Mục lục
Lời giới
thiệu
Thay lời
tựa
Tiểu dẫn
Phần 1:
Tổng luận
I. Kinh
42 chương với so sánh luận
II. Loại
hình Kinh 42 chương
III.
Khái quát nội dung tư tưởng Kinh 42 chương
Phần 2:
Lược giải Kinh 42 chương
Chương
1: Định nghĩa Sa môn và Sa môn quả
Chương
2: Đối tượng tu tập
Chương
3: Sa môn hạnh
Chương
4: Thập thiện - Thập ác
Chương
5: Lỗi lầm và hối quá
Chương
6: Phỉ báng thiện và ác quả dị thục
Chương
7: Thái độ của Đức Phật trước lời khiển trách
Chương
8: Ác giả ác báo
Chương
9: Giá trị tri và hành
Chương
10: Phước đức tuỳ hỷ hạnh bố thí
Chương
11: Đối tượng và phước đức của bố thí
Chương
12: 20 điều khó của kiếp người
Chương
13: Điều kiện chứng túc mạng minh
Chương
14: Định nghĩa thiện và vĩ đại
Chương
15: Nhẫn nhục
Chương
16: Điều kiện con đường đạt đạo
Chương
17: Ánh sáng người đạt đạo
Chương
18: Cốt tuỷ của đạo Phật
Chương
19: Nguyên lý vô thường của vạn pháp
Chương
20: Hữu thể con người: Vô thường, khổ, vô ngã
Chương
21: Danh vọng: Thú vui ít giá trị
Chương
22: Tài sắc: Ngọt ít, đắng nhiều
Chương
23: Ân ái là tù ngục
Chương
24: Ái dục khổ đệ nhất
Chương
25: Lửa ái cháy tay
Chương
26: Thiên ma dâng ngọc nữ
Chương
27: Lại nói về điều kiện đạt đạo
Chương
28: Không nên chủ quan
Chương
29: Đoạn trừ tâm ái dục – duy trì phạm hạnh
Chương
30: Tránh dục như tránh lửa
Chương
31: Đoạn âm không bằng đoạn tâm
Chương
32: Diệt ái dục, ly sinh tử
Chương
33: Tỳ kheo-chiến sĩ diệt lậu hoặc
Chương
34: Độc lộ giải thoát
Chương
35: Bỏ cấu nhiễm tâm, đạt đạo giải thoát
Chương
36: Lại nói về cái khó của con người
Chương
37: Chứng đạo phải do sự tu tập
Chương
38: Mạng sống con người chỉ trong một hơi thở
Chương
39: Chư pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ
Chương
40: Thân hành đạo - Tâm hành đạo
Chương
41: Tinh tấn - Bỏ tình dục
Chương
42: Phương tiện tri kiến, Như thị tri kiến
Phụ lục
Lời giới thiệu
Phật pháp
vốn không sinh diệt, không biến đổi, nhưng giáo lý Đức Thế Tôn dạy ta lại vô
cùng khế lý, khế cơ. Kinh điển về Phật pháp ngày nay được lưu hành vô số.
84.000 pháp môn là cả một khung trời mở rộng cho các hành giả tìm về tự tâm.
Khi Phật giáo truyền vào Trung Hoa, phần đông mọi người rất hoang mang khi phải
lựa chọn một “món hàng” tâm linh với quá nhiều mặt hàng tôn giáo bản địa. Hai
dịch giả cuốn Kinh Bốn Mươi Hai Chương
là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đã tỏ ra là người hiểu rõ tâm lý quần chúng
khi dịch và ấn hành quyển kinh quý này đầu tiên tại Trung Quốc.
Khác với những giáo điều, lý
thuyết của phần nhiều các tôn giáo, kinh điển Phật là những bài, những sách dạy
về thực hành. Tinh thần thực nghiệm của kinh Phật xuyên suốt từ truyền thống
phát triển phương Bắc. Kinh Bốn Mươi Hai
Chương dạy chúng ta các pháp hành đưa đến giác ngộ giải thoát một
cách cụ thể, rõ ràng qua những lời hướng dẫn thiết thực đầy khoa học và những
thí dụ mộc mạc giàu tính nhân bản.
Chúng tôi có duyên may được xem
qua một số sách luận giải của chư vị tôn túc về Kinh Bốn Mươi Hai Chương. Nhưng đây là lần đầu một vị tăng
trẻ đã mạnh dạn đem kinh này ra đối chiếu với các môn khoa học. Phương pháp
tiếp cận này tỏ rõ ĐĐ. Thích Nhật Từ đã nhận chân được rằng: “Phật pháp siêu
việt thời gian” và thích nghi với mọi tiến triển của thời đại. Phật pháp là môn
khoa học, bao trùm cả khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội. Việc làm của tác
giả tuy có vẻ táo bạo, nhưng càng làm rạng tỏ điều này hơn. Ngày nay hơn bao
giờ hết, phần đông các nhà nghiên cứu đang nhìn về kho tàng Phật học bằng con
mắt thèm thuồng đầy thích thú.
