Chúng
tôi đồng ý với nhau cho một ngày picnic nơi bải biển, góc cuối tây nam của tiểu
bang Washington, giáp ranh với bang Oregon, và củng là nơi con sông lớn Columbia đổ ra biển. Thú thật với các bạn,
tôi không thực sự biết được lý do của chuyến “đi”, lý do của điểm “đến”, kiên
nhẩn là một tính tốt, phải không các bạn? Người bạn bên cạnh rất ít nói, việc
này vẩn thỉnh thỏang xảy ra, cô ấy có môt ám ảnh bí mật nào đó, chìm đắm vào
thế giới riêng của cô ấy, và tuy rằng vẩn sinh hoạt bình thường. Không thấy cô
bạn mang theo giấy, bút, cassette, máy chụp ảnh (cô là một phóng viên) trong
khi chuẩn bị cho chuyến đi…điều đó có nghĩa là “móng vuốt con mèo” đã được để
lại thành phố? Nếu thời tiết Washington
“chợt mưa, chợt nắng” thì tình trạng “lòng chợt từ bi bất ngờ” của người bạn
củng là dể hiểu thôi, phải không các bạn?
Chúng tôi rời thành phố rất sớm, ít nhất ba tiếng
rưởi lái xe mới đến được bên bờ đại dương. Bây giờ là tháng mười, mùa thu hiện
diện rỏ rệt trên con đường dài, trong gió, trong mây, trên màu lá cây
rừng...Vượt qua nhiều núi, đồi, rừng lá phong vàng rực, làng mạc nhỏ rải rác và
hiu quạnh trên bình nguyên mênh mông của núi rừng Tây Bắc. Có lời yêu cầu ngừng
xe cho một chuyến bách bộ xuyên qua cánh rừng lên đỉnh đồi, nếu may mắn chúng
tôi sẽ kịp giờ đón mặt trời lên, bên kia ngọn đồi. Chúng tôi yên lặng đi bên
nhau, như trong một bức tranh lụa mùa thu, gió thổi mạnh và thường xuyên mang
những cánh lá vàng bay vui mắt khắp nơi. Chúng tôi chìm sâu và thắm nhập vào sự
bình an của núi rừng. Rỏ ràng là chúng tôi không phải là những người khách lạ
với thiên nhiên, chúng tôi trở lại là hai đứa trẻ thơ chỉ biết có đi và tận
hưỡng niềm an lạc thấm nhập, những cái gì được gọi là trưởng thành hay văn minh
của phân tích, phán đoán, so sánh, đặt tên và những lo lắng, ưu phiền… đã thực
sự để lại thành phố. Sự tĩnh mịch của ban sáng, khi mà sương mai còn đọng trên
cành cây, ngọn cỏ; khi mà chim muông vui hót vang mừng, vạn vật bừng sống
động.… Theo đuổi sự tự tri, đi tìm hứng khởi tinh thần, chắc chắn thiên nhiên
sẽ là một yếu tố quan trọng và là một người bạn tốt. Hảy hỏi thiên nhiên những
bí mật mà nó đã gìn giữ nếu bạn là người có tâm hồn thần bí theo đuổi sự tự tri
không mệt mỏi. Chân lý sẻ đến trong sự tỉnh lặng của tâm hồn và trong sự trong
sạch khao khát sự tự tri. Người bạn đi bên cạnh tôi sáng rực rở và thanh thoát,
một nguồn năng lực mạnh mẻ, một nét trẻ thơ hồn nhiên, một sự trong sáng thánh
thiện, một sự thấm nhập bí mật và hòa tan với núi rừng. Luật “đồng thanh tương
ứng” vẩn luôn luôn tác động. Và rồi cuối cùng, cũng “đến” được đỉnh đồi. Chúng
tôi có cái nhìn toàn thể bình nguyên rộng lớn, có hai ngôi làng nhỏ với con
sông uốn khúc và đang ẩn mình mơ màng trong sương mờ ban sáng. Chúng tôi nhìn
ra vài nóc nhà thờ, trái tim của ngôi làng. Ngôi làng vẩn còn trong giấc ngủ,
có lẻ chỉ có những chú gà và chim muông đang là chủ nhân sống động của ngôi
làng, khác hẳn với loài người, chúng đồng thanh reo lên mỗi ngày liên tục không
mệt mõi, với mục đích đánh thức những người hàng xóm: “Hảy tỉnh thức, một ngày
mới kỳ thú đang chờ đợi, và hảy thưởng thức mặt trời sắp lên…” Tất cả đang chờ
đợi mặt trời lên, đễ cho vạn vật bừng tỉnh và phát quang sáng chói. Mặt trời từ
từ xuất hiện nơi chân trời, nhà nhạc trưởng vỉ đại nhất của ban nhạc đại
hòa tấu trong thiên nhiên, nguồn năng lượng chính và là tâm điểm của thái dương
hệ, sự cộng hưởng giữa những cái “tâm” cho ra kết quả bừng sáng và an lạc,
giống như giọt sương hòa tan với ánh mặt trời trở thành hạt kim cương lóng
lánh. Sự sống động hiện rỏ nơi vạn vật, nét rạng rở bừng lên sức sống. Mặt trời
lúc nào cũng đầy ánh sáng và sưởi ấm muôn loài, hiện tượng “mặt trời mọc, mặt
trời lặng” chỉ là “ảo ảnh” của cái “thực tại” mà chúng tôi đang thưởng thức,
mặt trời không mọc, cũng chẳng có bao giờ lặng. Hảy thưởng thức Mặt Trời lên
như một thánh lể, trong sự trang nghiêm, tỉnh lặng, đơn giản hồn nhiên của một
đứa trẻ chỉ biết có hạnh phúc tươi mát tràn đầy. Một ngày mới, một chu kỳ mới
của luật tuần hoàn trở lại… Sự mỹ lệ thì ở đâu cũng có, thời điểm nào cũng có,
