưng vĩnh viễn.
Ngày nay, xã hội phương Đông đã chuyển
dịch khá
dài, có nơi gần như bật rễ, theo hướng định chế xã hội phương Tây.
Tuy cho
đến hiện đại, các nhà tư tưởng lớn của phương Tây cũng chưa nhất
trí với
nhau về chiều hướng phát triển của các định chế xã hội này, nghĩa
là,
chúng sẽ đưa toàn thể nhân loại đến đỉnh cao nào hay đang đi dần
đến chỗ
sụp đổ khốc hại; nhưng điều hiển nhiên không thể không thấy trong
hiện
tại, đó là chúng dẫn đến sự phồn vinh kinh tế, phát triển vật chất
để
hưởng thụ. Những vị bảo thủ truyền thống phương Đông, xem như
hướng đi xã
hội ở đây là sự thăng tiến tinh thần, giảm thiểu lạc thú vật chất,
khi
nhìn thấy xu hướng chuyển dịch về phía Tây, đã không ngớt báo
động. Thế
nhưng, chiều hướng phát triển xã hội này khó có thể xoay chuyển,
tuy đang
có nhiều dấu hiệu rằng phương Tây đang tìm về cội nguồn tâm linh.
Trong bối cảnh xã hội ấy, cộng đồng Tăng
lữ nếu
bảo lưu được truyền thống thì ít phải chịu nhưng thay đổi nhức
nhối. Những
nơi mà do hoàn cảnh lịch sử, cộng đồng Tăng lữ phải chịu sự trì
kéo giữa
hai xu thế, thì những khủng hoảng là điều tất nhiên.
Trong mấy thập kỹ trở lại, từ khi tiếp
cận nền
văn minh dân chủ phương Tây, với mặc cảm tự ty của một dân tộc nô
lệ, xã
hội Việt nam có xu hướng bứt rễ truyền thống để đuổi kịp người.
Các học
thuyết triết học phương Tây được mô phỏng một cách vội vã, từ chủ
nghĩa
Duy linh nhân vị, cho đến Duy vật vô thần, thật sự đang để lại
trên cơ thể
Việt nam những rạn nứt vô cùng đau nhức. Trong bối cảnh xã hội đó,
chưa
thấy cộng đồng Tăng lữ ở quốc gia Phật giáo nào chịu nhiều rạn nứt
như ở
Việt nam. Và cũng dễ thấy tại sao những nước láng giềng, cùng chia
xẻ
những giá trị tinh thần truyền thống, cùng chung số phận nhược
tiểu và nô
lệ, nhưng Việt nam triền miên chìm đắm trong hận thù, phân hoá dân
tộc, để
được liệt vào số những nước nghèo nàn, lạc hậu nhất; trong khi đó,
các
nước mà ảnh hưởng các học thuyết chính trị và tôn giáo phương Tây
không
sâu đậm như Viêt nam lại có nhưng bước tiến mà người Việt rất thèm
muốn.
Điều nên lưu ý ở đây là, trong các nước Phật giáo đang trên đường
phát
triển văn minh vật chất, các định chế Tăng già hầu như không bị
thay đổi
bởi mô hình tổ chức xã hội phương Tây. Đây là bài học cần suy gẫm,
không
chỉ cho đạo Phật, mà còn cho cả ý nghĩa tồn vong của dân tộc.
Tôi không hy vọng tập Yết-ma yếu chỉ này
là cơ sở
tư tưởng cho định chế tăng già cần thiết để có thể nhận định rõ
hơn về cơ
cấu sinh hoạt hiện tại của cộng đồng tăng lữ Việt nam, để rồi từ
đó một tỳ
kheo sống giữa Tăng mà không bị tụt hậu so vớ thời đại nhưng cũng
không vì
vậy mà mất phẩm chất tỳ kheo; phẩm chất mà chính Đức Thích Tôn đã
tâm
truyền.
Xin hồi hướng công đức đến sự thanh tịnh
và hoà
hiệp của Tăng già.
Quảng Hương Già-lam,
Mùa An cư, Phật lịch 2545 (TL 2001)
Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng.
-ooOoo- |