Phật Học Online

Phật giáo và dân số
(Bài giảng khóa tu Một ngày an lạc tại chùa Phổ Quang) HT Thích Trí Quảng

HT Thích Trí Quảng

Chủ đề nêu ra nghe hơi lạ, kinh Phật có nói đến vấn đề này hay không, tại sao chúng ta lại đề cập. Phật dạy rằng những gì Ngài đã nói chỉ là phương tiện; còn việc chính yếu là Ngài làm cho cuộc sống con người hướng thượng và thăng hoa. Vì vậy, Đức Phật có vô số phương tiện; cho nên trước khi Phật Niết bàn, Ngài nhắc lại rằng những gì Ngài nói nên coi là phương tiện của thời kỳ đó và quốc độ đó; nhưng gặp hoàn cảnh khác, quốc độ khác thì Phật không nói như vậy. Trong kinh, Đức Phật cho biết thế giới của Phật Hương Tích chỉ thuyết pháp bằng mùi hương, ngửi mùi hương thì tâm người ở thế giới đó được thanh tịnh, giải thoát, cho nên không cần dùng ngôn ngữ. Còn ở thế giới Cực Lạc thì tâm đại chúng hoàn toàn thanh tịnh, vì từ tâm và bản nguyện của Phật Di Đà truyền sang cho đại chúng thanh tịnh. Như vậy, ở Cực Lạc, Phật Di Đà thuyết pháp bằng tâm.

Còn ở Ta bà thì Phật Thích Ca tùy theo chỗ, tùy theo bộ tộc khác nhau mà Ngài khai thị bằng ngôn ngữ tương ưng để họ có thể tiếp nhận mà thực tập trong cuộc sống. Đức Phật cho biết những gì Ngài nói ví như lá trong tay, có nghĩa là những gì Phật nói có giá trị nhất định ở thời đó; còn những người ở nơi khác, ở hoàn cảnh khác thì có thể dùng để tham khảo, rút kinh nghiệm. Và Đức Phật khuyến cáo rằng phải phát huy trí tuệ và đối mặt với cuộc sống để giải quyết mọi việc được tốt đẹp; đó là trách nhiệm của chúng ta. Vì vậy, Phật nói rằng một người chỉ giải quyết được một phần việc, nhiều người sẽ có được nhiều sáng kiến khác nhau. Cho nên, Ngài đề cao sáng kiến của tập thể vẫn hơn quyết định cá nhân.

Ở thời đại của chúng ta, vấn đề khủng hoảng dân số được đặt ra, vì với cái đà tăng trưởng dân số quá nhanh, có thể trong vòng 50 năm cho đến 100 năm nữa, thức ăn sẽ bị cạn kiệt và còn biết bao vấn đề nan giải khác nữa. Lúc đó, chúng ta không còn hiện hữu trên cõi đời này, nhưng thế hệ con cháu của chúng ta phải đối mặt; cho nên chúng ta không thể làm ngơ. Cả thế giới quan tâm đến vấn đề bùng nổ dân số, thì chúng ta cũng cần quan tâm, hãy xem sự tu chứng của mình như thế nào để có thể có sự đóng góp chung cho nhân loại. Thiết nghĩ ý kiến riêng của tôi không đủ, phải có ý kiến của Tăng Ni và Phật tử để đưa ra sáng kiến tốt nhất cho xã hội chúng ta và cho cả nhân loại.

Vấn đề dân số ở thời kỳ Phật tại thế đương nhiên chưa được đặt ra, vì lúc đó, dân số thế giới có khoảng vài trăm triệu; nhưng ngày nay dân số toàn cầu tăng lên đến 6 tỷ người, tạo thành cuộc khủng hoảng đáng sợ. Vì vậy, chúng ta cần có sự đóng góp nhất định cho sự tồn tại của nhân loại.

Có người cho rằng cần hạn chế sinh đẻ để dân số không tăng; nhưng từ đó lại tạo thành một bất cập khác và một số tôn giáo khác đã không đồng ý giải pháp này, nhất là tôn giáo nhất thần cho rằng không được hạn chế sinh đẻ, vì làm như vậy là trái với ý của Thượng đế. Họ bảo Thượng đế cho sinh bao nhiêu đứa con thì phải sinh thôi. Nếu không nghe lời Thượng đế thì đó là một cái tội, không được lên thiên đường.