nếu đã nhìn được từ thiên nhiên, chúng ta có rất nhiều hy vọng “nhìn được, cãm
được” sự mỹ lệ nơi những người bạn chung quanh, nơi gia đình, nơi công sở…và
cũng giống như mặt trời đến, bóng tối biến mất, mỹ lệ đến, sự ô trược, xấu xí
mất dạng. Kinh nghiệm hạnh phúc rồi cũng sẻ qua đi, thế nhưng mảnh lực của nó
sẻ còn mải, dư âm của bản nhạc đại hòa tấu sẽ xuất hiện trỡ lại thường xuyên
hơn, với nhiều vẻ khác biệt hơn về cường độ. Chúng tôi tạm biệt mùa thu vàng để
tiếp tục đoạn đường còn lại. Sau cùng chúng tôi cũng “đến” được bên bờ Thái
Bình Dương. Ngày hôm ấy rất đẹp, mặt trời ấm và mây trắng thật gần, thủy triều
đang rút ra thật xa để lại phía sau một dảy cát trắng dài, nhìn thẳng là biển
cả mênh mông, và bên trái là con sông Columbia lặng lẻ hòa tan dòng nước ngọt
ra biển. Nếu mùa thu có âm thanh là tiếng xao động của lá cây với gió thì biển
cả có tiếng rì rào của sóng biển, một số nhà âm nhạc học nói là chủ âm trong
thiên nhiên là cung Fa, đồng âm với âm thanh AUM…Cô bạn của tôi dùng những ngón
chân trần viết chử trên bải cát Gate, Gate, Paragate, Parasamgate Bodhi Savaha.
Đây là câu chú bằng Phạn Ngử, không xa lạ gì với giới Phật Tử, nghỉa của nó là:
Nổ lực qua bờ bên kia. Và đây cũng là đề tài ám ảnh người bạn của tôi?
Mời các bạn theo dỏi ý tưởng trao đổi của hai người bạn,
củng là những người theo đuổi sự tự tri giống như các bạn. Chúng ta đang có một
thực tế của Đạo Phật truyền bá tại Phương Tây, sự bành trướng mạnh mẻ trong
vòng 50 năm gần đây của cả ba chi nhánh lớn của Phật Giáo. Bài viết với một cố
ý xữ dụng ngôn ngử của Phương Tây diển tả giáo lý Phương Đông, một cách đơn
giản nhất nếu có thể được, cố tránh xử dụng kiến thức (dù là kiến thức Phật
Giáo) bằng cách đi tận nguồn. Đọc giả sẽ có cơ hội phán đoán sự cố gắng của
người viết trong sự “tùy duyên” này và với một ước mong bạn đọc nên xem như là
“một cách thức diển tả ý tưởng” mà thôi, dỉ nhiên một cái trí rộng mở trong khi
đọc luôn luôn cần thiết, bài viết theo thể loại vấn đáp.
Vấn: (Cười bằng ánh mắt tò mò) Chắc chắn là chị có một mối
ưu tư, mối quan tâm đó liên hệ đến dòng chử chị đả viết trên bải cát? chia sớt
đúng lúc là một tính tốt, phải không chị? (cười), tôi muốn tham dự vào mối quan
tâm đó và đang sẳn sàng để nghe. Tôi đả gỏ cửa và đang mong đợi cửa mở.
Đáp: (mỉm cười hồn nhiên nhìn ra khơi và với một chút ít
ranh mảnh) Anh nói đúng, chia sớt là một tính tốt, nhưng mà tò mò là một tính
xấu (cười to). Nếu tôi không cố ý, anh không dể gì thành công trong nghề thầy
bói đâu nhé, đừng tưởng bở! Thôi được rồi, anh có thể nào chỉ cho tôi bên kia
bờ đại dương không? Chắc chắn là anh sẻ khéo léo tránh né câu hỏi, hoặc là trả
lời mà không trả lời, một cách khác của từ chối khéo chứ gì? (cười). Thỉnh
thoảng tôi vẩn là nạn nhân bởi sự trả lời khéo léo của anh, đến nổi rơi
vào cái bẩy một cách nhẹ nhàng, không lối ra (cười). Tôi cũng muốn thử làm
thầy bói, để xem có đoán trúng hay không nhé, anh sẻ trả lời với tôi là “bờ bên
kia” xa khỏi tầm mắt của ngủ quan, của lục căn, cũng xa khỏi trí năng cụ thể
hạn chế của loài người. Cũng có thể anh sẻ nói về “chân tâm”, về “tự tính” “vô
ngã” “vô sinh” về “đốn ngộ” về “tự tính không trong vạn vật và trong ba la mật
tâm kinh” dẩn chứng những câu chuyện thiền của những vị Tổ Trung Hoa/Ấn Độ hoặc
là câu chuyện công án… cố thuyết phục đó là những vấn đề mà ngôn ngử bất lực,
bất khả tư nghị; và cuối cùng anh sẻ đưa vấn đề trở ngược về với người hỏi, anh
cũng sẽ khéo léo nhắc nhở: đó là kinh nghiệm do nổ lực, bền chí thiền tập của
từng cá nhân…Đề tài sẻ phải chấm dứt nơi đó, rơi vào tình trạng “ngỏ cụt” không
lối thoát khi mà câu trả lời quy về “vấn đề cá nhân, trách nhiệm của cá nhân,
tự tu, tự chứng”… Tôi không cho đó là cách trả lời sai, hay so sánh cách này
hay, cách trả lời kia dở, anh biết tôi rỏ lắm mà (cười). Thế nhưng mà, có thể
nào trình bày khác đi hay không? Chúng ta có thế nào chia sớt nhiều hơn thế
không? Không bằng lý luận, không bằng kiến thức? Chúng ta vẩn biết Chân Lý vốn
đơn giản, thế thì tại sao không thể trình bày hay chia sớt được sự đơn giản?
