Một cách nôm na nhất, hạnh phúc là những gì mình được toại
nguyện cũng như thái độ tầm cầu sở hữu của bản thân ra sao: Chúng ta
muốn mọi thứ luôn như ý mình.
Phải nói rằng đây quả là điều vô cùng khó khăn, bởi trên đời này có
biết bao nhiêu điều gần như nằm ngoài khả năng sắp xếp của chúng ta: Một
ngày đẹp trời, cuộc gặp gỡ với ai đó, một sức khỏe ổn định, một mối
quan hệ tốt, một điều kiện thuận lợi để tu tập... tất cả đều là những gì
vượt quá sự dàn xếp của chúng ta.
Ðể có được một niềm hạnh phúc dầu chỉ cỏn con thôi, xem ra cũng chẳng
dễ dàng tí nào. Vậy thì, trong tinh thần của người Phật tử, chúng ta
phải tìm ở đâu cho ra cái gọi là hạnh phúc? Chúng ta có thể làm được gì
khi bản chất của đời sống luôn vô thường bất toại? Có khi chúng ta phải
mất đến cả một cuộc đời để đi tìm hạnh phúc và kết quả sau cùng vẫn chỉ
là con số không.
Nếu bạn là một người may mắn, hữu hạnh và có đủ mọi điều kiện để có
được những gì mình muốn thì bạn cũng chỉ có thể hạnh phúc trong một thời
gian nào đó thôi. Bởi trong đời sống chung quanh và trước mặt mỗi người
có biết bao điều trở lực, những cái làm ngăn trở ước muốn của chúng ta.
Ðối diện với chúng, ta thường chỉ gặp phải sự bất toại mà gọi khác đi
chính là đau khổ. Như vậy rõ ràng là đau khổ và hạnh phúc luôn song
hành với nhau, quy định lẫn nhau.
Trong văn học Hồi Giáo thường nhắc tới nhân vật Nasrudin, một con người
kỳ lạ: Ðôi khi thông minh tuyệt vời, để rồi có lúc lại ngớ ngẩn đến mức
buồn cười. Một hôm, ông ta nước mắt, nước mũi đầy mặt ngồi ăn từng trái
một cái thứ ớt hiểm cay xé. Mà có ít đâu, trước mặt ông ta có đến những
một giỏ đầy. Một người bạn già đến thăm, thấy lạ mới hỏi, Nasrudin đưa
tay lau mặt rồi hít hà trả lời:
- Tôi nghĩ thế nào cũng có một trái ngọt chứ!
Trong cuộc sống thường nhật thật ra chúng ta đâu có khác gì ông Nasrudin
khi trong từng ngày, vật lộn với những điều kiện sống chua chát đắng
cay nhất để mong tìm thấy một chút hạnh phúc ngọt ngào nào đó, rồi phút
cuối cùng nhìn lại có được gì đâu. Cứ cho là cuộc sống của bạn có đến
chín mươi phần trăm hạnh phúc, nhưng mười phần trăm còn lại trong nội
tâm của chúng ta vẫn còn đó những âu lo vướng vít. Mà để chấm dứt những
điều này thì đâu phải là chuyện dễ.
Cho nên chúng ta có thể nói rằng đôi khi chính sự sợ hãi đã giúp ta
biết nghĩ về con đường phát triển tâm linh để mong tìm thấy một nguồn
hạnh phúc thật sự.
Trong Phật Giáo, tiếng hạnh phúc có một định nghĩa rất đặc biệt và do
vậy con đường dẫn tới hạnh phúc, theo tinh thần Phật Giáo cũng không
giống như cách nghĩ thông thường của chúng ta. Các bạn nghĩ sao, chúng
ta có thể nào có được hạnh phúc trong một tâm hồn vị ngã chật hẹp luôn
bị lệ thuộc vào đủ thứ hoàn cảnh, bị ảnh hưởng từ mọi thứ tác động, dĩ
nhiên là không. Một hạnh phúc thật sự phải hoàn toàn vượt thoát tất cả
ràng buộc. Ðó chính là niềm vui của chư Phật, chư Thánh, một thứ hạnh
phúc nằm ngoài mọi hạn chế và hoàn toàn không dính líu gì đến một cái
Tôi ngộ nhận nào cả.
Khi bạn không có hứng thú trong những điều kiện sống cũng như những mưu
toan dự tính, thì xem như bạn đã không còn bị bất cứ cái gì trên đời này
giam giữ nữa. Sự tự do đó mới chính là tất cả những gì bình yên, hạnh
phúc nhất. Bản thân Ðức Phật là một điển hình chói ngời cho niềm tịnh
lạc đó. Tôi dĩ nhiên không được cái may mắn nhìn thấy Ðức Phật nhưng qua
những lần gặp gỡ các bậc thiền sư, tôi đã cảm nhận được một điều là các
vị luôn sống trong sự hạnh phúc, một thứ hạnh phúc được hình thành ngay
tự nội tâm với một khả năng tự tại trước mọi hoàn cảnh.
Trong Phật Giáo, hai danh từ Tự Do và Hạnh Phúc được xem như đồng nghĩa
bởi ở đây, ham muốn là đau khổ, còn tự do là chấm dứt lòng ham muốn đó.
Chúng ta cứ suốt đời xây dựng đủ thứ lòng ham muốn để mong xác định cái
gì đó là Tôi và Của Tôi. Lòng ham muốn ấy cứ như một hòn đá nặng trên
vai mỗi người.
Cái ma lực của cái Tôi lớn lắm. Dầu có được một lời cảnh báo thiết
tha và nghiêm túc nhất từ ai đó, chúng ta cũng khó mà chối bỏ ý tưởng về
một cái Tôi. Thậm chí nếu biết được một cách rõ ràng thế nào là cái
chân hạnh phúc của Ðức Phật, một niềm hạnh phúc không có sự canh giữ của
cái tôi nào hết, thì chúng ta cũng vẫn tu tập với một tinh thần ngã
chấp.
