Khi niềm
tin diễn ra trong thế giới vô hình thì nó trở thành ý chí, động lực hay
thậm chí ma lực thôi thúc con người hành xử hoặc đi lên theo chiều hướng
thiện hay đi xuống theo chiều hướng bất thiện. Do sự phức tạp của niềm
tin nơi thế giới vô hình, tín ngưỡng tôn giáo bắt đầu xuất hiện như là
một quy luật tất yếu để đáp ứng nhu cầu cần thiết của con người. Nhu cầu
về niềm tin của con người trong thế giới hiện đại ngày nay không hề
thuyên giảm mà còn có chiều hướng gia tăng nhiều hơn. Đó là hệ quả tất
yếu của một thế giới mà lòng tham con người chưa bao giờ biết dừng, và
sự bất an từ thiên nhiên và chính con người tạo ra luôn luôn rình rập
khiến con người đang sống trong lo âu sợ sệt. Tìm hiểu và đánh giá đúng
đắn về gốc rễ niềm tin sẽ giúp con người tìm ra những giải pháp thích
hợp để hạn chế những tiêu cực mà chính niềm tin mang lại cũng như lành
mạnh hóa môi trường sinh hoạt văn hóa tâm linh, phi vật thể trong xã hội
con người. Có lẽ đó là vấn đề lớn mà các nhà văn hóa, tâm linh đã và
đang dày công nghiên cứu. Nơi đây, người viết chỉ trình bày một số khía
cạnh về cách nhìn nhận và đánh giá hiện tượng niềm tin qua các hoạt động
được xem là ‘mê tín’ phổ biến trong xã hội Việt nam hiện nay.
Để hiểu rõ
hiện tượng mê tín, chúng ta cần lược qua những giải thích về khái niệm
này. Theo từ điển wikipedia, “
Mê tín là một niềm tin không dựa trên
lý do, kiến thức, kinh nghiệm gì cả. Nó thường dùng để chỉ các tín
ngưỡng và thực tiễn xung quanh sự may mắn, lời tiên tri và các lực lượng thần linh, đặc biệt là
niềm tin vô lý rằng các sự kiện trong tương lai có thể bị ảnh hưởng hoặc
báo trước bằng các sự kiện xảy ra trước không liên quan.”
Hiện tượng xin xăm, xem quẻ, xem tướng số,
xem ngày giờ tốt xấu, bói toán…
Hiện tượng cầu tài, cầu lộc, vay tiền …
Hiện tượng tế lễ, cầu cơ, lên đồng, đốt vàng
mã, chữa bịnh bằng bùa chú…
Nhóm thứ nhất đánh vào tâm lý sợ sệt những
người tin vào số kiếp do tiền định an bày, tin vào sự chi phối của các
lực lượng thiên nhiên như tinh tú, thần núi, sông v.v…. Ở đây không nên
nhầm lẫn giữa mê tín do các thầy bói bày ra và niềm tin dựa vào môn khoa
học đông phương do các nhà nghiên cứu có kinh nghiệm lập ra. Các thầy
bói phần lớn dựa trên tâm lý và những sự kiện đã xảy ra để phán đoán sự
việc cho tương lai, trong khi đó môn khoa học phương đông dựa trên chu
kỳ tuần hoàn của thuyết âm dương với những tính toán có cơ sở khoa học.
Thật ra, ngày giờ không phải tốt hay xấu mà là thích hợp hay không thích
hợp cho công việc này hay công việc khác. Việc vận dụng đúng nguyên tắc
thời gian hỗ trợ rất tích cực cho ngành y học phương đông, nhất là khoa
châm cứu. Điểm hạn chế của môn này là chỉ trình bày những sự kiện xảy
ra trong quá khứ đến hiện tại, và có thể phỏng đoán tương lai nhưng
không thể nói đúng hoàn toàn cho tương lai, và đặt biệt không đề cập đến
lộ trình phát triển tâm linh. Đó là lý do tại sao thầy bói toán nào
cuối cùng đều có chung lời khuyên là hãy tu tâm, tích đức, tránh ác, làm
thiện.
Nhóm thứ hai là biểu hiện của lòng tham con
người. Lòng tham là động cơ thúc đẩy nhiều người đến các miếu, đền, đình
và thậm chí các chùa nơi thờ các thần thánh như Bà Chúa Xứ, Bà Đen (ở
miền nam), Bà Chúa Kho (ở miền bắc), v.v... Mục đích của những người tới
những nơi này là cầu xin làm ăn phát đạt, mau chóng phát tài, thăng
quan tiến chức...