Hay là chỉ vì chúng ta quá phức tạp (cười), quá người lớn, hay quá văn minh,
đến độ không thể hiểu được đơn giản? Và vụng về quá mức không thể diển tả nổi
đơn giản?
Vấn: (cười) Tôi đang muốn nghe, mà chị
thì lại không muốn nói! Chị trả lời bằng một câu hỏi! Thôi thì đành vậy, hai
chiều thì “bình đẳng” hơn một chiều, nếu đó đúng là ý muốn của chị. Tôi cũng
rất là thông cãm với chị (cười), xưa nay chị xử dụng mổi một chiều: đặt câu hỏi
với người khác, nay tôi tạo cơ hội bằng vàng {à há, muốn kể lể công
trạng?}, để cho chị tạo được thế cân bằng (cười), vậy mà chị nở lòng nào từ
chối …(cười). Tôi có biết điều này nửa, hình như: chị hỏi thì vẩn cứ hỏi, nhưng
mà chị không chờ đợi câu trả lời, có đúng thế không? {biết mà, có dấu cũng
không được đâu, đoán mò nhưng vẩn đúng hoài đó chứ?}
Đồng ý hoàn toàn với chị, đơn giản là một ý kiến hay. Tại
sao lại phải phức tạp? Vậy thì chúng ta thử “tạm quên đi” những đề mục lớn chị
đã liệt kê trong ngoặc kép bên trên câu hỏi. Có lẻ chúng ta cũng nên quên đi
(xem nhẹ đi, không quan trọng hoá) những danh từ “giác ngộ” “tu chứng” “đốn
ngộ” “hướng ngoại” “hướng nội”…hoặc là xử dụng kiến thức giáo lý với đủ loại
danh từ Hán Việt. Chị cũng biết mà, ba tôi giỏi Hán Văn bao nhiêu thì tôi lại
…d..ố..t… Hán Văn bấy nhiêu!!!, (cười).
Theo câu hỏi của chị cứu cánh hay là mục đích cuối cùng là
“đến bờ bên kia”, hay là Niết Bàn, cũng có nghĩa là giác ngộ, trực nhận chân
lý, như vậy phương tiện là gì? Chúng ta cần phương tiện để đến được bờ bên kia
chứ? Theo luật “đồng thanh tương ứng” trong thiên nhiên: cứu cánh và phương
tiện không thể khác tính chất với nhau, phải có sự đồng dạng, cùng tần số với
nhau mới có được “cộng hưởng”. Phương tiện phải là cứu cánh, cứu cánh phải là
phương tiện. Không thể xử dụng cái công thức “cứu cánh biện minh cho phương
tiện” tức là hai thành phần khác tính chất nhau, (phương tiện tàn ác cho ra một
cứu cánh lành thiện???!!!!) mà người ta vẩn thường dùng ngoài xả hội, trên
thương trường, trong chính trị. Loài người vẩn mải mê trong “đấu tranh để sinh
tồn” “tranh đấu để vươn lên” (một loại cứu cánh biện minh) sự tranh chấp để
vượt lên trên đồng loại, bất chấp công bằng và lẻ phải, sự đấu tranh vẩn xảy ra
ngày càng khốc liệt trong xả hội được mệnh danh là “văn minh”!
Sáng nay chúng ta cùng nhau bách bộ/thiền hành xuyên qua
rừng mùa thu, đích nhắm hay cứu cánh là đỉnh đồi, chúng ta xử dụng phương tiện
bộ hành. Chúng ta đáp lại lời kêu gọi của chú chim đậu và hót trên cành “hảy
tỉnh thức”, chúng ta có mỉm cười với những chiếc lá vàng bay, chúng ta có chói
sáng cùng lúc với hạt sương mai ngậm ánh nắng vàng. Chúng ta có cộng hưởng với
năng lượng của ánh sáng mặt trời. Dỉ nhiên chúng ta không có chỉ đi bằng bộ
hành, chúng ta có đi bằng sự an lạc thảnh thơi, chúng ta có đi bằng sự tha
thiết của mùa thu, bằng sự lặng lẻ hòa nhịp với “luật tuần hoàn bốn mùa”, chúng
ta chẳng có mong cầu phải “đến”, thời gian và không gian biến mất. Chúng ta đả
thành trẻ thơ với thế giới thần tiên, chúng ta đả trở thành ngọn đồi, thành
rừng cây, thành con đường, thành sự sống mất rồi... Chúng ta đả “đến” ngay từ
lúc “tỉnh thức những bước chân đi”. Tôi có cãm được và hòa nhịp được với nguồn
năng lực mầu nhiệm đó nơi núi rừng trong thực tại vỉnh cửu. Phương tiện và cứu
cánh đã hòa tan với nhau cũng giống y như con sông Columbia bên trái của chúng ta đang hòa tan
vào biển cả. Chị có tí gì ngờ vực là chị đã đến được đỉnh đồi không? Chắc chắn
là không. Nó tự nhiên và giản dị như là cánh hoa sen đến ngày giờ bừng nở hoa
dưới ánh mặt trời…Lòng trong sạch, tình yêu tha thiết thiên nhiên và sự mỷ lệ
vốn dỉ đồng tính chất với sự tỉnh lặng của núi rừng, sự cộng hưởng là đương
nhiên, và trong cái nguồn an lạc tự tại đó, chúng ta trực tiếp kinh nghiệm thực
tại bí mật thâm sâu của đời sống. Những bí mật mà thiên nhiên đã gìn giử sẻ
được tiết lộ bằng tiếng nói vô thinh, tiếng nói của chân ngả. Tôi tin rằng chị
có một số điều muốn nói về “bên kia bờ đại dương”, đã đúng lúc để chia sớt rồi
đó (cười) và tôi vẩn đang chờ đợi cữa mở để bước vào.