Ngoài ra có một tư tưởng cực đoan khác, chủ trương hạn chế tối đa sự tăng trưởng dân số, chỉ nên có khoảng hơn 1 tỷ người thôi và mỗi người chỉ sinh một con. Nếu áp dụng giải pháp này thì Trung Quốc gặp khủng hoảng khác nữa, vì theo tập quán của nước này, chỉ có con trai mới nối dõi dòng giống được. Cho nên họ cố gắng sinh con trai, lỡ sinh con gái thì phạm tội lớn, nên phải giết chết đứa bé từ trong bào thai. Nhưng nếu chỉ được sinh một con trai để nối dòng họ, thì Trung Quốc sẽ có đàn ông nhiều hơn đàn bà; đó cũng là một vấn nạn. Như vậy, chúng ta thấy giải quyết vấn đề này lại nảy sinh ra vấn đề khác, chỉ ở trong cái vòng luẩn quẩn không thoát ra được.

Trong khi đó, một số nước văn minh tự hạn chế việc sinh con; nên dân số nước họ không tăng; còn các nước lạc hậu lại để phát triển tự do việc sinh đẻ thì sẽ xảy ra tình trạng là những người không tốt sẽ tăng, điều này cũng nguy hiểm. Nước Pháp trước năm 1945 có 50 triệu dân, nhưng nay dân số cũng vậy, họ cố giảm, không cho tăng dân số. Nhưng họ lại gặp vấn nạn khác là những người nhập cư bất hợp pháp vào nước Pháp hơn mười mấy triệu người. Những người này bị chính phủ đặt ra ngoài lề xã hội, không được đối xử tốt, không được giáo dục tốt, lại tạo thành một khủng hoảng nữa. Ở Mỹ, thời xưa, dân da đen là nô lệ, nhưng số dân này tăng nhanh và ngày nay, Tổng thống Mỹ cũng da đen; nên họ lo ngại. Bản thân một người hạn chế sinh đẻ thì không đủ để giải quyết được vấn đề tăng dân số, mà đó là việc của toàn xã hội cho đến của toàn cầu, vì đây là một vấn đề lớn, nên sự đóng góp của chúng ta rất cần.

Người Nhật có ý kiến hay, theo họ, sinh con gái, hay con trai không quan trọng; nhưng phải sinh con tốt, con giỏi. Vì theo tinh thần Phật dạy, nam nữ bình đẳng, không phân biệt giới tính, không phân biệt giai cấp. Ở Nhật có điều đặc biệt là không nhất thiết phải lấy họ cha. Tôi thấy Thủ tướng Sato thời tôi học ở Nhật, ông này thật sự mang họ Kishi rất nổi tiếng. Dòng họ này có ba anh em thay nhau làm Thủ tướng. Ông Thủ tướng đầu của dòng họ này cũng xuất thân từ Tịnh độ tông, nên ông có mục tiêu xây dựng nước Nhật theo mô hình Cực lạc, nghĩa là mô hình xã hội văn minh. Ông nói Phật Di Đà trước khi về Cực lạc thì nơi đó không phải là Cực lạc, nhưng với trí tuệ của Phật Di Đà, Ngài đã chuyển đổi thế giới đó thành Cực lạc. Người Nhật chủ trương tu Tịnh độ là phải xây dựng nơi mình đang sống theo đạo Phật, tức xây dựng xã hội tốt; nhưng xây dựng bằng cách nào? Ông Thủ tướng này có người em trai rất giỏi và lập gia đình với dòng họ Sato không có con trai, cho nên người em đã chuyển qua dòng họ Sato. Như vậy, người Nhật chủ trương thành lập gia đình hoặc sử dụng họ của chồng, hoặc họ của vợ, không lo sợ tuyệt tộc. Việc nối dòng giống của họ bằng cách có trí tuệ, không giết con gái mà cũng không sợ tuyệt tộc. Cách thứ hai của sự kế thừa là ai nuôi dưỡng nên người thì lấy theo họ của người đó, có thể là họ cha hay họ mẹ. Nếu cha mẹ không có khả năng nuôi con, mà để cho người khác nuôi thì khi đứa bé trưởng thành, nó kế thừa theo dòng họ của người nuôi nó. Người Nhật chấp nhận giải pháp này ổn thỏa, có thể lấy họ cha hay họ mẹ tùy theo sự bàn bạc của gia đình một cách hợp lý. Nếu hai gia đình có một con trai và một con gái, thì một đứa lấy họ cha, một đứa lấy họ mẹ. Họ giải quyết hợp tình hợp lý, không bắt buộc phải theo truyền thống, nên mọi người thấy an tâm và tạo được một xã hội quân bằng. Dân số Nhật không tăng, lúc tôi tu học ở đó thì dân số của họ là 110 triệu, nay cũng vậy.