Cái tôi lúc này lại càng nguy hiểm hơn. Ðức Phật đã dạy rằng không có
một thứ gì trên đời này đáng để ta ôm ấp cả. Thái độ không chấp thủ sẽ
mang lại cho ta một niềm hạnh phúc thật sự. Bên cạnh đề tài Hạnh Phúc,
Phật Giáo còn nhắc đến khái niệm Ðau Khổ và đề nghị ở chúng ta một thái
độ duy nhất là cứ nhìn thẳng vào nó, thấy nó chỉ đơn giản là cái đang
xuất hiện và biến mất. Vấn đề chính yếu của Thiền Quán là chúng ta bắt
đầu soi rọi bản chất như thật của lòng ham muốn, ý nghĩa mục tiêu của
nó, để bắt đầu cho một thoáng ý thức hướng dẫn cứu cánh ly tham thật sự.
Lòng ham muốn thật ra chỉ là một sản phẩm ý thức tự tạo trong tâm hồn
chúng ta. Khi ta muốn bỏ nó, ta sẽ bắt đầu cảm nghiệm một trạng thái nội
tâm tĩnh lặng. Ðể thực hiện được điều đó, người ta thường nhắc đến
những giây phút tĩnh tọa, thế nhưng trong những giây phút còn lại của
đời sống thường nhật thì sao? Chúng ta có thể nào sống hòa nhập giữa đời
với một tâm hồn vô tham vô chấp? Nói cho đúng thì Thiền Quán chỉ là một
phép sống, nên chỉ cần có được một vốn sống thôi, ở đâu và lúc nào
chúng ta cũng đều có thể thực hiện nếp sống vô tham vô chấp.
Vốn sống đó chính là tinh thần tỉnh thức, một thái độ sốntg hiểu biết
và dấn thân trọn vẹn vào thực tại - tức là những gì đang xảy ra - một
con đò đưa ta vượt qua bên kia dòng thác lũ của những định kiến, toan
tính và phân biệt. Nhưng điều này có khó làm lắm không? Tôi nhắc lại,
không có sự tỉnh thức, chúng ta chỉ có thể giam hãm mình như một con khỉ
bị kẹt bàn tay trong lọ mức khi nó chỉ nghĩ đến việc cầm nắm.
Vấn đề ở đây là con khỉ phải biết buông bỏ hết để có thể tự do ra đi,
chỉ vì hiềm một nỗi là nó đâu có nghĩ đến chuyện đó. Hãy nhớ, vấn đề tu
tập của chúng ta phải làm chính là chận đứng lòng ham muốn. Ý nghĩa và
bản chất của sự giác ngộ chỉ đơn giản có chừng đó thôi và tất cả công
phu tu tập của chúng ta cũng như cứu cánh tinh thần của con đường tu tập
đó chỉ nằm gọn trong tinh thần tỉnh thức, một nếp sống tối ưu mà cũng
là duy nhất cho những người đi tìm một chân hạnh phúc.
Giáo lý của Ðức Phật chỉ là một con đường, một phương pháp để sống sao
cho ngày một hoàn thiện hơn. Thiền định là một phương tiện giúp đỡ cho
chúng ta qua từng phút giây hiện tại, qua sự ngắm nhìn vào chính lòng
ham muốn của mình và những tác động của nó rồi cuối cùng là một sự buông
bỏ, khai phóng. Sự tu tập thiền định là một công phu được Ðức Phật đặc
biệt nhấn mạnh. Càng sống tỉnh thức, chúng ta càng có cơ hội cảm nghiệm
được những trạng thái an lành và hạnh phúc nhất. Bởi tu chỉ là một cuộc
đi với hai bàn tay buông bỏ, chúng ta không cần thiết phải sở hữu, thành
đạt bất cứ cái gì cả.
Bởi như từ đầu bài đã nói, trí tuệ giác ngộ không hề mang lại cho ta một
lợi nhuận nào hết: Ở đây chúng ta chỉ làm có mỗi một việc là khước từ
tất cả, hay nói khác đi là đặt xuống mọi gánh nặng. Ðời sống chỉ là đời
sống với những quan hệ và vận động, thế thôi. Chính tinh thần đó, bản
thân nó đã là một nguồn hạnh phúc thật sự rồi, ta đâu cần đòi hỏi gì
thêm nữa.
Hành trình tốt nhất mà tất cả chúng ta phải đi qua, đó chính là sự dốc
sức vào công phu thiền định thì đúng hơn, cuộc sống của chúng ta chỉ có
nước mắt và tâm hồn của mỗi người sẽ là từng trăn trở. Tôi có quen một
vị sư người Ðức tu được mười lăm hạ, khi được tôi hỏi có thường xuyên
thiền định hay không, vị này đã trả lời:
- Mười mấy năm trời tu học, tôi đã chọn lấy con đường thiền định. Thậm
chí tôi còn cho rằng người ta không thể nào có được một đời sống tinh
thần nếu không có thiền định.
Tôi cứ nhớ hoài câu nói đó của vị sư người Ðức và cứ xem đó như một đề
tài để suy nghĩ. Quả đúng như vậy, một khi ta không thể làm tĩnh lặng,
thanh lọc nội tâm, không sống tỉnh thức và ngắm nhìn được bản chất của
thân tâm thì ta không thể nào có được cái gọi là sự tiến bộ của tâm hồn
mà ở đây chính là tinh thần chối bỏ tất cả để tìm về một nguồn hạnh phúc
thật sự.