Đáp: (cười) Vậy thì anh chuẩn bị đôi
chân để chạy cho thật nhanh, không phải lúc nào cửa củng mở đâu nhé (cười to),
và cũng coi chừng cửa đóng lại bất thình lình, và anh sẻ không có đường về với
vợ con đấy (cười to). Anh đã xử dụng phương tiện “mỹ lệ” để đi đến bờ bên kia,
tôi muốn bổ túc vào câu trả lời của anh. Chúng ta đang sống trong thế giới
tương đối và cụ thể của cái trí phân tích, hay còn gọi là cái trí cụ thể (hạ
trí) so với cái trí trừu tượng, hay cái trí tuệ giác (thượng trí), đặc
tính của nó là tổng hợp. Hạ trí là thủ phạm của ảo ảnh và là cái trí giết chết
sự thật (chân lý). Chân lý tương đối là căn bản của thế giới này, đây là thế
giới mà tuyệt đại đa số nhân loại đang sống, diển tả dể dàng bằng ngôn
ngử. Phương tiện đúng đắn có thể đưa hành giả “đến bờ bên kia” là cái trí tuệ
giác (thượng trí), một lý do đơn giản: chỉ vì tính chất của thượng trí và
“bờ bên kia” đồng đẳng để có thể tạo ra cộng hưởng. Xin phép đưa ra một gợi ý,
có tính cách tượng trưng, hầu đơn giản hóa tiêu đề hạ trí, thượng trí và
bờ bên này, bờ bên kia. Hạ trí có thể ví như một ngọn đèn bảo, xử dụng trong
đêm tối, loại đèn tùy thuộc hoàn toàn vào tim đèn và dầu đốt. Loại đèn này cho
ra một ánh sáng lờ mờ và soi sáng một không gian nhỏ hẹp. Thượng Trí hay là cái
trí tuệ giác ví như ánh sáng của một tia chớp sáng trong đêm đen, và dù
chỉ trong khoảnh khắc, chúng ta thấy được toàn thể cảnh vật chung quanh, và tuy
chỉ xuất hiện như một tia chớp trực giác cũng đủ để đổi mới trọn cuộc đời của
một hành giả trên bước đường tự tri và thực hiện Phật Tính. Nền văn minh vật
chất hiện tại, là nền văn minh của cái hạ trí (phân tích và chia cắt), nơi đó
có vấn đề cục diện: khoa học thì chỉ biết có khoa học, triết học biết triết
học, Thiên Chúa Giáo chỉ biết Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo chỉ biết Hồi Giáo…Tuy
là Chân lý thì chỉ có một, và ẩn tàng trong tất cả các nghành học thuật. Chúng
ta thấy ngay là không thể xử dụng hạ trí để tri thức bên kia bờ đại dương,
chúng ta đang ở biên giới của một nền văn minh mới: văn minh tinh thần, theo
diển tiến tự nhiên của luật tiến hóa, trong đó cái trí tuệ giác sẽ là tâm điểm.
Một câu chuyện thật đả xảy ra cho một người bạn, hơn 20 năm về trước. Trên
chuyến vượt biên mà bạn tôi làm tài công, tàu ra khơi bằng cửa biển Gò
Công, trong đêm tối đen. Cữa biển này rất to và có nhiều cồn cát rất cạn, ngư
dân bắt cá bằng cách trồng những cây trụ gổ thành vòng tròn và giăng lưới
buộc vào trụ gổ (đóng đáy). Ban đêm tối trời, nếu tàu vướng vào lưới thì coi
như tương lai đen tối của tù tội, và “đến bờ bên kia” sẻ chỉ là một mơ ước! Lúc
ấy biển động và mưa to, trời tối đen, người bạn tài công chỉ còn tùy thuộc vào
những tia sét đánh, đủ để thấy toàn cảnh vật, và len lỏi con tàu tránh né những
cái lưới cá tinh quái. Con tàu đả đến bờ tự do an toàn, nhờ vào cái thấy “toàn
thể” một công việc mà ngọn đèn bảo không làm được.
Vấn: Như vậy chị sẽ trình bày đề tài
bằng một dạng “tổng quát” cho một cái nhìn toàn diện về “bờ bên kia”? Tôi đoán
đúng chứ? Còn điều này nữa, muốn đến bờ bên kia, chúng ta cần một vị thầy chứ?
Mối liên hệ thầy trò sẻ phải như thế nào?
Đáp: (cười) Anh lại đoán
đúng nữa rồi, tôi bắt buộc phải xử dụng một số “giáo lý căn bản”. Có ba
nguyên lý chính của Đông Phương:
1) Vủ trụ được bắt nguồn từ một Nguyên Tắc Vĩnh Cửu, Vô
Biên, Không Biến Đổi, luôn luôn Bí Ẩn, được gọi là Cái Tuyệt Đối (Parabrahman)
hay là Thực Tại Cơ Bản, hay là Tự Tính Không. Nguyên tắc này vượt trên sự hiểu
biết của nhân loại.
2) Tinh Thần và Vật Chất (Nhị Nguyên), không phải là hai
Thực Tại riêng rẻ, mà là Cục Diện của Cái Tuyệt Đối bên trên. Chúng là hai sản
phẩm của việc phân thân và là nền tảng của sự biểu hiện nơi thế giới tương đối.
3) Từ hai nguyên lý bên trên, nảy sanh ra vô số vủ trụ và
thiên hà, xuất hiện và tan biến theo Chu Kỳ vô tận của Sristi và Pralaya (biểu
hiện và ngơi nghỉ) và theo Luật Tuần Hoàn: Sáng Tạo, Bảo Tồn, Hủy Diệt.