Không có trí tuệ, không có được biện pháp thỏa đáng mà cứ nhất định phải hạn chế dân số thì cũng không giải quyết được vấn đề mà còn phải đối đầu với nhiều khó khăn khác xảy ra. Còn chủ trương không hạn chế sinh sản và nghĩ rằng phải có con để nối dòng, rồi sanh đẻ bừa bãi cũng rất nguy hiểm, tạo thêm nhiều vấn nạn cho xã hội. Phật tử phải có trí tuệ để nhận thấy được việc nào lợi ích cho bản thân mà cũng góp phần tốt đẹp cho xã hội thì theo đó mà làm. Một số nước theo các tôn giáo chủ trương rằng trời cho sao thì chịu vậy, rồi sinh đẻ tràn lan, không nuôi nổi và đẩy chúng ra lề đường lang thang, gây nguy hiểm cho chúng và tạo bất an cho xã hội. Xã hội Nhật không có tình trạng này, vì họ sắp xếp hợp lý nên xã hội an lạc. Còn sắp xếp không hợp lý, thì nhiều vấn đề sẽ xảy ra, cho đến chiến tranh bùng nổ cũng do sự sắp xếp không hợp lý. Thật vậy, nếu trong xã hội có nhiều thành phần lang thang, bất mãn; khi chúng còn nhỏ thì chỉ gây rối trật tự xã hội, nhưng nếu chúng tập họp thành từng nhóm nhỏ có người lớn phía sau xúi bẩy, sai khiến thì sẽ làm loạn, sẽ chống đối, cho đến lật đổ chính quyền. Biết bao vấn đề phức tạp phát sinh do sự sắp xếp bất cập.

Muốn sắp xếp trật tự, từ cái gốc phải hợp lý. Tôi hỏi một người bạn vì sao anh không lập gia đình. Anh ta nói vì mắc bệnh di truyền, anh khổ nhiều vì bệnh, nên không muốn nỗi khổ này tiếp diễn trong xã hội cho thế hệ kế tiếp. Theo Phật, có trí tuệ, chúng ta biết cái gì khổ thì không để cho nó tiếp diễn là có sự tính toán hợp lý. Tôi gặp một người khác bị cận thị nặng 9 độ lập gia đình với người vợ cận thị 13 độ. Họ sống với nhau nhưng không sinh con, vì sinh con thì nó có thể sẽ bị cận hơn 20 độ; đó là sự sắp xếp có trí tuệ. Hoặc có người bị nhiễm chất độc, nếu sinh con sẽ bị dị tật, nên họ tuyệt đối không sinh con, để không làm con khổ và không làm xã hội nhức nhối thêm.

Thiết nghĩ người có trí tuệ học Phật không làm nhẹ gánh nặng cho cuộc đời thì thôi, chứ không làm xã hội xấu thêm. Người không có gia đình, hay không sinh được con tốt, nhưng giàu có, nên họ hiến tặng tài sản cho các cơ quan từ thiện, hoặc họ chọn những đứa trẻ tốt của gia đình nghèo để nuôi dưỡng, cho học hành thành tài, đưa vô xã hội những con người tốt. Hoặc đỡ đầu cho những sinh viên học giỏi, thiếu điều kiện kinh tế, giúp những người này thành đạt sự nghiệp là kỹ sư, bác sĩ, bác học, v.v…, nghĩa là họ đã đóng góp cho an sinh xã hội. Nhờ vậy, nhân tài luôn tấn xuất, không cần đứa trẻ là dòng họ, dòng máu của mình, nhưng cần đưa vô xã hội những nhân tài càng nhiều càng tốt; đó chính là sự thể hiện cao độ tinh thần vị tha vô ngã theo Phật giáo. Từ căn bản này, người ta tự đóng góp xây dựng xã hội văn minh; vì xã hội văn minh thì cần phải có con người văn minh.