Bằng phương pháp tiếp cận và đối
chiếu với các kinh Nikaya của Nam tông, tác giả tuy đã đi ngược lại quá trình
của soạn giả Kinh Bốn Mươi Hai Chương
này (nhằm rút gọn một số điều tiêu biểu của Thế Tôn đã dạy) và đã thuyết phục
độc giả rằng: Kinh Bốn Mươi Hai Chương,
cũng như các kinh Bắc truyền khác đều mang tính chất nguyên thuỷ. Với lòng tin
biết như vậy, các độc giả sẽ dễ khởi lòng tin đối với kinh này hơn. Đây là một
việc làm cần được tán thán.
Với tư tưởng này, tuy không phải
là “ba y và một bát”, mà bằng khối óc và ngòi bút, tác giả nỗ lực nối bước các
bậc tiền nhân trong việc hoằng dương chánh pháp. Để đáp lại chân tình ấy, chúng
tôi kính mong quý độc giả xem quyển sách này như một cẩm nang để “sống”. Như
thế mới không cô phụ sự giáo huấn của Thế Tôn và chư Tổ.
Tháng 04 - 1994
Cẩn đề
VÔ THỨC
TIỂU DẪN
I. KINH
BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG VÀ CON ĐƯỜNG PHẬT GIÁO DU NHẬP TRUNG QUỐC
Nói đến Kinh Bốn Mươi Hai Chương là nói đến cái
mốc thời gian quan trọng: Phật giáo du nhập vào Trung Quốc. Ngày nay, các nhà
học giả Phật giáo, các nhà sử học Tây phương căn cứ vào các công trình khảo cổ
có giá trị và các tác phẩm quan trọng như Hậu
Hán Thư, Phật Tổ Thống Ký,
Hoằng Minh tập, Chúng Kinh Mục Lục và các tư liệu liên
quan khác, đã chứng minh được rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc vào hậu bán
thế kỷ I (sau T.L), bằng đường thông thương trên bộ. Khởi đầu từ miền Tây Bắc
Ấn Độ đến Peshawar dọc theo Bamiyan và Balkh về hướng Đông đến Kasligar xuyên qua Kucha về hướng
Đông Bắc rồi đến Khotan về hướng Nam, rẽ sang Đôn Hoàng vào Trung
Quốc.
Phái đoàn truyền giáo đầu tiên
theo đường thông thương này là hai vị cao tăng người Trung Ấn. Các ngài đi bằng
ngựa đem theo nhiều Kinh Luật Luận quan trọng của hai hệ phái Nam tông và Bắc
tông. Cuộc hành trình truyền giáo đã mất một thời gian dài đầy cam go thử
thách. Vị thứ nhất tên là Ca Diếp Ma Đằng (Kasyapa Matanga), vị thứ hai tên
Trúc Pháp Lan (Gobharana). Niên hiệu Vĩnh Bình thứ 10 (tức năm 67 T.L) phái
đoàn truyền giáo được Hán Minh Đế tiếp đón nồng hậu và cho xây dựng chùa Bạch
Mã, ngôi chùa đầu tiên tại Trung Quốc làm nơi tàng trữ kinh điển và phiên dịch
Đại Tạng. Công trình truyền bá này tuy không mang tầm vóc lớn lao như sau này,
nhưng nó mở ra một kỷ nguyên mới cho người dân Trung Quốc, kỷ nguyên bắt đầu hé
mở bình minh chân lý Phật giáo tại nước này.
Cũng chính trong thời điểm lịch
sử trọng đại trên, Kinh Bốn Mươi Hai
Chương (Sutra in 42 chapters) được hai ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc
Pháp Lan phiên dịch đầu tiên ra Trung văn. Do đó, có thể nói, Kinh Bốn Mươi Hai Chương gắn liền với
lịch sử Phật giáo truyền bá vào Trung Quốc và đồng thời cũng là thời điểm khơi
nguồn cho công trình phiên dịch Đại Tạng Sanskrit và Pali ra quốc ngữ Trung
Quốc về sau.