Trên hành trình đi đến nguyên lý thứ nhất hay là bờ bên
kia, hay tự tính không, chúng ta bắt buộc phải “đi” xuyên qua nguyên lý thứ ba:
luật tuần hoàn và nguyên lý thứ hai: nhị nguyên. Tất nhiên có rất nhiều con
đường. Những vị thầy đả đắc pháp có thể biết được căn duyên của đệ tử, ngày giờ
của đóa hoa sắp nở, bằng nhiều cách vị thầy gợi ý tạo ra giọt nước cuối cùng,
làm tràn ly nước. Chúng ta cũng không nên cố chấp vào tiệm ngộ hay đốn ngộ, tha
lực hay tự lực, thí dụ như phát biểu “thiền tông nhắm vào đốn ngộ và tự lực,
tịnh độ tông và mật tông nhờ vào tha lực và tiệm ngộ”. Luôn luôn có sự
ngang nhau, đồng tính chất với nhau mới có được cộng hưởng, học trò đủ sức nâng
tâm thức lên cao đủ để có sự cộng hưởng với tâm thức của vị thầy, vậy thì tha
lực cũng là tự lực, tại sao phải chấp và thành kiến? Có đốn ngộ nào mà không
cần tiệm ngộ? hoặc trong kiếp này hoặc trong vô số kiếp trước? Sẻ rất dể bị
thành kiến và chết trong những từ ngử! Chúng ta cũng có nghe nói về “tâm truyền
tâm” như trong tích “Niêm hoa vi tiếu” giữa Đức Phật và Ngài Ma Ha Ca Diếp.
Chúng ta cũng có biết chân lý tuyệt đối, hay là phần vô vi không thể diển tả
đầy đủ bằng ngôn ngử, chỉ vì ngôn ngử là phương tiện và cứu cánh chân lý tuyệt
đối không cùng tính chất với nhau (giống như toán học không diển tả nổi vô cực,
mà chỉ dùng ký hiệu số 8 nằm ngang). Quá khứ cho biết kinh sách đã dùng ẩn ngử,
như biểu tượng hay những ngụ ngôn nhiều ý nghĩa. Chúng ta cũng có nghe nói đến
loại kinh vô tự, hay là loại kinh viết bằng nét lữa, loại chử kén chọn đọc giả, rất
ít người có khả năng đọc được, và chỉ đọc được bằng cặp mắt tinh thần, đọc
xong là chử biến mất. Tất cả điều trên liên hệ mật thiết đến việc nâng cao trực
thức của chúng ta đến thượng trí, và chỉ có một cách duy nhất là trực nhận bằng
kinh nghiệm thực sự sự chân thực của chân lý, một khi chúng ta bắt đầu
biết “nghe” và bắt đầu biết “đọc”. Vị thầy bên ngoài và vị thầy bên trong
luôn tương xứng đồng nhịp.
Vấn: Chị đả trình bày, phải vượt qua
hai biển lớn, hay là nguyên lý ba và hai, mới đến đươc “bờ bên kia”. Chị
có thể nào trình bày thêm chi tiết không? Thí dụ như là phải học “bơi” cho thật
giỏi? (cười)
Đáp: (cười) Bơi với nghĩa bóng. Chúng
ta đã đi bộ khá xa rồi, và cũng đang đến bờ bên này của con sông Columbia. Sông to quá, bờ
bên kia chỉ được thấy lờ mờ. Sông đã vậy, biển còn to hơn nữa. Chúng ta chỉ có
thấy những đợt sóng liên tục đổ vào bờ. Tôi có thấy luật tuần hoàn: những con
sóng biển được sinh ra, tồn tại một khoảng thời gian, rồi tự hủy diệt, và cứ
liên tục như vậy ngàn năm. Văn hóa Đông và Tây có gặp nhau ở nguyên lý thứ ba
bên trên, từ Ai Cập đến Hy Lạp đến Thiên Chúa Giáo, Ấn Giáo... Danh từ xử dụng
có khác nhau, nhưng ý nghĩa thì giống nhau: sáng tạo, bảo tồn, và hủy diệt ba
giai đoạn này chi phối từ vủ trụ cho đến một hạt nguyên tử, một nền văn minh
cho đến sự biến chuyển của tư tưởng trong diển giảng của Phật Giáo.
Phật Giáo diển giảng tư tưởng của chúng ta liên tục biến chuyển qua ba giai
đoạn: Sanh (uppada), Trụ (thiti) và Diệt (Bhanga), và nếu sự biến chuyển này
đúng cho thế giới tư tưởng bên trong thì cũng đúng cho thế giới bên ngoài?
Nguyên lý thứ ba có Sự Vô Thường, Ảo Ảnh và Đau Khổ là đặc tính tiềm tàng bên
trong. Khi chưa hiểu biết: có sự chia ly, hủy diệt, mất mát nào không tạo ra
đau khổ? Một kiếp sống được sinh ra, tồn tại trong 80 năm, rồi chết đi để rồi
tiếp tục luật tuần hoàn đó trong một kiếp khác…Giây phút chúng ta thức tỉnh về
sự vô thường, ảo ảnh của một kiếp sống, tự nhiên tất cả ngộ nhận có vẻ vững
chắc trước đây về “cái tôi” “của tôi” sụp đổ và bắt đầu tan biến đi trong nổi
tuyệt vọng vô bờ! Tiếng nói nội tâm lên tiếng nhắc nhở cho một sự thay đổi cách
sống một cách nghiêm chỉnh, một đời sống mới, một quyết định mới theo đuổi sự
tự tri và những giá trị thật và vỉnh cửu. Muốn qua sông, muốn vượt đại dương
phải vượt qua vô thường, và ảo ảnh, đứng bên trên luật tuần hoàn, vượt qua đêm
đen của đau khổ, tự chứng tỏ có thể đứng vững trên hai chân, tiếp tục con
đường. Chúng ta có khả năng nhìn mặt trời trong sự thật hằng có của nó, không
lặng, không mọc trong cái hiện tượng ảo hóa của luật tuần hoàn. Khi có tỉnh
thức, hành giả sẽ tự khám phá ra cách đi riêng, không ai giống ai.