Tu theo tinh thần Đại thừa, mặc dù cá nhân ta không làm việc xấu, nhưng sai lầm của người khác tạo thành sự tác hại cho xã hội thì chúng ta cũng phải gánh chịu. Ví dụ ta không nghiện, nhưng các con nghiện ở thành phố đông tạo thành tệ nạn cướp giật trên đường phố, làm chúng ta cũng bị bất an. Vì vậy, chúng ta phải có sự đóng góp cho xã hội, nhưng nếu không có trí tuệ thì việc làm lại trở thành có hại. Ví dụ, ta có lòng trắc ẩn thương người, thấy người nghèo đói bệnh hoạn liền nghĩ giúp đỡ. Nhiều người đi chùa đổi sẵn tiền lẻ để cho người ăn xin; hậu quả là chúng ta làm cho đất nước mình có nhiều ăn mày, vì họ lười biếng, không chịu làm việc. Chính lòng tốt của chúng ta tạo thành tệ nạn xã hội. Hoặc người ưa phóng sinh chim hay cá. Nếu có trí tuệ sẽ thấy những con chim, con cá bé xíu không ai bắt ăn thịt chúng, đáng lẽ chúng không bị bắt, nhưng tại ta phóng sinh nên họ bắt để bán cho ta thả. Tu thiếu trí tuệ như vậy là đóng góp cho người đi bắt chim cá, đóng góp cho người ăn xin. Chùa ở Nhật Bản không có người ăn xin; vì họ dạy người dân lòng tự trọng, ai cũng muốn phấn đấu vươn lên, không muốn nhận sự giúp đỡ. Nếu có nhận giúp đỡ thì sau này, họ cũng phải giúp đỡ lại để trả ơn. Vì vậy, học sinh nghèo nhận được học bổng, lớn lên nó làm ra tiền cũng giúp lại học sinh khác; nghĩa là thế hệ này tiếp nối thế hệ khác một cách tốt đẹp, kinh Duy Ma gọi tinh thần đó là vô tận đăng, tiếp nối ngọn đèn trí tuệ của Đức Phật mãi mãi bằng cách chính ta làm việc tốt và giúp cho người khác cũng làm tốt, cứ như vậy mà xã hội trở thành tốt đẹp. Người làm từ thiện với những địa chỉ có trách nhiệm, có uy tín; nhưng cũng có người thường bị rơi vô danh nghĩa từ thiện, còn bên trong có phức tạp. Chúng ta cần có suy nghĩ đóng góp cho cơ sở từ thiện Phật giáo đáng tin cậy và vận động người khác cùng hợp tác để phát triển những việc làm đúng đắn, tạo thành xã hội an định. Việc làm có trí tuệ chỉ đạo như vậy, thì phải gặt hái được kết quả tốt.

Bản thân ta tốt và nên giáo dục những thành phần tệ nạn xã hội cho họ tốt để ngăn chận những hạt nhân xấu này phát triển, vì hạt giống xấu dễ phát sinh và dễ tăng trưởng. Thể hiện tinh thần này, kinh Duy Ma dạy rằng Bồ tát thông đạt Phật đạo và nhập thế là nhắm vô đối tượng xấu ác để giúp đỡ, giáo dục họ thành người tốt. Không có Bồ tát thì chúng ta phát tâm Bồ đề, làm việc của Bồ tát là đi vào đời, xem người nào nên giúp đỡ chúng ta sẵn lòng hỗ trợ họ.

Bồ tát có trí tuệ nhìn thẳng xem tại sao người xấu ác. Đầu tiên là vì họ có mặc cảm. Tôi đã từng tiếp xúc với những đứa trẻ lang thang, những người đau khổ đến mức có thể hủy hoại cuộc sống của họ. Ta có thể an ủi, giúp đỡ họ thành người tốt. Nếu giúp người tốt rồi thì họ tốt thêm cũng được, còn không giúp thì cũng không sao, vì họ đã tốt sẵn; cho nên tôi ít quan tâm đến người tốt, người giàu, người giỏi. Tôi quan tâm đến người nghèo khó, người hư hỏng nhiều hơn; vì người rơi vô hoàn cảnh xấu mà ta không kéo họ lên được thì tác hại sẽ lớn. Cứu được họ là ta đóng góp lớn cho xã hội.