Nhóm thứ ba vừa thể hiện lòng tham, tâm lý lo
sợ, vừa mong mỏi báo đáp công ơn theo quan niệm tín ngưỡng dân gian. Tế
lễ là một loại mê tín nếu nó mang tính chất sát hại giáo điều cho dù nó
được xã hội hóa trở thành các lễ hội văn hóa của một số dân tộc hay
nhóm người. Trong nhóm này, đốt vàng mã ảnh hưởng người Việt nhiều nhất
và cũng là điều bị phản ánh nhiều nhất trong xã hội.
Còn một nhóm thứ tư cũng có thể bị xem là mê
tín nếu mục đích giống như ba nhóm trên, nhưng nó lại là pháp môn tu tập
nếu người hành trì đúng cách với mục đích thanh tịnh hóa thân tâm và
lòng mong mỏi an lạc hạnh phúc cho mọi người. Đó là sự lễ bái, cúng
kiến, cầu nguyện. Ranh giới của nó nằm ở tâm suy nghĩ người hành trì. Do
đó, nhóm này thường dễ bị nhầm lẫn và dễ bị lạm dụng nhất.
Sau khi tìm hiểu sơ lược các dạng mê tín và
nguyên nhân căn bản dẫn đến sự tồn tại của chúng, vấn đề quan trọng đặt
ra là làm thế nào để đánh giá đúng những tiêu cực và những giá trị nếu
có thông qua các hiện tượng này. Cho đến nay, chúng ta chỉ lên án mà
chưa tìm ra giải pháp thay thế hữu hiệu vì thực tế hoạt động này càng
ngày gia tăng. Hơn nữa, dựa vào tiêu chí nào để đánh giá tính tiêu cực
của những hiện tượng này xem ra chưa có câu trả lời xác đáng. Chưa có
một nghiên cứu nào chứng minh hậu quả tiêu cực nghiêm trọng do những
hiện tượng được cho là mê tín đem lại trừ việc chữa bịnh bằng bùa chú.
Trước hết, ta thử làm một bài toán so sánh
giữa hậu quả của các hiện tượng này với hậu quả của các hoạt động giải
trí được cho là tiến bộ để thấy kết quả thế nào? Mục đích của sự so sánh
này là để tìm ra những tiêu cực do mê tín đem lại so với các hoạt động
khác. Có thể đưa ra 5 điểm như sau:
Tốn kém: Chi phí cho các hoạt mê tín như cầu
tài, đốt vàng mã, xem tướng số…sẽ không thể nào vượt qua các chi tiêu
cho các hoạt động của những người đến những nơi giải trí như vũ trường,
casino…
Tội phạm: Số tội phạm nếu có trong những
người hoạt động mê tín sẽ không thể nào nhiều hơn so với tội phạm xuất
phát từ những người sinh hoạt ở những nơi ăn chơi giải trí.
Đạo đức: Những người mê tín cho dù phạm tội
thì việc lễ bái, cầu xin vẫn là cơ hội để họ ăn năn tội lỗi, nó vẫn tốt
hơn là những tội phạm dùng tiền để ăn chơi xa xỉ.
Văn hóa: Có những sinh hoạt mê tín nhưng vẫn
để lại nét văn hóa cho cộng đồng xã hội nơi mọi người đến chia sẻ tín
ngưỡng như lễ hội Bà Chúa Xứ - An Giang, Bà Đen Tây Ninh, Bà Chúa Kho
Bắc Ninh, v.v…
Giáo dục: Dù bị cho là mê tín, những hoạt
động ấy vẫn có giá trị góp phần giáo dục con cháu hướng đến điều thiện
vì những người bị cho là mê tín vẫn còn biết tránh ác, làm lành, còn
biết dạy con cháu noi theo phong tục tốt.
Như vậy, tiêu cực của những hoạt động mê tín
chưa cho thấy dấu hiệu nào quá đáng để dẫn đến tội phạm trừ một số
trường hợp do những người trục lợi xúi giục gây nên. Do đó, có lẽ chưa
công bằng khi chúng ta dùng tư duy chủ quan để đánh giá, phê phán hoạt
động tín ngưỡng (được cho là mê tín) mà chưa tìm ra giải pháp thay thế
thiết thực nào. Mỗi người là mỗi hoàn cảnh và một học giả chưa hẳn là
không mê tín bởi cái mê tín của họ vi tế và khó nhận ra. Ta cứ thử điều
tra về niềm tin của các học giả ngay cả những nơi được cho là văn minh
nhất thì sẽ rõ. Hơn nữa, một người có điều kiên thuận lợi không thể so
sánh với người đang gặp nghịch cảnh để đánh đồng sự sinh hoạt của họ.