Vấn: Xin phép được góp ý thêm về
nguyên lý thứ ba. Bên cạnh luật tuần hoàn ảnh hưởng tất cả sự sống, tôi có thấy
bản chất tam diện của đời sống, luôn đi song đôi với luật tuần hoàn. Đây là một
học thuyết được tìm thấy trong các tôn giáo lớn. Đó là: Tỉnh (Tamas), Động
(Rajas) và Nhịp (Sattwa). Tôi thật sự không biết Phật Giáo có chủ trương tương
tự hay không? Chúng ta có thể tìm thấy “đến bờ bên kia” xuyên qua ba bản chất
này, trong văn hóa Đông lẩn Tây. Chúng ta có biết câu chuyện về chú sải nhỏ, ở
giai đoạn đầu thì thấy sông là sông, núi là núi, trạng thái “tỉnh” (tamas), tâm
thức biến chuyển sang giai đoạn “động” (rajas) chú ta phát biểu là sông không là
sông, núi không là núi, và sau cùng, sau khi thấu hiểu được cái toàn thể, trạng
thái nhịp (sattwa, trung đạo của tỉnh và động), tức là có tuệ giác, tức là đến
được bờ bên kia thì chú sải kia (chắc là đả trọng tuổi, không thể gọi bằng chú
sải nữa rồi) nói sông là sông, núi là núi, dỉ nhiên giai đoạn ba khác xa với
giai đoạn một, giai đoạn một thì tiêu cực, thụ động và không có thử thách, giai
đoạn ba tích cực, chủ động và vượt qua thử thách. Bài thơ được dịch nôm như
sau:
Khói tỏa Lô Sơn, sóng Chiết Giang
Khi chưa đến đấy, luống mơ màng
Đến rồi hóa vẩn không gì khác
Khói tỏa Lô Sơn, sóng Chiết Giang
Chúng ta cũng có thấy nội dung đó trong nhận định của
Nietzsche khi nói là con người có ba giai đoạn: con lạc đà, con sư tử, và trẻ
thơ hồn nhiên. Ông này ảnh hưỏng mạnh phong trào Hippy thập niên 60, khi mà
giới trẻ bế tắc, phủ nhận giá trị xã hội quy định, đi tìm một cái gì chân thật
và vỉnh cửu. Nội dung này cũng phản ảnh nơi quyển truyện “Câu Chuyện cũa Dòng
Sông” của Hermann Hesse. Trong đó Tất Đạt là người đã trải qua cả ba giai
đoạn: hiền lành chấp nhận, như con lạc đà, giai đoạn “tỉnh” trong thời gian tu
học nơi vị thầy Bà La Môn, giai đoạn hai là giai đoạn nổi loạn, chống đối,
trạng thái “động” của con sư tữ, ông tranh cải và phủ nhận giáo lý của Đức Phật,
Tất Đạt chọn sống cuộc đời của vị thương gia với cô kỷ nử và cuối cùng là giai
đoạn “đến được bờ bên kia” đạo đức hồn nhiên của một trẻ thơ và minh triết của
một ông già, tự do, an nhiên tự tại vượt khỏi mọi ràng buộc và cãm thông dể
dàng với nhân sinh đang chìm đắm đau khổ trong hai giai đoạn đầu. Ngược lại
Thiên Hửu chỉ có một giai đoạn mà thôi, giai đoạn con lạc đà. Yếu tố đau khổ,
yếu tố vô thường, yếu tố ảo ảnh, lòng khao khát sự tự tri thể hiện trong toàn
quyển truyện... Xin chị trình bày tiếp về cái biển thứ hai, hay là nguyên lý
thứ hai: nhị nguyên.
Đáp: Như vậy “đi” là tiệm tiến, đi từ A đến B tiêu thụ một
số lượng thời gian, tức là có yếu tố không gian/thời gian trong đó. Đi trong
thế giới nhi nguyên; đi trong thời gian và không gian; đi trong tương đối, đi
trong tranh chấp chọn lựa, đi trong so sánh hơn thua; đi trong cố gắng và giới
luật…Trong đó có những cặp đôi nhị nguyên tương đối với nhau và thường thì
chúng ta chấp nhận sống một nữa của nhị nguyên, lên án một nữa kia: thiện/ác;
đúng/sai; khôn/dại; có/không; còn/mất; già chết/hết già chết; chứng đắc/không
chứng đắc; sâu/cạn; dơ/sạch; thành công/thất bại…Có sự cố gắng, có giới luật,
có sự lau chùi tấm gương bụi bậm, có tứ diệu đế, có thập nhị nhân duyên, có lục
độ... Nhân loại đả chia đôi thế giới bên ngoài, đề cao thiện, lên án cái ác,
chấp nhận cái đúng, phê phán cái sai, ca tụng khôn ngoan, diểu cợt cái dại dột,
trọng đải thành công, khôi hài cái thất bại của kẻ khác, hể hả khi được buồn
khổ khi mất…Thế giới chúng ta đang sống tràn đầy những thành kiến của nhị
nguyên, lòng trắc ẩn với những người không may không có chổ đứng, sự cạnh tranh
đã trở thành tiêu chuẩn cũa xả hội “văn minh”! Kết quả không thể tránh khỏi là
một thế giới chiến tranh dưới mọi hình thức, tinh thần bất an, lo sợ ... Sự
chấp nhận “trung đạo” xem ra hảy còn quá sức so với trình độ tiến hóa của nhân
loại hiện tại. Khi đề cập đến nhị nguyên, không thể quên đề cập đến Trung Quán
Luận, do ngài Long Thọ (Nigarjuna) đưa ra vào thế kỷ thứ hai, một phương tiện
đưa chúng ta đến bờ bên kia. Trung Quán Luận cho biết chân lý không ở hai cực
đoan, chỉ có thể kinh nghiệm điều này bằng trí tuệ giác. Đời sống của hành giả
sẽ thay đổi toàn diện, quan niệm sống mở rộng, không giới hạn trong thành kiến
hẹp hòi và nhất là lòng bi mẩn phát triển cao độ.