Tôi cũng có đệ tử bị nghiện, hay phải làm nghề không tốt. Tôi lóng nghe họ để biết hoàn cảnh nào đẩy họ vô cuộc sống tội lỗi. Hiểu được tâm trạng bức xúc của họ có thể sinh liều mạng, thì đưa ra được lời khuyên hợp lý phát xuất từ tâm từ bi và sự tỉnh giác của mình, họ sẽ nghe theo, thay đổi cuộc đời, sống hoàn lương, cứu họ ra khỏi vũng bùn mà cũng giúp cho gia đình họ được hạnh phúc và đóng góp một phần an ổn cho xã hội. Có những gia đình mà cha mẹ bất hòa, dứa con phải nhận tất cả nỗi khổ niềm đau của cha mẹ, nó phải bỏ nhà đi. Cha mẹ nó ghét nhau cũng truyền qua nó, nhìn trong sâu thẳm tâm nó là địa ngục khổ đau trong một gia đình bề ngoài thấy như yên ấm. Tại sao cha mẹ dạy mà nó không nghe, lại nghe hàng xóm. Tôi bảo người mẹ nên tụng kinh và bình tâm suy nghĩ lại. Cha mẹ phải lóng nghe đứa con trước, xem nó suy nghĩ gì, muốn gì, làm được gì. Phần lớn cha mẹ bắt ép con cái những điều mà nó không muốn làm, thì nó bứt phá là điều tất yếu. Vì vậy, phương cách giáo dục sai lầm đã đẩy đứa con vào hoàn cảnh khổ và nó sẽ làm khổ người khác, như vậy là tạo dây chuyền khổ cho xã hội. Phật tử có trí tuệ phải tháo gỡ từ cái gốc, nghĩa là làm cha mẹ, làm bạn đừng khó tính bắt buộc con cháu nghe mình, mà không tìm hiểu tâm trạng nó đang ẩn chứa nỗi niềm gì.

Nếu chúng ta có cơ hội nên tham gia, đóng góp để hóa giải những vấn đề trong xã hội, làm như vậy là ta đã góp phần làm xã hội an lạc và cao hơn nữa là xây dựng Tịnh độ ở Ta bà. Có người hỏi tôi tại sao không về Cực lạc. Tôi trả lời rằng tôi tu Pháp Hoa có suy nghĩ Đức Phật Thích Ca là giáo chủ cõi Ta bà, mình ở đây được Đức Phật Thích Ca nuôi dạy trưởng thành, thì tại sao mình lại bỏ Phật Thích Ca đi dễ dàng như vậy, cảm thấy giống như mình phụ ơn giáo dưỡng của Ngài. Vì vậy, tôi lập nguyện : “Cõi Ta bà thị hiện độ sinh”.

Với chí nguyện ở lại Ta bà để giáo hóa độ sinh, mở ra cho tôi cái nhìn sáng trong giáo lý Phật, phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 16, là Phật thường ở Ta bà thị hiện sanh thân trong nhiều quốc độ, nhưng tiếc cho chúng ta không thấy Ngài. Từ đó, trên bước đường tu, tôi tìm Phật không ở trong vô hình, nhưng tìm trong sanh thân là các thiện tri thức. Những người che chở, dìu dắt, dạy dỗ tôi trưởng thành trên bước đường tu, tôi coi đó là sanh thân của Phật. Đây là ý quan trọng của người tu Pháp Hoa Bổn môn, khi ta quyết định ở lại thế giới này với Phật thì sẽ thấy được Phật thị hiện sanh thân giúp đỡ ta. Thấy Phật bằng niềm tin, hay thấy được người tốt là Phật, đây chính là thái độ của người Tây Tạng đi tìm Phật sống. Trên bước đường tu, chúng ta tầm sư học đạo, tìm Phật sanh thân là Phật sống mới giúp chúng ta được. Phật sống này có thể hiểu là Hóa thân Phật, nghĩa là một người tu có tâm thanh tịnh thì Phật hiện thân vào họ, có thể ví như mặt trăng hiện trên mặt nước, nơi nào có nước sẽ có bóng trăng : Thiên gian hữu thủy thiên gian nguyệt. Nơi nào có người tu thanh tịnh thì Phật huệ sẽ rọi vào họ, nên họ phát huệ và họ là thiện tri thức mà chúng ta có thể theo học được rất nhiều điều hay.