II. Ý NGHĨA KINH BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG
Bản nguyên tác Kinh Bốn Mươi Hai Chương bằng chữ
Sanskrit được trích tuyển có chọn lọc và rất đặc sắc từ các bản kinh Bắc tạng,
nằm rải rác trong các Kinh Tăng Nhất A Hàm (Tăng
Chi), Tạp A Hàm (Tương Ưng)
và Pháp Cú. Nó không phải là một quyển kinh theo nghĩa truyền thống của pháp
hội, mà là công trình kết tập công phu của các vị Thánh đệ tử người Ấn (giống
trường hợp góp nhặt đa dạng của Kinh Pháp Cú) do hai ngài Ca Diếp Ma Đằng và
Trúc Pháp Lan hợp dịch ra Trung văn.
Mỗi một chương kinh văn được
trích dịch hoặc lược dịch từ một bài kinh nào đó trong kinh hệ Bắc tạng, đánh
theo số thứ tự từ chương 1 đến chương 42 mà không có tựa đề của từng chương.
Như vậy, 42 Chương là được trích dịch hoặc lược dịch từ 42 bài kinh khác nhau.
Tuy nhiên trong thời gian biên soạn, người viết đã truy nguyên được xuất xứ của
10 chương: 12, 17, 26, 27, 29, 32, 33, 34, 35, 38. Các chương còn lại đang tiếp
tục nỗ lực khảo cứu. Về nội dung, mỗi chương mang một sắc thái giáo dục độc
lập, đa dạng nhưng cùng hướng đến một mục tiêu nhất quán là giúp mọi hành giả
trau dồi đạo đức nhân bản, đạo đức phạm hạnh, hướng đến hạnh phúc giải thoát.
Tuy nhiên, có một số chương mang ít nhiều bản sắc Bắc tông mà trong Nam tông với
năm bộ Nikaya hay bốn bộ A Hàm tương đương không có. Âu đó cũng là dụng ý của
trích tập và phiên dịch.
Chính vì thế, học Kinh Bốn Mươi Hai Chương chúng ta sẽ dễ
dàng hình dung ra rằng những kinh văn truyền thống, những giáo nghĩa phát triển
đan quyện vào nhau như một mạng lưới chằng chịt, nhằm xiển dương chân lý duy
nhất là: Chánh pháp của Đức Phật, gốc, ngọn, nhánh, lá, truyền thống hay phát
triển, Nam truyền lẫn Bắc truyền đều có chung một hương vị: Giác ngộ giải
thoát. Đây cũng chính là hương vị đặc thù, độc hữu của Phật giáo.
III. CÁC BẢN DỊCH, CHÚ KINH BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG
A. Bằng chữ Hán tại Trung Quốc
1. Tứ Thập Nhị Chương Kinh, Ca
Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan hợp dịch đời Hậu Hán, (67 T.L) (sơ dịch).
2. Tứ Thập Nhị Chương Kinh, Ngô
Chi Khiêm dịch, sau bản sơ dịch vài năm.
3. Tứ Thập Nhị Chương Kinh, Hiếu
Minh Hoàng đế, đời Tiền Tấn (351-394, T.L).
4. Tứ Thập Nhị Chương Kinh, Tống
Chân Tông Hoàng đế, chú giải (960, T.L).
5. Tứ Thập Nhị Chương Kinh Chú,
sa môn Thủ Toại đời Minh (1368-1661) chú giải, sa môn Liễu Đồng bổ chú.
6. Tứ Thập Nhị Chương Kinh Giải,
sa môn Tri Húc (1599-1655) đời Minh chú giải.
7. Tứ Thập Nhị Chương Kinh Chỉ
Nam, sa môn Đạo Bái đời Minh soạn.
8. Tứ Thập Nhị Chương Kinh Sớ
Sao 5q, sa môn Tục Pháp thuật.
9. Tứ Thập Nhị Chương Kinh Chú,
Thái Hư Đại sư chú giải (1941).
10. Tứ Thập Nhị Chương Kinh Chú,
Đinh Phúc Bảo chú giải (1959).
B. Bằng chữ Hán-Việt tại Việt
Nam
1. Tứ Thập Nhị Chương Kinh,
Trung tâm Phật giáo Luy Lâu, Giao Châu, thế kỷ I.
2. Tứ Thập Nhị Chương Kinh Khoa
Chú, đời Trần (1225-1400).
3. Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học xuất bản
(1939-1945).
4. Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giải Thích, HT. Hoàn Quan chú
giải (1963).
5. Kinh Bốn Mươi Hai Chương, HT. Thanh Cát dịch (1965).
6. Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Hội Bồ đề Chợ Lớn dịch (1967).
7. Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Trí Đức Tòng Thư xuất bản
(1971), Đoàn Trung Còn dịch chú.
8. Kinh Những điều Phật dạy, sa
môn Thái Không dịch (1978).