Vấn: Chúng ta có biết trong Ba La Mật
Đa Tâm Kinh có đề cập đến không có chứng đắc. Chúng ta cũng có nghe chủ trương:
không đi mà cũng chẳng có đến. Như vậy là sao?
Đáp: Chúng ta cũng có biết lời khuyên:
“Đừng sống trong quá khứ, cái đả chết, cũng đừng sống trong tương lai là cái mù
mờ chưa xảy ra. Hảy sống trong hiện tại vỉnh cửu”. Đức Phật là người không đi,
không đến, ngài lúc nào cũng tỉnh thức trong hiện tại vỉnh cửu (dừng). Có một
câu chuyện như thế này: Trên bước đường du hành, Đức Phật phải đi xuyên qua
tuyến đường không an ninh. Ngài được khuyên nên chọn một tuyến đường khác, né
tránh chạm trán với một tướng cướp nổi tiếng giết người hung bạo tên là
Angulimala. Dỉ nhiên là ngài từ chối lời khuyên. Ngày hôm ấy, Đức Phật bình
thản khoan thai an nhiên kinh hành, tướng cướp Angulimala vát gươm đuổi theo.
Lạ quá! dù là ngài rất an lac từng bước chân, thế mà tên cướp lực lưởng kia
rượt mãi vẩn không kịp. Cuối cùng, Angulimala bỏ cuộc, đứng lại chống gươm thở
hào hển và la to lên là: “Này ông thầy tu kia, hảy dừng lại”. Khi ấy Đức Phật
thong thả trả lời: “Ta đả “dừng” lại từ lâu lắm rồi, tại sao nhà ngươi chưa
chịu “dừng”? Oai lực của ngài hợp với thiện căn của Angulimala, đúng lúc với
luật nhân quả cho phép để tạo ra giọt nước làm tràn ly nước và cũng đúng ngày
giờ đóa hoa Chân Tâm nở. Angulimala bừng tỉnh cơn mê, vất gươm và quỳ xuống
đảnh lể…Angulimala trở thành tu sỉ kể từ ngày hôm ấy... Nếu anh có hỏi thêm:
“Như vậy trạng thái “dừng” có phải là trạng thái cao nhất?”. Câu trả lời sẻ là
không. Trong hành trình khám phá Chân Ngả, trong những vực sâu kín nội tâm,
hành giả càng tìm thấy những nét huy hoàng càng lúc càng to hơn, và những thực
tại càng sâu sắc hơn. Không bao giờ đến một mức độ để có thể tự nói là: “Đây là
cao nhất, xa nhất, không thể cao và xa hơn nửa”. Vì vậy nguyên lý thứ nhất vẩn
nói là “vượt lên trên sự hiểu biết của nhân loại”. Không có khởi đầu mà cũng
chẳng có chấm dứt, biểu tượng là vòng tròn, chu vi của nó không có điểm khởi
đầu và cũng không có điểm chấm dứt và bán kính thì vô cực, như vậy làm sao chỉ
được điểm nào là điểm chứng đắc bắt đầu? Và điểm nào là điểm chứng đắc cuối
cùng? cao nhất trên cái chu vi? chúng ta cũng không thể vẻ vòng tròn bán
kính bằng vô cực!
Riêng về trạng thái “đến” tôi có tham khảo một huynh
trưởng, người mà tôi ngưởng mộ về mọi mặt, huynh ấy phát biểu: “đến” là một dấu
hiệu bắt đầu, khi bạn ứng dụng thuyết trung quán luận vào đời sống, khi mà trực
giác cho thấy trọn vẹn con đường, và chỉ là bắt đầu mà thôi, trong hành
trình dài đến nguyên lý thứ nhất, nguyên lý tự tính không, và chẳng có gì phải
tự hào. Các bạn có trọn quyền tự do kiểm chứng bằng kinh nghiệm của các bạn.
Với trường hợp “dừng” hay là “hiện tại vỉnh cửu” vàng ròng không thể trở lại
thành quặng mỏ. Ngược lại trường hợp “đến” không như vậy, hành giả vẩn bị vấp
ngả, và chưa hoàn thiện, con đường hảy còn dài...
Vấn: Một câu hỏi cuối cùng, “đến” có
phải là hiện trạng chỉ xảy ra cho những người theo đuổi sự tự tri? Và câu
chú chị đả viết trên bải biển hình như gắn liền với bài kinh Ba La Mât Tâm
Kinh, và Lục Độ hay là sáu Paramitas, tại sao có sự gắn liền đó?