Nếu ta đặt vị trí mình vào hoàn cảnh của những người dân lam lũ, khổ
cực, luôn lo sợ những bất an xảy ra thì hy vọng ta sẽ hiểu rõ họ hơn và
có thể giúp họ nhiều hơn.
Cuộc sống không đơn thuần diễn ra theo đường
thẳng trên một mặt phẳng nên không thể đánh giá đơn thuần là đúng hay
sai rồi phê phán chỉ trích. Mỗi hoạt động trong xã hội là một biểu hiện
của xã hội. Nếu ta nghiên cứu kỹ các hiện tượng trên sẽ thấy những điểm
tiêu cực và giá trị của nó để từ đó điều chỉnh, uyển chuyển sao cho nó
thay đổi dần theo chiều hướng tích cực. Có lẽ đó là điều chúng ta mong
muốn.
Muốn đạt được mục tiêu ấy không có gì khác
hơn là phải có phương thức giáo dục con người về nhận thức. Hiện nay,
khi ta chưa thể thực hiện ở phạm vi rộng vì nền giáo dục chưa ổn định
thì ít nhất việc giáo dục văn hóa ứng xử ở những nơi diễn ra lễ hội là
điều có thể thực hiện được. Ở những nơi tôn nghiêm thuộc Giáo hội quản
lý thì chính các tăng ni và nhân viên phục vụ phải là những người có
trách nhiệm hướng dẫn khách hành hương lễ bái, cầu nguyện và thể hiện
cách ứng xử có văn hóa. Thay vì để khách hành hương cầu nguyện theo cách
bị cho là mê tín thì tăng ni hãy làm các bài sám nguyện hay sớ để phát
cho khách biết phương pháp thực hành. Cách làm như thế vừa giúp tín đồ
hành trì đúng vừa không cần phải e ngại và lên án việc viết sớ mướn mà
các báo đề cập. Sự hướng dẫn về các lễ phẩm dâng cúng, cách lễ bái cầu
nguyện và thái độ hành xử nơi tôn nghiêm như cúng dường, xử lí rác thải,
bảo vệ môi trường, v.v…. là việc không phải là quá khó. Những thiền
viện của Hòa thượng Thanh Từ xây dựng chẳng phải là những minh chứng cụ
thể về cách quản lý sao?!
Đối với những nơi thờ ông, thờ bà, thờ thánh
mẫu; những nơi thờ các vị có công với đất nước, hay những nơi diễn ra
các lễ hội thì chính những người quản lý phải hiểu rõ về giá trị văn hóa
và tâm linh ở những nơi ấy. Họ cần phải biết cách ứng xử có văn hóa và
là người hướng dẫn khách ứng xử như vậy. Những nơi cúng tế có ý nghĩa
biết ơn tổ tiên, người có công với đất nước thì phải có sử liệu phổ biến
về lịch sử công lao của các vị ấy. Những bài văn cúng tế các vị ấy cũng
nên được soạn và phổ biến cho khách hành hương. Đó là trách nhiệm không
thể thiếu của những người quản lý. Thực hiện được điều ấy sẽ giảm thiểu
tồn tại bấy lâu nay là ‘người quản lý chưa có ý thức về những giá trị
văn hóa, sự biết ơn đến những bậc được tôn thờ nhưng lại đòi hỏi khách
hành hương, lễ bái có ý thức về điều đó.’
Sở dĩ việc giáo dục ý thức chưa thực hiện có
hiệu quả là do chúng ta đặt nặng về lợi ích vật chất, tranh đua vì lợi
nhuận hơn là bảo vệ và phát triển giá trị tinh thần. Một khi vấn nạn này
chưa được giải quyết thì sự hô hào hay lên án chỉ có tác động dư luận
trong khoảnh khắc nào đó rồi sự việc đâu cũng vào đó. Để chỉnh đốn vấn
nạn này thì không gì khác hơn là phải tuyển chọn đúng nhân sự vào bộ máy
quản lý từ trực tiếp đến gián tiếp. Những người được tuyển chọn phải
được đào tạo, phải hiểu và thể hiện sự hiểu về giá trị văn hóa qua cách
hành xử chính họ. Khi ấy may ra sự tuyên truyền có thể đem đến kết qủa
nào đó.