9. Một số bản khác như các bản
của TT. Minh Thông, HT. Từ Thông, TT. Pháp Chiếu v.v…
IV. NGUYÊN TẮC BIÊN SOẠN
A/ Quyển “Tìm hiểu
Kinh Bốn Mươi Hai Chương” được biên soạn gồm 2 phần:
- Phần một: Tổng luận về Kinh
Bốn Mươi Hai Chương bằng cách so sánh với biện chứng pháp, quy nạp
pháp, diễn dịch pháp; phân tích loại hình, thể tài và khái quát về nội dung tư
tưởng toàn bộ kinh văn.
- Phần hai: Dịch nghĩa, lược giải kinh văn theo phương pháp
phân tích, so sánh đối chiếu với kinh điển Nam Bắc truyền, để người đọc có thể
kiểm chứng, so sánh rõ ràng khi cần đến. Các đầu đề đều do chúng tôi đặt ra ứng
với nội dung của các bài kinh.
B/ Tài liệu tham khảo
1. Kinh Bốn Mươi Hai Chương Chú Giải của HT. Hoàn Quan
(1963).
2. Lược sử Kinh Bốn Mươi Hai Chương của TT. Thiện
Nhơn (1989).
C/ Kinh sách minh họa
- Hòa thượng Trí Tịnh dịch:
1. Kinh Đại Bảo Tích tập III, VI, 1988
2. Kinh Đại Niết Bàn, 2 tập, PL. 2510
3. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Hán Việt đối chiếu
4. Kinh Địa Tạng, Hán Việt đối chiếu
- Hòa thượng Minh Châu dịch:
5. Trường Bộ Kinh, Pali – Việt đối chiếu
6. Trung Bộ Kinh, 1988
7. Tăng Chi Bộ Kinh, 1988
8. Tương Ưng Bộ Kinh, 1982
9. Tiểu Bộ Kinh, 1982
10. Thắng Pháp Tập Yếu Luận, tái bản 1971
- Hòa thượng Tịnh Sự dịch:
11. Bộ Pháp Tụ, 1990
- Đinh Phúc Bảo:
12. Phật Học Đại Từ Điển, trọn bộ
- Sám Vân:
13. Bách Pháp Minh Môn Luận Biểu Giải
- Mai Hạnh Đức dịch:
14. Kinh Thủ Lăng Nghiêm
15. Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
16. Kinh Kim Cang Bát Nhã
17. Kinh Pháp Bảo Đàn
Thay Lời Tựa
Quyển “Tìm Hiểu Kinh Bốn Mươi Hai Chương” là
một tiểu luận được tác giả thực hiện thay cho bài thi của môn Kinh Tứ Thập Nhị Chương do HT. Thích
Thiện Trí dạy trong chương trình Trung Cấp Phật Học tại chùa Vĩnh Nghiêm cách
đây 20 năm.
Tác phẩm được phân tích trong
mối liên hệ giữa Kinh tạng Đại thừa và kinh điển Pàli. Hơn phân nửa số chương
được đức Phật dạy cho người xuất gia về các phương châm hành đạo, chuyển hoá
khổ đau, trao dồi tuệ giác để làm cẩm nang nhập thế. Số chương còn lại dạy cho
cả hai giới Tăng Tục. Mỗi một chương tuy rất ngắn, nhưng ý nghĩa lại rất cô
đọng, súc tích và rất sâu sắc.
Cấu trúc của tác phẩm này được
phân thành hai phần: Tổng luận và Phân tích. Phần tổng luận nhằm so sánh một
cách bao quát giữa Kinh Bốn Mươi Hai
Chương với các phương pháp tư duy triết học, cũng như giá trị và ý
nghĩa của kinh. Phần phân tích giới thiệu bao quát nội dung và yếu nghĩa của
từng chương. Mỗi chương bắt đầu bằng đoạn kinh nguyên tác được dịch Việt, theo
sau là phần lược giải, bao gồm giải thích các thuật từ nội dung và phân tích
các ứng dụng.
Trong phân tích, tác giả đã
trích dẫn phần lớn kinh điển thuộc Trung bộ Pàli, trong sự so sánh đối chiếu
với kinh Đại thừa để nhằm minh chứng rằng tư tưởng chủ đạo của hai hệ thống Đại
thừa và Pàli vốn dĩ chỉ là một và đều có đủ trong Kinh Bốn Mươi Chương.
Do vậy, việc nghiên cứu và hành
trì nội dung kinh này như sách gối đầu giường, có thể giúp người hành trì đạt
được tinh hoa tỉnh thức và an vui.
Sài Gòn 03/ 01/ 2008
Thay lời Tủ Sách Đạo Phật
Ngày Nay
Thích
Quảng Tâm