Đáp: “Đến” không có kỳ thị hạng người
nào cả. Giới nghệ sỉ, giới Khoa học gia…vẩn thường xuyên có được trực giác và
hứng khởi tinh thần từ những cỏi giới cao. Kinh sách xưa vẩn có nói: “Người
nghệ sỉ chân chính, vì lòng trong sạch yêu nghệ thuật mà làm việc, nhiều khi
còn đi đúng con đường chính hơn là một tu sỉ tưởng mình là người siêu thoát, đả
rời bỏ bản ngả, nhưng thực sự họ chỉ mở rộng biên giới của kinh nghiệm và dục
vọng tế nhị”. Khi nghe lại hòa tấu của những nhạc sỉ lớn, có cãm hứng từ thiên
nhiên như là Felix Mendelssohn, Antonio Vivaldi, Bach, Bethoven … chúng ta có
thể cảm được sự rung động tinh tế, thanh cao và cộng hưởng với nguồn hứng
khởi của tác giả. Nếu những nhà tôn giáo, thiền gia đi bằng con đường chân lý,
và bác ái thì những người nghệ sỉ đi tìm sự hội nhập với chân ngả xuyên qua con
đường mỷ lệ. Tất cả con đường đều đi đến mục đích. Đến là giọt nước cuối cùng
làm tràn đầy ly nước, trạng thái cuối cùng của đi. Khi “đi” chấm dứt là “đến”
xuất hiện, nếu không bỏ cuộc nửa chừng. Trong một quyển kinh Phật nào đó, tôi
quên mất tên, có nói: một khúc gổ nếu không vướng vào ghềnh đá, nếu không mục
nát từ bên trong, một ngày nào đó cũng trôi được ra biển cả. Riêng về phần hai
của câu hỏi về sự liên đới giữa “bờ bên kia” và lục độ, xin phép anh cho những
lần sau, dỉ nhiên là có liên hệ đến đề tài hôm nay, nhưng mà bài viết đả dài
quá rồi!
Vấn: Xin phép chị tôi tóm tắt lại đề
tài hôm nay. Có nhiều con đường đi để có thể đến được bờ bên kia. Đừng câu nệ
tự lực hay tha lực, đốn ngộ hay tiệm ngộ, tại sao lại phải phân biệt như vậy?
Kinh nghiệm đến bờ bên kia nên xem như một kết quả tự nhiên xảy ra khi mà giới,
và định lực đầy đủ, hay là động lực nội tâm đủ mạnh. Giống y như khi chúng ta chuẩn
bị đầy đủ chai, lọ, ống nghiệm, tia lữa điện, xong thu thập hai phần oxy và một
phần hydro, đúng thời điểm đó tạo một tia lữa điện, nước sẻ xuất hiện (sự sắp
xếp chai, lọ, ống nghiệm…có giá trị như một nghi lể đọc kinh của phái tịnh độ).
Lời đề nghị ở đây là hảy tự biết mình, ưu và khuyết điểm. Xử dụng ưu điểm, thí
dụ bạn nhạy cảm và yêu thích thiên nhiên, yêu nghệ thuật, yêu sự mỹ lệ, hảy đến
với thiên nhiên mổi ngày, cần có một “công án” trong tâm trí. Chúng ta bắt đầu
bằng những nghi vấn, bằng những câu hỏi. Lòng yêu thích chân lý sẽ tạo ra một
định lực, định lực này sẽ lôi kéo chúng ta vào đề tài trong giờ thiền định, và
kéo dài ngoài giờ thiền định, mổi khi ta có giờ rảnh (ra chơi, làm vệ sinh, lái
xe đi làm, thức dậy nữa đêm…và đấy là một phản ứng tự nhiên) lời giải đáp, hay
là điểm “đến” sẻ xảy ra bất ngờ. Khi ấy mọi nghi vấn chấm dứt, sự tự tin trở
nên sống động, niềm an lạc ngự trị, kinh nghiệm được sự toàn vẹn rộng mở, mọi
giới hạn không còn nữa. Có một gợi ý như thế này: Trong toán học định nghĩa:
“cái chấm là một vòng tròn không có bán kính” và “vòng tròn được định nghĩa là
một cái chấm, bán kính bằng vô cực”. Chúng ta thấy ngay cái chấm có cùng bản
chất với vòng tròn, cùng nằm trong luật đồng thanh tương ứng, sự vô hình “không
bán kính” của cái chấm và sự bao la “vô cực của bán kính” của vòng tròn đều
vượt ra ngoài cái trí “cụ thể” của chúng ta. “Đến” là trạng thái cái chấm trở
thành vòng tròn, chúng ta kinh nghiệm được không biên giới, vượt lên trên những
cố chấp của giới hạn…và khi “đến” cả ba trạng thái không thể phân chia cùng
xuất hiện, đó là Minh Triết, Bác Ái và Ý Chí kèm theo niềm an tịnh vô biên.
Phật Giáo gọi là Bi, Trí, Dủng. Những ai có kinh nghiệm nếm được niềm an lạc
này đều ao ước tất cả nhân loại đều có được như vậy, nhưng mà sẽ không có thực
tế chút nào, ai có ăn thì người ấy no lòng, phải không các bạn? Kinh nghiệm bờ
bên kia, hay là bên kia bờ đại dương là một kinh nghiệm thực tại, ngay tại nơi
đây, ngay lúc hiện tại khi mà tâm thức bừng sáng, bừng nở như cánh hoa sen đúng
ngày giờ dưới ánh nắng mặt trời.
Đáp: Cám ơn anh nhiều lắm, nhưng mà
anh phải giúp tôi, sau nhiều giờ đi bộ, tôi không thể tìm lại câu chú tôi đả
viết trên bải biển! Có lẻ nội dung là “bờ bên kia” tôi lại viết sai vị trí ở
“bờ bên này” cho nên sóng biển đả mang dùm cho tôi câu chú ấy vượt biên sang bờ
bên kia rồi! (cười) Vã lại làm gì có “bờ bên này” hay “bờ bên kia” anh
nhỉ? (Họ có với nhau những nụ cười hồn nhiên và nguồn hạnh phúc an lạc)