Riêng về Phật giáo, do quá trình tiếp biến
văn hóa và ảnh hưởng qua lại giữa các phong tục tập quán, đạo Phật từ
chỗ chỉ là con đường tâm linh thuần túy, trở thành tôn giáo tín ngưỡng.
Dù chúng ta có phủ nhận quan điểm này thì thực tại những gì xảy ra đối
với đạo Phật vẫn cho ta thấy là như thế. Không chỉ Phật giáo phát triển
bị ảnh hưởng nhiều bởi văn hóa mà ngay cả Phật giáo nguyên thủy cũng
vậy. Sự thật Phật giáo ở các nước Nam tông chứng minh rất rõ quan điểm
này. Từ cơ sở này chúng ta sẽ dễ dàng nhìn nhận tình trạng Phật tử sinh
hoạt như thế nào hiện nay.
Đa số Phật tử có lòng tin Tam bảo và hiểu
nhân quả nhưng những gì xảy ra trong thực tế đôi khi là sự đấu tránh
khốc liệt giữa cái thiện và cái ác, cái đúng là cái sai. Sự khó khăn của
cuộc sống và lòng tham của con người đã thúc đẩy họ đi cầu xin. Đạo
Phật thì luôn khuyến khích con người tự lực, tin sâu nhân quả nhưng con
người thì luôn cảm thấy yếu đuối và cần nương tựa, cầu nguyện, che chở.
Nếu Phật không ban lộc thì họ tự tìm đến những nơi khác để cầu xin thần
thánh ban cho. Lòng tin của họ thúc đẩy họ đi dù họ vẫn biết và hiểu
những lời khuyên không quy y thiên thần quỷ vật. Đó là nhu cầu bức thiết
của con người và xét cho cùng cũng không phải là tội ác hay xấu xa nếu
như chỉ là cầu xin.
Sự tiếp biến văn hóa cùng với nhu cầu tín
ngưỡng của những người bình dân đã thôi thúc các vị tổ sư phương tiện
đưa ra nhiều cách giáo hóa. Sự ra đời của nhiều vị Phật, nhiều vị Bồ tát
thần thông với hạnh nguyện cứu khổ độ sanh là sản phẩm tất yếu trong
một xã hội nặng về tín ngưỡng. Đó là một sự sáng tạo rất tinh tế vừa đáp
ứng cho số đông quần chúng vừa là pháp tu cho những hành giả tu tập.
Hiểu được những ẩn ý của các vị tổ thì chúng ta không còn suy nghĩ cứng
nhắc và đánh giá theo cảm tính chủ quan. Những người làm công việc hoằng
pháp thiết nghĩ cũng nên hiểu rõ điều này.
Ngày
xưa, người ta theo đức Thế Tôn không phải chỉ vì giáo pháp Ngài hay mà
chính vì Ngài là người đủ năng lực che chở và đem hạnh phúc đến cho họ.
Chỉ cần ở cạnh bên Ngài là họ đủ thấy an ổn và hạnh phúc rồi. Vậy thì họ
đâu cần cầu xin ai làm gì nữa. Những vị tổ kế tiếp cũng thể hiện được
đều đó. Cho đến ngay nay, những vị đạo cao đức trọng, những vị lãnh đạo
Giáo hội có đức độ trực tiếp hướng dẫn tín đồ thì số người tham gia cầu
đảo cũng ít hơn nhiều so với tín đồ ở những chùa thiếu thầy hướng dẫn.
Xét cho cùng những người lãnh đạo, những bậc đạo sư thật là quan trọng
và là yếu tố giúp giảm đi mê tín. Giáo pháp có hay thế nào đi nữa mà
không có người hiểu và hướng dẫn đúng thì nó cũng như xác chết quý giá.
Cũng như có nhiều thuốc tốt mà không có bác sĩ giỏi thì thuốc cũng chỉ
là thuốc quý mà thôi. Do đó, trách nhiệm của chúng ta là tạo ra được
những con người lãnh đạo như thế tốt hơn là phê phán và chỉ trích những
hiện tượng xảy ra mà không có giải pháp hữu hiệu, cụ thể nào.
1] http://vi.wikipedia.org/
[2] http://vdict.com/
[3] http://phattuvietnam.net/tuhoc/hocphat/6443.html