Vì vậy, Phật Thích Ca nhập diệt rồi, Phật giáo truyền sang Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, v.v… , ở đâu cũng có các bậc Thánh Tăng, cao Tăng, có chư Tổ nối tiếp ngọn đèn chánh pháp của Phật. Đó chính là Hóa thân của Phật Thích Ca. Ý này được kinh Duy Ma diễn tả rằng 500 công tử dâng 500 cây lọng báu cúng dường Phật, biến 500 cây lọng này che khắp tam thiên đại thiên thế giới và dưới mỗi cây lọng có vô số Hóa Phật. Tôi thấy ở Pháp, Mỹ, Úc, Phi châu, v.v… nơi nào cũng có Phật. Nhìn thấy như vậy, tôi cảm thấy mình không cô đơn ở Ta bà, nên cũng không cần về Tịnh độ, ở đây làm đạo cũng thấy vui. Vì Đức Phật dạy trong kinh Duy Ma rằng hành phi đạo tức thông đạt Phật đạo. Điều này lạ, ở Cực lạc tu một kiếp không bằng ở Ta bà tu một ngày. Ở đây có việc cho chúng ta làm. Ở Cực lạc toàn thượng thiện nhân, mình thất nghiệp. Cho nên, tôi quyết định xây dựng xã hội mình sống, biến nó thành Cực lạc.

Tóm lại, đối với những người có bệnh di truyền thì ta khuyên họ đừng sinh con để nối cái dòng di truyền chẳng ích lợi gì. Họ nên tu để diệt được ác nghiệp, cuộc sống sẽ thanh thản, vui tươi. Nếu họ lập gia đình có vợ con thì vui ít mà khổ nhiều; còn niềm vui diệt được nghiệp thì không có khổ. Người bệnh hoạn sinh con cũng bị bệnh, họ lo cho bản thân còn không xong mà lo cho con nữa làm sao nổi. Chúng ta dùng trí tuệ góp ý, xây dựng họ thành người tốt và đưa vào xã hội thêm nhiều người tốt.

Hạn chế việc sinh đẻ không phải là vấn đề của chúng ta; nhưng bằng tâm từ bi và trí giác, chúng ta xét thấy người nào đáng sinh con và người không nên sinh con. Người đáng có con mà khuyên họ đừng sinh là làm tiêu mất hạt giống tốt cho xã hội. Gặp người đáng tu mới cho tu. Điển hình như Thiền sư Vạn Hạnh nhận thấy Lý Công Uẩn không thể làm người xuất gia, mà ông có khả năng làm vua; nên Ngài đã dạy dỗ ông trở thành ông vua tài đức làm được nhiều việc lợi ích cho nước nhà. Gặp ai cũng khuyên đi tu thì xã hội sẽ ra sao. Đừng hiểu lầm rồi cho tất cả những người bệnh tật, côi cút vô chùa tu thì chùa sẽ trở thành cái gì. Sinh thời, Hòa thượng Thiện Hoa thường khẳng định rằng chùa không phải là trại mồ côi, không phải là viện dưỡng lão; vì thời đó người ta quan niệm chùa như vậy.

Cần có lớp người tốt, tài đức hy sinh làm việc cho đạo. Có trí tuệ để thấy rõ người đáng giúp và giúp cách nào, thấy rõ nên dạy pháp gì thích hợp với người để họ sống tốt cho đời, làm đẹp cho đạo. Đó chính là xây dựng xã hội tốt, xây dựng thiên đường ngay tại đây. Trong thời kỳ bùng nổ dân số, người tốt thì nên tiếp tục sinh cho xã hội những con người có lợi cho đời. Còn người không tốt thì nên chuyển hóa thân tâm cho tốt rồi mới tính đến việc sinh con. Mong Tăng Ni và Phật tử có những suy nghĩ hay để góp phần cho xã hội được tốt đẹp trong mọi lãnh vực của cuộc sống./.


© 2008 -2024  Phật Học Online | Homepage